Xâu chuỗi hạt
bằng vàng của Cam Lồ
Kính lễ đại sư Padmasambhava ! Người Sanh Từ
Hoa Sen của xứ Uddiyana là
hóa thân của tất cả chư Phật
ba đời, vị vidyadhara vĩ đại của
toàn giác bất hoại. Ngài được mời đến
Tây Tạng do đức vua và người trị vì Trisong Deutsen. Khi ở đó, tôi, Tsogyal,
phụng sự ngài như là người phối ngẫu
tâm linh và người
phục vụ.
Một lần, khi ở trong động Tidro xứ Shotoš, tôi được chỉ cho và
nhận ra ý nghĩa của
Tâm Yếu Vô Thượng Thậm Thâm của
Đại Toàn Thiện. Tôi xác quyết được
trạng thái bổn nhiên qua cái thấy như là
kinh nghiệm trực tiếp, nó không phải là
giả định. Choáng váng vì
ngạc nhiên, tôi,
công chúa của Kharchen, hỏi rằng :
Kỳ diệu thay !
Đại sư, vì tất cả các điểm
then chốt của
Tâm Yếu của Mantra
Ẩn Mật đều
bao gồm trong ba nguyên lý yếu tính,
bản tánh và
công dụng,(5) trong ba cái này có thể có sự
sai lạc nào hay không ?
Đạo sư nói : Tsogyal, con hỏi điều đó thật là tuyệt hay. Thật vậy, mọi điểm
then chốt của
Tâm Yếu Thậm Thâm đều chứa đựng trong yếu tính,
bản tánh và
công dụng. Khi một người không hiểu, có ba đường lối
đi lạc. Để
giải thích điều này, có bốn điểm :
cách đi lạc, dấu hiệu của sự
đi lạc, khuyết điểm của điều này, và
hậu quả của sự
đi lạc.
Thứ nhất,
cách đi lạc khỏi yếu tính. Tổng quát, ‘yếu tính’
đơn giản là
trạng thái bổn nhiên của tánh Giác của con – sự
tỉnh giác không giả tạo và không hư hoại. Từ
vô thủy đến bây giờ, tánh Giác này
thường trụ như một cái biết trống không, nó không được tạo tác từ bất cứ thứ gì. Khi, thay vì an trụ ngay như vậy, có người
tu hành bằng cách tưởng tượng nó là trống không, thế là người ấy không
thoát khỏi thái độ ý niệm danh tướng của sự trụ vào cái trống không. Bởi thế người ấy lạc vào cái gọi là ‘Tánh Không
hư vô luận’.
Dấu hiệu của sự
đi lạc là bắt đầu có những
suy nghĩ như là “Không có chư Phật ở trên ! Không có
chúng sanh bên dưới ! Mọi sự đều không vì chúng không
hiện hữu !”
Khuyết điểm của
cách đi lạc này là
tư tưởng ý niệm, “tất cả đều không.” Một
thái độ như vậy làm cho con bỏ mọi
hình thức của
hoạt động tâm linh như là sùng mộ và
tri giác thanh tịnh,
quy y và
Bồ đề tâm,
tâm từ và bi
vân vân. Con lại dấn thân vào các
theo đuổi thế tục. Đối với cái xấu,
thái độ này làm cho con
đi vào một cách buông tuồng trong các hành động không
đức hạnh. Người nào hành động trong đường lối hư hỏng này
chắc chắn sẽ không có chỗ nào khác ngoài
Địa Ngục Kim Cương.
Làm hư hỏng
chân lý của cái vốn là
thiện đức,
hậu quả của một
thực hành điên rồ như vậy sẽ là
tái sanh làm một kẻ
chấp không cực đoan. Làm hư hỏng
chân lý nhân quả, con sẽ
chìm đắm trong
đại dương của
đau khổ.
Tsogyal, có nhiều người
tuyên bố thấu hiểu
tánh Không, nhưng ít người thấu hiểu
trạng thái bổn nhiên
tối hậu.
Bây giờ, về ‘bản tánh’, cũng có bốn điểm để
đi lạc, mà điểm thứ nhất,
đi lạc khỏi
bản tánh là như sau.
Quang minh tự nhiên của tánh Giác trống không nó là
hiện diện sáng tỏ như là các Thân và
trí huệ không có thân (
hình tướng) với đầu và tay, không có màu sắc, và không được tạo từ bất cứ thuộc tính hữu hạn nào.
Quang minh bổn nhiên của
tánh Không này tự có như là một phẩm chất thông tỏ nó không chia lìa khỏi
tánh Không. Không
nhận ra tánh Không thông tỏ này như là một
nhất thể không thể
phân chia thì gọi là “cái giác lạc vào
tri giác nhị nguyên.”
Dấu hiệu của người nào
đi lạc vào lối này là người ấy
phát biểu các
từ ngữ giáo pháp theo một cách
cực đoan. Dầu được dạy cho những lời
diễn tả cái
nhất thể này, tâm nó cũng không thể nắm được chúng.
Khuyết điểm của sự
đi lạc theo lối này là
thái độ ý niệm danh tướng khi nhìn đối tượng như là
cụ thể có thực sẽ
ngăn cản con không hiểu được
giáo lý Duy Tâm. Qua
biên kiến nặng nề này, con
xa lìa khỏi
con đường và các cấp bậc đi đến
toàn giác. Người nào trụ vào cái được thấy như là một
thực tại vững chắc thì không phải là một ứng viên cho
giải thoát !
Hậu quả của sự
lạc đường này là, bên ngoài, phải sanh lại trong
Sắc giới vân vân, vì đem sự
chấp tướng vào trong
quang minh hiển lộ. Bên trong,
thái độ một chiều này, sự thất bại không
nhận ra tánh
Giác như là sự thông tỏ trống không, là
nguyên nhân không thể
giải thoát.
Tsogyal, nhiều người
tuyên bố đã
nhận ra Quang minh, nhưng có ít người
tu hành trong
nhất thể của cái biết trống không !
Bây giờ về
công dụng, có bốn điểm
đi lạc, thứ nhất là đường lối, cách thức
đi lạc khỏi
công dụng. Trong yếu tính, bất kể chúng
xuất hiện như thế nào, các
tư tưởng khác nhau
biểu lộ từ tánh
Giác như là sự sáng chiếu
tự nhiên của sự thông tỏ trống không thì không bao giờ vượt ngoài tánh Giác trống không. Không hiểu được điều này thì gọi là “đi lạc khỏi tánh Giác trống không.”
Dấu hiệu
đi lạc vào lối này là các
tư tưởng,
ngôn ngữ và
hành vi đều dấn mình vào các cuộc
theo đuổi cuộc đời thế tục.
Khuyết điểm của loại
đi lạc này là một
thái độ ý niệm như thế, trong đó
tư tưởng xảy ra không
hiện lên như là
Pháp thân, sẽ
trói buộc con trong mạng lưới của
tư tưởng sanh khởi, như vậy làm tê liệt sự
thực hành tâm linh của con. Các
thói quen tiêu cực thống trị của các khuynh hướng
tiềm ẩn làm cho con
theo đuổi các
mục tiêu của
cuộc đời này. Bị khóa trong những cái còng của
nghi ngờ nhị nguyên, con tự cột mình vào
hy vọng và
sợ hãi.
Hậu quả của sự
đi lạc theo lối này là làm
vững chắc thêm các khuynh hướng
thói quen bởi vì không
nhận ra sự
đi lạc của các
tư tưởng ; tiêu phí đời mình trong
phóng dật bởi vì không nhớ các
hậu quả của
nhân quả ; và khi con chết, sẽ
đi lạc vào
ba cõi.
Nhiều người
tuyên bố tự do khỏi
tư tưởng, nhưng ít người thấu rõ điểm
then chốt như thế nào chúng
thoát khỏi sự
sanh khởi.
Bà Tsogyal lại hỏi : Vì thật
vô nghĩa nếu không cắt đứt ba lối
lầm lạc này, làm thế nào
chúng ta chuyển hóa nó ?
Đạo sư trả lời : Tsogyal, yếu tính trống không của tánh Giác của con thì không do cái gì tạo ra. Không nhân và duyên, nó
hiện tiền xưa nay. Chớ
cố công thay đổi hay làm
biến chất tánh Giác. Hãy để nó
hiện hữu đúng như nó là ! Như thế con sẽ
thoát khỏi đi lạc và
tỉnh giác ở trong
trạng thái của
thanh tịnh bổn nguyên.
Cùng như thế,
bản tánh thông tỏ của con thì
hiện tiền một cách
nguyên thủy và
tự nhiên, không tách lìa
tánh Không. Sự
biểu lộ của nó, cái
công dụng vô ngại của bất cứ cái gì
sanh khởi, thì không có sự
hiện hữu cụ thể, là
vô tự tánh. Hãy
nhận biết rằng cả ba
phương diện (của tánh Giác) là một
nhất thể vĩ
đại không thể
phân chia. Như thế con
tỉnh ngộ như là
tính không thể
phân chia của
Ba Thân.
Một lần nữa Bà Tsogyal hỏi : Đâu là những
con đường lạc khỏi cái thấy,
thiền định và hạnh ?
Đạo sư trả lời : Nghe đây, Tsogyal !
Trước tiên, về cái thấy, có năm điểm : Sự
lầm lạc của chính cái thấy, sự
lầm lạc của chỗ ở, sự
lầm lạc về bè bạn, sự
lầm lạc của
phiền não, và sự
lầm lạc của tính một chiều.
Thứ nhất, đối với sự
lầm lạc của chính cái thấy : cái thấy thông thường của Pháp là xác định rằng
tánh Không thì vượt khỏi các
giới hạn, nhưng trong bối cảnh này thiền giả của
Tâm Yếu chấp nhận rằng
tánh Không là một
hiện thực trực tiếp. Khi con
hoàn thành sự
chứng ngộ thực sự và
tối hậu, hai cái này (
tánh Không và
kinh nghiệm về cái
hiện thực) là không thể
phân chia. Nhưng nếu con không
chứng ngộ, bấy giờ cái thấy thông thường, nó là một cái thấy
giả định,
không giải quyết được nghĩa
hiện thực : đây là sự
lầm lạc căn bản của cái thấy. Khi con không tin vào cái thấy
thực tại hiện thực mà xem một cái thấy thuộc về danh cú
giả định như là
tối hậu, con sẽ có những
nhận xét như “Mọi sự là vượt khỏi điểm quy chiếu, vô tạo tác, và thoát ngoài mọi đối cực !”
Cư xử theo cách đó làm
lẫn lộn thiện hạnh và
tà hạnh, con có những
phát biểu như “Không có tốt và xấu ! Không có
phước đức gì từ những hành động
đức hạnh ! Không có
tai hại gì từ
tà hạnh ! Mọi thứ đều vốn
giải thoát và
bình đẳng !” Như thế con vẫn là một người
bình thường. Đây gọi là “cái thấy
ma quái truyền bá hắc đạo,” và nó là gốc rễ của mọi đường lối
sai lầm của cái thấy.
Tsogyal, nếu con muốn không lạc vào lối này, cốt yếu là hành động
tương ưng với cái thấy
bất nhị, sự thông tỏ
tự nhiên trong
thực tại, không lìa khỏi hạnh đặt
căn bản trên
nhân quả sâu xa.
Thứ hai, về sự
lầm lạc của chỗ ở, thông
thường có dạy rằng để
hoàn thành sự
chứng ngộ tối hậu về cái thấy, người nào có một
chứng ngộ tạm thời về cái thấy phải đến một nơi hẻo lánh, rộng thoáng, như là một chỗ
ẩn cư trên núi hay nghĩa địa. Con có thể
sở hữu tạm thời cái thấy, nhưng để
duy trì nó, con phải ở trong thất trên núi. Một chỗ ở xấu thật ra có thể làm cho cái thấy của con bị
lầm lạc.
Tsogyal, nếu con muốn tránh lối
lầm lạc này, hãy
hộ trì cái thấy tạm thời của con ở những nơi
ẩn cư núi non !
Thứ ba, đối với sự
lầm lạc về bè bạn, thông
thường có dạy rằng người nào tạm thời có cái thấy phải ở với những
bạn đồng tu hòa hợp với Pháp và không gây ra
phiền não. Giữ sự
liên lạc với các bạn xấu, con không thể tránh được bị
ảnh hưởng bởi đường lối xấu của họ. Đó là gốc rễ của
lầm lạc vì nó dẫn con vào sự
theo đuổi các
mục đích của đời này,
ngăn cản con
hộ trì cái thấy, và làm tăng
phiền não.
Tsogyal, nếu con muốn tránh lối
lầm lạc này, hãy cắt đứt sự
ràng buộc với bạn bè không
cần thiết và ở yên nơi cô tịch !
Thứ tư, về sự
lầm lạc của
phiền não, người nào tạm thời có cái thấy thì chưa thể
hoàn toàn vượt qua các
phiền não. Người ấy có thể dấn thân vào các
phiền não vì một số
hoàn cảnh bên ngoài. Trong sự dấn thân ấy, dầu chỉ
trong một niệm, nghiệp được sản sanh. Nếu sự dấn thân kéo dài một
thời gian, con mắc phải các nghiệp xấu theo chiều hướng năm độc sanh ra nghiệp xấu trong mỗi cái của sáu thức. Đời này hay
mai sau con sẽ gặt quả, bởi thế, con phải
tức thời chánh niệm không màng đến
phiền não nào mình
cảm thấy và buông lỏng sự
chú tâm.
Tu hành từ và bi đối với tất cả
chúng sanh, mà từ
phiền não của họ, họ sẽ tạo ra nghiệp.
Cầu nguyện vị thầy của con, khấn rằng : “Xin
ban phước cho con để dùng được
phiền não như
con đường.”
Tu hành hàng ngày
thần chú tịnh hóa các
hạt giống phiền não.
Chấm dứt với sự thư giãn trong
trạng thái của cái thấy rồi
hồi hướng và
phát nguyện.
Nếu con
thực hành theo lối này, con sẽ
đạt được cả hai những
hiệu quả tạm thời và
tối hậu. Nhưng
nếu không, con sẽ đắm trong đầm lầy
phiền não và hỏng dịp
hoàn thiện cái thấy ; đây là
nguyên nhân gay gắt nhất của sự
lầm lạc.
Tsogyal, nếu con muốn tránh lạc vào lối này, hãy
áp dụng phương thuốc cho bất kỳ
phiền não nào con
cảm thấy và như thế dùng nó như
con đường của con !
Thứ năm, sự
lầm lạc của tính một chiều, ngay cả người
sở hữu cái thấy một cách tạm thời cũng có thể lạc vào
quan điểm triết học của trường phái
tư tưởng riêng của mình. Trích dẫn từ
kinh điển, với
tính cách một chiều và
biên kiến,
thành kiến, họ
phân biệt giữa mình và người, cao và thấp. Làm như thế là sự
lầm lạc căn bản muốn đo lường cái thấy
không giới hạn, vĩ đại của chư Phật bằng
ý thức ý niệm danh tướng của một thường nhân và tạo ra những
giả định về nó.
Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc theo lối này, hãy
nhận ra cái thấy vĩ
đại không giới hạn của
giải thoát !
Về
phương diện thứ hai, các
lầm lạc của
thiền định, cũng có năm điểm : sự
lầm lạc của chính
thiền định, sự
lầm lạc của chỗ ở và bạn bè, sự
lầm lạc của
thiền định sai lầm, và sự
lầm lạc của các
phiền não.
Thứ nhất, sự
lầm lạc của chính
thiền định, đó là khi người
đệ tử không hiểu được
thực tại hiện tiền mà vị thầy
chỉ thẳng cho. Thế rồi người ấy
đi lạc do lầm lộn yếu tính,
bản tánh và
công dụng, và
do bởi không nhìn thấy chúng không cách lìa với
tánh Không và tánh Giác.
Giải thích thêm điều này : sau khi
thực hành theo loại
giáo lý truyền miệng của thầy con, nếu con bám vào
cảm giác phúc lạc trong thân và tâm, con sẽ lạc vào sự sanh lại như là một vị thiên hay người trong các cõi Dục. Nếu con
vướng mắc vào
trạng thái của tâm nó
đơn thuần là
vô niệm, con lạc thành một vị thiên trong các cõi Sắc. Nếu con bị
hấp dẫn bởi sự
trong sáng và
vô niệm, con lạc thành một vị thiên trong các
cõi tịnh. Nếu con
vướng mắc vào lạc phúc và
vô niệm, con lạc thành một vị thiên trong
Dục giới. Nếu con bị
hấp dẫn bởi trống không và
vô niệm, con lạc thành một vị thiên của
Vô Sắc giới. Trong những lối ấy, con lạc vào
ba cõi.
Nếu con ngừng dòng cảm thức các đối tượng, con lạc vào cõi
tri giác của
Không Vô Biên Xứ. Nếu con ngừng các
cảm giác, như
trường hợp ngủ say, con lạc vào cõi
tri giác của
Vô Sở Hữu Xứ. Nếu con ngừng cái được thấy trong khi cái biết còn sanh động, con lạc vào cõi
tri giác của
Thức Vô Biên Xứ. Nếu con còn một
cảm giác mong manh về
phúc lạc trong khi
tiếp tục không có gì được thấy, con lạc vào cõi
tri giác của Không
Hiện Diện Cũng Không
Vắng Mặt, Các cái này gọi là “rơi vào Chỉ (shamatha) một chiều,” và khi con chết và
chuyển sanh, con
tiếp tục lạc vào sáu loài của
Ba Cõi.
Tsogyal, không
cần phải rớt lại vào
sanh tử, thế nên, hãy cắt đứt các
lầm lạc của sự
thực hành thiền định ngu muội !
Hơn nữa, nếu con tin vào cái thấy của người
bình thường thấy có tâm và cảnh, con lạc vào sự
bình thường duy vật. Nếu con nhìn chúng theo cách
biên kiến một chiều như là có hoặc không có, con lạc vào
thường kiến hoặc
đoạn kiến cực đoan. Nếu con tin rằng đối tượng sự vật
hiện hữu lìa ngoài
tâm thức, con lạc vào
Thanh Văn hoặc Bích Chi. Nếu con nói rằng các
tri giác đều là
tâm thức, con lạc thành một người theo phái
Duy Tâm. Nếu con tin rằng
thế giới và
chúng sanh là các hóa thần, con lạc vào
Mật Chú. Có
ích lợi gì của sự
thực hành thiền định mà không biết làm sao cắt đứt các
lầm lạc này !
Vâng, xin hãy cho con
phương pháp cắt đứt sự
đi lạc, bà hỏi.
Đạo sư trả lời : Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc vào các lối này,
trước tiên hãy có được một sự
học rộng ;
tiếp theo, tập trung vào
giáo lý trực chỉ ; và
cuối cùng, khi
áp dụng nó trong
thực hành, phải hiểu các đường lối
đi lạc đề cập ở trên không gì khác hơn là sự bám chấp và sự tham dính vào các
trạng thái thiền định.
Thiền định giống như ví dụ một con thỏ ngủ trong tổ một con diều hâu hay như sự tập trung của một người bắn cung thì không phải là
nguyên nhân cho
giải thoát. Chẳng kể loại
kinh nghiệm tạm thời nào mà con có, hãy
đơn giản buông xả và ở yên trong bất cứ thứ gì được
kinh nghiệm, không
cố gắng phát triển hay làm
biến chất, không
hy vọng và
sợ hãi, và không lấy và bỏ. Khi
tự do khỏi sự trụ vào bất cứ điều gì được
kinh nghiệm, thì không có
nguyên nhân để
đi lạc.
Thứ hai, đối với sự chỉ dạy về sự
lầm lạc của chỗ ở và của bạn bè, thiền giả phải
tu hành trong một nơi có những
tính cách chân chánh. Nếu con ở trong một ngôi chùa
phóng dật hay một nơi làm tăng thêm mạng lưới
phiền não, sự thương và ghét sẽ làm cho con bị phủ ngập bởi các
phiền não này do
bất tịnh về
đạo đức và những
cúng dường con nhận được. Giữ
liên lạc với các bạn xấu sẽ ngăn chặn sự
tiến bộ trong
thiền định và giống
như tự mua cho con thuốc độc.
Tsogyal, nếu con muốn
thực hành Pháp trong một
con đường đích thực, tối quan trọng là cắt các mối
ràng buộc vào các nơi chốn và bạn bè xấu
vân vân. Thế nên hãy bỏ chúng đi !
Thứ ba, về sự
lầm lạc của
thiền định sai lầm, khi
cố gắng duy trì trạng thái thiền định con có thể
kinh nghiệm hôn trầm,
xao động và
tán tâm.(6) Về
hôn trầm, có sáu loại :
hôn trầm do chỗ ở, do bạn bè, do
thời gian, do
thức ăn, do tư thế và do
thiền định.
Thứ nhất,
hôn trầm do chỗ ở xảy ra vì ở trong một khu rừng hay một hẻm núi nằm thấp, hay trong một vùng, một làng kém
đạo đức. Về mặt trí óc con
cảm thấy mờ tối, các bindu không
rõ ràng, sự
tỉnh giác như bị mây che, con
cảm thấy rất
buồn ngủ,
thân thể nặng nề. Trong những
trường hợp này, làm các
lễ nghi tẩy tịnh và
sám hối ; đến chỗ khoáng đạt ;
thiền định trong một nơi có trời trong, không mây, mở cửa sổ
cho không khí trong lành ; hãy tưởng tượng con đang ở trên đỉnh một ngọn núi tuyết và xúc chạm với gió mát. Các
phương pháp này sẽ trừ sạch
hôn trầm.
Thứ hai,
hôn trầm do mối
liên lạc bạn bè xảy ra do ở với người hạnh kiểm xấu hay với một phối ngẫu
tính cách không sạch vì người ấy có thể có những quan hệ
bừa bãi. Chính con cũng bị
ô nhiễm luôn. Trong
trường hợp này,
nỗ lực trong các
nghi lễ để
thành tựu và
sám hối và để tịnh hóa. Hãy
cảnh giác với người
phá hư các
thệ nguyện hay hạnh kiểm
dơ bẩn.
Tìm kiếm một phối ngẫu có phẩm hạnh, người ấy phải đã nhận sự
truyền pháp, và không
cho phép sự quan hệ
bừa bãi. Điều ấy sẽ làm sạch
hôn trầm.
Thứ ba,
hôn trầm do
thời gian là
cảm thấy tối tăm và
buồn ngủ vào
mùa xuân hay mùa hè, và được xóa sạch bằng
cách đi đến các núi tuyết và các địa điểm
tương tự.
Thứ tư,
hôn trầm do
thức ăn và đồ mặc là
cảm thấy mờ đục và bị che ám từ
thức ăn của người khác hay đồ mặc
dơ bẩn. Khi
thực hành con phải tránh
thức ăn của người khác và đồ mặc
dơ bẩn. Điều đó sẽ làm sạch
hôn trầm.
Thứ năm,
hôn trầm do tư thế, là khi một người
sơ học trở nên
buồn ngủ do bởi nằm dài người và những tư thế
tương tự. Trong lúc
tu tập thiền định hãy giữ ba tư thế hay tư thế
kim cương (ngồi tréo chân), làm mạnh mẽ
tâm thức, làm hưng phấn các
giác quan của con, và hãy
thiền định với sự
sáng tỏ sống động. Điều ấy sẽ làm sạch
hôn trầm.
Thứ sáu,
hôn trầm do
thiền định đến sự từ
thiền định với một tâm thái chán nản của tâm, như vậy
cảm thấy hoàn toàn tối tăm và
buồn ngủ. Hướng đôi mắt về bầu trời và trong một cách thăng bằng, hãy
tỉnh giác một cách sắc bén và làm bén nhạy
trí huệ của con. Điều ấy làm sạch
hôn trầm.
Các bản văn về các cấp độ
tiệm tiến của
con đường dạy rằng
hôn trầm và xáo động là do
lỗi lầm không làm
sống động được
tỉnh giác. Tsogyal, các
chướng ngại của
thiền định không thể trừ sạch
trừ phi con siêng năng
cần cù !
Tiếp theo, về xáo động, có hai loại : xáo động do chỗ ở và xáo động do
hoàn cảnh. Xáo động do chỗ ở xảy ra khi,
thiền định ở một nơi sáng sủa và cao ráo, sự
tỉnh giác của con trở nên
trong sáng, sự
chú tâm không ổn định được và các
tư tưởng lay động và phân tán. Nếu con để cho mình
đi vào bất kỳ thứ gì bắt lấy sự
chú tâm của con, con sẽ làm mồi cho
phiền não. Để
đối phó với điều này, hãy nhìn thẳng vào điểm
gặp nhau giữa mặt đất và bầu trời. Nếu chuyện đó không làm cho con yên lặng, thì hãy
áp dụng cái nhìn (xuống) của một
Thanh Văn, và đôi khi
chú tâm vào một vật. Ban đêm, đi ngủ trong khi tưởng tượng rằng tâm con
đi vào một bindu màu đen, ở trong hai đầu mối kinh mạch hình quả trứng nằm trong
hai lòng bàn chân con. Đây là một lời dạy, nhưng
tốt hơn là tập
trung tâm con vào chữ A trong chỗ
bí mật của con. Khi một
tư tưởng thình lình xảy ra, hãy
nhận ra nó, dùng chữ PHAT, và giữ hơi lại ; sau đó, thư giãn
hoàn toàn và
buông xả. Sau đó,
theo dõi người
tư tưởng và rồi con trụ trong
trạng thái không
tìm kiếm gì. Điều này sẽ làm sạch xáo động.
Xáo động do
hoàn cảnh xảy ra khi do một
biến cố bên ngoài, con
đi theo một
tư tưởng, và tâm con trở nên lay động và phân tán trong một
phiền não. Khi điều ấy xảy ra, hãy giữ
thái độ “Chẳng
cần phải làm gì cả !”
Tu hành từ và bi, xả ly,
phương tiện và
trí huệ, và sùng mộ.
Tiếp theo đó,
kiên trì thực hành như trong
thời gian của cái thấy. Điều này làm sạch xáo động.
Điểm thứ ba, về lỗi của
tán tâm, có hai phần :
tán tâm do thiếu
hiểu biết và
tán tâm do
hoàn cảnh.
Tán tâm do thiếu
hiểu biết là khi không có
tiến bộ bất kể con
thiền định nhiều bao nhiêu. Đó là vì không biết làm sao
phân chia sự
thực hành thành các thời
công phu. Con lại ngược với lời dạy và thầy của con ; hay là, không biết làm sao
phân biệt giữa
lý thuyết và
kinh nghiệm, con thành một thiền
giả ngu si.
Đối phó với điều này, hãy
cầu nguyện thầy con ; phát triển sự xác tín vào
giáo huấn bằng lời ; chia sự
thực hành của con thành các thời và lập lại chúng nhiều lần. Không bận rộn công việc, hãy
thiền định trống trải và
tự do. Khi
cảm thấy sáng tỏ, cắt đứt
tán tâm và
tiếp tục thiền định. Điều đó sẽ cắt đứt
tán tâm và
tăng trưởng kinh nghiệm.
Thứ hai,
tán tâm do
hoàn cảnh xảy ra khi do một vài
biến cố bên ngoài, con rơi vào năm độc hay sáu loại
tri giác của thức, trở nên phóng tâm và mất
chánh niệm. Để
đối phó với điều này,
áp dụng tức thời phương thuốc, cắt ra từng mảnh sự
trụ tâm vào cái được thấy, và nhìn nó như một
ảo ảnh huyễn hóa.
Tsogyal, nếu con muốn cắt đứt các sự
lầm lạc này, hãy đánh vào mũi-heo của các
phiền não !
Thứ tư, về sự
lầm lạc của các
phiền não : người
cố gắng duy trì sự
tu hành thiền định sẽ gặp nhiều
kẻ thù và trộm cướp – là các
phiền não của mình. Chúng có thể phân thành năm
phạm trù : sân,
kiêu mạn, tham,
ghen ghét và
si mê. Từ các gốc rễ này khởi ra 84.000
phiền não chúng sẽ không cho con ở yên trong
thiền định. Mỗi thứ của năm độc này đưa con vào năm
phiền não, chúng kéo con thêm vào
sanh tử. Thế nên chớ để cho bị phóng tâm bởi chúng bằng một
thái độ cẩn trọng của một bà mẹ đã lạc đứa con độc nhất của mình. Hãy bỏ đi các
xúc động này, như
khám phá ra một con
rắn độc trên đùi mình. Hãy
nhận ra chúng,
báo động và
tỉnh thức, và
thực hành theo cùng một cách như khi
tu hành cái thấy.
Trừ phi con
thực hành theo cách này,
nếu không nghiệp xấu sẽ được tạo ra trong mỗi khoảnh khắc.
Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc theo lối này, hãy
nỗ lực chống lại một cách khéo léo đối với năm độc, bằng cách
chấp nhận và khước từ
đúng đắn, mà không lìa sự canh chừng của thức giác !
Trong bất cứ
trường hợp nào, khi con chưa
đạt đến ít nhiều
vững chắc an định trong cái thấy và
thiền định,
cần thiết phải lánh vào nơi cô tịch như một con nai
bị thương. Lướt nhanh qua các
phiền não như gặp một con
rắn độc.
Bà Tsogyal lại hỏi : Một
hành giả Mật chú có phải dùng mọi
phiền não như
con đường không ?
Đạo sư trả lời :
Dĩ nhiên chúng phải được đưa vào
con đường ! Nhưng chỉ có một con công mới có thể ăn thuốc độc. Người có thể dùng
phiền não như
con đường mà không bỏ chúng thì hiếm hoi như
hoa ưu đàm. Trong khi đối với người
lợi căn một
phiền não hiện ra như một người giúp đỡ, thì đối với người kém hơn nó thành ra thuốc độc. Đối với người
căn cơ thấp này,
tốt hơn là hãy bỏ đi các
phiền não !
Bà hỏi : sau khi
từ bỏ được bao nhiêu thì một người
trở thành đệ tử ?
Khi con không bị dính mắc với
phiền não và
lạc thú giác quan và chúng được
kinh nghiệm như huyễn hóa, thế rồi con không cần đè nén
phiền não dầu chúng có khởi ra, vì chúng không còn làm hại được. Khi chúng không khởi sanh, con không có
ý muốn sản xuất ra chúng vì con đã
thoát khỏi mong muốn. Khi điều này xảy ra,
phiền não được đem vào
con đường.
Cố gắng dùng
phiền não như là
con đường trong khi không
lìa bỏ sự
chấp tướng thì cũng giống như một con ruồi dính trong vũng mật.
Tsogyal, hãy cắt đứt sự
lầm lạc theo các lối này !
Chủ đề thứ ba, sự
lầm lạc khỏi hạnh, có hai phần : sự
lầm lạc của hạnh không đúng thời và sự
lầm lạc tổng quát của hạnh.
Cái thứ nhất có bảy điểm. Lúc khởi đầu, hạnh giống như con ong phải
đi trước học (Văn),
suy nghĩ (Tư), và
thiền định (Tu). Vì đây là hạnh của một người
sơ học, thế nên là
sai lầm khi theo nó vào
thời gian tu hành thiền định.
Hạnh giống như con nai
đặc biệt cho
thời gian thực hành con đường.
Sai lầm nếu theo nó vào
thời gian tu hành thiền định vì định của con sẽ mất sự
tự do của nó.
Hạnh tịnh khẩu là
đặc biệt cho lúc đã
đạt đến điểm
then chốt của
kinh nghiệm.
Sai lầm nếu theo nó khi người ta phải đối xử như một con ong, bởi vì không
phân biệt giữa lời và nghĩa.
Hạnh của một con
chim sẻ tìm kiếm tổ của nó thì
đặc biệt cho lúc con đã
đạt được kinh nghiệm cá nhân.
Sai lầm nếu theo nó khi con đã đạt sự điêu luyện trong định, bởi vì nó
trở thành một
chướng ngại.
Hạnh giống của một người điên là
đặc biệt cho lúc con đã làm
vững chắc kinh nghiệm.
Sai lầm nếu theo nó khi con chỉ có
kinh nghiệm một phần, vì chưa
khám phá nghĩa
viên mãn.
Hạnh giống như
sư tử là
đặc biệt cho
thời gian hoàn thiện cái thấy.
Sai lầm nếu theo nó khi
cố gắng có được
kinh nghiệm, bởi vì, chưa tìm được sự
tin chắc trong tánh Như, con có thể
bị tràn ngập bởi
hiện tượng khác.
Hạnh giống như chó và heo là
đặc biệt cho
thời gian thông thạo nhuần nhuyễn.
Sai lầm nếu theo nó vào
thời gian sai lầm bởi vì con sẽ gặt hái sự
trừng phạt của dakini.
Khi con theo một
con đường không hư hỏng của hạnh,
kinh nghiệm cá nhân của con sẽ
hiện lên như là
bản tánh bổn nhiên của
pháp tánh. Đã
đạt được sự
chế ngự trên các
nguyên tố, con có thể
chuyển hóa tri giác không
niềm tin của người khác, làm
sống lại người đã chết, và làm được các kỳ công
phép lạ.
Nếu con làm hỏng các đường lối của hạnh nói ở trên, đó gọi là
lầm lạc khỏi hạnh và con sẽ không có kết quả.
Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc vào lối đó, hãy
đi theo con đường chánh hạnh như được nói trong
kinh điển.
Thứ hai, về sự
lầm lạc tổng quát của hạnh, con có thể tạm thời tạo ra một
cách cư xử nhưng nó không
tương ưng với Pháp. Nếu nó không
trở thành con đường giác ngộ, nó sẽ được gọi là
đạo đức giả và tạo
thành sự lầm lạc của hạnh.
Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc liên quan đến hạnh trong tổng quát, hãy
chắc chắn rằng bất cứ
thái độ cư xử nào con theo đều
trở thành con đường giác ngộ !
Đối với
chủ đề thứ năm, sự
lầm lạc của quả, có hai điểm : tạm thời và
rốt ráo. Thứ nhất,
lầm lạc tạm thời là khi, sau khi đã
thực hành các lời dạy miệng, con xem một kết quả
bình thường như là cái
tối thượng và
cảm thấy kiêu hãnh và ngạo mạn. Đây gọi là một sự
lầm lạc bởi vì nó
che lấp cái quả
rốt ráo. Sự
lầm lạc rốt ráo là khi con
không giải tan được
hy vọng và
sợ hãi cho dù con đã
đạt đến quả. Bấy giờ kết quả lạc thành một
nguyên nhân.
Tsogyal, nếu con muốn tránh
đi lạc theo lối này, hãy
nhận ra hy vọng và
sợ hãi là không có nền tảng !
Bà Tsogyal lại hỏi : Người ta có cần
phát khởi Bồ đề tâm sau khi
thành tựu điểm cốât yếu này là thấy vào
thực tại ?
Đạo sư trả lời :
Đại thừa và Mật thừa
thực ra có khác biệt do phẩm chất
đặc biệt của sự
phát Bồ đề tâm.
Tuy nhiên,
trừ phi con luôn nhớ đến cái chết,
vô thường,
nhân quả, và các hiểm nguy của
sanh tử trong bốn phần của một ngày, thì các
biến cố của
cuộc đời này sẽ nhanh chóng vút qua.
Con có thể tự cho là một người theo
Đại thừa, nhưng
trừ phi con
liên tục tu hành từ và bi cho tất cả
chúng sanh,
nếu không con đã lạc thành một
Thanh Văn hay
Duyên Giác.
Con có thể có
chứng ngộ cao, nhưng
trừ phi con
chấp nhận hay khước từ
đúng đắn trong mỗi khoảnh khắc ngay một điều nhỏ nhất của
nhân quả, con sẽ còn gặp một số
hoàn cảnh đau khổ.
Tsogyal, nếu con muốn
thực hành Pháp trong một
con đường chính thống, con hãy
tiếp xúc với sự
chứng ngộ và điều ta đề cập ở đây !
Bà Tsogyal lại hỏi : Đâu là
chướng ngại lớn nhất khi
thực hành con đường ?
Đạo sư trả lời : Khi lần đầu bước vào
con đường, bất kỳ
hoàn cảnh nào dẫn tâm con
đi lạc đều là một
chướng ngại.
Đặc biệt, đàn bà là
ma quỷ lớn nhất cho đàn ông, và đàn ông là
ma quỷ lớn nhất đối với đàn bà. Tổng quát,
thức ăn và quần áo là những
ma quỷ chính.
Bà Tsogyal lại hỏi : Vì
chướng ngại lớn nhất khi
thực hành Pháp là sự bám níu
ích kỷ vào
thức ăn, áo quần, và
thân thể, xin nói cho con làm thế nào bỏ được ba cái này.
Guru Rinpoche
trả lời : Tsogyal, sớm hay muộn thân này cũng chết. Độ dài
đời người đã được xác định, nhưng
chúng ta không chắc
chúng ta chết già hay trẻ. Ai cũng phải chết, và ta không thấy ai
thoát khỏi chết bằng cách
gắn bó vào
thân thể đẹp đẽ của mình. Hãy vất bỏ đi mọi yêu thích
chấp ngã về thân con và giữ sự
ẩn cư trong núi !
Đối với áo quần, ngay chỉ một
áo choàng lông cừu cũng đủ, và người ta có thể sống ngay trên đá hoặc nước, nhưng điều này hình
như không dành cho các
hành giả Tây Tạng !
Bà Tsogyal lại hỏi : Con có cần ghi lại tất cả các điều Thầy dạy ?
Guru Rinpoche
trả lời : Nếu con ghi lại, con sẽ làm
lợi lạc cho các
thế hệ mai sau.
Bà hỏi : Vâng, nó có nên được
phổ biến hay cất dấu ? Làm thế nào nó sẽ đem lại
lợi lạc ? Ai sẽ dùng nó ?
Guru Rinpoche
trả lời :
Thời gian để
phổ biến nó thì chưa tới, nên nó phải được cất dấu. Khi ta đặt chiếc hộp chứa
kinh điển của
Tâm Yếu trên đỉnh đầu của con gái nhà vua,
công chúa Pema Sal, ta nguyện cho nó được là sự chỉ dạy riêng của cô ta. Vài
đời sau khi cô chết, cô sẽ gặp lại lời dạy này. Con phải cất dấu nó như là một kho tàng terma cho
mục đích ấy.
Vimalamitra sẽ xiển dương các
giáo lý của
Tâm Yếu.
Thời gian đã đến cho các
đệ tử của ngài. Lời chỉ dạy này, nó là
Tâm Yếu của ta, sẽ
hiển lộ khi các bản dịch sơ thời bị hư hỏng và gần như biến mất. Nó sẽ truyền rộng và nở rộ ghê gớm nhưng chỉ một
thời gian ngắn. Nói chung, mọi
giáo lý của thời
đen tối sẽ nở rộ
rộng rãi nhưng kéo dài ngắn ngủi.
Vào lúc chót của
thời đại này, khi tuổi trung bình của
con người còn năm mươi tuổi,
công chúa sẽ lấy một sự
tái sanh làm người và được
chấp nhận bởi Nyang Ral (Nyima OŠzer), một
hóa thân thuộc khẩu (speech incarnation) của vua (Trisong Deutsen). Trong phần cuối
cuộc đời của Guru Chošwang, sự
tái sanh của nhà vua, bà sẽ được
tiếp xúc lại với Pháp.
Trong đời tiếp theo, bà sẽ gặp kho tàng Terma này chứa đựng các lời dạy bằng miệng về
Tâm Yếu. Vì lúc đó sẽ là
thời gian cho
thực hành, nên sẽ không có
hoạt động nào cho
lợi lạc cho
chúng sanh.
Con người này(7) sẽ sống 59 năm. Người ấy sẽ có nhiều mối
liên hệ nghiệp tốt và xấu. Một số trong các
đệ tử sẽ sanh về
Cực lạc, trong khi một số sẽ
tái sanh trong các cõi thấp. Điều này
chứng tỏ hậu quả của các samaya bị
ô nhiễm và có thể người ấy chết vào tuổi 50. Người ấy phải
cảnh giác chống lại sự
ô nhiễm các samaya, và
nỗ lực sám hối. Làm như thế người ấy sẽ có thể sống tròn đủ số năm.
Vào thời điểm đó có thể rằng một người đàn bà được
ban phước bởi năm loài Dakini sẽ
xuất hiện. Nếu người nữ ấy được như thế và người ấy lấy nàng như người phối ngẫu, người ấy phải
cầu nguyện sống lâu ; rồi người ấy có thể sống hơn 50 năm. Người ấy sẽ có một
đệ tử, một cô gái
tiền định với dấu hiệu là một con chuột chũi, và nếu người ấy
ban cho cô
toàn bộ giáo huấn, cô sẽ có thể hành động cho
lợi lạc của
chúng sanh ở một mức độ
rộng rãi. Nếu nàng không
xuất hiện trong đời ấy, thì nàng sẽ
trở thành đệ tử của người ấy
trong đời sau, và
đạt đến giác ngộ Vô dư ở phần cao của xứ Kharag.(8)
Nếu người ấy không đem những
giáo huấn này đến phần thấp của xứ Bumtang, mà cất giấu chúng ở chỗ
nguyên thủy hay trong một tảng đá ở một nơi không thể bị thay đổi hình dạng bởi
chư thiên hay
quỷ thần, người ấy sẽ
khám phá lại chúng
trong đời sau.
Sau sự
tái sanh này, người ấy sẽ lang thang một lúc qua các cõi
Báo thân, và sau đó sanh ở Tarpaling xứ Bumtang. Làm
lợi lạc cho
chúng sanh từ tuổi mười lăm, người ấy sẽ
khám phá nhiều terma và làm nhiều loại
phép lạ. Người ấy sẽ sống đến bẩy mươi tuổi. Lấy năm dakini có thân người nữ như là các phối ngẫu,
hoạt động của người ấy cho
chúng sanh sẽ sáng bừng. Người ấy có một con trai tên Dawa Drakpa, một
hóa thân của Hayagriva, đứa con này cũng làm
lợi lạc chúng sanh. Người ấy sẽ
duy trì Phật pháp trong 90 năm. Vì đây là lời dạy riêng của người ấy, hãy cất dấu nó như là kho tàng Terma !
Nghe xong, bà Tsogyal
lễ lạy và nhiễu quanh
vô số lần và
nỗ lực viết lại.
Samaya. Ấn. Ấn. Ấn.
Kỳ diệu thay, một người như tôi, người đàn bà ngu dốt Tsogyal,
Có thể gặp được
Hóa thân qua các
ước nguyện trong sạch !
Qua samaya
thanh tịnh của tôi, tôi đã nhận được
tinh túy của các
giáo huấn.
Bằng cách hiến dâng sự
phụng sự, ngài nhìn tôi với
tâm từ bi.
Thấy tôi là một người
tiếp thu xứng đáng, ngài
giao phó cho tôi
tinh túy của Mantra,
Và
ban cho Tâm Yếu tối thượng, tinh ròng.
Không phô bày nó một cách
phi thời, tôi dấu nó như một kho tàng terma.
Mong rằng
Tràng Hạt Vàng của
Cam Lồ này trong
hình thức hỏi đáp
Gặp gỡ người có những dấu hiệu
hoàn toàn ấy !
Samaya.
Dấu ấn của
thậm thâm. Dấu ấn của kho tàng. Dấu ấn không thể đọc. Dấu ấn của nghiêm nhặt.
Trong
thời đại đen tối, vòng
bí mật của
giáo huấn cốt lõi này,
Được
giao phó cho một người
tiền định hành thủy sanh năm con Thỏ,
Một đứa con ruột của Uddiyana, có một
định mệnh được
che dấu,
Một
cư sĩ với
thông minh thực sự,
Năng lực đầy đủ của người không nở hoa
trong đời đó, mà sẽ theo một
lối sống ẩn mật.(9)
Người không thắng cương
đức hạnh,
thoát khỏi giả hình,
Người
sở hữu các
thần lực, nhưng
sức mạnh của người không được
phát lộ,
Và người được
đánh dấu bằng một con chuột trên thân và có cặp mắt lồi.
Các
đệ tử của người, con của năm loài dakini,
Sanh trong các năm Cọp, Thỏ, Chó, Rồng và Bò.
Sẽ nắm giữ dòng phái và tiến đến các
cõi trời.
Bất cứ ai nắm giữ dòng phái người, sẽ
đạt đến Phật tánh trong
một đời ;
Họ sẽ là thiền giả trong kiếp
cuối cùng của họ.
ITHI. Mong rằng nó được
tốt đẹp !