Những bài ca cho 25 đệ tử
Nhà vua và hai mươi lăm
đệ tử bấy giờ hỏi vị
đại sư quý báu của Uddhiyana : Xin
ban cho chúng tôi một lời dạy
sâu xa chạm đến điểm
chính yếu, nó gồm trọn tất cả và
tuy nhiên đơn giản cho
thực hành.
Padmasambhava hát lên để
trả lời :
Kỳ diệu thay !
Hỡi đức Vua, hoàng tử và các
đệ tử còn lại,
Thật nghĩa thì không ở trong
giới hạn của bất kỳ ai.
Khi một người nhận không xứng đáng được nghe.
Nó
trở thành nguyên nhân cho vu khống,
hiểu lầm và làm hư hoại các samaya.
Ta đã cho các con những
tiên tri quan trọng về tương lai,
Nhưng các lãnh tụ
xấu xa của
Tây TạngKhông có
niềm tin, bất kể họ nghe nhiều thế nào,
Truyền rộng sự
giả dối, họ nói chuyện
vu vơ.
Tuy nhiên ta sẽ
giảng giải ngắn gọn.
Về điều mà các con, đầy lòng sùng mộ, đã hỏi ta.
Bây giờ không phải là thời để
truyền bá,
Nhưng cho mỗi người để
tự hành trì
đúng đắnBởi vì lời chỉ dạy này sẽ được cất giấu như một kho tàng Terma cho
lợi lạc của tương lai,
Hãy phát thệ
giữ gìn bí mật !
Dạy họ
gắn bó với sự
yêu cầu phải kín đáo này, ngài
trước tiên nói với nhà vua :
Thưa Bệ hạ, hãy nghe đây, dùng tư thế tréo chân.
Giữ
thân thể thẳng đứng trên chỗ ngồi và
tham thiền !
Giữ sự
chú tâm tự do với niệm tưởng và không
bị giam nhốt bởi các tạo tác của
tâm thức.
Vì tiêu điểm của ngài siêu vượt mọi loại đối tượng,
Không trụ vào bất kỳ dấu hiệu
cụ thể nào,
Hãy ở yên lặng, thanh tĩnh và
tỉnh giác !
Khi ngài ở tư thế ấy, các dấu hiệu của
tiến bộ tự nhiên xuất hiện,
Vì sự
trong sáng của
tâm thức không khởi cũng không diệt.
Và tánh Giác
tự do rốt ráo với mọi
vọng tưởng.
Đây là
trạng thái giác ngộ tìm thấy trong chính ngài,
Không
tìm ra ở đâu khác mà tự
hiện hữu –
kỳ diệu biết bao !
Nghe đây, hỡi Tsogyal họ Kharchen
sùng tín !
Vì tâm con không có
bản chất thực nào để chỉ bày,
Trong một
trạng thái tự nhiên, không giả tạo,
hiện diện xưa nay,
Hãy
ở không phóng tưởng trong
cõi giới của không-thiền-định !
Hãy an trụ như thế,
giải thoát xảy ra
tự nhiên.
Đây chính là
trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Palgyi Senge, đứa con
lỗi lạc cao cả của ta !
Mọi
hiện tướng của
sanh tử và
Niết bàn đều là
tự tâm con,
Không
xuất hiện ở ngoài tâm này –
Không có
tự tánh, lìa ngoài
tư tưởng,
ngữ ngôn và
diễn tả.
Không nhận lấy
thích thú hay chối bỏ khó chịu, không
xác nhận hay phủ nhận, không thiên về đâu,
Mà an trụ
tỉnh giác một
cách sống động trong
trạng thái bổn nhiên vô tạo tác !
Bằng cách ở yên như thế, dấu hiệu
tiến bộ là thân, khẩu, tâm ý của con
Cảm thấy tự do và
thoải mái, vượt ngoài mọi
giới hạn sướng khổ.
Đây là phút giây thấu hiểu
trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Vairochana,
con người xứng đáng !
Mọi thứ
xuất hiện và
tồn tại,
sanh tử và
Niết bàn, đều khởi
từ tâm của chính con
Cái
tâm không thể nắm bắt,
thoát khỏi mọi
trung tâm và biên bờ.
Trong
trạng thái tự nhiên của sự bình thản
bao la, vốn sẵn và không
cần phải tạo ra.
Hãy an trụ không lãng trí vào sự không
cố gắng vĩ đại !
Tư tưởng nào con nghĩ ra, nó
sanh khởi như là khoảng không của Tánh Giác.
Bậc
Giác Ngộ là không gì khác hơn điều ấy.
Khi
tỉnh giác tự thông tỏ được
thực hiện trọn vẹnĐó là cái được
gán cho danh từ “Phật !”
Hãy nghe đây, Yudra Nyingpo từ xứ Gyalmo !
Tâm con là không sanh, không có vật gì để có thể thấy.
Tự do khỏi
tư tưởng, không tạo ra
ý niệm, chớ
chạy theo niệm tưởng của mình !
Thế nên chớ
xác nhận hay phủ nhận, mà an trụ
thảnh thơi trong chính mình !
Trong
trạng thái này, dòng niệm tưởng bị cắt đoạn
Và
trí huệ lộ bày, nối liền
sanh tử với
Niết bàn !
Hãy nghe đây, Namkhai Nyingpo, người
khất thực từ xứ Nub !
Tâm con là sự
đơn giản trơ trọi xa lìa cái ta và một
bản ngã,
Nên hãy an trụ trong
trạng thái tự xảy ra, tự biến mất,
thoát khỏi tạo
tác giả tạo !
Vào lúc đó, lạc sanh ra từ bên trong,
Những dấu hiệu
tiến bộ xảy ra
tự nhiên ; đây chính là
trạng thái giác ngộ.
Hãy nghe đây, Jnana Kumara, nghe không
đãng trí lời dạy này !
Tâm con từ khởi thủy không được tạo bởi các
nguyên nhân,
Và
cuối cùng không hủy diệt bởi các
điều kiện,
Vậy hãy an trụ không
dùng sức trong
trạng thái không thể nghĩ bàn và không do tạo dựng !
Vào lúc đó, Quả được
khám phá nơi chính con mà không phải
tìm kiếm.
Lìa ngoài cái này con sẽ không
tìm ra bậc
Giác Ngộ nào khác !
Hãy nghe đây, Gyalwa Cho-yang họ Nganlam !
Tâm
sáng tỏ của
giác ngộ không phải được tạo ra qua
thiền định,
Thế nên,
tự do khỏi nghĩ suy, không có niệm phóng ra hoặc tan vào,
An trụ với
giác quan rộng mở, để cho
ý thức lắng chìm trong chính nó !
Trong
trạng thái này, thức nghĩ suy
tự nhiên tan biến
Và
trí huệ tự
hiện tiền, không do
tìm kiếm,
Đây chính là sự
khám phá trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Dorje Dudjom họ Nanam !
Cái có tên là “tâm
sáng tỏ của giác ngộ”
Là vốn sẵn bên trong, bổn nhiên tự hữu và
không tâm điểm cũng chẳng chu vi.
Chớ
sửa chữa, chỉnh trang nó, mà ngay trong
trạng thái vốn
tự ngộ và
trong sáng tự nhiên,
Không thay đổi, không làm
biến chất, mà an trụ,
giải thoát trong tánh bổn nhiên !
Ở yên như thế, tâm con
thoát khỏi động niệm
Chính nó là Phật !
Hãy nghe đây, Yeshe Yang họ Ba, và
tu hành theo
giáo huấn này !
Tâm con không chao động khi không trụ vào chủ thể và đối tượng.
Không
phóng dật vì
nỗ lực,
hy vọng hay
sợ hãi, vì
hộ trì và làm tan biến những
tư tưởng ;
Chớ
sửa chữa chúng, mà an trụ trong
trạng thái tự nhiên của con.
Không lìa khỏi cái tự nó là Phật !
Hãy nghe đây, Palgyi Yeshe họ Sogpo !
Trạng thái giác ngộ của tâm là vô tạo tác,
Vô cầu và vốn tự sẵn đủ.
Tuyệt không nỗ lực để bám níu vào một chủ thể hay đối tượng
Mà ở trong
trạng thái vô vi của tánh Giác vốn có !
Bằng cách an trụ như vậy, dòng vọng động bị cắt đứt và dừng lại ;
Hãy biết rằng giây phút ấy chính là bậc
Giác Ngộ !
Hãy nghe đây, Nanam Yeshe, người
khất thực trẻ tuổi từ xứ Shang !
Lìa sự
chú tâm khỏi mọi tạo tác
phân biệt, không
xác nhận cũng không phủ nhận,
Mà an trụ trong cái không
nỗ lực không do tạo tác, không lấy không bỏ.
Trạng thái giác ngộ là ở yên không vọng động trong đó !
Hãy nghe đây, Palgyi Wangchuk họ Kharchen !
Hãy để cho tâm con trong không-thiền-định, không tạo ra một quan kiến nào,
Mà, không một khởi tạo, an trụ trong tánh Giác bổn nhiên vốn sẵn !
Ở yên trong
trạng thái ấy, không vất bỏ khía cạnh
sanh tử,
Sự
tiêu tan tự nhiên những
lỗi lầm của
sanh tử chính là
trí huệ của Phật !
Hãy nghe đây, Denma Tsemang,
con người trổi vượt !
Tâm con trống vắng mọi chủ thể và đối tượng và vô tạo tác,
Thế nên, thoát ngoài
dụng công và
thêm thắt, chớ tạo ra bất cứ cái gì qua
thiền định,
Mà an trụ không
phóng dật trong tánh Giác bổn nhiên vốn sẵn !
Bằng sự ở yên trong
trạng thái này, cái giác
tự nhiên vốn là
giải thoát.
Con sẽ không
tìm ra Phật nếu con bỏ qua điều này !
Hãy nghe đây, dịch giả Kawa Paltsek họ Chinbu !
Khi lìa chủ thể và đối tượng,
tâm không phải là một vật gì có thể chỉ ra.
Cũng thế, nó không được làm ra hay phải
sửa chữa.
Hãy an trụ trong
trạng thái thản nhiên, không lạc lầm vào sự
trụ tướng.
An trụ không
xao lãng khỏi cái nó vốn chính là
trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Palgyi Senge họ Shubu !
Trạng thái giác của tâm là thoát ngoài mọi
yêu cầu tăng hay giảm.
Không sanh và
tự nhiên không dính dấp đến một chủ thể
chấp nhận hay chối bỏ đối tượng,
Chớ trụ vào bất cứ thứ gì, hãy
rốt ráo không
chướng ngại.
An trụ trong
trạng thái này chính là Phật !
Hãy nghe đây, Gyalwey Lodroš, người
khất thực xứ Drey !
Tâm con không thể
suy nghĩ đến, cũng không thể
quan sát được.
Nó vượt ngoài có và không, thường và đoạn,
Thế nên, hãy an trụ,
thoát khỏi sự thiền định về chủ
thể tham thiền và đối tượng !
Khi con ở yên không
xao lãng khỏi
trạng thái này,
Đó là cái được gọi là
Pháp thân của Phật !
Hãy nghe đây, Lokyi Chungpa, lời dạy này !
Lìa
chú tâm khỏi người biết và cái được biết,
Không
trụ tâm, mà
buông xả tự do không ước muốn,
Và an trụ trong
trạng thái Giác
vô tánh,
vô trụ.
Ở yên không động lìa khỏi nó chính là
trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Drenpa Namkha !
Tâm con, nó
tri giác nhưng
thoát khỏi mọi
bản chất,
Biết mà không
tư tưởng, thông tỏ tuy
bất khả tư nghì.
Tự do khỏi các chuyển động của thức tưởng
phân chia,
Hãy an trụ trong
trạng thái đó,
tỉnh giác và rộng mở.
An trụ trong
bản tánh này chính nó là
trạng thái giác ngộ !
Hãy nghe đây, Palgyi Wangchuk họ Odren !
Tâm giác là
tánh Không thông tỏ, cái biết trống rỗng mà sáng chiếu.
Hãy an trụ trong
trạng thái vốn sẵn có này, chớ làm
thoái hóa hay chỉnh trị nó.
An trụ không động lìa khỏi nó thì chính nó là Phật !
Hãy nghe đây, Rinchen Chok !
Tính
nhất như của
tỉnh giác, nó không trụ vào bất cứ cái gì,
Thì không thể bám nắm ; nó không được tạo ra cũng không bị
lơ là trong
thiền định.
Chớ
sửa trị hay làm
biến chất sự trẻ trung
bản hữu của nó,
Mà an trụ trong
trạng thái bổn nhiên
xưa nay hiện tiền !
Trong
trạng thái này, chớ
để tâm con dậy sóng,
Từ đó con sẽ không
tìm thấy Quả nào lìa ngoài Nó !
Hãy nghe đây, Sangye Yeshe, người
khất thực từ xứ Nub !
Tâm
tỉnh giác là trống không mà thấu biết
Và thấu biết trong khi vẫn trống không.
Một sự
bất nhị không thể
quan niệm nổi của
tri giác và
tánh Không thông tỏ –
Hãy an trụ trong tánh bổn nhiên, không lìa khỏi
cảnh giới ấy.
An trụ không động lìa khỏi Nó thì chính Nó là Phật !
Hãy nghe đây, Palgyi Dorje Wangchuk họ Lhalung !
Bản tánh của tâm con thì
vô tướng và không thuộc tính,
Chớ
tìm cách tạo ra hay
cải thiện nó, mà an trụ không thay đổi hay quên mất.
An trụ như thế chính là Phật !
Hãy nghe đây, Košnchok Jungney họ Landro !
Tâm con thì
vô tướng và
thanh tịnh bổn nhiên,
Xưa nay trống không và không
thêm thắt giả tạo,
Thế nên, hãy an trụ trong
trạng thái giải thoát khỏi người thiền và đối tượng thiền.
Qua nó, con
đạt đến quả của
Phật tánh !
Hãy nghe đây, Gyalwa Jangchub họ Lasum !
Tâm con không khởi không diệt, cũng
vô tướng.
Trống không tự
bản chất, tánh giác của nó thì không
chướng ngạiAn trụ không động lìa khỏi nó thì chính là Phật !
Tất cả các con, hãy
áp dụng các lời dạy này vào thực nghiệm !
Các con có thể
so sánh các kinh và mật của Phật cùng các
chú giải,
Với lời chữ nhiều hơn cả
không gian,
Nhưng yếu nghĩa thì gồm trọn trong các điểm
chính yếu này.
Thế nên hãy
thực hành chúng, và dấu chúng như các kho tàng hợp với lời phát thệ của mình.
Padmasambhava nói như thế, và chỉ bằng sự trao lời dạy
chân thật cốt tủy cho họ, mà tất cả họ đều
được giải thoát và
đạt đến thành tựu.