Chú thích
1.
Nghĩa đen của chữ
Tây Tạng gom,
thiền định, là ‘trau dồi’, ‘bồi đắp’, theo nghĩa làm sinh ra một cái gì hiện chưa có sẵn. Sự
tu hành của
Đại Toàn Thiện thì không phải là một ‘hành động thiền định’ theo nghĩa tạo ra và
giữ gìn một cái gì trong tâm. Tulku Urgyen Rinpoche.
2. Một nguồn khác nói “phóng tâm” thay cho “quan niệm
phân biệt.”
3. Lama Gongduš dịch là : Hãy
thực hành nhờ vào
niềm tin như thế !
4. Cách dịch của Lama Gongduš thì khác bởi có thêm một ít câu : Những lời
bí mật này của
Phổ Hiền không phải là
kiến thức thông thường cho bất kỳ ai.
Mọi người có
sức mạnh của sự sùng mộ sẽ
tự nhiên chứng ngộ sự
rộng rãi vô biên của
tâm trí huệ. Như thế họ nhận được
ủy thác truyền thừa mà không được tính vào (dòng các Tổ như) xâu
chuỗi hạt. Người không có
niềm tin lẫn sự sùng mộ
và không
thực hành có thể đuổi theo chín dòng phái mà không có được dòng phái nào. Thưa Bệ hạ, xin hãy làm
vững chắc lòng sùng mộ đầy mãnh lực trong đó
tiềm ẩn kinh nghiệm thực hành ở trong tâm
bao la của ngài !
5. Yếu tính,
bản tánh và
công dụng. Trong bản tiếng Anh của cuốn sách này dịch là essence, nature và capacity. Trong những sách khác, ví dụ như cuốn Dzogchen, the sefl-perfected State của Chošgyal Namkhai Norbu thì dịch là essence, nature và energy. Đứng trong
truyền thống văn hóa Việt Nam, có thể hiểu đó là ba
phạm trù Thể, Tướng, Dụng của
Chân Tánh. Thể của
bản tánh bổn nhiên là
tánh Không ; Tướng, tức là tánh chất của nó là
sáng tỏ,
quang minh. Và Dụng của nó là những
tư tưởng. Nhìn
xa hơn, đó là ba
phạm trù Pháp thân (Thể) tức
tánh Không,
Báo thân (Tướng) tức
quang minh và
Hóa thân (Dụng) tức những
tư tưởng. Xem thêm ‘Ba thân’ và Yếu tính,
bản tánh và
công dụng phần
thuật ngữ. Hoặc đoạn nói về
Ba thân của
Lục Tổ Huệ Năng trong
Pháp Bảo Đàn Kinh (Chú thích của người dịch bản Việt).
6.
Tán tâm ở đây nghĩa là trở nên
phóng dật và mất
chánh niệm (EPK).
7. Nghĩa là sự
tái sanh của
công chúa. Người ấy được
nhận ra là Pema Ledrel Tsal (1291-1315).
8.
Giác ngộ vô dư thường có nghĩa là
đạt đến thân cầu vồng. Đôi khi, nó có
thể nghĩa là sự
chứng ngộ trạng thái Giác
thoát khỏi dư tàn của
năm ấm thuộc
điều kiện (EPK).
9.
Lối sống của một thiền giả
ẩn mật nghĩa là không
biểu lộ ra bên ngoài các phẩm chất
tâm linh như là
chứng ngộ cái thấy hay các
thần thông (EPK).
10.
Rõ ràng, có một hay hai câu thiếu trong nguyên bản. Phần trong ngoặc là của tôi (EPK).
11.
Ba tính chất
phúc lạc,
trong sáng và
vô niệm là ba thuộc tính
căn bản của
bản tánh của tâm, và tự chúng không nguy hiểm. Khi
chú tâm được hướng đến các
tính chất này, tóm lấy chúng và bị chúng tràn ngập như một “kinh nghiệm,” như một thứ gì đáng
theo đuổi và
duy trì, một bám chấp
vi tế được tạo ra ; chính sự
mê hoặc vi tế này là một
nguyên nhân trực tiếp cho
sanh tử nối tiếp. Tulku Urgyen Rinpoche.
12. Giống như bảy chi :
lễ lạy,
cúng dường,
sám hối,
tùy hỷ,
thỉnh chuyển pháp luân, khẩn cầu không
nhập Niết Bàn, và
hồi hướng công đức cho
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh.
13. Cắt đứt trong
trường hợp này để chỉ sự
thực hành pháp môn Choš, cắt đứt sự bám níu vào
tài sản,
thân thể và
bản ngã.
14. Điều này thường được nói là kéo dài trong ba ngày rưỡi. Cách tính xưa dùng nửa ngày của hai mươi bốn giờ.
15.
Vô minh, hành, thức, danh và tướng, các căn, xúc,
cảm thọ, và
khát ái ; tám cái đầu của
mười hai nhân duyên.
16.
Thành ngữ “danh và tướng”
ám chỉ năm uẩn. Tướng là
sắc uẩn và danh gồm bốn cái kia ; thọ, tưởng, hành, thức (EPK).
17. Năm
con đường ánh sáng thông thường được đề cập trong đoạn sau.
18. Lời dạy này chỉ đến sự bất khả phân của prana (khí) và tâm
nhị nguyên. Những dòng kinh
năng lực trong thân và sự
trôi chảy của
tư tưởng ý niệm là tương thuộc, tương quan
sâu xa.
19. Tulkku Urgyen Rinpoche
giải thích rằng mũi con heo là điểm
nhạy cảm nhất trên thân nó ; đụng vào đó làm cho nó chạy mất. Các
phản ứng của hoặc là
tội lỗi và đè nén hay của sự dấn mình
mù quáng trong một xúc cảm cả hai đều là “đánh vào mũi con heo,” bởi thế mất đi cơ hội để
nhận ra bản tánh của xúc cảm.
20. Các câu tiếp sau được viết theo lối văn luận lý của một
pháp sư Ấn Độ. Kết quả của loại
lý luận này là đưa đến chỗ tin rằng
tâm trí huệ của chư Phật thì bất chấp mọi tạo tác
tư tưởng mà
chúng ta cố gắng để đóng ngăn, chứa hộc nó (EPK).
21.
Thường thường ví dụ ép vào con mắt và thấy có
hai mặt trăng được dùng để làm
sáng tỏ việc
kinh nghiệm cá nhân thì không tất yếu
hòa hợp với
bản chất của sự vật (EPK).
22. Ở đây Padmasambhava chơi chữ trong câu “tám mối
quan tâm thuộc thế gian” :
quan tâm đồng nghĩa với Pháp, nó cũng có nghĩa là các
giáo pháp.
23. Ngược lại với người
giàu có,
danh tiếng và
quyền lực.
24. Terma của Nyang-ral Nyima OŠser ở điểm này có thêm một câu : “Con có thể có nhiều hoàng hậu, người hầu, và thần dân, nhưng hãy nhớ trong tâm rằng con phải ra đi
một mình vào lúc chết.”
25. Trong các
kinh Bát Nhã ba la mật đa thường nói rằng vị
Bồ tát đi vào sự
thực hành tánh Không sâu xa sẽ gặp nhiều khó khăn để nhanh chóng làm sạch nghiệp và
tiến bộ trên đường
giác ngộ (EPK).
26. Bản dịch của Rinchen Terdzoš nói : Hãy khiêm hạ tâm
đua tranh của con đối với các vị
trưởng thượng và theo gương những bậc Thánh.
27. Những
chủ đề của
kiến thức gồm
triết học,
ngôn ngữ, luận lý, y khoa và nghệ thuật.
28. Về chín thừa thứ lớp theo cách sự
hoàn thiện đi lên : những nguyên tắc về cái phải
từ bỏ và cái cần được
thực hiện trong mỗi thừa của tám thừa thấp thì được bao hàm và
do đó được
hoàn thiện trong thừa ở trên nó. Xem thêm : “chín thừa” trong phần
Thuật Ngữ.
29. Bốn câu này được lấy từ
Sự Sám Hối Không Thể Tả Đối Với cái
Tối Hậu, chương thứ tư về “Sám hối sự
bất hòa với các Hóa
Thần Trí Huệ,” trích từ Tantra về Vua
vô nhiễm của
Sám Hối.
30. Ba luân là chủ thể, đối tượng và hành động, hay trong
trường hợp bố thí là vật cho, hành động cho và nguời nhận.
31. “Người
đại loại,” thay thế tên của người mà sự
hồi hướng được làm cho.
32.
Thực hành của
cá nhân ;
phụng sự trong
tư tưởng,
lời nói và
hành vi ; và
cung cấp vật chất.
33. Các
trạng thái này không có
tự do : ở
địa ngục,
ngạ quỷ hay
súc sanh, một người
hoang dã, một vị thiên sống lâu, có các
tà kiến, không có một
đức Phật hay một người câm.
34. Nghĩa là làm đầy kho tàng của con bằng hai
sự tích lũy
phước đức và
trí huệ.
35. Sáu đối tượng
giác quan là cái xảy ra trong
tâm thức : kỷ niệm
quá khứ và
dự phóng tương lai, các
cảm giác hiện tại về ưa và ghét...
36. Các siêu
hiểu biết (các
thần thông) gồm
thiên nhãn thông, nhớ được các đời trước, và khả năng làm các
phép lạ nhỏ có thể
trở thành căn cứ cho sự kiêu hãnh
tâm linh và sự
quyến rũ khủng khiếp được làm một vị thầy có nhiều
đệ tử (EPK).
37. Thực nghĩa là các lời dạy trực tiếp và Không và Minh,
trái lại với “quyền nghĩa,” “nghĩa
khế cơ,” nó dẫn
lần lượt theo thứ bậc đến thực nghĩa.
38.
Quyết định Đại thừa là nguyện của
Bồ tát đạt đến giác ngộ vì sự
lợi lạc của tất cả
chúng sanh.
Bảng thuật ngữABHIDHARMA :
Luận tạng trong Ba Tạng do
đức Phật thuyết. Các lời dạy có
hệ thống về
siêu hình học nhắm vào sự phát triển trí phân biện bằng cách phân tích các
yếu tố của
kinh nghiệm và
tìm hiểu bản tánh của sự vật.
ABHIDHARMA PITAKA :
Tạng Luận.
ABHISAMBODHIKAYA : Thân thứ năm trong năm thân của
Phật tánh, định nghĩa theo Jamgošn Kontrušl trong Kho Tàng
Trí Huệ như là “sự
biểu lộ đa dạng
phù hợp với nghiệp của những người được
giáo hóa, không lìa khỏi
Pháp thân, nó
xuất hiện bởi vì bốn thân kia
tự nhiên đầy đủ trong
trí huệ tánh Giác.”
AKANISHTHA (og min) : “Tối thượng” ;
cõi giới của Vajradhara, cõi
giác ngộ của
Phật pháp thân.
Thường dùng đồng nghĩa với “pháp giới.”
AMRITA : Cũng như ‘Phẩm tính Cam lồ’, heruka của
gia đình ratna trong Tám
Giáo Huấn Tu Hành và các
giáo huấn Mật thừa
liên hệ đến vị hóa thần này.
AMRITA và RAKTA : Hai loại chất
linh thiêng được dùng trên
bàn thờ trong các
nghi thức Kim Cương thừa.
ANANDA : Một trong mười
đệ tử thân thiết của
đức Phật ;
thị giả của
đức Phật, người đã tụng lại các kinh trong kỳ
kết tập thứ nhất và được xem là vị tổ thứ hai trong
dòng truyền thừa bằng miệng của
giáo pháp.
ANU YOGA : Cái thứ hai của Ba Tantra Nội Môn, gồm Maha, Anu và Ati. Nó
nhấn mạnh vào
Trí Huệ hơn là
Phương tiện và vào giai đoạn
thành tựu hơn là
giai đoạn phát triển. Cái thấy của Anu Yoga là
giải thoát được
đạt đến qua sự làm quen dần với
sự quán chiếu vào tính
bất nhị của
hư không và
trí huệ.
Mạn đà la Anu Yoga được xem là
bao gồm trong thân
kim cương. Anu có nghĩa là “sau,
tiếp theo.”
ATI YOGA : Cái thứ ba của Ba Tantra Nội môn. Theo Jamgošn Kontrušl thứ nhất, nó
nhấn mạnh vào cái thấy (kiến) rằng
giải thoát đạt được qua sự làm quen với
quán chiếu vào
bản tánh của
giác ngộ nguyên thủy,
xa lìa nắm và bỏ,
hy vọng và
sợ hãi. Danh từ
thường dùng hơn ngày nay là Dzogchen,
Đại Toàn Thiện. Ati nghĩa là “tối thượng.”
BA CỬA : Thân, khẩu, ý ;
tư tưởng,
lời nói và
việc làm.
BA GỐC : Guru, Yidam và Dakini. Guru là gốc của các sự
ban phước, Yidam là gốc của
thành tựu và Dakini là gốc của
hoạt động.
BA BỘ
THỆ NGUYỆN : Những
thệ nguyện Tiểu thừa của
giải thoát cá nhân, các
tu hành Đại thừa của một
Bồ tát, và những samaya
Kim Cương thừa của một vidyadhara, một
hành giả Mật thừa.
BA THÂN :
Pháp thân,
Báo thân và
Hóa thân.
Ba thân như nền tảng là “yếu tính,
bản tánh và
biểu lộ,” như
con đường là “lạc, minh và
vô niệm,” như quả là “ba thân của
Phật tánh.”
Ba thân của
Phật tánh là
Pháp thân thoát khỏi tạo tác, trau dồi và vốn đủ “hai mươi mốt
bộ phẩm chất giác ngộ” ;
Báo thân vốn là
bản tánh ánh sáng có các tướng chánh và phụ mà chỉ bậc
Bồ tát trong mười địa thấy được ; và
Hóa thân biểu lộ ra
hình tướng mà người
trong sạch lẫn không
trong sạch đều có thể thấy.
BA
TUYỆT HẢO : Sự bắt đầu
tuyệt hảo của
Bồ đề tâm, phần chính
tuyệt hảo không có
ý niệm hóa và
kết thúc tuyệt hảo của
hồi hướng.
BẢN TÁNH VÔ SANH CỦA TÂM : Trong
chân lý tối hậu mọi
hiện tượng không có một
tính chất độc lập,
cụ thể và bởi thế không có nền tảng cho một thuộc tính như “sanh, trụ hay diệt,” nghĩa là đến và có mặt, giữ yên trong
thời gian và nơi chốn, và
chấm dứt hiện hữu.
BARDO :
Trạng thái trung gian. Thường
ám chỉ đến giai đoạn giữa cái chết và sự
tái sanh tiếp theo. Về
chi tiết của bốn bardo, xem Tấm Gương của
Tỉnh Giác và Sách Hướng Dẫn về Bardo, nhà xuất bản Rangjung Yeshe.
BÁT NHÃ VÀ
PHƯƠNG TIỆN : Prajna là
trí huệ ;
đặc biệt là
trí huệ chứng ngộ vô ngã. Upaya là
phương pháp, hay kỹ thuật đưa đến
chứng ngộ.
BẢY LỐI TRUYỀN THỌ : Dùng
kinh điển hay truyền miệng, kho tàng được
khám phá, kho tàng
tìm thấy lại, kho tàng của tâm, nhớ lại, linh
kiến thanh tịnh và dòng
nghe lời thầy chỉ dạy.
BHUMI : Các cấp bậc của
Bồ tát. Mười địa của một
Bồ tát tiến đến
giác ngộ viên mãn. Mười địa này thuộc về ba cái chót của năm
con đường của
Đại thừa.
BỒ ĐỀ TÂM : “trạng thái
giác ngộ của tâm,” “trạng thái
giác ngộ.” 1/ Nguyện vọng
đạt đến giác ngộ vì
lợi lạc cho
chúng sanh. 2/ Trong
ý nghĩa của Dzogchen, sự thức giác vốn sẵn đủ nơi mình của
tâm giác ngộ ;
đồng nghĩa với trí huệ bất nhị.
BỒ TÁT LOBPOŠN,
BIỆT HIỆU SHANTARAKSHITA : “Người
gìn giữ hòa bình.”
Pháp sư Ấn Độ và
trụ trì chùa Vikra-mashila và chùa Samye, vị đã
xuất gia cho những
nhà sư Tây Tạng đầu tiên. Ngài là một
hóa thân của
Bồ tát Vajrapani và cũng được biết như là
Bồ tát Khenpo hay
Tỳ kheo Bồ tát Shantarakshita. Ngài là người
sáng lập một
học phái triết học hỗn hợp Trung Quán và
Duy Thức.
Truyền thống này được trùng hưng và làm
sáng tỏ bởi Mipham Rinpoche trong
luận giải Madhyamaka Lamkara của ngài.
BỐN CÁCH : Bốn mức độ của nghĩa :
nghĩa đen, nghĩa tổng quát, nghĩa
che dấu, nghĩa
tối hậu.
BỐN GIỚI GỐC : Không giết, trộm,
nói dối và
tà dâm.
BỐN
TRẠNG THÁI THIỀN CỦA SỰ THANH TĨNH (
Tứ thiền) :
Sơ thiền là
trạng thái với cả hai
ý niệm và phân biện.
Nhị thiền là
trạng thái không
ý niệm nhưng có phân biện.
Tam thiền là
trạng thái không có hỷ mà có lạc.
Tứ thiền là
trạng thái bình thản,
buông xả.
BỐN
TRẠNG THÁI VÔ SẮC CỦA SỰ THANH TĨNH : Xem
Vô sắc giới.
CĂN CỨ CỦA
GIÁC QUAN : Mười hai
yếu tố của
giác quan là các
giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cùng với các đối tượng của chúng là
hình sắc,
âm thanh, hương, vị, xúc và đối tượng của thức (các pháp).
CHE CHƯỚNG
TRÍ HUỆ : Sự che chướng
vi tế bám chấp vào các
ý niệm chủ thể, đối tượng và hành động. Nó tạm thời được tịnh hóa vào giây phút
nhận ra bản tánh của tâm, và
rốt ráo được tịnh hóa qua
kim cương định vào lúc chót của địa thứ mười.
CHETSUŠN NYINGTIG : Một trong những
giáo huấn quan trọng nhất của Dzogchen, căn cứ trên sự truyền từ Vima-lamitra. Jamyang Khyentse có một linh ảnh về Chetsušn Senge Wangchuk gây
cảm hứng cho ngài viết
giáo huấn quý giá có tên là Chetsušn Nyingtig. Senge Wangchuk (thế kỷ 11-12) là một vị trong dòng các guru trong sự
truyền thừa Nyingtig, nhận
giáo huấn này từ bổn sư là Dangma Lhušngyal, cũng như trực tiếp từ Vimalamitra. Kết quả của sự
chứng ngộ rất cao của ngài, thân xác ngài biến mất trong ánh sáng cầu vồng khi ngài chết. Trong một
tái sanh về sau như là Jamyang Khyentse Wangpo, ngài nhớ lại
giáo lý Dzogchen mà Senge Wangchuk đã truyền cho dakini Palgyi Lodroš và viết chúng ra như là terma Chetsušn Nyingtig, “Tâm Yếu của Chetsušn.”
CHÍN MUỒI VÀ
GIẢI THOÁT : Hai phần
trọng yếu của
thực hành Kim Cương thừa : các
sự quán đảnh
truyền pháp làm chín, làm
trưởng thành dòng sống của
con người với khả năng chứng thực được bốn thân và các lời dạy
giải thoát cho phép người ấy
áp dụng thật sự
sự quán chiếu đã được đưa vào qua các lễ
truyền pháp.
CHÍN THỪA
TIỆM TIẾN :
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ tát, Kriya, Upa, Yoga, Maha Yoga, Anu Yoga và Ati Yoga. Hai cái đầu của
Tiểu thừa ; cái thứ ba là
Đại thừa ; ba cái tiếp là Ba Tantra Ngoại ; ba cái
cuối cùng là Ba Tantra Nội.
CHÍN
TRẠNG THÁI ĐỊNH
LIÊN TIẾP NHAU :
Bốn thiền, bốn
trạng thái vô sắc và định
an bình của
Thanh Văn, còn gọi là
Diệt tận định.
CHOŠ :
Nghĩa đen là “cắt”. Mộït
hệ thống thực hành căn cứ trên
Bát Nhã ba la mật và truyền xuống từ
thành tựu giả Ấn là Phadampa Sangye và nữ
đạo sư Tây Tạng là Machig Labdrošn với
mục đích cắt đứt
bốn loại Ma và
chấp ngã. Một trong Tám Dòng
Tu Hành của
Phật giáo Tây Tạng.
CHOKGYUR LINGPA (1829-1870) : Một vị
khám phá kho tàng và đương thời với Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgošn Kongtrušl. Được xem là một trong các Terton chính
trong lịch sử Tây Tạng. Chokgyur Lingpa nghĩa
là “Thánh điện của sự xuất chúng.”
CÕI LẠC PHÚC (
Cực lạc) :
Tịnh độ của Phật
A Di Đà trong đó người
thực hành sẽ sanh về khi
trải qua ‘bardo trở thành’, qua sự
phối hợp của
niềm tin thanh tịnh,
công đức đầy đủ, và sự
quyết định nhất tâm.
CON ĐƯỜNG TÍCH LŨY : Cái thứ nhất trong năm đường, nó tạo thành nền tảng cho cuộc
du hành đến
giải thoát và
bao gồm sự thu góp một
tích lũy bao la công đức hồi hướng cho sự đạt đạo này. Trên đường này, người ta có một
hiểu biết trí thức và
ý niệm về
vô ngã qua
học hỏi và
tư duy. Nhờ trau dồi
bốn niệm xứ,
bốn chánh cần, và
bốn như ý túc, người ta
thành công trong việc trừ sạch các
nhiễm ô phiền não thô chúng gây ra sự
đau khổ của
sanh tử và
đạt được những phẩm chất của
thần thông và “định của dòng Pháp” dẫn đến
con đường kết hợp, hội nhập.
CON ĐƯỜNG HOÀN THÀNH : Cái thứ năm của năm đường và
trạng thái của
giác ngộ viên mãn.
CON ĐƯỜNG TU TẬP : Cái thứ tư của năm đường trong đó người ta
tu tập, trau dồi các
thực hành cao cấp của một
Bồ tát,
đặc biệt là tám
phương diện của
thánh đạo.
CON ĐƯỜNG THẤY (
Chân lý) : Cái thứ ba trong năm đường, là sự
đạt đến địa đầu tiên,
giải thoát khỏi
sanh tử và
chứng ngộ chân lý của
thực tại.
CÚNG TIỆC : Một buổi tiệc được các
hành giả Kim Cương thừa cử hành để
tích lũy công đức và tịnh hóa các cam kết
thiêng liêng.
CỬA MỞ CỦA BRAMA : Chỗ mở trên đỉnh đầu, tám lóng tay trên đường viền mái tóc.
CỰU DỊCH : Một đồng nghĩa của Cựu Phái,
truyền thống Nyingma. Các
giáo lý được dịch trước
thời đại dịch giả Rinchen Sangpo, trong thời trị vì của các vua Trisong Deutsen và Ralpachen.
DAKINI : 1/ Các sinh thể
hoàn thành các
hoạt động giác ngộ ; các
nữ thần Mật thừa
bảo vệ và
phụng sự Phật pháp và các
hành giả. Cũng là trong “Ba Gốc Rễ.” 2/
Hành giả nữ đã
giác ngộ của
Kim Cương thừa.
DAKINI TEACHINGS : Các sự chỉ dạy bằng lời của Padma-sambhava cho Bà Tsogyal. Một tuyển tập các lời chỉ dạy của
đại sư do Nyang Ral, Sangye Lingpa và Dorje Lingpa phát giác. Gồm
các chủ đề
quy y, các
lời nguyện Bồ tát, vị thầy
Kim cương, sự
thực hành bổn tôn yidam,
ẩn cư và các phẩm của
quả vị.
DHARMARAJA (
Tử thần) :
Tính cách phải chết của
chúng ta ; sự nhân cách hóa của
vô thường và
quy luật vĩnh viễn của
nhân quả.
DI CHÚC CỦA PADMA :
Khám phá bởi đại Terton Nyang Ral, và được coi là đồng dạng với bản dịch dài vừa – bộ Sanglingma,
tiểu sử của Padmasambhava. Một bản dịch Anh ngữ đã được xuất bản là
Liên Hoa Sanh (Shambhala, 1993).
DIỆT TẬN ĐỊNH :
Trạng thái thiền định của một vị
A La Hán nhập vào sau khi mọi
phiền não,
cảm giác và
tư tưởng ngưng dứt hẳn. Nó không được xem là
mục đích tối hậu của các trường phái
Đại thừa.
DOŠN :
Năng lực xấu ; một loại ma.
DÒNG
NGHE PHÁP : Dòng các
giáo lý khẩu truyền từ thầy đến
đệ tử,
phân biệt với dòng
kinh điển truyền bản văn. Dòng
nghe pháp nhấn mạnh những điểm
then chốt của
khẩu truyền hơn là
nghiên cứu học hỏi mang
tính chất triết lý.
DORJE DUDJOM XỨ NANAM : Một ông quan của vua Tri-song Deutsen, được gởi đến Nepal để mời Padmasambhava đến
Tây Tạng. Một mantrika đã
đạt đến hoàn thiện trong hai
giai đoạn phát triển và
thành tựu, ông có thể bay với tốc độ gió và đi qua vật đặc. Rigdzin Gošdem (1337-1408) và Pema Trinley (1641-1718), vị Vidyadhara vĩ đại của chùa Dorje Drak miền trung
Tây Tạng, cả hai được xem là các
tái sanh của Dorje Dudjom. Dorje Dudjom nghĩa là “Người
hàng phục không thể hủy hoại đối với
Ma Vương.”
DRENPA NAMKHA : Dịch giả
Tây Tạng và
đệ tử của Padma-sambhava, vốn là một
giáo sĩ có
ảnh hưởng của đạo Bošnpo. Về sau học với Padmasambhava và cũng học dịch. Người ta nói ông đã thuần phục một con trâu yak
hoang dã chỉ bằng một
dáng điệu dữ tợn. Ông đã đưa nhiều
giáo huấn Bošnpo cho Padmasambhava, ngài cất chúng như kho tàng terma. Drenpa Namkha nghĩa là “Không gian của
Tỉnh Giác.”
DRIB :
Nhiễm ô, che ám do
tiếp xúc với người hay vật
bất tịnh.
DRUBCHEN (Lễ) :
Thực hành đại thành tựu ; một
thực hành sadhana bởi một nhóm người tiến
hành không nghỉ trong bảy ngày.
DỤC GIỚI : Gồm các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, người,
a tu la và
chư thiên của
sáu cõi trời thuộc dục giới. Nó được gọi là
dục giới bởi vì
chúng sanh ở đó bị
hành hạ bởi sự
đau khổ thuộc
tâm trí do
ham muốn và bám níu vào
vật chất.
DUY TÂM (Phái) : Một họïc phái
Đại thừa Phật giáo được
đại sư Asanga và các
đệ tử phổ biến. Căn cứ trên
kinh Lăng Già và các kinh khác, tiền đề chính của nó là mọi
hiện tượng đều chỉ là tâm, nghĩa là những
tri giác thuộc về
tâm thức, chúng
xuất hiện trong
tạng thức nền tảng của tất cả, do từ các
tập khí thói quen. Một cách tích cựïc, cái thấy này trừ bỏ sự
trụ tướng chấp thực. Một cách
tiêu cực, vẫn còn có sự bám trước vào một cái “tâm” thực sự
hiện hữu trong đó mọi sự xảy ra.
DUYÊN SANH :
Định luật tự nhiên rằng các
hiện tượng khởi sanh
tùy thuộc vào các
nguyên nhân liên hệ với các
điều kiện.
Sự kiện rằng không có
hiện tượng nào
xuất hiện không có một
nguyên nhân và không có cái gì được tạo ra do một người
sáng tạo mà người đó lại không có
nguyên nhân. Mọi sự
sanh khởi do và
tùy thuộc vào sự
trùng hợp của các nhân và duyên mà thiếu chúng sự vật không thể
xuất hiện.
DZONGSAR KHYENTSE CHOŠKYI LODROŠ : Một trong năm
tái sanh của Jamyang Khyentse Wangpo. Ngài là một
đại sư nắm giữ
truyền thống Rimey, cũng là một trong hai Guru gốc của Đức Dilgo Khyentse. Ba
tái sanh của ngài hiện sống ở Bir, Himachal Pradesh ; ở Dordogne, Pháp ; và ở Boudha-nath, Nepal. Dzongsar nghĩa là “Lâu Đài Mới”, Khyentse nghĩa là “Trí Huệ Từ” và Choškyi Lodroš nghĩa là “Trí của Pháp.”
ĐẠI TOÀN THIỆN (DZOGCHEN) : Cái thứ ba trong Ba Tantra Nội của phái Nyingma.
Đại Toàn Thiện là cái
tối hậu của 84.000
pháp môn sâu rộng của Pháp, sự
chứng ngộ của Phật
Phổ Hiền. Xem “Dzogchen” và “Ati Yoga.”
ĐẠO SƯ : Trong Lamrim Yeshe Nyingpo, Padmasambhava nói : “Đạo sư
kim cương, gốc của
con đường là một người có hạnh kiểm
trong sạch về samaya và các
thệ nguyện. Ngài
hoàn toàn trang nghiêm bởi
học hỏi, đã phân biện nó qua
tư duy, và qua
thiền định ngài có những phẩm chất và dấu hiệu của
kinh nghiệm và
chứng ngộ. Với tâm
đại bi, ngài
chấp nhận những
đệ tử.”
Tóm tắt, một người với
chánh kiến và lòng bi
chân thật.
ĐỒ CÚNG ĐƯỢC ĐỐT : Khói từ các hương được đốt trộn với
thực phẩm tinh chất và các chất
thiêng liêng. Khói này, được dâng cúng trong một
thiền định về đức
Quán Thế Âm, vị
Bồ tát của
đại bi, có thể
nuôi dưỡng các
tâm thức đang ở trong bardo cũng như các
ngạ quỷ.
ĐỘNG ASURA : Động nơi đó Guru Rinpoche
hàng phục các lực lượng
ma quỷ của Nepal qua sự
thực hành Vajra Kilaya. Ở gần Pharping trong thung lũng Kathmandu.
ĐỨC HẠNH CÓ
ĐIỀU KIỆN :
Thực hành tâm linh trong đó có
quan điểm nhị nguyên.
Bao gồm các tiên khởi,
bảy giác chi v.v...
Đức hạnh không
điều kiện là sự
nhận biết Phật tánh. Hai
phương diện đức hạnh này gom góp hai
sự tích lũy, bỏ đi hai che chướng, làm
hiển lộ trí huệ hai phần, và
thực hiện hai thân.
GARAB DORJE :
Hiện thân của Semlhag Chen, một vị trời ngày trước đã được chư Phật
truyền pháp.
Trinh bạch mà có thai, mẹ ngài là một
ni cô, con của vua Uparaja (Dhahe-natalo hay Indrabhuti) của Uddiyana. Garab Dorje nhận được tất cả tantra, kinh và lời dạy về Dzogchen từ Vajra-sattva và Vajrapani trong
hình tướng con người và
trở thành vị vidyadhara
con người đầu tiên trong dòng Dzog-chen.
Đạt đến giác ngộ viên mãn qua “Đại
Toàn Thiện không
dụng công,” Garab Dorje truyền các
giáo lý cho
tùy tùng là những
chúng sanh đặc biệt. Manjushrimitra được xem là
đệ tử chính của ngài. Padmasambhava cũng được biết là đã nhận sự
truyền thừa Dzogchen những tantra trực tiếp từ thân
trí huệ của Garab Dorje. Garab Dorje nghĩa là “Niềm vui
bất diệt.”
GIÁO LÝ TRỰC CHỈ : Sự trực tiếp
giới thiệu vào đưa vào
bản tánh của tâm. Một guru gốc là một vị thầy
ban cho lời dạy trực chỉ khiến
đệ tử nhận ra bản tánh của tâm.
GONGPA SANGTAL : Một
kinh điển tantra gồm năm bộ được Guru Rinpoche cất dấu và được
khám phá bởi Rigdzin Gošdem,
vị đạo sư lập nên
truyền thống Jangter của phái Nyingma. Có chứa “Nguyện vọng của Phổ Hiền” một bản
văn danh tiếng. Gongpa Santal nghĩa là “Sự
Chứng Ngộ vô ngại,” và là một
chữ viết tắt của “Chỉ Thẳng sự
Chứng Ngộ của
Phổ Hiền.”
GUHYASAMAJA :
Nghĩa đen là “Hội của những
bí mật.” Một trong các tantra và yidam chính của Tân Phái.
GYALPO : Một loại
tinh linh hiểm ác, đôi khi được tính vào “tám loại thần và quỷ.” Khi đã được một
đại sư hàng phục họ có thể hành động như những người
bảo vệ Phật pháp.
GYALWA CHO-YANG HỌ NGANLAM : Một
đệ tử thân cận của Guru Rinpoche. Đã
đạt đến thành tựu qua
thực hành Hayagriva và sau này
tái sanh như là các vị Karmapa. Sinh vào bộ tộc Nganlam trong thung lũng Phen, ngài
thọ giới với Shantarakshita trong nhóm bảy
tu sĩ Tây Tạng đầu tiên. Ngài giữ các
lời nguyện một cách tròn sạch nhất. Được
truyền pháp Hayagriva từ Padmasam-bhava, ngài
thực hành trong
đơn độc và
đạt đến mức độ của một vị vidyadhara. Gyalwa Cho-yang nghĩa là “Tiếng nói cao cả của chiến thắng.”
GYALWA JANGCHUB DÒNG LASUM : Một trong bảy người
Tây Tạng đầu tiên
thọ giới tỳ kheo với Shantarakshita. Ngài cực kỳ
thông minh, có thăm
Ấn Độ vài lần và dịch nhiều
kinh điển. Một
đệ tử thân cận của Padmasambhava, ngài đạt siddhi và có thể bay
trên trời. Rigzin Kunzang Sherab, nhà
sáng lập đại
tu viện Palyušl ở Kham, được coi là một trong những
hóa thân của ngài. Gyalwa Jangchub nghĩa là “Sự
giác ngộ toàn thắng.”
GYALWEY LODROŠ HỌ DREY : Bắt đầu là một Gošnpo, một người hầu tin cẩn của vua Trisong Deutsen, ngài
trở thành một trong những người
Tây Tạng đầu tiên
thọ giới, với
pháp danh là Gyalwey Lodroš,
Trí Thông Tuệ Chiến Thắng. Ngài trở nên
thông thái trong dịch thuật và
đạt đến thành tựu sau khi nhận sự truyền thọ từ Hungkana ở
Ấn Độ. Người ta nói rằng ngài đã
thăm viếng xứ sở của Yama,
Diêm Vương, vua của người chết, và cứu mẹ khỏi
địa ngục. Sau khi nhận chỉ dạy từ Padmasambhava, ngài đã chuyển một xác ướp
hóa thành vàng. Một số kỳ công đã được
khám phá về sau trong các kho tàng Terma. Ngài
hoàn thành mức độ vidyadhara về
trường thọ và
nổi tiếng vì đã sống đến thời Rongzom Pandita Choškyi Sangpo (1012-1088), vị này nhận lời chỉ dạy từ ngài. Gyalwey Lodroš nghĩa là “Trí Huệ chiến thắng.”
HAI CHÂN LÝ (
Nhị đế) :
Chân lý tương đối và
chân lý tuyệt đối.
Chân lý tương đối (
tục đế)
diễn tả kiểu cách tương tợ, hình như,
bề ngoài của mọi sự.
Chân lý tuyệt đối (
chân đế)
diễn tả kiểu cách thực, không lầm lỗi. Hai
phương diện của
thực tại này được định nghĩa bởi Bốn Trường Phái
Triết Học, cũng như các Tantra Mật thừa theo nhiều lối, mỗi lối ngày càng sâu sắc hơn và sít sao hơn để
diễn tả sự vật như chúng là.
HAI
SỰ TÍCH LŨY :
Sự tích lũy
công đức có
ý niệm và
sự tích lũy
trí huệ siêu vượt
ý niệm.
HAI CHE ÁM : Sự che ám của
phiền não (
phiền não chướng) và sự che ám
hiểu biết (
sở tri chướng).
HAI MƯƠI LĂM THUỘC TÍNH CỦA QUẢ : Năm thân, năm khẩu,
năm trí, năm phẩm tính và năm
hoạt động. Cũng gọi là “sự
tương tục được
trang hoàng với thân, khẩu, tâm, phẩm chất và
hoạt động đều
vô tận.”
HAYAGRIVA : Hóa thần Mật thừa với một đầu ngựa, tóc cháy rực ;
phương diện phẫn nộ của Phật
A Di Đà. Ở đây đồng với Padma Hekura, Khẩu
Hoa Sen, trong Tám Chỉ Dạy Sadhana.
HINAYANA (
Tiểu thừa) : Thừa nhắm vào sự
chiêm nghiệm thiền định về
Bốn Thánh Đế và
Thập Nhị Nhân Duyên, sự
thực hành đưa đến
giải thoát khỏi
sanh tử. Khi dùng trong cách nói đối địch,
thái độ Tiểu thừa để chỉ sự
theo đuổi hạn hẹp
con đường giác ngộ chỉ với
mục đích giải thoát cho
cá nhân hơn là cho sự
giác ngộ của tất cả
chúng sanh.
HOAN HỶ ĐỊA : Bậc đầu tiên của mười địa
Bồ tát ;
giải thoát khỏi
sanh tử và
chứng ngộ chân lý của
thực tại.
HỌC,
TƯ DUY VÀ
THIỀN ĐỊNH (Văn, tư, tu) : “Học” nghĩa là nhận các lời
giáo lý và
nghiên cứu kinh điển để tịnh trừ
vô minh và
tà kiến. “Tư duy” là nhổ gốc sự không
tin chắc và hiểu sai qua việc
suy nghĩ kỹ lưỡng về
chủ đề. “Thiền định” là trực tiếp
đạt được thấu hiểu qua sự
áp dụng các lời dạy vào
kinh nghiệm cá nhân.
HƯ VÔ LUẬN,
HƯ VÔ CHỦ NGHĨA :
Nghĩa đen là “đoạn kiến.”
Quan điểm cực đoan “không có gì cả” : không có
tái sanh hay
nghiệp quả, và sự không
hiện hữu của một tâm
sau khi chết.
JAMGOŠN KONGTRUL (1813-1899) : Cũng được biết với tên là Lodroš Thaye, Yošngten Gyamtso, Padma Garwang và tên terton là Padma Tennyi Yungdrung Lingpa. Ngài là một trong những vị thầy xuất chúng thế kỷ 19 và
chú tâm đặc biệt đến
thái độ không
bộ phái.
Nổi danh như một vị thầy
thành tựu,
học giả và
tác giả, ngài trước tác hơn 100 bộ sách. Bộ
nổi tiếng nhất là Năm
Bảo Tàng, trong đó có 63 bộ của Rinchen Terdzoš,
văn chương Terma của một trăm vị đại terton.
JAMYANG KHYENTSE WANGPO (1820-1892) : Một vị thầy vĩ
đại thế kỷ trước. Ngài là vị
cuối cùng trong năm Đại Terton và được coi là sự
hóa thân hỗn hợp của Vimala-mitra và vua Trisong Deutsen. Ngài
trở thành thầy của mọi phái
Phật giáo Tây Tạng và là người
sáng lập phong trào Rimey. Có mười bộ sách của ngài cùng với các terma của ngài. Jam-yang nghĩa là “Văn Thù, hòa dịu” Khyentse Wangpo nghĩa là “Bậc
Trí Huệ Từ Ái.”
JNANA KUMARA HỌ NYAG : Jnana Kumara nghĩa là “sự
Tỉnh Giác Trẻ Trung.”
Tu sĩ Tây Tạng lúc sơ thời và là dịch giả
trác tuyệt, đã nhận Bốn Dòng Sông Lớn của sự
Truyền Thừa từ Padmasambhava, Vimalamitra, Vairo-chana và Yudra Nyingpo. Ngài làm việc
gắn bó với Vima-lamitra trong việc
phiên dịch các tantra Mahayoga và Ati Yoga. Ngài cũng có tên là Nyag Lotsawa và do sự
nhập môn bí mật mà có tên là Drimey Dashar “Ánh trăng không vết mờ.” Hoa trong lễ
nhập môn của ngài, cùng với hoa của Trisong Deutsen rơi vào Chemchok Heruka. Sau đó ngài nhận sự trao
truyền Y Học
Cam Lồ từ Padmasambhava. Ngài
thực hành ở động
Kim Cương ở Yarlung, nơi đó ngài đã rút nước từ trong đá tảng ; người ta nói rằng dòng nước này còn chảy tới hôm nay. Trong các
tái sanh của ngài có Dabzang Rinpoche, một vị
đồng thời trong thế kỷ 19 với Jamgošn Kongtrušl thứ Nhất.
KADAG RANGJUNG RANGSAR : Tên của một trong năm bộ sách chứa trong Gongpa Sangtal. Kadag Rangjung Rangsar nghĩa là “tánh
thanh tịnh bổn nhiên tự hữu và tự biểu hiện.”
KARMA PAKSHI (1204-1283) : Vị thứ hai trong dòng các Karmapa
tái sanh và được xem là Tulku thứ nhất được
nhận biết của
Tây Tạng. Tên Pakshi là tiếng
Mông Cổ để chỉ “đạo sư,” một tên hiệu sau khi được vua
Mông Cổ ban cho một
vị trí tôn giáo cao cấp. Trong các
đệ tử của ngài có
đại thành tựu giả Orgyenpa Rinchen Pal (1230-1309).
KAWA PALTSEK :
Đệ tử trực tiếp của cả Padmasambhava và Shantarakshita ; người đóng góp quan trọng vào việc dịch thuật Ba Tạng
Tây Tạng và Gyušbum Nyingma. Sinh trong thung lũng Phen, ngài
trở thành một dịch giả
kiệt xuất ứng với một
lời tiên tri của Padmasambhava, và ở trong nhóm bảy
nhà sư Tây Tạng đầu tiên được
thọ giới bởi Shantarakshita. Ngài nhận
giáo lý Kim Cương từ
đại sư Padma và
đạt được thiên nhãn thông vô ngại. Kawa là tên của một nơi chốn, và Paltsek nghĩa là “Núi
Rực Rỡ.”
KAYA : “Thân” trong nghĩa một
thân thể có nhiều phẩm chất. Khi nói đến hai thân :
Pháp thân (dharmakaya) và
Sắc thân (rupakaya).
Ba thân là
Pháp thân,
Báo thân (sambho-gakaya) và
Hóa thân (nirmanakaya).
KHANDRO NYINGTIG : Nghĩa là “Tâm Yếu của các Dakini.” Một toàn tập
sâu xa về
giáo lý Dzogchen được Padmasam-bhava truyền cho
công chúa Pema Sal. Nằm trong bộ Nyingtig Yabshi
nổi tiếng.
KHENPO : Một
danh hiệu dành cho người
hoàn thành khóa học chính kéo dài khoảng mười năm về các ngành
truyền thống của
triết học, luận lý, Luật học
Phật giáo... Cũng có thể nói đến vị
trụ trì một ngôi chùa hay vị thầy
truyền giới luật tỳ kheo.
KHENPO NGAKCHUNG
BIỆT HIỆU NGAWANG PAL-SANG (1879-1941) : Một Khenpo ở Katok và một nhà
phục hưng rất quan trọng của dòng
học giả về
kinh điển Dzogchen công truyền. Được xem là
tái sanh của cả Vimalamitra và Longchenpa. Chandral Sangye Dorje là một trong những
đệ tử cuối cùng còn sống của ngài.
KILAYA : Các tantra về hóa thần Vajra Kilaya.
KIM CƯƠNG TÒA : Chỗ ngồi dưới
cây Bồ Đề ở
Bồ Đề đạo tràng nơi
đức Phật giác ngộ.
KINH MẠCH TRUNG ƯƠNG : Kinh mạch
vi tế trung ương ở trong
thân thể, chạy từ cuối xương sống đến đỉnh đầu.
KOŠNCHOK CHIDUŠ : “Hiện thân của các bậc quý giá.” Một terma được Jatsošn Nyingpo vĩ đại (1585-1656)
khám phá ra, tập trung vào Padmasambhava. Ngài truyền bộ lời dạy này
trước tiên cho Dušdušl Dorje (1615-1672). Một số lớn của nguyên tác này đã được dịch ra Anh ngữ bởi Peter Roberts.
KOŠNCHOK JUNGNEY HỌ LANGDRO :
Ban đầu là một
vị quan trong triều đình của vua Trisong Deutsen. Về sau
trở thành một
đệ tử thân thiết của Padmasambhava và
đạt đến thành tựu. Hai đại Terton Ratna Lingpa (1403-1471) và Longsal Nyingpo (1625-1692) được xem là trong số các
tái sanh của ngài. Košnchok Jungney nghĩa là “Nguồn các bậc Quý Giá.”
KRIYA YOGA : Cái thứ nhất của ba tantra ngoại,
nhấn mạnh vào sự sạch sẽ và
giới hạnh thanh tịnh. Các kinh văn của Kriya Yoga
xuất hiện đầu tiên ở Varanasi.
KUNZANG TUKTIG : “Tâm Yếu của
Phổ Hiền.” Một tuyển tập các lời dạy Terma do Chokgyur Lingpa
khám phá, tập trung nói về các hóa thần từ hòa và hung nộ.
LẠC,
SÁNG TỎ VÀ
VÔ NIỆM : Ba
kinh nghiệm tạm thời của
thiền định. Trụ vào chúng sẽ có sự ươm hạt cho sự
tái sanh trong
ba cõi của
sanh tử. Không trụ vào, chúng là sự
trang hoàng của
ba thân.
LAMA GONGDUŠ : Vòng
giáo pháp được
khám phá do Sangye Lingpa (1340-1396) gồm 18 bộ, mỗi bộ khoảng 700 trang. Lama Gongduš nghĩa là “hiện thân sự
chứng ngộ của
Đạo sư.”
LAMA SANGDUŠ : Một terma
khám phá bởi Guru Chošwang (1212-1270), một trong những terton sớm nhất và quan trọng nhất. Nó tập trung vào
bản thể Guru như
hình thức Báo thân của Padmasambhava của
mạn đà la năm phần của Toštreng Sal. Lama Sangduš nghĩa là “hiện thân những
bí mật của
Đạo sư.”
LOKYI CHUNGPA : Một
đệ tử thân cận của Padmasambhava,
trở thành một dịch giả
Phật giáo lúc còn rất trẻ, do đó có tên. Ngài cũng được biết với tên là Khyen-chung Lotsawa “Đứa trẻ Dịch giả.” Trong số các
tái sanh về sau là Terton Dušdušl Dorje (1615-1672), Dudjom Lingpa (1835-1903), và đức Dudjom Rinpoche, Jigdrel Yeshe Dorje (1904-1987).
LONGCHENPA
BIỆT HIỆU LONGCHEN RABJAM (1308-1363) : Một
tái sanh của
Công chúa Pema Sal, con của vua Trisong Deutsen. Guru Rinpoche đã trao truyền dòng Dzogchen (tức Khandro Nyingtig) cho bà. Ngài được xem là
tác giả quan trọng nhất viết về
giáo lý Dzogchen.
Công trình của ngài gồm trong Bảy Đại Kho tàng,
Tam Bộ và các
luận giải trong Nyingtig Yabshi. Nhiều
chi tiết về
cuộc đời và lời dạy của ngài ở trong cuốn
Tâm Phật của Tulku Thondup Rinpoche, nhà xuất bản Snow Lion, 1989. Long-chenpa nghĩa là “Đại Không.”
MACHIG LABDROŠN (1031-1129) : Vị
đại sư người nữ ghi lại sự
thực hành pháp môn Choš, cắt đứt
chấp ngã.
Đệ tử và người phối ngẫu của
đạo sư Ấn Độ Phadampa Sangye. Machig Labdrošn nghĩa là “Ngọn đèn Mẹ độc nhất của Pháp.”
MAHAYANA : “Đại thừa.” Khi dùng từ “Đại thừa và
Tiểu thừa,” thì
Đại thừa bao gồm các thừa Tantra trong khi
Tiểu thừa gồm các
giáo lý cho bậc Thánh Văn và
Bích Chi Phật. Hàm ý “đại” hay “tiểu” để
chỉ phạm vi nguyện vọng, các
phương pháp tu hành và độ sâu của sự thấu hiểu.
Trung tâm của
thực hành Đại thừa là
lời nguyện Bồ tát giải thoát cho tất cả
chúng sanh qua
phương tiện và
trí huệ,
đại bi và quán thấu
tánh Không. Hai phái lớn của
Đại thừa là
Duy Tâm và
Trung Đạo. Bảy
tính cách vĩ đại của
Đại thừa được đề cập trong
Trang nghiêm các Kinh của Maitreya được Jamgošn Kongtrušl
giải thích trong
Trí Huệ Toàn Khắp : “Sự vĩ đại tập trung vào kho tàng
bao la của
giáo lý Đại thừa, sự vĩ đại của các
phương tiện thành tựu lợi lạc cho mình và cho người, sự vĩ đại của
trí huệ thấu rõ hai
vô ngã, sự vĩ đại của
tinh tấn chuyên cần trong ba
a tăng kỳ kiếp, sự vĩ đại của
phương tiện thiện xảo như là không bỏ
sanh tử và
thị hiện bảy hành động
bất thiện của thân và khẩu mà không có
phiền não ; sự vĩ
đại thành tựu chân thật thập lực, bốn
vô úy, những phẩm chất độc nhất của bậc
giác ngộ, và sự vĩ đại của
hoạt động tự nhiên và không ngừng nghỉ.”
MAHAYOGA : Cái thứ nhất của “Ba Tantra Nội.” Mahayoga trong kinh văn được chia làm hai phần : Phần Tantra và phần Sadhana. Phần Tantra gồm Mười Tám Mahayoga Tantra trong khi phần Sadhana
gồm có Tám
Giáo Lý Sadhana. Jamgošn Kongtrušl nói trong Kho Tàng
Trí Huệ của ngài : “Mahayoga
nhấn mạnh vào
phương tiện (upaya),
giai đoạn phát triển, và cái thấy rằng
giải thoát được
đạt đến qua sự quen dần với
sự quán thấy
bản tánh không thể
phân chia của
nhị đế.”
Nhị đế trong Mahayoga là
thanh tịnh và
bình đẳng –
bản tánh thanh tịnh của các uẩn, các đại, và các
thành phần của các căn là chư Phật và
Bồ tát nam và nữ. Trong
cùng lúc đó, mọi sự vật
xuất hiện và
hiện hữu đều là tánh
bình đẳng của
tánh Không.
MAMO : Viết tắt của “các hóa thần Mẹ trong
thế gian.” Một trong Tám Sadhana. Các hóa
thần nữ lưu xuất
từ pháp giới nhưng
xuất hiện theo các cách
phù hợp với
hình tướng thế gian qua sự tương liên giữa
thế giới thế tục và các kinh mạch, khí và
tinh chất trong
thân thể chúng ta. Các vị có cả hai
phương diện, một
tối hậu và một
tương đối. Nhân vật chính trong
mạn đà la này là Chemchok Heruka,
hình tướng hung nộ của Phật
Phổ Hiền được gọi là Ngošndzok Gyalpo, Vua của
Hoàn Thiện chân thật.
MANDALA : 1/ “Trung tâm và chu vi.” Thường là một hóa thần cùng với môi trường bao quanh của vị ấy. Một
mạn đà la là một
tượng trưng bằng đồ họa
cảnh giới sống động của một hóa thần Mật thừa. 2/
Cúng dường mạn đà la là một
cúng dường được
quán tưởng như là một
toàn bộ vũ trụ, cũng như sự sắp xếp đồ cúng trong
nghi lễ Mật thừa.
MANTRA : 1/ Một
đồng nghĩa với Kim Cương thừa. 2/ Một tổ hợp các
âm thanh tượng trưng và
truyền thông bản tánh của một hóa thần, nó dẫn đến sự tịnh hóa và
chứng ngộ, ví dụ OM MANI PADME HUNG. Có ba loại mantra chính : guhya mantra, vidya mantra và dharani mantra.
MANTRA
BÍ MẬT :
Đồng nghĩa với Kim Cương thừa hay
giáo lý Tantra. “Guhya” là
bí mật, cất dấu và tự ẩn. “Mantra” trong văn cảnh này nghĩa là siêu xuất,
tuyệt hảo, đáng
tán dương.
MANTRA TINH YẾU (
Tâm chú) :
Hình thức thu gọn của
thần chú của một hóa
thần bổn tôn so với
thần chú đà ra ni dài ; ví dụ “OM MANI PADME HUNG.”
MANTRIKA :
Hành giả của Mantrayana (Mật thừa hay là
Kim Cương thừa).
MARA : Ma,
ảnh hưởng tà tạo nên những
chướng ngại cho
thực hành và
giác ngộ. Một vị thần có
thần lực ở nơi cao nhất của
Dục giới, bậc thầy của
ảo hóa đã
tìm cách ngăn cản đức Phật thành đạo ở
Bồ đề đạo tràng. Với người
thực hành Pháp, Ma
tượng trưng cho sự
chấp ngã và sự bận rộn với tám mối
quan tâm thuộc
thế gian. Tổng quát có
bốn loại Ma ngăn cản người tu :
phiền não ma,
tử ma,
ngũ ấm ma và
thiên ma. Đôi khi
bốn loại Ma được đề cập bằng tên :
Tử Thần, Con của
Tử thần,
Phiền não và
Ngũ Ấm.
MILAREPA (1040-1123) : Một trong những thiền giả và thi sĩ
nổi tiếng nhất của
Tây Tạng. Nhiều
giáo lý của phái Karma Kagyuš truyền qua ngài. Để có nhiều
chi tiết hơn, xin đọc
Cuộc đời của Milarepa và Một Trăm Ngàn Bài Ca của Milarepa (Nhà xuất bản Shambhala). Tên ngài nghĩa là “Mila áo vải.”
MƯỜI
HOẠT ĐỘNG TÂM LINH : Chép
kinh điển,
cúng dường,
bố thí, nghe
thuyết pháp, ghi nhớ, đọc, trình bày, tụng,
tư duy và
tu hành nghĩa của Pháp.
MƯỜI
CHỦ ĐỀ CỦA TANTRA : Cái thấy, hạnh,
mạn đà la,
truyền pháp, samaya,
hoạt động,
thành tựu, định, dâng cúng puja,
thần chú và ấn. Đây là
mười phương diện của
con đường của một
hành giả Mật thừa, cũng là mười
chủ đề căn bản.
NADI : Các kinh mạch trong thân
kim cương qua chúng các dòng
năng lực chuyển động.
NAMKHAI NYINGPO HỌ NUB : Sinh ở quận Nyal Hạ, ngài là một trong những người
Tây Tạng đầu tiên
thọ giới tỳ kheo. Một
đệ tử dịch giả, ngài
du hành qua Ấn ở đó nhận được sự
truyền pháp từ Hungkara và
đạt được thân của
trí huệ bất nhị. Namkhai Nyingpo cũng được kể trong hai mươi lăm
đệ tử của Guru Rinpoche. Nhận được sự trao truyền của Guru, ngài có thể bay theo những tia
mặt trời. Khi
thiền định trong Hang Dài
Rực Rỡ ở Lhodrak, ngài có những linh kiến về nhiều yidam và
đạt đến mức độ vidyahara của Đại Ấn.
Cuối cùng ngài ra đi đến những
cõi trời mà không để lại thân xác. Namkhai Nyingpo nghĩa là “Tinh Túy của
Không Gian.”
NĂM TERTON GIỐNG NHƯ VUA : Một danh sách gồm Năm Terton Vua là : Nyang Ral Nyima OŠzer (1124-1192), Guru Choškyi Wangchuk (1212-1270), Dorje Lingpa (1346-1405), Pema Lingpa (1445/50-1521) và (Padma OŠsel) Do-ngak Lingpa (Jamyang Khyentse Wangpo) (1820-1892). Đôi khi danh sách còn gồm đại Terton Rigdzin Gošdem (1337-1408).
NĂM
CON ĐƯỜNG : Năm
con đường hay năm cấp bậc trên đường
giác ngộ :
con đường tích lũy,
tham gia, thấy,
tu tập, và
hoàn thành hay không
học hỏi nữa.
NĂM ĐỘC : Tham, sân, si, mạn,
ganh ghét.
NANAM YESHE : Còn được biết với tên là Bandey Yeshe Dey họ Shang. Một dịch giả nhiều
tác phẩm với hơn 200 bản văn và là một
đệ tử của Padmasambhava.
Tu sĩ học rộng và
thành tựu này một hôm biểu hiện những
thần thông đã
đạt được qua sự lão luyện Vajra Kilaya, bằng cách bốc lên trời như một con chim. Yeshe nghĩa là “Giác bổn nguyên.”
NÂNG CẤP,
TĂNG TIẾN :
Các loại thực hành khác nhau với
mục đích làm
vững vàng “quán.” Theo Tulku Urgyen Rin-poche, sự
thực hành nâng cấp
chính yếu là trau dồi sùng mộ và
đại bi.
NGƯỜI NẮM GIỮ CHÀY
KIM CƯƠNG : 1/
Danh hiệu tôn kính để dành cho một vị thầy
thành tựu. 2/
Trạng thái giác ngộ.
NIRMANAKAYA :
Hóa thân, “sự
xuất hiện huyễn hóa.” Cái thứ ba trong
ba thân.
Phương diện giác ngộ mà người
bình thường có thể
tri giác được.
NÚI HUY HOÀNG Ở CHAMARA / NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG ĐỎ : Xứ sở
tịnh độ của Guru Rinpoche trên tiểu lục địa Chamara phía đông nam của
đại lục Jambu (
Diêm Phù). Chamara là đảo chính trong chín đảo do loài raksha
dã man ở. Ở giữa Chamara có một ngọn núi nguy nga màu đỏ cao ngất trời. Trên đỉnh núi là cung điện
thần biến Ánh Sáng
Hoa Sen,
xuất hiện từ sự
biểu lộ tự nhiên của tánh Giác bổn nguyên. Đức Padmasambhava ở tại đây trong một thân
bất diệt siêu việt sống chết,
trường tồn ngày nào
sanh tử vẫn còn và qua đó, ngài không ngừng mang lại
lợi lạc cho
chúng sanh qua các
hóa thân thần biến của thân, ngữ và tâm của ngài.
NÚI TU DI VÀ BỐN CHÂU : Ngọn núi huyền thoại vĩ đại ở
trung tâm của
hệ thống thế giới chúng ta, bao quanh bởi bốn châu lục, nơi đó hai loài thấp nhất của
chư Thiên cõi Dục giới sống. Nó bao quanh bởi các
dãy núi thấp hơn, các hồ, các lục địa và
đại dương nhô lên khỏi mặt biển 84.000 lý (lý : ba dặm Anh).
Thế giới chúng ta đang sống nằm trên châu lục phía Nam gọi là Jambudvipa (
Nam Thiệm Bộ Châu).
NÚT NADI : Đôi khi tương đương với luân xa, một chỗ tiếp hợp chính hay điểm giao nhau của các kinh mạch. Đôi khi là một chỗ bế tắc
vi tế cần phải cởi mở nhờ các
thực hành yoga.
NYANG RAL NYIMA OŠZER (1124-1192) : Vị thứ nhất của năm Terton Vua và là một
tái sanh của vua Trisong Deutsen. Một số kho tàng do ngài
khám phá được gồm Rinchen Terdzoš, trong đó
nổi tiếng nhất là Kagye Deshek Dušpa, một bộ các
giáo lý nhắm vào
Giáo lý Tám Sadhana, và
tiểu sử của Guru Rinpoche gọi là Sanglingma
hiện giờ đã xuất bản là
Liên Hoa Sanh (Shambhala). Nyang Ral nghĩa là “Người trang sức từ Nyang” và Nyima OŠzer nghĩa là “Tia Sáng
Mặt Trời.”
NYINGTIG YABZHI : Một trong những tuyển tập
nổi tiếng nhất của
kinh điển Dzogchen. Vimalamitra
kết hợp hai
phương diện của Phần
Thậm Thâm Vô Thượng – dòng
giải thích với
kinh điển và dòng nghe
khẩu truyền không kinh điển – và cất dấu chúng để rồi được
khám phá như là
giáo lý Nyingtig Vima Nyingtig, và cũng như là
Tâm Yếu Bí Mật của Vimalamitra. Longchenpa
minh giải chúng trong 51 đoạn của Lama Yangtig. Padmakara cất dấu lời dạy của ngài về Vòng
Thậm Thâm Vô Thượng và sau này được
khám phá như là Khandro Nyingtig,
Tâm Yếu của các Dakini. Longchenpa cũng
minh giải các lời dạy này trong bộ Khandro Nyingtig của ngài. Bốn bộ
đặc biệt về
giáo lý Dzogchen này, cùng với lời dạy thêm của Longchenpa là Zabmo Yangtig, gồm lại trong tuyển tập của ngài, tức là tuyển tậïp Nyingtig Yabzhi.
PALGYI DORJE HỌ LHALUNG : Sinh ở Drom Thượng, ngài
phục vụ như một người canh
biên giới nhưng có
tâm từ bỏ và cùng với hai anh nhận
truyền giới xuất gia từ Vimalamitra. Ngài nhận
Bồ tát nguyện từ Padmasambhava cũng như sự
truyền pháp và lời dạy miệng. Ngài
thiền định ở Hẻm Núi Trắng xứ Tsib và ở Yerpa, ở đó ngài đạt
thành tựu có thể đi
xuyên qua đá núi. Những năm sau ngài
ám sát vị vua ác Langdarma. Palgyi Dorje nghĩa là “Kim Cương
Rực Rỡ.”
PALGYI SENGE HỌ LANG : Cha ngài là Amey Jangchub Drekhošl, một mantrika
thần lực đủ để
sử dụng tám loại thần và quỷ như những người giúp việc. Ngài là một trong tám
đại đệ tử của Padmasambhava khi pháp
quán đảnh “Hội Chư Như Lai” được
ban cho. Ngài đạt cả hai sự
thành tựu thông thường và
tối thượng ở Paro Taktsang qua sự
thực hành pháp môn “Thuần hóa mọi Hồn Linh
Kiêu Ngạo.” Các Rinpoche Dzogchen được
xem như các
tái sanh của ngài. Palgyi Senge nghĩa là “Sư Tử
Vinh Quang.”
PALGYI SENGE HỌ SHUBU : Một trong các quan của vua Trisong Deutsen, trong những
sứ giả được gởi đi để mời Padmasambhava đến
Tây Tạng. Ngài học dịch thuật từ Guru Padma và dịch nhiều
giáo lý Mamo, Yamantaka và Kilaya sang tiếng
Tây Tạng. Đã
đạt được nhiều
thành tựu với Mamo và Kilaya, ngài có thể chẻ đá cuội và tách dòng sông bằng con dao găm của mình. Các
tái sanh của ngài có đại Terton Mingyur Dorje của
truyền thống Nam-choš. Palgyi Senge nghĩa là “Sư Tử
Vinh Quang.”
PALGYI WANGCHUK HỌ KHARCHEN : Trong
tiểu sử Sanglingma ngài là cha của Yeshe Tsogyal ; chỗ khác ngài được xem là anh của bà, một
đệ tử thân cận của Padmasambhava
đạt đến siddhi qua sự
thực hành Vajra Kilaya. Palgyi Wangchuk nghĩa là “Bậc
Rạng Rỡ.”
PALGYI WANGCHUK HỌ O-DREN : Một
đại học giả và mantrika,
đạt được thành tựu qua sự
thực hành Guru Drakpo,
phương diện hung nộ của Padmasambhava.
PALGYI YESHE HỌ SOGPO :
Đệ tử của Padmasambhava và Jnana Kumara họ Nyag. Palgyi Yeshe nghĩa là “Trí Huệ
Rực Rỡ.”
PANDITA (
pháp sư) : Một vị thầy
học rộng,
học giả hay giáo sư
triết học Phật giáo.
PARAMITA (
Ba la mật đa) :
Nghĩa đen là “qua
đến bờ bên kia.”
Đặc biệt, nó có nghĩa là
siêu việt khỏi các
ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động. Thừa Paramita là
hệ thống Đại thừa của
con đường tiệm tiến qua năm đường và mười địa theo
kinh điển Bát Nhã ba la mật đa. Xem thêm “Sáu
Ba la mật.”
PEMA LEDREL TSAL (1291-1315) :
Tái sanh của Pema Sal, con gái của vua Trisong Deutsen. Người
khám phá các
giáo lý Dzogchen của Guru Rinpoche
nổi danh với tên là Khandro Nyingtig. Sự
tái sanh trực tiếp của ngài là Long-chenpa. Pema Ledrel Tsal nghĩa là “Sức mạnh
Hoa Sen của Chuỗi Nghiệp.”
PEMA SAL,
CÔNG CHÚA : Con của vua Trisong Deutsen. Padmasambhava đã trao cho bà dòng
Đại Toàn Thiện có tên là Khandro Nyingtig. Cô chết lúc trẻ tuổi, sau đó Padmasambhava đã làm bà
sống lại. Khi cha cô hỏi tại sao một người có phước lớn vừa là
công chúa vừa là
đệ tử của
đạo sư Liên Hoa Sanh lại phải chết lúc còn
thiếu niên, Padmasambhava kể lại
câu chuyện cô đã là một con ong chích một trong bốn anh em trong
thời gian hoàn thành Đại Tháp Boudhanath. Pema Sal nghĩa là “Hoa Sen
Rạng Rỡ.”
PHÁP GIỚI (Dharmadhatu) : ‘Vũ trụ hiện tượng’ ; tánh Như trong đó
tánh Không và
duyên sanh không tách lìa nhau.
Bản tánh của tâm và
hiện tượng vượt khỏi sanh, trụ, diệt.
PHÁP TÁNH (Dharmata) :
Bản tánh bổn nhiên của tâm và
hiện tượng.
PHÁP THÂN (Dharmakaya) : Cái đầu tiên của
ba thân, không có bất kỳ tạo tác nào, như
hư không. “Thân” của những phẩm
tính giác ngộ. Cần được hiểu một cách
phân biệt theo nền tảng,
con đường và quả.
PHÁT TRIỂN VÀ
THÀNH TỰU : Hai
phương diện chính, “phương tiện và trí huệ” của
thực hành Kim Cương thừa. Xác định ngắn gọn,
giai đoạn phát triển nghĩa là
sự tạo tác
tích cực của
tâm thức trong khi giai đoạn
thành tựu nghĩa là an trụ trong
bản tánh không tạo tác của tâm. Cốt tủy của
giai đoạn phát triển là “tri giác thuần túy” hay “cái nhìn
linh thiêng,” nghĩa là
tri giác cảnh quan,
âm thanh và
tư tưởng như là hóa thần,
thần chú và
trí huệ. “Giai đoạn
thành tựu với
hình tướng,” nghĩa là các
thực hành yoga như là tummo,
nội nhiệt. “Giai đoạn
thành tựu không hình tướng” là sự
thực hành Đại Toàn Thiện hay Đại Ấn.
PHẬT TÁNH : Sự
giác ngộ toàn diện và tròn đủ không trụ trong
sanh tử lẫn
Niết bàn ;
trạng thái đã hết mọi
vô minh, cùng với
trí huệ nhìn thấu
bản tánh của sự vật như chúng là và
trí huệ thấu hiểu mọi
hiện hữu.
PHIỀN NÃO : Năm
độc tham, sân, si, mạn và
ganh ghét. Chúng
trói buộc, làm
phiền nhiễu, và
tra tấn tâm người. Sự kéo dài của các
phiền não này là một trong những
nguyên nhân chính của
sanh tử luân hồi.
PHƯƠNG TIỆN VÀ
TRÍ HUỆ :
Phật tánh được
đạt đến qua sự
kết hợp thống nhất các
phương tiện và
trí huệ. Trong
Đại thừa, đó là sự thống nhất của
Đại Bi và
Tánh Không, của
Bồ đề tâm tương đối và
Bồ đề tâm tuyệt đối. Trong
Kim Cương thừa,
phương tiện và
trí huệ là các
giai đoạn phát triển và
thành tựu. Theo các phái Kagyu,
phương tiện đặc biệt để chỉ cho “con đường phương tiện” là sáu
Giáo Pháp của Naropa và
trí huệ là “con đường
giải thoát,” tức là sự
thực hành hiện thực về Đại Ấn Mahamudra. Theo Dzogchen, “trí huệ” là cái thấy về
tính thanh tịnh bổn nhiên, tức là sự
thực hành Trekchoš để
thực chứng cái tâm của
giác ngộ trong một khoảnh khắc
hiện tại, trong khi “phương tiện” là
sự thiền định của cái
hiện tiền tự nhiên bổn hữu, tức là sự
thực hành Tošgal để làm sạch hết
nhiễm ô phiền não và an trụ qua đó thân cầu vồng được
thực chứng trong nội
một đời.
QUẢ : Kết quả, thường là sự
chấm dứt của một
con đường tâm linh. Một trong ba mức độ
giác ngộ của một
Thanh Văn,
Bích Chi Phật hay
Bồ tát. Trong
Đại thừa là
trạng thái Phật tánh hoàn toàn và tròn đủ ; trong
Kim Cương thừa là “trạng thái thống nhất của một
Kim Cương trì,” trong sách này
diễn tả như “25 thuộc tính của quả.” Xem “cái thấy,
thiền định, hành và quả.”
QUANG MINH (od gsal) :
Nghĩa đen là “thoát khỏi bóng tối
vô minh và có khả năng thông tỏ,
hiểu biết.” Hai
phương diện ấy là “quang minh trống không,” như bầu trời trong rộng mở, nó có
tính chất thông tỏ của
bản tánh của tâm ; và “quang minh
biểu lộ,” như là ánh sáng năm sắc,
hình ảnh vân vân.
Quang minh là
bản tánh không trộn lẫn
hiện diện khắp suốt mọi
sanh tử và
Niết Bàn.
RANGNANG /
KINH NGHIỆM CÁ NHÂN : để biểu trưng cho
kinh nghiệm giấc mơ, từ này đôi khi được dịch là “sự phóng ảnh của
cá nhân,” hay “tự biến.”
RIGDZIN GOŠDEM (1337-1408) : Nhà
khám phá kho tàng vĩ đại của
truyền thống Jangter. Trong các terma của ngài có các
giáo lý Dzogchen Kadag Rangjung Rangshar và
tác phẩm nổi tiếng Gongpa Santal. Năm lên 12 tuổi, ba lông chim kên kên mọc trên đầu, và thêm năm cái nữa vào lúc 24 tuổi. Ngài ra đi năm 71 tuổi giữa những dấu hiệu
kỳ diệu. Rigdzin Gošdem nghĩa là “Vidyadhara Lông chim Kên Kên.”
RINCHEN CHOK HỌ MA : Dịch giả
Tây Tạng sơ thời, trong bảy
tu sĩ Tây Tạng đầu tiên
thọ giới với Shantarakshita và là người nhận
chính yếu pháp môn Mạng Lưới
Huyễn Hóa của Mahayoga. Ngài được biết đã dịch
Tinh Túy của các
Bí Mật Guhyasamaja Tantra ; tantra
chính yếu của Mahayoga. Qua các lời chỉ dạy nhận từ Padmasambhava, ngài
đạt đến mức độ của một vidyadhara. Rinchen Chok nghĩa là “Ngọc Cao Cả.”
RINCHEN TERDZOŠ : “Kho tàng lớn các Terma quý giá,” một trọn bộ các terma quan trọng nhất của Padmasambhava, Vimalamitra, Vairochana và các
đệ tử thân thiết nhất của các ngài, gom lại bởi Jamgošn Kongtrušl Lošdroš Thaye với sự
cộng tác của Jamyang Khyentse Wangpo. Xuất
bản thành 63 bộ bởi Đức Dilgo Khyentse Rinpoche, New Delhi, có thêm vài bộ terma và
chú giải. Khakyab Dorje, vị Kamarpa thứ mười lăm, nói về nó bằng những lời sau : “ ‘Kho tàng lớn các Terma quý giá’ là
tinh túy của
đại dương giáo lý của chư Phật, tạng Vidyadhara
thâm sâu của Trường phái Dịch thuật Sơ thời.”
RONGZOMA (1012-1088) :
Pháp sư Rongzom, Choškyi Sangpo. Cùng với Longchenpa, ngài được xem là
học giả Nyingma
lỗi lạc sáng chói nhất.
SADHANA : “Các
phương tiện của
thành tựu.”
Nghi thức và
thủ tục Mật thừa để
thực hành, thường
nhấn mạnh giai đoạn phát triển. Kết cấu
tiêu biểu của sadhana gồm một phần
sơ khởi với
quy y,
phát Bồ đề tâm, phần chính có
quán tưởng một vị Phật và
trì chú, và một phần kết với
hồi hướng công đức cho tất cả
chúng sanh.
SAMADHI (định) : “Gắn liền với sự
tương tục của bình thản.” Một
trạng thái tập trung không phóng tâm hay sự đắm mình trầm tư mà trong bối cảnh
Kim Cương thừa có thể
ám chỉ đến hoặc
giai đoạn phát triển hoặc giai đoạn
thành tựu.
SAMANTABHADRA (
Phổ Hiền) : “Bậc
mãi mãi trọn hảo.” 1/
Phật Pháp thân nguyên thủy. 2/
Bồ tát Phổ Hiền là gương
tiêu biểu cho sự
thành tựu của một sự
cúng dường triển khai đến vô hạn.
SAMAYA : Các cam kết hứa hẹn, các điều luật hay cam đoan của
thực hành Kim Cương thừa.
Chính yếu, các samaya về bên ngoài cốt ở
duy trì một mối
liên quan hòa hợp với
đạo sư kim cương và các bạn Pháp và bên trong không
đi lạc ra ngoài sự
liên tục hành trì. Cuối của mỗi chương, chữ “samaya” đứng riêng là một
lời thề xác nhận rằng điều được nói là
sự thật.
SAMBHOGAKAYA : “Báo thân.” “Thân của sự hưởng thụ hoàn mãn.” Trong bối cảnh của “năm thân của Quả,”
báo thân là
hình thức biểu lộ phần nửa của chư Phật cùng với “năm sự hoàn hảo” là
đạo sư,
tùy tùng, nơi chốn,
giáo huấn và
thời gian mà chỉ bậc
Bồ tát địa thứ mười mới có thể
tri giác.
SAMYE : Một tổ hợp chùa chiền
kỳ diệu, làm theo kiểu
tu viện Ấn Độ Odantapuri,
xây dựng bởi vua Trisong Deutsen (790-844) và được Guru Rinpoche khánh thành năm 814. Một
trung tâm chính của sự
truyền bá đạo Phật ở
Tây Tạng lúc sơ thời. Nó nằm ở miền Trung
Tây Tạng gần Lhasa. Nó cũng có tên Ngôi Chùa Samye
Rực Rỡ, sự
Thành Tựu Tự Nhiên và
Bất Biến của những Nguyện Vọng
Vô Biên. Ba tầng của nó được vẽ theo các kiểu thứ tự là
Ấn Độ, Trung Hoa và
Tây Tạng.
SAMYE CHIMPHU : Một nơi
thiêng liêng thuộc ngữ của Guru Padma. Một chỗ
ẩn cư trên núi nằm cách Samye bốn giờ đi bộ phía trên Samye. Trong 12 thế kỷ qua nhiều
đại sư đã
thiền định trong các hang động của chỗ
ẩn cư này.
SANGYE LINGPA (1340-1396) : Một
tái sanh của người con trai thứ hai của vua Trisong Deutsen ; một Terton chính và là người
khám phá vòng Lama Gondu gồm 13 bộ. Sangye Lingpa nghĩa là “Điện thờ của
Giác Ngộ.”
SANGYE YESHE HỌ NUB : Một trong hai mươi lăm
đệ tử của Padmasambhava, ngài là người thọ nhận chính các
giáo lý Annu Yoga, Yamantaka của Mahayoga. Các vị thầy khác của ngài là Traktung Nagpo và Chogyal Kyong của
Ấn Độ, Vasudhara của Nepal, và Chetsen Kye từ xứ Drusha. Ngài viếng thăm
Ấn Độ và Nepal bảy lần. Khi hôn quân Langdarma định
phá hủy Phật giáo ở
Tây Tạng, Sangye Yeshe làm vua
kinh hãi bằng cách làm
hiện ra một con bò cạp khổng lồ dài bằng chín con trâu yak chỉ bằng một
cử động đơn giản của bàn tay phải. Vì thế, Langdarma không còn
can đảm để ngược đãi
Tăng già Kim Cương thừa. Tulku Urgyen được xem là một trong những
tái sanh của ngài. Sangye Yeshe nghĩa là “Trí Huệ Phật.”
SÁU
GIỚI HẠN : Những
quan điểm về quyền nghĩa và thực nghĩa, ngụ ý và không ngụ ý,
nghĩa đen và không phải
nghĩa đen. Cùng với “bốn cách kiểu,” chúng tạo thành các chìa khóa
cần thiết để mở ra
ý nghĩa của các tantra.
SÁU LOÀI
CHÚNG SANH : Trời, một nửa Trời (
A tu la), người,
thú vật,
ngạ quỷ và
địa ngục.
SÁU SIÊU
TRI GIÁC : Những khả năng làm các
phép lạ,
thiên nhãn,
thiên nhĩ, nhớ các
kiếp trước, biết tâm của người khác, và biết sự tận diệt của
phiền não nhiễm ô. (
thần túc thông,
thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông,
túc mạng thông,
tha tâm thông và lậu tậïn thông).
SẮC GIỚI : Mười bảy
cõi trời nằm trong
sanh tử gồm mười hai cõi của
Bốn Thiền (mỗi
Thiền ba cõi) và năm
Tịnh Cư Thiên. Một
trạng thái vi tế của
sanh tử giữa cõi Dục và cõi
Vô sắc, ở đó các
cảm giác ngửi, nếm và
tình dục vắng mặt. Các
chúng sanh có
thân thể bằng ánh sáng, sống lâu và không có
cảm giác đau đớn. Các
yếu tố xấu của
tâm thức như là bám
chấp không thể sinh ra.
SHAMATHA : “an trụ trong tĩnh lặng,” Chỉ so với Quán, sau khi
hoạt động của
tư tưởng đã lắng yên. Hay là sự
thực hành thiền định để làm yên lặng
tâm thức với
mục đích thoát khỏi sự
quấy nhiễu của
tư tưởng.
SƠ KHỞI : Các
sơ khởi tổng quát bên ngoài là Bốn
Hồi Tâm :
suy nghĩ về thân người quý giá,
vô thường và chết,
nhân quả của nghiệp, và
lỗi lầm của
sanh tử. Các
sơ khởi đặc biệt bên trong là Một Trăm Ngàn Bốn
Thời Thực Hành về
quy y và
phát Bồ đề tâm, trì tụng Vajrasattva,
cúng dường Mạn đà la, và guru yoga. Xem Ngọn đuốc của Xác Chứng (N. X. B Shambhala) và Cửa Lớn (N. X. B Ranjung Yeshe).
SUKHAVATI : cõi
Cực Lạc.
TA BÀ THẾ GIỚI (Saha world) :
Hệ thống thế giới chúng ta ; “Thế
giới Nhẫn nhục,” bởi vì nhữnng
chúng sanh ở đó
chịu đựng các khổ đau khó
gánh vác nổi. Saha cũng có
thể nghĩa là “Không phân chia” vì các nghiệp và các
phiền não, các nhân và các quả, thì không chia cách hay không khác biệt.
TAM BẢO :
Phật Bảo,
Pháp Bảo và
Tăng Bảo. Trong Ánh Sáng của
Trí Huệ (Shambhala), Jamgošn Kontrušl
giải thích : “Phật là
bản tánh của bốn thân và
năm trí, cùng với hai sự
thanh tịnh và sự
hoàn thành hai
lợi lạc. Pháp là cái được
biểu lộ, bày tỏ,
chân lý không bị
quy định của sự tịnh hóa
toàn diện gồm Diệt và Đạo và nó
biểu lộ hai
phương diện phát biểu và
chứng ngộ như là danh, lời và chữ của các
giáo lý. Tăng gồm
Tăng già đích thực, con cái của các bậc Chiến Thắng ở trong các địa với các phẩm chất của
Trí Huệ và
Giải Thoát, và
Tăng già tương tợ đang ở trên
con đường tích lũy và
con đường nối kết cũng như các bậc
Thanh Văn và
Duyên Giác cao cả.”
TÁM
GIÁO LÝ SADHANA : Tám vị
thần bổn tôn chính của Mahayoga và các tantra và các sadhana
liên quan : Thân
Văn Thù, Khẩu
Hoa Sen, Tâm Vishudha, Phẩm chất
Cam lồ,
Hoạt động Kilaya, Phép
giải thoát của các Hóa Thần Mẹ, Mantra
Dữ tợn, và Tôn thờ thuộc
Thế tục.
Thường thường tên
ám chỉ đến một
thực hành gồm các
mạn đà la phức tạp với nhiều hóa thần.
TÁM MỐI
QUAN TÂM THẾ GIAN : Sự
gắn bó với được, thích, khen ngợi, và
danh tiếng và sự
ác cảm với mất, khổ, chê bai, và
tiếng xấu.
TÁNH GIÁC BỔN NGUYÊN : Thường dịch như là
Trí Huệ. Sự thông tỏ nền tảng,
độc lập với mọi tạo tác của
tâm thức.
TANTRA : Các
giáo lý Kim Cương thừa được
đức Phật trao truyền qua
Báo thân của ngài. Nghĩa thật của tantra là “tương tục” tức là
Phật tánh nội tại, bẩm sinh.
Phật tánh này được biết như là “tantra của hiển nghĩa.” Nghĩa tổng quát của Tantra là các
kinh điển phi thường của Mật thừa, cũng là “tantra của hiển ngôn.” Cũng có thể
ám chỉ đến mọi
giáo lý “Quả” của
Kim Cương thừa như một
toàn thể.
TANTRA CHA : Một trong ba
phương diện của Anuttara Yoga đặt sự
nhấn mạnh vào
giai đoạn phát triển.
TANTRA MẸ : Một trong ba
phương diện của Anuttara yoga,
nhấn mạnh vào giai đoạn
thành tựu hay
Trí Huệ Bát Nhã. Đôi khi tương đương với Anu Yoga.
TẠO LẬP :
Sự tạo lập của thức.
Sự tạo ra
ý niệm, nó ở ngoài
bản tánh của tâm.
TAWA LONG-YANG : Một kho tàng về
phương diện Tantra Cha của
Đại Toàn Thiện
khám phá bởi Dorje Lingpa (1346-1405). Tawa Long-yang nghĩa là “Sự
bao la của cái Thấy.”
TÂM KHÍ (tâm-prana) : Prana ở đây là “khí nghiệp,” “gió nghiệp” và tâm là
tâm thức nhị nguyên của một người chưa
giác ngộ. Tâm và Khí
liên hệ chặt chẽ
với nhau.
TÂM YẾU : Trong tổng quát,
đồng thể với Phái Chỉ Dạy, phái thứ ba của Dzogchen.
Đặc biệt nó
ám chỉ đến Vòng
Thậm Thâm Vô Thượng của
Tâm Yếu, cái thứ tư trong bốn phân phái của Phái Chỉ Dạy theo sự
phán giáo của Shri Singha. Mọi dòng phái của Yếu Tính
Thậm Thâm đều qua Shri Singha và
tiếp nối ở
Tây Tạng qua các
đệ tử của ngài là Padmasambhava và Vimalamitra. Trong thế kỷ 14, hai dòng này đi qua
Rangjung Dorje, vị Karmapa thứ ba, và người bạn
Pháp thân thiết của ngài là Longchen Rabjam (1308-1363), vị sau
hệ thống hóa các lời chỉ dạy này trong bộ trước tác đồ sộ của mình.
Giáo lý Nyingtig cũng đã
xuất hiện qua nhiều
dòng truyền thừa khác ; ví dụ, mỗi terton chính đều
khám phá một vòng
độc lập của
giáo lý Dzogchen. Sự
thực hành Tâm Yếu thậm thâm còn
tiếp tục đến ngày nay.
TẤT CẢ NỀN TẢNG (alaya) : Nền tảng của mọi sự.
Căn bản của tâm và của
hiện tượng thanh tịnh hay
ô nhiễm. Từ này có nhiều nghĩa khác nhau theo các văn cảnh khác nhau và phải được hiểu cho
thích hợp. Đôi khi nó
đồng nghĩa với Phật tánh hay
Pháp thân, sự
nhận biết nó là
căn bản của tất cả
hiện tượng thanh tịnh ; đôi khi, như trong
trường hợp “căn
bản vô minh,” nó
ám chỉ một
trạng thái trung tính của tâm
nhị nguyên nó không được tánh Giác bổn nguyên bao trùm và như thế là
căn bản cho
kinh nghiệm sanh tử.
TENGAM : phòng chứa các vật thiêng.
TERMA : “Kho tàng.” 1/ Sự trao truyền qua các kho tàng được chôn dấu, phần lớn do Guru Rinpoche và Yeshe Tsogyal, để sẽ được
khám phá vào một thời điểm
thích hợp bởi một Terton, người
khám phá kho tàng, cho
lợi lạc của các
đệ tử tương lai. Nó là một trong hai
truyền thống chính của Nyingma,
truyền thống kia là “Kama.”
Truyền thống này được nói rằng sẽ còn
tiếp tục ngay cả khi
Luật tạng đã biến mất. 2/ Các kho tàng được cất dấu có nhiều loại, gồm bản văn,
pháp khí, di vật, và đồ vật
tự nhiên.
TERMA ĐẤT : Một sự
khám phá đặt căn cứ trên chất liệu
vật chất, thường trong
hình thức chữ viết dakini, một chày
kim cương, một bức tượng…
So sánh với “Terma tâm.”
TERMA TÂM : Một sự
khám phá trực tiếp từ trong tâm của một
đại sư, không cần có một chất liệu
vật lý. Các lời dạy được
khám phá theo lối này được “ươm trồng” trong “cảnh
giới không thể hủy diệt,” vào lúc vị
đại sư còn là một
đệ tử của Padmasambhava ở một
kiếp trước.
THANH VĂN : “Vị nghe, người nghe.”
Hành giả Tiểu thừa của lần
Chuyển Pháp Luân thứ nhất về
Bốn Thánh Đế bao gồm sự
chứng ngộ sự
đau khổ nội tại của
sanh tử, và nhắm vào sự thấu hiểu rằng không hề có một tự ngã
độc lập. Bằng cách
chinh phục phiền não, ngài tự
giải thoát,
đạt đến cấp độ Vào Dòng nơi
con đường thấy
chân lý (
Kiến Đạo vị),
tiếp theo là cấp độ
Một Lần Trở Lại chỉ phải
tái sanh một lần nữa, và cấp độ Không
Trở Lại, không còn sanh lại trong
sanh tử.
Mục đích cuối cùng là
trở thành một vị
A La Hán. Bốn cấp độ này cũng được biết như là “Bốn Quả của sự
tu hành tâm linh.”
THÀNH TỰU : 1/ (siddhi) : Sự
chứng đắc do
thực hành Pháp, thường được xem là sự
thành tựu tối thượng của
giác ngộ viên mãn. Nó cũng có thể có nghĩa là các
thành tựu chung, tức là tám
thành tựu thuộc về
thế gian như
thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, bay trên không, trở nên vô hình, kéo dài tuổi thọ, hay
thần lực biến hóa.
Tuy nhiên, các
chứng đắc nổi trội nhất trên
con đường là
từ bỏ,
từ bi,
đức tin không thể lay chuyển, và sự
chứng ngộ cái thấy đúng. Xem thêm “các
thành tựu tối thượng và
bình thường.”
2/ (sgrub pa) : Xem “tiếp cận và
thành tựu.”
THÂN
KIM CƯƠNG : Thân
con người, trong đó các kinh mạch
vi tế giống như cơ cấu của một chày
Kim Cương.
THÂN NGƯỜI QUÝ GIÁ :
Gồm có tám sự
tự do và mười sự
giàu có. Những sự
tự do không sanh vào trong tám chỗ mất
tự do (
bát nạn) :
ba cõi thấp, một vị trời sống lâu, có nhiều
tà kiến, một người
hoang dã, một người câm, hay sinh vào một
thời đại không có chư Phật. Những sự
giàu có là năm từ mình và năm từ người khác. Năm
giàu có từ chính mình là : được làm người, sinh ở nơi
trung tâm, đầy đủ các căn, có
đời sống không hư hỏng và
chánh tín. Năm
giàu có từ người khác là : một vị Phật ra đời, vị ấy dạy Pháp, các
giáo lý còn lại, có các
đệ tử, và các (vị thầy) bi mẫn làm
lợi lạc cho người.
THÂN YẾU TÍNH (kaya yếu tính) : Thường được kể như thân thứ tư, và
cấu tạo sự thống nhất
ba thân. Jamgošn Kongtrušl định nghĩa nó như là
phương diện của
Pháp thân nó là “bản tánh của mọi
hiện tượng,
tánh Không vắng dứt mọi tạo tác và có
tính cách thanh tịnh bổn nhiên.”
THẦN CHẾT : 1/ Một nhân cách hóa của
vô thường và
định luật nhân quả bất di dịch. 2/ Thần có tên này là một trong
bốn Ma. Xem “Mara.”
THẦN CHÚ MỘT TRĂM ÂM :
Thần chú của Phật Vajrasattva gồm một trăm âm.
THẤY,
THIỀN ĐỊNH, HẠNH VÀ QUẢ : Sự định hướng về
Phật tánh, hành động làm quen với nó – thường là
thực hành ngồi thiền, sự
thực hiện cái thấy ấy trong các
hoạt động đời sống hàng ngày, và kết quả
cuối cùng từ sự
tu hành như trên. Mỗi thừa của chín thừa đều có cách định nghĩa riêng về cái thấy,
thiền định, hạnh và quả.
THIÊN NỮ TENMA : Mười hai
Thiên nữ Tenma là các
hộ pháp nữ quan trọng của dòng Nyingma, vừa một nửa
thế gian, một nửa
trí huệ.
THIỀN ĐỊNH : Trong bối cảnh
tu hành Mahamudra và Dzog-chen,
thiền định là hành động làm quen dần với, hay
duy trì liên tục cái thấy hiểu về
Phật tánh của
chúng ta như một
vị đạo sư có
thẩm quyền đã trực chỉ. Trong bối cảnh
học hỏi,
tư duy và
thiền định (Văn, Tư, Tu) nó có nghĩa là hành động thâu hóa các lời dạy vào trong
kinh nghiệm cá nhân, rồi làm quen dần với chúng qua
thực hành.
THIỆN CĂN : Một
việc làm tốt ; một phút giây
từ bỏ,
đại bi hay
lòng tin. Các
thiện nghiệp tạo ra
trong đời này hay các đời trước.
THỪA NHÂN VÀ QUẢ : Các
giáo lý của
Tiểu thừa và
Đại thừa nhìn các sự
thực hành của
con đường như là các
nguyên nhân để
đạt được quả
giải thoát và
giác ngộ, còn
Kim Cương thừa lấy quả như là
con đường bằng cách nhìn nhận
Phật tánh là vốn có trong
hiện tiền và
con đường như là hành động khai mở
trạng thái nền tảng này.
Đại sư Longchenpa định nghĩa chúng như sau : “Các thừa Nhân được gọi như thế bởi vì
chấp nhận chuỗi nhân và quả, khẳng định rằng
Phật tánh đạt được bằng cách
tăng trưởng các phẩm tính của
bản tánh của Phật, nó chỉ
hiện diện như một
hạt giống,
xuyên qua hai
sự tích lũy. Các thừa Quả được gọi như thế bởi vì
xác nhận rằng nền tảng cho sự tịnh hóa là
bản tánh của Phật đã sẵn đủ mọi phẩm tính, nó vốn
hiện diện như là một
sở hữu tự nhiên trong tất cả
chúng sanh, như
mặt trời vốn sẵn các
tia sáng ; rằng các đối tượng của sự tịnh hóa là những
nhiễm ô tạm thời của tám
sự tích tập (của tám thức), giống như bầu trời (tạm thời) bị mây che ; và rằng người ta
hiện thực cái quả của sự tịnh hóa, cái
bản tánh bổn nguyên đang
hiện tiền, bằng vào các
con đường của sự
chín muồi và
giải thoát. Ngoài cái này ra, không có sự khác biệt nào giữa
hai thừa về trình tự hay phẩm chất.”
THỪA QUẢ : Như là
Kim Cương thừa. Xem
chi tiết ở “thừa nhân và thừa quả.”
THƯỜNG LUẬN :
Niềm tin rằng có một
đấng sáng tạo thường hằng và không
nguyên nhân của mọi sự ;
đặc biệt, tin rằng
bản chất hay
tâm thức của
con người có một yếu
tính cụ thể nó là
độc lập, thường tồn và riêng biệt.
TÍCH TẬP (accumulation) : Lương thực cho
con đường. Xem “hai
sự tích lũy.”
TIẾP CẬN VÀ
THÀNH TỰU : Hai
phương diện của
thực hành sadhana,
đặc biệt, các giai đoạn trong giai đoạn trì tụng theo Mahayoga Tantra.
TỊNH CƯ THIÊN : Năm
cõi trời cao nhất trong mười bảy cõi của
Sắc giới. Chúng được gọi là “tịnh” vì chỉ có các bậc cao cả, những người đã
hoàn thành con đường thấy (
địa vị kiến đạo), mới có thể sanh ở đó. Sanh về đó là do sự
tu hành thanh tịnh Tứ Thiền tùy thuộc vào sự
tu tập này hoặc là hạ, trung, thượng, thượng thượng hay
tối thượng.
TORMA : Một dụng cụ dùng trong
nghi lễ Mật thừa. Cũng có thể
ám chỉ thực phẩm cúng cho
Hộ pháp hay các hồn linh
bất hạnh.
TRI GIÁC THANH TỊNH : Nguyên lý của
Kim Cương thừa : nhìn môi trường chung quanh như
cõi Phật, mình và người
như hóa thần,
âm thanh như
thần chú, và
tư tưởng như trò chơi
biến hóa của
Trí Huệ.
TRISONG DEUTSEN (790-844) : Vị vua Pháp vĩ đại thứ hai của
Tây Tạng, người đã mời Guru Rinpoche, Shanta-rakshita, Vimalamitra và nhiều vị thầy
Phật giáo khác trong đó có Jinamitra và Danashila. Trong cuốn
Tràng Hoa quý báu của Lapis Lazuli, Jamgošn Kongtrušl ghi ngày sinh của vua là ngày 8 tháng 3
mùa xuân năm Con Ngựa Đực thuộc Thủy (802). Các nguồn khác nói năm ấy là năm ngài
lên ngôi sau khi cha chết.
Cho đến tuổi mười bảy, ngài chủ yếu là cai trị vương quốc. Ngài
xây dựng đại
tu viện Samye làm theo kiểu chùa Odantapuri, lập
Phật giáo là
quốc giáo của
Tây Tạng, và trong thời ngài trị vì, các
tu sĩ đầu tiên được
thọ giới. Ngài
thu xếp cho những
pháp sư và những lotsawa dịch
vô số kinh điển, và
thiết lập nhiều
trung tâm tu học. Trong số các
tái sanh về sau của ngài có Nyang Ral Nyima OŠzer (1124-1192), Guru Chošwang (1212-1270), Jigmey Lingpa (1729-1798) và Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892).
TRÍ HUỆ : Trong cuốn sách này, từ này thường được dịch như là “tánh giác bổn nguyên.” Cũng có
năm trí huệ, những
phương diện chức năng của
Phật tánh :
trí huệ của
pháp giới,
trí huệ giống như gương (
đại viên cảnh trí),
trí huệ của
bình đẳng (
bình đẳng tánh trí),
trí huệ phân biện (
diệu quan sát trí) và
trí huệ thành tựu tất cả (
thành sở tác trí).
TROŠMA NAGMO : Một
hình tướng hung nộ màu đen của Phật Bà Vajra Yogini. Trošma Nagmo nghĩa là “Phu Nhân màu đen của sự Hung Nộ.”
TỰ NGÃ : Một
thực thể hiện hữu nội tại và
độc lập của ngã
cá nhân hay của
hiện tượng.
TỰ TÁNH : Xem “Pháp tánh.”
VAIROCHANA : Dịch giả vĩ đại sống trong thời trị vì của vua Trisong Deutsen. Trong bảy
tu sĩ Tây Tạng đầu tiên, ngài được gửi qua
Ấn độ học với Shri Singha. Cùng với Padmasambhava và Vimalamitra, ngài là một trong ba
đạo sư chính truyền Dzogchen vào
Tây Tạng.
VAJRADHARA : “Người nắm giữ chày
Kim Cương.”
Phật Pháp thân của các phái Sarma. Cũng để chỉ một vị thầy
Kim Cương thừa hay
Phật tánh trùm khắp.
VAJRADHATU
MẠN ĐÀ LA : Một sadhana quan trọng của Mahayoga gồm 42 hóa thần hòa ái.
VAJRAKAYA :
Tính chất bất biến của
Phật tánh. Đôi khi là một trong năm thân của
Phật tánh.
VAJRAPANI : “Vị mang chày
Kim Cương.” Một trong tám
Đại Bồ tát và là người sưu tập chính các
giáo lý Kim Cương thừa. Cũng được biết như là “Đức Thầy của những
Bí Mật.”
VAJRA TOŠTRENG : “Chuỗi
Kim Cương các đầu lâu.” Một tên của Padmasambhava.
VAJRAYANA :
Kim Cương thừa. Các
thực hành lấy Quả làm
con đường.
VIDYADHARA : “Người nắm giữ
trí huệ.” Người nắm giữ (dhara) hay mang
trí huệ (vidya) của Mantra. Một vị thầy
chứng ngộ trên một trong bốn cấp độ của
con đường Mật thừa của Mahayoga, tương đương với mười một cấp độ của Mật thừa. Một định nghĩa khác : Người mang
phương tiện và
trí huệ sâu xa, đó là
trí huệ về hóa thần,
thần chú và
đại lạc.
VIMALAMITRA : Một
đạo sư Dzogchen được vua Trisong Deutsen mời qua
Tây Tạng. Một trong ba vị Tổ của
giáo lý Dzogchen,
đặc biệt là Nyingtig, ở
Tây Tạng. Vimala-mitra nghĩa là “Người
Bà Con Không Khuyết Điểm.”
VIPASHYANA (Quán) : “Cái thấy
rõ ràng,
rộng rãi.” Thường để nói về
sự quán chiếu, thông tỏ về
tánh Không. Một trong hai
phương diện chính của
thực hành thiền định. Cái kia là Chỉ, shamatha.
VÔ MINH CÂU SANH :
Vô minh cùng có với
tự tánh của
chúng ta và
hiện hữu như là
tiềm lực cho
rối loạn sanh khởi khi gặp các
điều kiện thích hợp.
VÔ MINH NỀN TẢNG –
PHƯƠNG DIỆN VÔ MINH CỦA NỀN TẢNG,
đồng nghĩa với câu sanh
vô minh.
VÔ MINH THUỘC VỀ
Ý NIỆM : Trong
Kim Cương thừa,
vô minh thuộc về
ý niệm là cái tâm
hiểu biết chính nó như là chủ thể và đối tượng ; sự
suy nghĩ thuộc về
ý niệm. Trong Giáo thừa, nó có nghĩa là các cái nhìn
sai lầm do thêm vào, do “học” ; các
niềm tin sai lầm làm che chướng
bản tánh của sự vật.
VÔ SẮC GIỚI : Các nơi cư trú của
chúng sanh không
giác ngộ, họ đã
thực hành các
trạng thái thiền định vô sắc, trụ vào các tưởng :
Không Vô Biên, Thức
Vô Biên,
Vô sở hữu, Không Có Mặt cũng Không
Vắng Mặt (
phi tưởng phi phi tưởng). Những
chúng sanh ở trong bốn cõi
vi tế của
thiền định có tưởng đó nhiều kiếp rồi
trở lại các
trạng thái thấp của
sanh tử.
YAMANTAKA : Một
hình tướng hung nộ của
Văn Thù, biểu trưng
trí huệ hàng phục cái chết. Trong Tám Sadhana, ngài là Phật hung nộ của
Thân Thể Bộ. Yamantaka nghĩa là “Người Tàn Sát Yama,”
Tử Thần.
YESHE TSOGYAL : Các bản dịch khác nhau về
tiểu sử của bà cho nhiều
chi tiết khác nhau về sự sinh ra, tên và
cha mẹ. Trong cuốn “Đại Dương các lời Dạy
kỳ diệu làm
hân hoan các
bậc trí giả,” Guru Tashi Tobgyal
ghi nhận rằng cha bà tên là Namkha Yeshe họ Kharchen và bà sinh ở Drongmochey xứ Drak.
Ban đầu bà là một trong những hoàng hậu của vua Trisong Deutsen nhưng sau được vua
ban cho Padmasambhava làm người phối ngẫu
tâm linh. Trong
lễ quán đảnh truyền pháp “Hội chư Phật,” bông hoa
nhập môn của bà rơi vào
mạn đà la Kilaya. Qua sự
thực hành pháp môn này, bà trở nên có thể thuần phục các hồn linh ác và làm
sống lại người chết. Bà là người sưu tập chính của tất cả
giáo huấn vô số của Padmasam-bhava. Ở lại
Tây Tạng hai trăm năm, bà ra đi đến
cõi trời “Núi vinh hiển màu đồng đỏ” mà không để thân xác lại. Trong cuốn
Tràng Hoa quý giá của Lapis Lazuli, Jamgošn Kongtrušl nói : “Yeshe Tsogyal là
tái sanh trực tiếp của Dhatvishvari Vajra Yogini trong
hình thức một người
phụ nữ. Bà
phục vụ Padmasambhava
hoàn hảo trong đời ấy, dấn thân vào sadhana với một sự
tinh tấn không thể tưởng và
đạt đến mức độ tương đương với chính Padmasambhava, ‘sự
tương tục được
trang hoàng với thân, ngữ, ý, phẩm chất và
hoạt động đều vô tận’.
Lòng tốt của bà đối với xứ sở
Tây Tạng vượt quá tưởng tượng và
hoạt động đại bi thì không khác với sự
liên tục không ngừng nghỉ của Padmasambhava.” Yeshe Tsogyal nghĩa là “Đại Dương
Trí Huệ Vô Địch.”
YESHE YANG HỌ BA : Dịch giả
Tây tạng được
tiên tri bởi Padmasambhava, ngài là một thiền giả
thành tựu, có thể bay như chim đến các
cõi trời. Yeshe Yang nghĩa là “Trí
Huệ Du Dương.”
YẾU TÍNH,
BẢN TÁNH VÀ
CÔNG DỤNG : Ba
phương diện của
Như Lai Tạng theo
hệ thống Dzogchen. Yếu tính là
trí huệ bổn nhiên
thanh tịnh về
tánh Không.
Bản tánh là
trí huệ thông tỏ
hiện diện tự nhiên.
Công dụng là
trí huệ toàn khắp về
tính không thể
phân chia. Đây là, một cách
rốt ráo,
bản tánh của Ba Gốc,
Tam Bảo và
Ba Thân.
YIDAM : Một hóa thần và là một gốc của
thành tựu trong Ba Gốc. Yidam là một vị
thần bổn tôn ; một người
bảo vệ cho
cá nhân về sự
thực hành và đưa đến
giác ngộ. Theo
truyền thống,
thực hành yidam là
thực hành chính tiếp sau các
sơ khởi. Nó gồm hai
giai đoạn phát triển và
thành tựu và là một hòn đá để đặt bước đến, hay là một cây cầu đưa đến các
thực hành tinh tế hơn của Mahayoga và Dzogchen. Vào giai đoạn sau,
thực hành yidam là sự nâng cấp
hoàn hảo cho các
thực hành tinh tế này.
YOGA : 1/ Sự hòa nhập thật sự sự
học hỏi vào trong
kinh nghiệm cá nhân. 2/ Cái thứ ba của ba tantra ngoại : Kriya, Upa và Yoga. Nó
nhấn mạnh đến cái thấy hơn là hạnh và nhìn hóa
thần bổn tôn như cùng mức độ với chính mình.
YOGA :
Thực hành yoga : các
thực hành phụ thêm cho một tantrika để
thực hiện cái thấy của
Kim Cương thừa trong các
hoạt động ; ví dụ
như pháp môn Choš trong các nơi chốn
đáng sợ. Nó có thể
theo đuổi bởi một
hành giả đã rất
quen thuộc với cái thấy và
vững chắc trong
thiền định. Có mang hàm ý “hạnh cam đảm.”