1.
Phẩm Tựa
Thành
Vương Xá đất vui mừng chấn động
Trời
mưa hoa sen báu trải non xanh
Tướng
bạch hào suốt sáu nẻo vô minh
Chư
Bồ tát, thiên, nhân quỳ dưới bệ.
Nhập
tam muội trang nghiêm Vô Lượng Nghĩa
Diệu
pháp âm vang động đến muôn loài
Thấy
hằng muôn chư Phật cõi trời, người
Hiện
thân tướng đắp y vàng chuyển pháp
Lại
thị hiện Niết Bàn, xây bảo tháp
Như
ngàn xưa và mãi đến ngàn sau
Nước
một dòng xuôi chảy chẳng về đâu
Nhất
pháp giới - diệu tâm bình đẳng trí
Chỉ
một Tâm, cách chia vô tận ý
Vạn
trùng ba, động tịnh thánh khác phàm Thể
chung đồng, lưu chuyển một dòng tâm
Thoắt
nhìn lại, dưới chân là đất Phật.
Lòng
chiêm ngưỡng Thế Tôn, ngài Di Lặc
Cũng
như lòng đại chúng khởi sinh nghi
Lại
nghĩ rằng: quá khứ đã từng khi
Pháp
Vương Tử cúng dường vô số Phật
Liền
nói kệ: Đại-Văn-Thù-Sư-Lợi
Xin
lời ngài hóa giải mối nghi nan
Gió
đưa hương, cây ướp nụ chiên đàn
Hoa
trổ ngọc, thơm vàng từng sớ đất
Hào
quang hiện như hằng muôn ức Phật
Muôn
chúng sinh từ cõi nước A Tỳ
Trên
cõi trời hữu đảnh đến và đi
Sống
và chết cùng nghiệp duyên lành dữ
Đấng
Thánh Chúa - tiếng trầm hùng sư tử
Diễn
pháp âm tuyên nói nghĩa nhân duyên
Dùng
hằng muôn phương tiện dạy nhân, thiên
Chư
thánh chúng, Thanh Văn và Duyên Giác
Tôi
lại thấy như hằng sa Bồ Tát
Cầu
Phật thừa bố thí cả châu thân
Quên
vợ con, ngôi báu, ngọc nghìn cân
Bỏ
râu tóc, mặc pháp y cầu đạo
Thấy
Bồ Tát một mình vui lan nhã
Hoặc
núi sâu, rừng vắng thọ trì kinh
Hoặc
thấy người ly dục bỏ trọng khinh
Vào
thiền định đắc ngũ thông như ý
Tôi
lại thấy lại nghe muôn pháp vị
Dòng
kinh thơ xưng tụng đấng Pháp Vương
Tay
sen hồng nở búp lạy mười phương
Trí
nhật nguyệt, lòng Từ như biển rộng
Vui
nói pháp, lời kinh vang điệu trống
Lực
đại hùng phá dẹp lũ ma quân
Hoặc
tọa thiền, cung kính những Trời, Rồng
Vào
địa ngục phóng hào quang đưa lối
Tôi
lại thấy người uy nghi tịnh giới
Đang
kinh hành chậm rải, lá hoa tươi
Lòng
thênh thang trên mỗi bước chân vui
Trí
nhẫn nhục hằng cầu vô thượng đạo
Thấy
người trí như muôn vàn trân bảo
Luôn
cúng dường, gần gủi, nhiếp tâm tu
Lòng
xa lìa vướng bận oán ân sâu
Từ
muôn ức nghìn năm không loạn động
Tôi
lại thấy người cúng dường y phục
Hoặc
giường nằm, nhà báu gỗ chiên đàn
Cây
bốn mùa kết trái cúng dường Tăng
Suối
thơm mát, ao hồ xanh nước tịnh
Như
tiếng chạm của muôn vàn ngọc bích
Như
âm vang cùng tiếng gió đưa theo
Trên
lá kinh vi diệu, bậc tỳ khiêu
Đang
thuyết giảng mở khai lòng sanh chúng
Tôi
lại thấy người chứng như-thật-tướng
Pháp-không-hai,
nghìn thế giới cũng đồng
Trí
vô biên, muôn pháp một trời Không
Xa
mê đắm, cầu pháp vô thượng ý
Dựng
tháp báu, màn châu buông lụa quý
Trời
dâng hoa, người tấu nhạc cúng dường
Kết
tinh anh xá lợi, dấu Từ Tôn
Như
đóa ngọc trên mâm vàng cung kính
Thấy
cõi nước như hoa trời mở cánh
Xanh
mầm cây, Phật lực phóng hào quang
Ngài
Văn Thù! Xin giải mối nghi nan
Pháp
vi diệu hay là lời thọ ký?
Ngài
Văn Thù: Như chỗ ta xét nghĩ
Đã
từng phen chư Phật phóng hào quang
Đã
từng phen như mưa pháp đưa sang
Như
vô lượng A tăng kỳ thiện kiếp
Như
mưa pháp đến đi mà chẳng mất
Như
trống trời vang cõi nước vô thinh
Phật
hiệu là Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh
Thuyết
chánh pháp y sở cầu tùy thuận
Nói
tứ đế vì Thanh Văn thánh chúng
Nói
nhân duyên vì Duyên Giác Bích Chi
Bồ
Tát thừa, nói lục độ diệu vi
Một
pháp giới, một phổ-quang-như-trí
Và
như vậy, đến hai muôn đức Phật
Cũng
đồng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh
Đầy
đủ mười Phật hiệu, tướng tịnh thanh
Pháp
chư Phật trước sau đồng một vị.
Tám
vương tử thông minh và tài trí
Uy
đức cao, cùng thống lĩnh bốn châu
Nghe
vua cha thực chứng pháp thâm sâu
Bỏ
ngôi báu, vui xuất gia cầu đạo
Giữ
phạm hạnh làm pháp sư thuyết giáo
Tự
nghìn xưa từng gìn giữ căn lành
Chuyển
mê tình, thân, ý, bỏ đua tranh
Ví
đất mới ươm trồng hoa trái Phật
Đức
Thế Tôn nói kinh Vô Lượng Nghĩa
Liền
nhập vào chánh định tĩnh thân tâm
Đất
reo vui, sen báu ngát hư không
Các
đại chúng chắp tay hồng chiêm ngưỡng
Tướng
bạch hào phóng quang nghìn cõi nước
Khắp
mười phương tánh, tướng cũng chung đồng
Cõi
trời người thể, dụng nghĩa viên dung.
Trong
pháp hội có Diệu Quang Bồ Tát
Căn
bản trí, rạng ngời như ánh sáng
Phật
vì ngài thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Suốt
sáu mươi tiểu kiếp một bửu tòa
Tri
kiến Phật, không và thời dung nhiếp.
Ngài
Đức Tạng đủ đầy muôn sai biệt
Đức
vẹn toàn lợi lạc khắp nhân quần
Sẽ
tựu thành Phật quả hiệu Tịnh Thân
Phật
thọ ký, và nửa đêm nhập diệt.
Diệu
Pháp Hoa thọ trì hằng tiểu kiếp
Ngài
Diệu Quang giáo hóa tám người con
Vị
sau cùng là Phật hiệu Nhiên Đăng
Thắp
đuốc pháp chuyển Thức sang Thánh Trí
Cũng
như vậy, tám trăm người đệ tử
Có
một người pháp hiệu gọi Cầu Danh
Bởi
tham mê danh lợi, chẳng trì kinh
Thường
như Ý, duỗi rong lòng gió bụi.
Ngài
Di Lặc! xưa Diệu Quang Bồ Tát
Chẳng
người nào xa lạ, chính là Ta
Người
cầu danh, chìm đắm giữa trần sa
Qua
nhiều kiếp chuyển tâm là ngài vậy!
Ta
quán xét việc xưa, lòng hoan hỹ
Đức
Thế Tôn lại sẽ thuyết diệu kinh !
*
2.
Phẩm Phương Tiện
Xá
Lợi Phất! Từ Ta thành Phật đến nay
Dùng
phương tiện chỉ bày tri kiến Phật
Đức
thiền định, giải thoát vô ngại lực
Trí
cao siêu vi diệu khó nghĩ bàn
Bậc
nhị thừa, Duyên Giác hoặc Thanh Văn
Chỗ
chứng ngộ đều không đồng chư Phật
Một
pháp giới- tánh tướng đồng Như Thật
Tâm
nhất như nên cảnh cũng không hai
Nhân
và duyên, thể, tác, dụng không ngoài
Một
thật tướng- trước sau là Như Vậy.
Các
trời, người, chúng sinh hằng thế giới
Không
một ai lường được trí Như Lai
Không
ngôn từ, tướng mạo để chỉ bày
Chỉ
tâm Phật mới tỏ tường trí Phật
Các
Bồ Tát với lòng tin sâu chắc
Hoặc
môn đồ kiết sử đã trọn xong
Thọ
một thân sau cuối cõi trần hồng
Cũng
không thể đủ sức am hiểu Phật
Người
thế gian tất cả đồng chung sức
Như
hằng muôn Xá Lợi Phất luận suy
Hoặc
đến như mười cõi nước phương nầy
Cũng
chẳng thể suy lường ra trí thánh
Bậc
Duyên Giác, số đông như rừng hạnh
Sơ
phát tâm Bồ Tát số hằng muôn
Như
lúa mè, lau sậy khắp mười phương
Cũng
chẳng thể suy lường ra trí Phật
Trụ
bát địa bất thối tâm Bồ Tát
Đông
đầy như số lượng cát sông Hằng
Cùng
chung đồng luận giải hoặc biện phân
Cũng
chẳng thể hiểu tận tường Phật trí
Xá
Lợi Phất! Pháp nhất thừa khó nghĩ
Phật
mười phương phương tiện nói thành ba
Phá
chấp mê, biển ái khéo đưa qua
Khiến
thoát khổ, gọi Niết Bàn chứng đắc.
Trong
chúng hội chư Thanh Văn, Duyên Giác
Chư
tăng nhân, cư sĩ khởi lòng nghi
Phương
tiện kia, lời Phật khó luận suy
Niết
Bàn được chẳng phải là chẳng được?
Đấng
Đại Thánh! Trí ngài như mặt nhật
Gì
là nhân, là phương tiện, là duyên
Tự
khai bày thực chứng pháp vô biên
Con
từ trước chưa từng nghe hoặc thấy.
Tuệ
đệ nhất, con được lời Phật dạy
Con
cũng từ nơi kim khẩu Phật sinh
Nay
lòng nghi, không tin cậy trí mình
Khắp
đại chúng đồng chắp tay cung kính
Chuyển
Luân Vương dưới chân ngài cung thỉnh
Bậc
trời, người, chư Bồ Tát, Thanh Văn
Chư
tỳ khiêu, cư sĩ, quỷ và thần
Cùng
yên lặng một lòng nhìn Thánh Chúa.
Xá
Lợi Phất! Thôi chẳng nên nói nữa
Khắp
trời người, tất cả sẽ kinh nghi
Pháp
mười phương chư Phật bất tư nghì
Kẻ
chẳng nhận sẽ sa vào lỗi lớn!
Bạch
Thế Tôn, con là trưởng tử Phật
Người
như con số lượng đến hằng muôn
Đời
đời theo tham học đấng Từ Tôn
Cầu
lợi ích được nghe vi diệu pháp.
Ba
lần thỉnh, Ta vì ông giải đáp
Khéo
lắng nghe, suy nghĩ nghĩa cao siêu.
Trong
đạo tràng, năm ngàn vị tỳ khiêu
Cùng
cư sĩ, từ chỗ ngồi đứng dậy
Đãnh
lễ Phật lui về không trở lại
Đức
Thế Tôn yên lặng chẳng cản ngăn.
Phật
dạy rằng: Còn lại những hạt mầm
Hãy
nghe kỹ, Ta vì người giảng nói
Pháp
khó gặp ví như hoa linh thoại
Đúng
thời cơ mới trổ nụ, đơm bông
Bao
ngàn năm xuất hiện chỉ một lần
Lời
chư Phật nói ra không hư dối.
Chư
Phật hiện nơi đời, khai pháp hội
Giáo
hóa hàng Bồ Tát - chỉ Phật tâm
Thấy
thậm thâm Phật Trí giữa trầm luân
Nhập
tri kiến, vượt qua bờ sinh tử.
Thuở
quá khứ, nhất thừa phân bỉ, thử
Cũng
là dùng phương tiện dạy nhân, thiên
Cũng
là nương thí dụ, dựa nhân duyên
Đưa
thế trí chứng nhập vào Phật trí.
Phật
hiện tại, vị lai đồng một vị
Người
chuyên tu Duyên Giác hoặc Thanh Văn
Trí
nhị thừa chứng được tự an tâm
Không
quyết chí cầu trí Vô Thượng Giác
Kẻ
như vậy thuộc hàng tăng thượng mạn
Bởi
vì sao? Nếu thực chứng thâm sâu
Ví
như người La Hán thọ thân sau
Không
tin nhận lời Ta, không lẽ ấy.
Xá
Lợi Phất! Các ông suy gẫm kỹ
Cõi
mười phương thế giới ví hằng sa
Hai
thừa còn không có, huống chi ba!
Chín
tạng pháp vì chúng sinh tạm nói.
Giả
danh tự, dần đưa người lạc lối
Trụ
Phật thừa, định, huệ, lực trang nghiêm
Độ
chúng sinh thật-tướng-ấn làm nền
Chứng
vô thượng, pháp đại thừa bình đẳng.
Như
tiểu trí ví vẫn còn hữu hạn
Độ
một người Ta cũng đọa tham sân
Kẻ
chân tu trì giới giữ tịnh tâm
Nghe
pháp Phật dù chỉ trong bài kệ
Đều
thành Phật không nghi như nguyện thệ
Như
Ta xưa đã nguyện độ muôn loài
Kẻ
trí hèn không nhận chỗ lầm sai
Ta
biết rõ chưa từng tu cội phúc
Là
những kẻ còn đắm mê ngũ dục
Si
cuồng trong sáu nẻo chịu lầm than
Sa
vào ba đường dữ phải trôi lăn
Người
đức mõng vui trong rừng tà kiến
Hoặc
chấp có, chấp không, mê giả huyễn
Pháp
vọng hư giữ chặt chẳng xa lìa
Tâm
cống cao, ngã mạn nối đường mê
Nghìn
ức kiếp chẳng từng nghe danh Phật
Nghìn
ức kiếp chẳng từng nghe chánh pháp
Niết
Bàn kia chưa phải thực Niết Bàn
Ta
vì người phương tiện nói xa gần
Tánh
các pháp từ bản lai, rỗng lặng!
Người
hành đạo đời sau thành quả Phật
Chỉ
một thừa - phương tiện nói thành ba
Như
ngàn xưa, vô lượng kiếp đã qua
Bậc
đại thánh biết thế gian mê đắm
Dùng
phương tiện nương lòng người dẫn pháp
Nghĩa
nhất thừa, độ vô lượng quần sinh
Ví
như người tu phước tuệ đồng hành
Đều
cũng đã trọn tựu thành Phật đạo
Muôn
châu ngọc, xa cừ và mã não
Ngọc
mai khôi nghiêm sức tháp lưu ly
Hoặc
đến như gạch ngói, đất bùn lầy
Hoặc
đồng tử chơi đùa xây tháp cát
Cùng
như kẻ tạc hình dùng bảy báu
Hoặc
đồng, thau, chì, kẽm trộn bùn đen
Dựng
tượng hình, chạm trổ nét trang nghiêm
Tự
làm lấy hoặc bảo người làm lấy
Như
đồng tử trên đồng hoang chạy nhảy
Lấy
cỏ cây làm bút vẽ dung quang
Hoặc
như người dâng phướn lọng, tràng phan
Tấu
pháp nhạc với một lòng cung kính
Ví
như kẻ si mê tâm tán loạn
Cúng
dường nơi tượng vẽ một cành hoa
Hoặc
nghiêng đầu làm dấu lễ từ xa
Cũng
thấy được hằng muôn nghìn đức Phật
Cũng
thành tựu Như Lai Vô Thượng Giác
Độ
chúng sinh vô số nhập Niết Bàn
Như
lửa kia cháy hết củi tro tàn
Nam
Mô Phật tiếng vang từ tháp miếu
Phật
quá, hiện, vị lai đồng âm điệu
Một
Phật thừa, tức thành Phật, không hai
Pháp
duyên sinh, phương tiện giả lập bày
Thể
tánh Phật, ba thừa qui về một.
Như
núi lớn làm quách thành rường cột
Cá
hóa rồng nơi mỗi bước chân đi
Pháp
Như Lai rỗng lặng vượt thị phi
Có
hình tướng tất đồng như giả tướng.
Kẻ
mê chấp nghèo cùng luôn tham đắm
Vạn
ngã đường trôi dạt quẩn rồi quanh
Khổ
nối theo với khổ, sắc cùng danh
Như
trâu mến chiếc đuôi mang bùn đất
Không
lìa được vũng sình lầy ngũ dục
Đắm
mê trong bể ái tưởng là vui
Như
kẻ mù không thấy được mặt trời
Không
phước tuệ, thọ sinh rồi thọ tử. Trời
Đế Thích, Phạm Vương và thiên sứ
Cùng
hàng hàng quyến thuộc Tứ Thiên Vương
Các
cõi trời Tự Tại đến nghìn muôn
Đồng
cung kính chắp tay cầu chuyển pháp
Ta
tự biết pháp nhất thừa khó gặp
Lại
nhớ mười phương Phật tự nghìn xưa
Đã
tùy nghi phương tiện nói ba thừa
‘Nam
Mô Phật’, tiếng nhiệm mầu tĩnh lặng
Chư
Phật hiện khắp mười phương tán thán
Biết
hiện đời trược ác phải tùy duyên
Liền
đến thành Ba Nại gặp tỳ khiêu
Dùng
trí lực lần đầu tiên chuyển pháp.
Nay
thời tiết nhân duyên đà hòa hợp
Khai
tam thừa để hiển lý nhất thừa
Người
chậm căn, nhỏ trí, kẻ mạn nghi
Khó
tin nhận Phật thừa vi diệu pháp.
Đạo
vô thượng Ta dạy hàng Bồ Tát
Hàng
Thanh Văn sẽ thành Phật không nghi.
Ưu
Bát La trổ nụ đúng hạn kỳ
Vô
lượng kiếp khó một lần được gặp.
Vui
nghe pháp tức cúng dường chư Phật
Ngỏ
lời khen càng lại khó lắm thay!
Kẻ
trí kia ít thấy hiện cõi nầy
Hoa
khó nở, người lại càng khó gặp.
Đạo
nhất thừa, Ta là vua các pháp
Đã
nói lời chân thật, chớ hồ nghi.
Phải
biết rằng vi diệu pháp môn nầy
Là
bí yếu của ba đời chư Phật.
3.
Phẩm Thí Dụ
Lúc
bấy giờ tôn sư Xá Lợi Phất
Chắp
hai tay chiêm ngưỡng đấng Từ Tôn
Lại
bạch rằng: Khi tĩnh tọa ven rừng
Hoặc
dốc suối lúc kinh hành tự vấn
Đồng
pháp tính, chúng sinh tâm rỗng lặng
Duyên
cớ gì Phật độ pháp Tiểu Thừa
Con
từng theo thọ pháp thuở lâu xưa
Đã
chẳng được sánh cùng hàng Bồ Tát
Không
tự biết Phật cơ nghi nói pháp
Tự
trách mình dùng tiểu trí tiếp thông
Thân
Như Lai sáng đẹp sắc vàng ròng
Pháp
giải thoát, bất cộng và lực trí
Nhớ
xưa kia con làm thầy Phạm Chí
Phật
vì con diễn nói pháp Niết Bàn
Dứt
lòng mê thấy được pháp tức Không
Chấp
chỗ thấy- tự cho là chứng đắc
Nay
mới rõ Niết Bàn kia không thật
Giải
thoát môn chỉ một pháp - không hai
Lại
nghe rằng sẽ thành Phật vị lai
Nghe
tiếng Phật, ngỡ là ma giả nói
Tâm
an dịnh nghe Thế Tôn thuyết giải
Dùng
bao nhiêu thí dụ nghĩa phơi bày
Tiếng
Như Lai như lòng biển sớm mai
Như
vô lượng Thế Tôn dùng phương tiện
Vì
trí cạn chúng sinh mà quyền biến
Dẫn
dụ từ hữu thể đến hư vô
Một
nhất-chân-pháp-giới, một Phật Thừa
Con
nghe Phật, lưới nghi liền dứt bặt
Lời
của Phật, thiên ma không nói được
Lẽ
sâu xa, pháp vi diệu nhiệm mầu
Biết
tự mình sẽ thành Phật mai sau
Bánh
xe pháp nát nghiền bao thống khổ
Cõi
trời người pháp luân vô lượng độ.
Phật
dạy rằng: Nơi hai muôn ức Phật
Ta
xưa dùng phương tiện dắt dìu ông
Từng
theo Ta thọ pháp, nguyện vô cùng
Đã
quên mất, tự nói là diệt độ
Nay
Ta muốn nhắc cho ông nghĩ nhớ
Đạo
hạnh xưa và chí nguyện hóa hoằng
Cùng
như hàng Duyên Giác với Thanh Văn
Nên
thuyết giảng kinh Liên Hoa Diệu Pháp
Xá
Lợi Tử! Mai sau ông thành Phật
Trải
hằng muôn nghìn ức kiếp phụng trì
Hạnh
Bồ Đề vô lượng kiếp đến đi
Cõi
nước Phật có tên là Ly Cấu
Ngọc
lưu ly trải đường, cây bảy báu
Lưới
dây vàng nghiêm sức đất vô ưu
Tám
con đường giải thoát trí gồm thu
Tâm
chuyển động đại hòa cùng vạn hữu
Số
Bồ Tát hằng sa làm đại bửu
Nên
kiếp tên là Đại-Bửu-Trang-Nghiêm
Mỗi
lần đi hoa đỡ bước chân êm
Sức
thần biến đủ đầy muôn pháp hạnh
Hoa-Quang
Phật thọ mười hai tiểu kiếp
Và
nhân dân tám tiểu kiếp không ngoài
Phật
về sau thọ ký bậc tỳ khiêu
Ngài
Kiên-Mãn, Phật hiệu là Hoa-Túc
Pháp
trụ đời ba mươi hai tiểu kiếp
Lưỡng
Túc Tôn tối thượng khó ai bằng
Phật
là ông, nên phải tự vui mừng.
Lúc
bấy giờ cõi trời người tán thán
Lụa
trời bay, nhạc trổi điệu an vui
Hoa
cõi trời, sen báu lại đơm tươi
Liền
nói kệ: Xưa thành Ba La Nại
Chuyển
pháp luân lần đầu tiên diễn giải
Lần
nầy đây Phật chuyển đại pháp luân
Pháp
thâm sâu ít kẻ được tận cùng
Vô
thượng pháp nghe từ kim khẩu Phật.
Bậc
đại trí như ngài Xá Lợi Phất
Sẽ
tựu thành chánh pháp tạng Như Lai
Tất
chúng tôi tùy hỷ sẽ như ngài
Hướng
công đức được nghe và thấy Phật
Về
vô thượng chánh đẳng và chánh giác.
Áo
bày vai, gối hữu quỳ sát đất
Bậc
tôn sư Xá Lợi Phất bạch rằng:
Tự
thân con nay chẳng chút nghi lầm
Phật
chuyển pháp lìa sinh, già, bệnh, chết
Rời
chấp ngã, có, không, sinh và diệt
Chư
thánh tăng nghe pháp chửa từng nghe
Ắt
lòng nghi quả vị chứng được kia
Sánh
diệu pháp hôm nay dường có khác?
Phật
dạy rằng: Ta trước đâu chẳng nói
Các
Như Lai dùng thiện xảo quyền thừa
Pháp
nói ra dạy Bồ Tát đó ư?
Vô
lượng pháp triển khai đồng một vị.
Xá
Lợi Tử! Ví
người cha có vàng ròng, ngọc quý
Nhiều
ruộng vườn, tôi tớ kẻ vào ra
Đám
trẻ thơ chơi giỡn ở trong nhà
Nhà
tuy rộng nhưng cột rường xiêu đổ
Nền
móng đã từ lâu xưa nát rã
Vách
phên đều xấu xí đất bùn rơi
Tranh
lợp nhà tán loạn rách tả tơi
Chim
lót tổ, thứu, điêu nằm ngang dọc
Thêm
rắn rết, loài ngoan xà nọc độc
Phẩn,
giải, đàm bất tịnh chảy tràn lan
Ruồi
nhặng bu, cáo, sói với dã can
Cắn
nhai nuốt thây người hay đồng loại
Máu
loang đỏ, thịt xương tha bừa bãi
Chó
ốm nằm sợ mất giựt giành ăn
Tiếng
khóc than, gào thét chẳng khi dừng
Loài
quỉ mị, dạ xoa nhai nuốt trẻ
Khi
no dạ lòng lại thêm hung dữ
Cấu
xé nhau hoặc khủng bố làm vui
Đạp
trên đầu trên cổ vật và người
Thân
quỉ dữ trần truồng da đen đúa
Hoặc
có quỉ hình đầu trâu, mặt ngựa
Tóc
rối tung, đói khát, cổ bằng kim
Các
chim muông, ác thú cũng rình tìm
Uống
máu đỏ, ăn thịt hồng đồng loại
Như
bãi chiến cốt được, thua, phải, trái Mải
tranh giành cho máu đổ, thịt rơi
Tiếng
rên than chết lịm, tiếng reo cười
Nước
mắt nhỏ chảy xuôi vào bốn biển
Chốn
điêu tàn sinh ra rồi lại chết
Chết
rồi sinh tiếp nối mãi không thôi
Bóng
đêm che, mây phủ kín mặt trời
Cảnh
đổ nát bốc mịt mù ám khí
Đại
trưởng giả đứng nhìn rồi bổng thấy
Bốn
hướng nhà cùng một ngọn lửa cao
Nhà
rộng kia chỉ một cửa ra vào
Các
giống dữ chạy tìm nơi ẩn núp
Rường
cột gẫy, tiếng kêu la hoảng hốt
Lòng
hải kinh không biết chỗ thoát thân
Phước
đức kia quá mỏng lấy chi cân
Cảnh
hỗn độn lòng lại thêm hỗn độn
Lại
tranh đoạt, lại giựt giành ăn nuốt
Khói
tanh bay mù mịt một vùng trời
Trưởng
lão nhìn dường địa ngục. Than ôi!
Đàn
trẻ dại mải mê không sợ sệt
Chân
lỡ bước dạo chơi vào cõi chết
Lòng
đắm mê nào biết khổ là bao
Tâm
xót thương liền gọi: Hãy ra mau!
Các
con dại nhìn cha rồi chạy giỡn.
Lúc
bấy giờ người cha liền nghĩ tưởng Riêng
thân ta có thể thoát ra ngoài
Nhưng
các con thơ dại mải đùa vui
Nay
ta phải đặt bày ra phương tiện
Cứu
con trẻ đắm vùi trong lửa biển.
Lại
biết con trân quí các đồ chơi
Liền
gọi rằng: Con trẻ hãy nghe lời
Cha
có đủ các xe tùy ý thích
Xe
trâu trắng, dê vàng, hươu kéo ách
Cha
vì con mà sắm các xe nầy
Đủ
sắc màu, hình dạng đẹp lạ thay
Hãy
ra lấy kẻo về sau ân hận.
Bầy
trẻ dại nghe tiếng cha từ mẫn
Liền
mau chân chen lấn chạy ra ngoài
Nhìn
các con lòng trưởng giả mừng vui
Tâm
an ổn đến ngồi tòa sư tử.
Trẻ
liền thưa: Như lời cha hứa giữ
Xin
ban cho đủ các loại xe kia.
Xá
Lợi Tử !
Trưởng
giả giầu vô lượng, tiếc gì xe
Nào
gấm vóc, lụa là thêm trân bảo
Ngọc
xa cừ, lưu ly và mã não
Bạch
ngưu xa giăng lưới kết chân châu
Hoa
nở hồng cánh phượng ngọc tiên lầu
Lụa
trải bước chân hiền vui núi hạc.
Được
của báu lòng trẻ thơ an lạc
Tay
cầm cương dong ruỗi bốn phương trời
Cuối
đường mây trăng nở một vầng tươi
Đầu
non biếc bóng dương hồng dấu ngọc
Vàng
phiến lá mầm cây xanh mạch sống
Tím
hoàng hôn chim ngủ đợi mặt trời
Vẫn
nghìn năm suối chảy một dòng xuôi
Tờ
nước biếc vẽ hình trang vân cẩu.
Xá
Lợi Tử!
Người
trưởng lão có phải đà hư vọng
Cho
các con đồng một cỗ xe kia?’
Bạch
Thế Tôn, không!
Ví
như dùng phương tiện chỉ đường về
Người
trưởng lão quyết là không hư dối.
Phật
dạy rằng: Đúng như lời ông nói
Phật
là cha của tất cả thế gian
Đại
thần thông, trí lực khó nghĩ bàn
Vì
bi nguyện ứng thân vào tam giới
Nơi
cõi dục ngu si và tăm tối
Lòng
tham mê, đeo đuổi với tìm cầu
Thọ
thân người cùng khổ có gì vui
Mải
mê đắm lòng không hề kinh sợ
Trí
hèn kém biết đâu là bể khổ
Nếu
Như Lai dùng trí tuệ, thần thông
Tán
dương và khen ngợi pháp thậm thâm
Mười
trí lực cùng bốn vô sở úy
Tâm
chúng sinh biết đâu là Phật trí
Bởi
trong vòng bức não của thế gian
Ta
như người có sức mạnh vạn năng
Chẳng
dùng được, phải dùng lời khuyến dỗ.
Cánh
rừng hiểm chim khôn không làm tổ
Bến
sông mê người trí chẳng dừng chân
Cõi
thế gian mù mịt thiếu tuệ tâm
Pháp
vi diệu không thể liền lãnh hội.
Phật
phương tiện khiến chán lìa ba cõi
Hạnh
chuyên cần được đầy đủ tam minh
Đắc
lục thông vô ngại một lòng tin
Dùng
căn, lực, giác chi vào thánh đạo
Được
thuyền định, giải thoát môn vô lậu.
Xá
Lợi Tử!
Pháp
chư Phật, trước và sau không khác
Ta
vì người bảo nhiệm chẳng vọng hư.
Các
ông từ nhiều số kiếp có dư
Chìm
biển lửa hết sinh rồi lại tử
Làm
người khách phong trần quên bản xứ
Đến
rồi đi ai đếm được dấu hài
Ta
vì người chuyển pháp độ trần ai
Vượt
ba cõi, đoạn tuyệt đường sinh tử
Gọi
diệt độ mà chẳng là tịch diệt
Ta
vì người mê đắm sắc, danh thô
Nhắc
cùng người biển khổ chớ nằm mơ
Nguồn
cội khổ đến từ lòng tham dục
Dứt
vọng dục tức chặt cành, đốn gốc
Khổ
từ đâu mà có chỗ dựa nương
Đạo
tu hành không vọng tưởng, vấn vương
Gọi
giải thoát mà chẳng là tịch diệt
Vượt
tam giới, Thanh Văn thừa chứng đắc
Ngồi
xe dê là kẻ quyết tâm tu
Tịnh
sắc thân, giới hạnh sáng làu làu
Niết
Bàn mở chẳng lìa nơi định, huệ.
Hoặc
như kẻ mến ưa A lan nhã
Bầu
tiêu dao trăng sớm với sao khuya
Vẽ
đường mây tan hợp bởi nhân duyên
Cầu
trí-tuệ-tự-nhiên, tâm vắng lặng
Quả
chứng được gọi đó là Duyên Giác
Ví
như người cầu được chiếc xe hươu.
Người
đại bi cầu trí tuệ Như Lai
Tâm
quảng đại bày khai vô thượng giác
Vì
chúng sinh cõi trời, người độ thoát
Sắc
và Tâm nào có chỗ đến, đi!
Một
bầu Không- tất cả thế gian nầy
Là
Bồ Tát Đại Thừa Ma-ha-tát.
Xá
Lợi Tử!
Pháp
chư Phật cũng đồng là một tướng
Một
Phật thừa - một Phật trí vô biên
Pháp
tạng kia, các đấng Thánh ngợi khen
Là
chánh pháp chư Phật thường hộ niệm
Pháp
diệt độ đưa người vào tri kiến
Nhập
Phật thừa vào đại trí Như Lai
Đấng
Pháp vương tự tại hóa thân nầy
Vì
an ổn chúng sinh mà ứng hiện.
Người
tùy hỷ kính tin không thối chuyển
Thời
đã từng vô lượng kiếp cúng dường
Thời
đã nghe, đã gặp đấng Từ Tôn
Trong
quá khứ một lòng cầu thượng đạo
Ta
vì kẻ trí sâu mà thuyết giáo
Nói
đại thừa kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Ví
như người tiểu trí chẳng nhìn ra
Hàng
Duyên Giác, Thanh Văn không hiểu được
Sức
mẫn tuệ, như ông, Xá Lợi Phất!
Nương
tín tâm mà thấy pháp Như Lai
Bậc
nhị thừa tin kính Phật thuận lời.
Xá
Lợi Tử!
Với
kẻ lòng kiêu mạn lẩn biếng lười
Trí
ảo vọng, thân so đo chấp ngã
Hoặc
mê đắm buộc ràng trong ngũ dục
Chớ
vì ai mà diễn nói kinh nầy
Nếu
đem lòng khinh hủy với chê bai
Tất
đoạn tuyệt cả cội mầm Phật chủng
Kẻ
thấy người chép biên hay trì tụng
Lại
sinh lòng khinh tiện hoặc ghét ghen
Tội
báo kia ông hãy khéo lắng nghe
Khi
mãn kiếp sa vào A tỳ ngục
Vô
số kiếp lại ra vào lục súc
Đọa
làm thân chó ốm hoặc dã can
Bệnh
tật thêm đói khổ sống lang thang
Người
ghét bỏ gớm ghê cho đến chết
Vì
tội báo hoặc sinh làm lừa, ngựa
Hoặc
lạc đà thân mang kéo nặng nề
Dưới
lằn roi dù cực nhọc đi, về
Thân
đói khát, nhớ gì hơn cỏ, nước
Vì
tội báo hoặc đọa làm thân rắn
Thân
thể dài trườn bụng để bò thôi
Bị
các loài trùng nhỏ rúc máu tươi
Đau
đớn cả ngày đêm không ngừng nghỉ
Vì
tội báo sinh làm người thiếu trí
Sáu
căn đều ám độn lại lưng gù
Chân
lệch què, đui điếc, miệng tanh hôi
Bị
quỷ mị dựa vào thêm tật bệnh
Không
thuốc chữa, không một ai lưu ý
Biết
điều gì, chốc lát lại quên ngay
Tội
báo kia, hết họa gởi, tai bay
Phật
trụ thế cũng không hề được thấy.
Tai
thì điếc lại thêm tâm tà vạy
Thường
sinh ra chỗ biên địa, nạn tai
Trải
qua nghìn số kiếp sống lưu đày
Cõi
địa ngục đến thường như nhà ở
Hay
hờn giận vì ngã kia chấp chặt
Thân
hôi dơ, ghẻ lác lại tật nguyền
Tình
hẫy hừng dâm dục chẳng chừa kiêng
Những
tội báo kể bao giờ hết được.
Xá
Lợi Tử!
Vì
lẽ đó, đối với người vô trí
Chẳng
bao giờ nên diễn nói kinh nầy
Bởi
nhân kia quả đó rõ ràng thay.
Chỉ
nói pháp với những người trí tuệ
Lòng
cầu đạo, đức lành như sông bể
Đại
từ tâm nào biết tiếc chi thân
Vui
núi rừng xa lánh đám phàm nhân
Lòng
một đạo, trí bao la khiêm hạ.
Giữa
chợ đời biết vàng, thau, ngọc, đá
Một
tri âm là kinh pháp đại thừa.
Xá
Lợi Tử!
Trong
đại chúng lại có hàng Phật tử
Hoặc
tỳ khiêu vì trí tuệ khẩn cầu
Chắp
tay hằng cung thỉnh pháp thâm sâu
Chẳng
đại pháp, một lời không tụng đọc.
Kinh
đại thừa khác chi xá lợi Phật
Người
cầu kinh tức cầu Phật không xa
Nên
vì người nói Diệu Pháp Liên Hoa.
4.
Phẩm Tín Giải
Lúc
bấy giờ chúng hội lòng hoan hỷ
Hàng
Thanh Văn hớn hở chắp tay sen
Ngài
Tu Bồ Đề, Ca Diếp, Mục Kiền Liên
Đồng
đứng dậy, gối quỳ, đầu chấm đất
Lòng
cung kính ngước nhìn chiêm ngưỡng Phật
Lại
bạch rằng: Từ thuở nhiếp tâm tu
Tuổi
già nua mỏi mệt chỉ mong cầu
Tam
giải thoát, Niết Bàn là tự độ
Pháp
du hí thần thông nghìn cõi nước
Phật
dạy hàng Bồ Tát, chẳng để tâm
Phật
hôm nay thọ ký bậc Thanh Văn
Sẽ
thành tựu đỉnh cao vô thượng giác
Như
châu báu không tìm mà lại được
Như
pháp lành chẳng thấy, tự bày khai.
Ví
như người cùng tử sống lạc loài
Từ
thuở bỏ quê cha, mòn chân dạo
Thân
khốn khổ chỉ tìm cầu cơm áo
Bổng
một ngày trở bước lại quê xưa
Mây
muôn phương tan hợp tự bao giờ
Nước
sông cũ nghìn năm trôi chảy mải
Thương
con dại lòng cha hằng mong đợi
Tìm
khắp nơi chẳng thấy được con thơ
Nào
bạc vàng, châu ngọc chất đầy kho
Nào
gấm dệt, lụa thêu ai thừa hưởng
Khách
qua lại người đến từ muôn hướng
Dấu
ngựa xe, tôi tớ kẻ ra vào
Đường
biệt ly đâu chắn lối, ngăn rào
Mắt
dõi bóng nhạn thưa về tổ cũ.
Một
ngày nọ quá bước dừng bên cửa
Thấy
cha ngồi giường báu, ghế đỡ chân
Chuỗi
ngọc châu giá nghìn vạn nghiêm thân
Màn
lụa quý, lọng phan tàn gấm rủ
Hoa
trải lối, nước thơm dùng rưới đất
Bà
La Môn, Sát Đế Lợi bao quanh
Gã
nghèo cùng lo sợ rảo chân nhanh
Lòng
thầm nghĩ: Hẳn là vua, quan lớn
Chẳng
phải chỗ ta làm thuê, giúp mướn
Đổi
áo quần cơm hẩm với dưa rau!
Càng
nghĩ càng hoảng sợ cuống chân mau
Chạy
xa đến xóm nghèo cầu ăn mặc
Ông
Trưởng giả thấy con, mừng được gặp:
Đã
từ lâu mong mỏi đứa con nầy
Vàng
bạc và châu báu đó gia tài
Ta
hằng muốn gặp con trao truyền lại. Liền
sai người đuổi gấp theo áp tải
Gã
nghèo cùng kinh hoảng vội kêu lên:
‘Tôi
không hề xúc phạm đến người trên’.
Lòng
sợ sệt ngã xuống chân chết ngất.
Người
cha biết con mình tâm hạ liệt
Sự
bần cùng bức bách biết chi hơn
Vẻ
sang giàu làm khiếp sợ lòng con
Nên
lặng lẽ nghĩ tìm ra phương tiện
Liền
bảo rằng: Không cần người đưa đến
Để
mặc tình tùy ý nó ngược xuôi!
Gã
nghèo cùng mừng rỡ được như lời
Vội
đứng dậy chạy qua thôn xóm vắng
Người
cha liền sai hai người hầu cận Một
người lùn, một người chột đi theo
Gã
nghèo cùng tìm đến một thôn nghèo
Lân
la hỏi người gánh thuê, vác mướn
Áo
rách vai, đói nghèo đâu sức lực
Chỉ
còn đem ra bán chút hơi tàn
Cầu
cơm ăn, áo mặc cốt nuôi thân
Khổ
bức não lòng biết cầu chi khác.
Thân
chìm nổi biết đâu là địa ngục
Bốn
phương trời đâu rồi cũng lênh đênh
Như
cánh bèo trôi dạt kiếp bồng bềnh
Dòng
nước lũ xóa nhòa bao dấu vết.
Hai
người hầu đuổi theo liền bắt kịp
Nói
với người cùng tử: Nếu theo ta
Có
nơi làm, ăn ở cũng không xa
Chỉ
mỗi việc hốt phân, tiền gấp bội!
Gã
cùng tử tức thời quay trở lại
Trước
hỏi người giá cả việc hốt phân
Người
cha vừa thương xót, nửa lạ lùng
Từ
xa đứng nhìn con thân tiều tụy.
Cởi
chuỗi ngọc, đổi áo tơ vàng quý
Khoác
lên người chiếc áo vải thô sơ
Tay
cầm đồ nặng nhọc hốt phân dơ
Đến
gần chỗ người con và tôi tớ
Làm
dáng vẻ nghiêm trang cho người sợ
Lại
bảo rằng: ‘ Các ngươi phải siêng năng!’
Dùng
cách nầy để đến được gần con.
Biết
con dại ưa việc làm hèn kém
Chẳng
tin mình có trí tuệ như ta
Bảo
con rằng: ‘Ngươi chớ có đi xa
Ta
sẽ trả cho ngươi tiền công hậu
Các
vật dụng như bồn, thau, muối, gạo...
Tự
nhiên dùng tùy ý chớ ngại nghi
Hoặc
khi cần người giúp đở tùy khi
Ta
có thể vì ngươi cung cấp đủ
Ta
thấy ngươi việc làm không trể nãi
Không
nói lời oán thán hoặc bê tha Ta
đã già, tuổi tác cũng như cha
Ngươi
còn trẻ, giống như con ta vậy.’
Nói
dứt lời, đặt tên cho cùng tử
Và
tức thời gọi người ấy là con.
Hai
mươi năm thường quét lau, dẹp dọn
Hốt
phân dơ, giữ phận kẻ cùng đinh
Xong
việc rồi về lại mái nhà tranh
Các
tài vật không tự mình dám lấy.
Người
cha già một ngày kia có bệnh
Gọi
người con: ‘Tất cả của kho nầy
Chỗ
bạc vàng, châu ngọc chứa tràn đầy
Ngươi
phải biết rõ ràng như ta biết
Bởi
vì sao? Ta cùng ngươi không khác
Gắng
dụng tâm, chớ sơ sót mảy may!.
Gã
nghèo cùng nhận quản trị trong, ngoài
Tự
giữ phận nghèo hèn, tâm hạ liệt
Chỗ
kho báu, ngọc vàng đều rõ biết
Lòng
không hề dám nghĩ của riêng ta
Thời
gian dài gần gủi cạnh người cha
Tâm
trí gã dần trở nên thông suốt
Gã
cùng tử tự chê tâm ngày trước
Biết
rằng mình quản lãnh được kho tàng
Đến
một ngày Trưởng lão hội họ hàng
Giờ
sắp chết, tuyên nói cùng đại chúng:
‘Chư
liệt vị! Các ngài nên tỏ rõ
Người
nầy đây vốn chính thật con ta
Thuở
ấu thơ bỏ trốn khỏi quê cha
Thân
trôi nổi năm mươi năm không gặp.
Nơi
thành nầy nhân duyên tan lại hợp
Ta
gặp con giao phó lại gia tài’.
Người
con nghe cha nói rất mừng vui
Lòng
tự nghĩ không mong cầu mà được.
Bạch
Thế Tôn!
Ông
Trưởng lão đó chính là Đức Phật
Còn
chúng con là con của Như Lai
Lòng
tham mê chìm đắm bể trần ai
Tâm
ưa thích pháp Tiểu Thừa dụng lực
Nên
Phật dạy chúng con vô lậu đức
Dọn
phân dơ tức thanh tịnh thân tâm
Đức
Như Lai dùng phương tiện đến gần
Tâm
điều phục rồi mở bày đại trí.
Niết
Bàn chứng, chỉ một ngày giá trị
Mà
lại cho là đủ, chẳng cầu thêm
Tuổi
già nua, Bồ Tát pháp không kham
Không
ưa thích nhập Như Lai tri kiến
Trụ
pháp Không, chuyên cần như hạnh nguyện
Đắc
Niết bàn, tự biết hữu dư y
Thân
sau cùng, phiền não đã viễn ly
Như
đã thoát nạn tai từ ba cõi.
Như
của báu không cầu mà lại được
Như
kho tàng chẳng thấy lại vào tay
Nhân
giữ gìn tịnh giới hưởng quả nầy
Nay
mới thật là một A La Hán.
Nhớ
khi xưa Thế Tôn thường chê trách
Rằng
Thanh Văn ham thích pháp Tiểu Thừa
Cõi
thế gian như mộng há ghét, ưa
Tâm
vốn sạch có chi là chứng đắc?.
Lòng
đại bi trải hằng vô lượng kiếp
Ai
là người có thể đã đáp đền
Đức
vô biên độ thoát khắp quần sinh
Trí
vô thượng là vua trong các pháp.
Kẻ
thế gian biết đâu thân tướng Phật
Tâm
đại từ hóa hiện tướng phàm phu
Biết
rõ ràng căn tánh, sức tiếp thu
Đã
thành thục hay là chưa thành thục
Pháp
thế gian cũng không ngoài pháp Phật
Vì
cơ nghi phương tiện nói thành ba.
5.
Phẩm Dược Thảo Dụ
Lúc
bấy giờ Phật bảo ngài Ca Diếp
Công
đức kia khéo nói được, hay thay!
Như
vô biên công đức tạng Như Lai
Muôn
ức kiếp không tận cùng nói hết
Nầy
Ca Diếp! Các ông nên rõ biết
Đức
Như Lai là đấng Đại Pháp Vương
Trí
sâu xa dùng phương tiện xiển dương
Nhất
thiết trí là lời chư Phật nói.
Ta
là bậc không trụ nơi các cõi
Vì
nhân duyên hiện thân tướng hữu tình
Biết
cội nguồn, tâm ý của chúng sinh
Biết
pháp tánh như lòng tay mở, nắm.
Ví
cõi nước đại tam thiên muôn dặm
Từ
đất sinh muôn dược thảo diệu kỳ
Lá
hoa tươi lả ngọn đóa tường vi
Cỏ
xanh mướt tận chân trời trải gấm
Mây
giăng mắc tuôn mưa nhuần tưới khắp
Tánh
tướng mưa như-thật, chẳng phân chia
Màn
nước như thiên võng trắng sơn khê
Cây
mở lá, cỏ vươn mầm sống dậy
Đất
mềm nở sớ vàng ươm nhánh mới
Hoa
nghiêng tà rơi xuống hạt thiên châu.
Tâm
đại từ mưa pháp thấm ân sâu
Trổi
trống pháp vang rền ba cõi nước
Người
chưa độ thời làm cho được độ
Người
chưa an thời dạy pháp được an
Nhẩn
đến làm chứng đắc được Niết Bàn
Chưa
tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ
Nhất-thiết-kiến
là bậc như-thật kiến
Là
bậc tri, khai, thuyết đạo nhất thừa
Trí
gồm thâu trời đất kết nhân duyên
Pháp
giải thoát cam lồ đồng một vị.
Tâm
bình đẳng không sinh lòng thử, bỉ
Cũng
không tâm yêu ghét hoặc đắm tham
Vượt
ngoài vòng ràng buộc bởi ngại ngăn
Tuôn
mưa pháp tùy căn duyên lãnh thọ
Cõi
trời người Phạm Thiên Và Đế Thích
Chuyển
Luân Vương, ví dược thảo hạ căn
Chứng
Niết Bàn, khởi sáu pháp thần thông
Đắc
vô lậu, tam minh, tu thuyền định
Khi
đầu núi, khi ngang dòng suối tịnh
Khi
hài văn, khi gậy trúc vịnh ngâm
Pháp
nhị thừa Duyên Giác hoặc Thanh Văn
Ví
dược thảo bậc trung căn huyền nhiệm
Cầu
Thế Tôn như thái dương sáng đẹp
Một
lòng tin thành Phật quả không sai
Khép
tâm tu tinh tấn định trong ngoài
Ví
dược thảo bậc thượng căn siêu thoát
Hàng
Phật tử chuyên tâm nơi Phật đạo
Hạnh
Bồ Đề cũng là hạnh từ bi
Tự
biết mình là Phật chẳng còn nghi
Ví
tâm ấy như loài cây thuốc nhỏ.
Chuyển
thần thông, pháp luân vô lượng độ
Bất
thối tâm Bồ Tát cõi hằng muôn
Thường
vào ra, đi lại hóa nghìn thân
Ví
công đức như loài cây thuốc lớn.
Lời
chư Phật như nước mưa một vị
Tâm
chúng sinh tùy căn tính tiếp thâu
Ví
như cây lớn, nhỏ sức cạn, sâu
Mà
hấp thụ nước mưa đều sai khác
Pháp
chư Phật một tướng là giải thoát
Tướng
xa lìa, tướng vọng dục viễn ly
Y
như lời tu tập và hành trì
Được
công đức tự mình không hay biết.
Như
Lai rõ tâm chúng sinh sai biệt
Như
cây kia không tự biết chính mình
Đức
Như Lai dùng phương tiện thuyết minh
Pháp
ứng hợp tâm chúng sinh hóa độ
Nay
chính vì các ông Ta chỉ rõ
Bậc
nhị thừa Duyên Giác hoặc Thanh Văn
Chỗ
tu hành cứu cánh quả và nhân
Là
hạnh nghiệp của đại thừa Bồ Tát
Là
hạnh nguyện nhất chân- tu thành Phật.
6.
Phẩm Thọ Ký
Một
sớm sương tan nắng bạc bên trời
Linh
Thứu sơn mây dừng lại lặng im
Trong
tịch mặc Phật nhìn ngài Ca-Diếp
Dạy
lời rằng:
Trải
hằng muôn ức kiếp thọ trì kinh
Luôn
cúng dường chuyển đại pháp độ sinh
Thân
sau cuối là thân Quang Minh Phật
Kiếp
Đại Trang Nghiêm, nước tên Quang Đức
Thọ
mười hai tiểu kiếp trụ nhân gian
Đất
lưu ly, cây bảy báu thẳng hàng
Cõi
nước tịnh, dây vàng giăng lọng phướn
Chư
Bồ Tát số đông muôn nghìn ức
Gió
thơm hương, hoa trải đất vui mừng
Hàng
Thanh Văn vương tử số vô chừng
Dùng
thiên nhãn đếm cũng không cùng tận
Pháp
trụ thế đúng hai mươi tiểu kiếp
Đổi
qua thời tượng pháp cũng hai mươi
Pháp
tánh kia là Phật ở trong người
Nương
pháp tướng phát huy đồng pháp tính
Liên
kinh hội nở vàng hoa thanh tịnh
Cá
hóa rồng vượt thoát cửa long môn
Ngọc
ly châu rồng ngậm dưới cửu trùng
Sen
báu trổ đóa hồng tươi lầu nguyệt.
Nét
ngọc rạng dung quang ngời diễm tuyệt
Sợi
khói trầm thoang thoảng nếp minh y
Vòng
nguyệt luân gợn sóng nước phượng trì
Chư
thánh chúng đồng chắp tay chiêm ngưỡng
Liền
nói kệ: Lòng từ như biển lớn
Đấng
Pháp Vương trong dòng Thích Cồ Đàm
Nối
lời châu, kết ý ngọc thành âm
Xin
thấu rõ lòng con cầu quả Phật
Được
thọ ký như tắm dòng suối mát
Như
kẻ nghèo được dự tiệc cung vua
Chưa
dám tin ngồi được ghế Phật thừa
Lòng
mong đợi Phật ban lời quyết định.
Phật
dạy rằng: Một trời Không thanh tịnh
Tu-Bồ-Đề
sẽ thành Phật mai sau
Trải
hằng muôn nghìn ức kiếp thỉnh cầu
Bồ
đề hạnh đủ đầy dòng Bồ Tát
Tu
Bồ Đề thân cuối sau là Phật
Phật
hiệu là Đức Danh Tướng Như Lai
Làm
việc làm của Phật tức của người
Trí
Bồ Tát dùng trang nghiêm nước Phật
Cõi
nước tịnh nở bừng hoa chánh giác
Đất
lưu ly lầu gác lọng tàng che
Chuyển
pháp luân bất thối độ người mê
Tám
giải thoát, sáu thần thông như ý.
Phật
thuyết pháp, hàng trời, người hoan hỷ
Lắng
tâm nghe lời Phật đắc tam minh
Kiếp
tên là Hữu Bửu, nước Bửu Sinh
Phật
thọ lượng đúng mười hai tiểu kiếp
Chánh
pháp tạng trụ hai mươi tiểu kiếp
Đổi
qua thời tượng pháp cũng hai mươi.
Dựng
tháp vàng chạm trổ ngọc mai khôi
Lòng
cung kính cúng dường muôn ức Phật
Đệ
tử Ta là Ca Chiên Diên Tử
Thân
sau cùng thành Phật hiệu Kim Quang
Đại
biện tài, độ vô số thiên, nhân
Trí
tuệ Phật như ánh vàng tỏa rạng
Mười
cõi nước hằng hà sa Bồ Tát
Bậc
Thanh Văn vô lượng số trang nghiêm
Đệ
tử Ta là Đại Mục Kiền Liên
Bỏ
thân cuối gặp nghìn muôn ức Phật
Dựng
tháp báu, muôn lòng hòa pháp nhạc
Nhất
tâm cầu Phật đạo nở hoa thơm
Như
chiên đàn quyện gió pháp mười phương
Cõi
nước Phật có tên là Ý Lạc.
Đất
pha lê, cây vàng tươi phượng các
Vì
trời, người chuyển pháp dẹp mê đồ
Hàng
Thanh Văn, Bồ Tát đếm hằng muôn
Bốn
vạn kiếp pháp trụ nơi trần thế
Thời
tượng pháp cũng bốn mươi tiểu kiếp.
Nầy
hỡi các thiện nam và thiện nữ!
Năm
trăm người đệ tử của Thế Tôn
Đã
nhiều đời cùng Phật đạo gieo duyên
Ta
đều sẽ thọ ký lời thành Phật.
7.
Phẩm Hóa Thành Dụ
Lúc
bấy giờ Phật dạy hàng tăng chúng
Bất
tư nghì vô lượng kiếp xưa kia
Ví
như nghiền thành bụi đại tam thiên
Mỗi
một kiếp ví như từng hạt bụi
Nước
Hảo Thành, kiếp tên là Đại Tướng
Đức
Đại Thông Trí Thắng Lưỡng Túc Tôn
Thuở
lâu xưa diệt độ đếm hằng muôn
Ta
thấy suốt thời gian không chướng ngại
Phật
thọ mạng hằng sa vô lượng kiếp
Trải
tòa ngồi nhập định phá quân ma
Pháp
Phật mười tiểu kiếp chẳng hiện ra
Thân
bất động, tâm chìm sâu thiền định.
Trời
Đao Lợi cúng dường tòa gấm dệt
Rải
hoa trời mười tiểu kiếp thơm tươi
Điệu
trống trời trổi pháp nhạc hòa vui
Tri
kiến Phật dung thông vào thế giới
Vi
diệu lý, sự trùng trùng vô ngại
Thõng
đôi tay đi vào giữa chợ đời
Trăng
nghiêng vành, chim bỏ núi về chơi
Đóa
nhật nguyệt nở hoa vô thượng giác.
Sáu
cõi đất, mười phương trời chấn động
Mười
sáu người vương tử bỏ cung vua
Trăm
đại thần bái phục dưới bửu tòa
Nói
lời kệ: Thế Tôn uy đức lớn
Mười
tiểu kiếp nguyện lành, thân vô lượng
Cõi
trời người quy mạng đấng pháp vương
Tâm
phước điền như đại bửu trang nghiêm
Trí
vô thượng nguyện vì đời nói pháp
Kiếp
bèo nổi, cỏ bồng thân trôi dạt
Ví
mây xuôi bàng bạc gió bao mùa
Chân
non cao nước chảy đã xuân thu
Cuộc
chìm nổi, mấy cho vừa sức sóng.
Lúc
bấy giờ cõi Phạm Thiên rúng động
Ánh
vàng bay tỏa rạng mặt trời đông
Người
thấy người, hoa thấy lá cùng chung
Cứu-Nhất-Thiết
Phạm Vương liền nói kệ:
Ánh
sáng lạ ví chân nhân giáng thế
Hoặc
là trời đại đức đã sinh ra
Hoặc
pháp vương hóa hiện cõi Sa Bà Duyên
tướng lạ vốn xưa chưa từng có
Các
vị trời hứng hoa tươi đầy giỏ
Tìm
theo đường ánh sáng đến phương tây
Thấy
trên tòa Đức Trí Thắng Như Lai
Thấy
thánh chúng búp tay hồng chiêm ngưỡng
Lại
thấy cả mười sáu người vương tử
Nhiễu
quanh vòng thỉnh Phật chuyển pháp luân
Thấy
cõi trời các vị Phạm Thiên Vương
Đầu
đảnh lễ, hoa rải trên thân Phật
Tâm
cung kính nguyện cúng dường vương thất
Đức
Thế Tôn vô lượng đức trang nghiêm
Cõi
vô thường đà khó gặp thiện duyên
Thấy
được Phật, nương bóng từ tìm đến.
Trải
muôn kiếp bỏ tâm vui thiền định
Bỏ
tâm cầu an trụ cõi không hư
Cung
ngọc kia từ phước báu có dư
Nay
cung kính xin Thế Tôn thọ nạp.
Và
như vậy, các vua trời cầu pháp
Phật
ba lần tự tại chuyển pháp luân
Khổ
là đây, kiếp nối kiếp không dừng
Đây
khổ tập, đã đời đời giữ nắm
Đây
khổ diệt, dứt tham, sân, si đắm
Đây
là đường thoát khổ được an vui
Đây
nhân duyên tan hợp ngược rồi xuôi
Nhân
không thực, duyên kia nào có thực
Vô
minh khởi, dụng công và dụng lực
Sáu
ngã đường lưu lạc một lần đi
Ngó
sen xanh vướng vít sợi biệt ly
Tâm
vọng dục chia đôi bờ mong ngóng
Tự
nguyên lai, cảnh, tâm là hư vọng
Không
một người, không một vật ở trong
Như
băng tan, nắng nhỏ giọt sương hồng
Không
đến cũng không đi vì không thật
Tâm
rỗng lặng không buộc ràng một pháp
Đắc
tam minh, đầy đủ cả lục thông
Chư
Thanh Văn, thánh chúng số hằng muôn
Tám
giải thoát, sức định thiền vô ngại.
Lúc
bấy giờ, mười sáu người vương tử
Cùng
xuất gia làm những bậc sa di
Hằng
muôn người tùy hạnh nguyện quy y
Hai
vạn kiếp Phật thuyết kinh Diệu Pháp
Bậc
Thanh Văn và sa di Bồ Tát
Nghe
lời kinh tâm tương ứng thọ trì
Người
hằng muôn vạn ức khởi lòng nghi
Pháp
vi diệu khó một lần lãnh hội.
Tám
nghìn kiếp như mặt trời mở lối
Như
mây tan nguyệt chiếu một trời Không
Đã
mở bày tri kiến Phật nhất chân
Đại
thừa nghĩa vô thừa đại chánh giác.
Tất
cả pháp trước sau đều đồng nhất
Do
nhân duyên danh tự giả lập bày
Hư
vọng vì từ tác ý mở khai
Tánh
các pháp cũng đồng như Phật pháp.
Chẳng
thật có, lấy vật gì nắm bắt,
Chẳng
thật không, vì giả hợp giả tan.
Muốn
phá trừ, tiêu diệt - nhọc công tu
Đây
chấp thiện, kia chấp là chẳng thiện.
Chấp
pháp Phật mà cho là giải thoát
Tạo
quách thành giam giữ bởi mê tâm
Bồ
đề không là vật, lấy chi cầm
Lấy
chi giữ mà cho là chứng đắc.
Tâm
đại bi tức không sinh niệm ác
Tâm
đại từ tức thấy một, không hai
Một
tấm lòng không chấp chặt trong, ngoài
Thiền:
vô ngã. Định tức là vô trụ.
Lúc
bấy giờ Thế Tôn vào tam muội
Trong
tám muôn bốn nghìn kiếp định thiền
Như
việc làm sau cuối đã trọn xong
Nhân
duyên Phật ra đời nay đã nói.
Mười
sáu vị sa di khai pháp hội
Cũng
đồng thời thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Chúng
sinh muôn vạn ức ví hằng sa
Được
lợi ích, phát tâm vô thượng giác.
Từ
tam muội, Phật Đại Thông Trí Thắng
Ngự
trên tòa dạy khắp các thiên, nhân
Các
sa di Bồ Tát tịnh thân tâm
Thuở
quá khứ cúng dường vô số Phật
Hạnh
thanh tịnh, thọ trì tri kiến Phật
Vì
tâm từ ứng hiện dạy chúng sinh
Hàng
Thanh Văn, Bồ Tát phát tâm tin
Nên
gần gủi, kính tin như kính Phật
Người
tin nhận sẽ tựu thành chánh giác
Hội
nhập vào được trí huệ Như Lai.
Đức
Thích Ca lại bảo các tỳ khiêu
Mười
sáu vị sa di nay là Phật
Nước
Diệu Hỉ, Phật hiệu là A Súc
Hơn
một nghìn cõi nước ở phương đông.
A
Di Đà, Phật ngự cõi trời tây
Vị
mười sáu, Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chẳng
quá, hiện, vị lai làm chỗ lập
Với
xứ và không xứ chớ sinh tâm
Nhân
duyên kia, tự tánh cũng là Không
Bồ
Đề Phật, không cảnh và không tướng.
Chính
vì vậy, trải hằng muôn cõi nước
Ta
lại làm Đức Phật khác tánh danh
Cũng
có người trước đã chẳng nghe kinh
Nay
gặp Phật, khởi cầu Như Lai trí.
Mở
đường Phật- đó gọi là đại thí
Ví
như người chỉ chỗ dấu kho tàng
Chốn
hoang vu, gió cát cũng lầm than
Sức
mòn mỏi, chân buông đường vạn dặm.
Thân
cùng khổ, hang sâu và hố thẳm
Trí
hoang mang, lòng đã muốn quay chân
Người
đưa đường ngẫm nghĩ chạnh lòng thương
Liền
đưa đến một tòa thành dừng nghỉ.
Người
mỏi mệt thấy quách thành vừa ý
Vào
trong thành an ổn chẳng muốn ra
Biết
nơi chôn châu ngọc hãy còn xa
Người
đưa lối giục đoàn người thức dậy.
Các
tỳ khiêu! Đức Như Lai cũng vậy
Biết
chúng sinh tâm khiếp sợ đường dài
Lòng
mến ưa pháp nhỏ với tầm tay
Chí
hạn hẹp, khởi công liền muốn được.
Khi
ném bát giữa dòng trôi nước ngược
Nước
chảy xuôi thì khó nhọc chi công
Niết
Bàn kia, phương tiện dạy tùy tâm
Chớ
nắm giữ mà cho là đã đủ.
8
& 9 Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký,
Thọ
Học Vô Học Nhân Ký
Mãn-Từ-Tử,
bậc biện tài đệ nhất
Lắng
nghe từ kim khẩu Đức Như Lai
Nhân
duyên kia muôn kiếp cũng là đây
Tự
mình tạo rồi tự mình thọ nhận.
Đảnh
lễ Phật, gối quỳ, đầu chấm đất
Mắt
chẳng rời chiêm ngưỡng nét dung nghi
Lòng
nghĩ rằng: Hy hữu! Hy hữu thay!
Trí
thánh chúa vì chúng sinh quyền biến.
Công
đức Phật mở bày ra phương tiện
Tùy
thuận theo chủng tính của thiên, nhân
Chiếc
lá dương vàng úa, tưởng vàng cân
Trí
huệ Phật không ngôn từ diễn nói.
Phật
dạy rằng: Người biểu dương chánh pháp
Đạt
ngôn từ vô ngại thuở lâu xưa
Phú-Lâu-Na,
trì tụng pháp nhị thừa
Như
phương tiện độ hằng muôn thánh chúng.
Trụ
pháp Không, được tứ vô sở úy
Hạnh
Bồ Đề đầy đủ bậc thần thông
Giáo
hóa người làm đại bửu nghiêm thân
Tịnh
cõi Phật, tức tịnh tâm người vậy.
Kiếp
Bửu Minh, nước tên là Thiện Tịnh
Hạnh
viên thành, Phật hiệu Đức Pháp Minh
Cõi
nước kia vô lượng đại tam thiên
Cây
bảy báu, ngọc châu làm lầu các.
Đường
trần-thế bụi hồng pha áo bạc
Lối
thiên-tiên cỏ biếc điểm hài xuân
Đất
ngó trời, sông núi giải phù vân
Thân
tùy ý thọ sinh như biến hóa.
Vui
nghe pháp, tâm an trăng thiền tọa
Bậc
Thanh Văn, Bồ Tát số khôn cùng
Chốn
già lam lại tùy hạnh làm Tăng
Pháp
trụ thế trải hằng vô lượng kiếp.
Kiều-Trần-Như,
khi xưa vườn Lộc Uyển
Ngộ
khách trần chứng được quả Thanh Văn
Đã
nhiều đời nghe pháp, ứng hóa thân
Lìa
sắc tướng là tịnh tu phạm hạnh
Không
tham tiếc tâm an vui thiền định
Không
chán lìa sinh tử gọi chân tăng
Không
thế tình, không ngã cũng không nhân
Đắc
vô ngã, thân tức là đạo vậy!.
Chánh
trì giới là trì vô trụ giới
Thân
đã không thì tất cả cũng không
Quán
tánh Như của sắc, thấy Phật thân
Chẳng
chấp sắc đó gọi là bố thí.
Đệ
tử Ta- một nghìn hai trăm vị
Sẽ
tựu thành Phật quả, hiệu Phổ Minh
Lúc
bấy giờ các vị đại tỳ khiêu
Tâm
hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy
Áo
bày vai, gối quỳ, đầu mặt lạy
Tự
trách rằng: Chẳng khác gã say kia,
Đêm
rượu tàn, châu buộc áo mang về
Thân
khổ nhọc, chân mòn đường gió bụi.
Ngày
gặp lại, người bạn nhìn tự hỏi
Ngọc
xưa trong vạt áo vẫn còn đây
Trân
bảo kia vốn có, chẳng rời tay
Không
tự biết, chọn sống đời du tử.
Phật
trong thân - như đá kia dấu ngọc
Như
sen vàng khép cánh dưới bùn đen
Như
tượng vương tiếng rống động tam thiên
Như
sư tử cuộn mình, chân dõng dạc
Cổng
rừng thiền ai cài liềm trăng bạc
Am
tranh xưa ai đóng cửa thành băng
Ân
lão bà, ngọn đuốc hóa Phật đăng
Pháp
thân hiện ánh vàng tươi biển lửa
Thọ
sinh thân, đại ân và đại nghĩa
Đại
tâm từ kiên cố độ chúng sinh
Năng,
sở không- chẳng tử cũng chẳng sinh
Không
sinh tử, hỏi ai lìa sinh tử.
Lúc
bấy giờ người trong dòng Thích tử
Ngài
A-Nan là thị giả xưa nay
La-Hầu-La
là pháp tử Như Lai
Cùng
đứng dậy dưới chân quỳ đảnh lễ
Liền
bạch rằng: Quen lời kinh, tiếng kệ
Pháp
Như Lai trì niệm thuộc nằm lòng
Một
lần nghi bảy chỗ hỏi tìm Tâm
Xót
trí cạn dạy Lăng-Nghiêm-tam-muội
Ngày
gặp Phật giữa bụi vàng trần giới
Thấy
báu thân thanh tịnh tựa lưu ly
Nương
bóng từ, lìa ái dục quy y
Nay
dưới bệ mong chờ lời thọ ký.
Lúc
bấy giờ hai nghìn người đệ tử
Đồng
chắp tay chiêm ngưỡng đấng Thế Tôn
Phật
dạy rằng: Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương
Là
Phật hiệu sau nhiều đời thọ pháp
Phật
thọ lượng muôn A tăng kỳ kiếp
Chánh
pháp và tượng pháp cũng hằng muôn
Cõi
Phật tên là Thường-Lập-Thắng-Phan
Kiếp
được gọi là Diệu-Âm-Biến-Mãn
Phật
mười phương ngợi khen công đức tạng
Thương
chúng sinh nên thọ mạng dài lâu
Gieo
nhân duyên Phật đạo, đất thành châu
Lưu
ly trải chân người theo dấu Phật.
Quỳ
dưới bệ, sơ-phát-tâm Bồ Tát
Tám
nghìn người nghe Phật khởi lòng nghi
Lại
nghĩ rằng pháp Phật bất tư nghì
Nhân
duyên lạ, Thanh Văn nay thành Phật.
Phật
dạy rằng: Ta siêng tu chánh pháp
Thuở
lâu xưa thời Đức Phật Thông-Vương
A-Nan
ưa học rộng, thích cú chương
Thông
pháp tạng của ba đời chư Phật
Do
bản nguyện giáo hóa hàng Bồ Tát
Nguyện
lực thành Phật lực cũng do Tâm!.
Ngài
A-Nan nghe Phật khởi vui mừng
Lòng
chợt nhớ nghìn muôn đời quá khứ
Từng
theo Phật, từng hộ trì chánh pháp
Ứng
thân làm thị giả của Như Lai.
Lại
dạy rằng: Vô lượng kiếp vị lai
Làm
pháp tử của hằng muôn chư Phật
Lòng
cầu đạo sẽ tựu thành chánh giác
Phật
hiệu là Đức Đạo-Thất-Bảo-Hoa
Chí
tâm tu, hạnh kín La-Hầu-La
Người
trần thế khó lòng nhìn rõ được.
Cõi
trang nghiêm là quả vô lượng đức
Chánh
pháp và tượng pháp cũng vô biên.
Lúc
bấy giờ Phật lại bảo A-Nan
Nghìn
Phật tử hữu học và vô học
Sẽ
thành Phật, thọ mạng đồng một kiếp
Đồng
hiệu là Phật Bảo-Tướng Như Lai
Sức
thần thông phương tiện độ muôn loài
Mười
phương Phật đồng diệu âm viên mãn.
10.
Phẩm Pháp Sư
Lúc
bấy giờ ngài Dược Vương Bồ Tát
Mắt
không rời chiêm ngưỡng đấng Pháp Vương
Linh
Thứu sơn xanh bóng lá cành dương
Áo
thánh chúng nhuộm hường tia nắng sớm
Phật
dạy rằng: Nầy Dược Vương Bồ Tát!
Cõi
trời, người và vô lượng thiên, nhân
Vua
cõi trời, thần biển, chúa loài rồng
Kẻ
phạm hạnh tại gia và tăng sĩ
Càn
thát bà, A tu la, ngạ quỷ
Hoặc
Bích Chi, Duyên Giác và Thanh Văn
Lắng
lòng nghe dòng kệ chẳng kinh tâm
Sinh
một niệm kính tin và tùy hỷ
Đạo
vô thượng Ta vì người thọ ký
Sẽ
tựu thành Phật quả, chẳng nên nghi
Người
ngày sau trong hải hội liên trì
Cho
đến kẻ nhiều đời không gặp Phật
Người
trì tụng, soạn biên dày công đức
Bút
thơm hương, phiến lá chép kinh hoa
Phải
biết rằng vô lượng kiếp lâu xa
Đã
gặp Phật và đã nghe diệu pháp
Muôn
nghìn kiếp cúng dường vô số Phật
Ngôi
cõi trời đổi mấy dặm nhân gian
Nếu
có lời nhắn hỏi: Phật xa, gần?
Thì
phải biết những người kia là Phật
Nguyện
Bồ Tát viên dung vô lượng đức
Tùy
hạnh duyên làm thiên sứ Như Lai
Sinh
vào đời để rộng nói kinh nầy
Bỏ
nghiệp báo thọ sinh nơi đất tịnh
Cõi
trần lụy được trời, người cung kính
Lòng
trì kinh như châu báu nghiêm thân
Ví
như người trí cạn lại mê tâm
Trước
mặt Phật thường buông lời vô lễ
Đọa
ác đạo, song tội chưa đáng kể
Sánh
với người khinh thị kẻ trì kinh
Phải
biết rằng người tham dục, vô minh
Không
hiểu được chỉ một dòng kinh nói
Bởi
vì sao?
Nơi
ngũ uẩn lại chấp làm nguồn cội
Nương
vào dòng sắc, thọ, khởi sinh tâm
Ví
như người nghe diệu pháp cao thâm
Ở
trước Phật thường chắp tay hoan hỷ
Lời
tán tụng như vàng ròng, ngọc quý
Sẽ
kết thành phước báu cõi mai sau
Sánh
với người khen ngợi chỉ một câu
Kẻ
trì niệm kinh Liên-Hoa-Diệu-Pháp
Được
phước báu muôn nghìn lần sai khác
Lại
dạy rằng: Lời Phật nói xưa nay
Kinh
Pháp Hoa là mật ngữ Như Lai
Kẻ
phàm tánh khó tin và khó nhận
Phật
tại thế- kẻ tham sân si hận
Còn
đem lòng oán ghét nghĩa kinh nầy
Huống
chi rằng như hạt đọng sương mai
Giọt
tinh túy đất trời ai biết quý
Vào
biển pháp uống dòng cam lồ vị
Phải
biết rằng sâu, cạn chẳng do kinh
Cõi
không hư cao, thấp cũng tự mình
Con
ngỗng chúa biết gạn dòng sữa ngọt
Chán
sinh tử cầu Niết Bàn giải thoát
Diệt
tham sân chấp thanh tịnh Bồ Đề
Chia
hai đường bến tỉnh khác sông mê
Lòng
tơ tưởng bên kia là bỉ ngạn
Trí
bát nhã đâu xa vô thượng giác
Tâm
đại từ người có khác chi ta
Thấy
người mê như cánh khép nhụy hoa
Tri
kiến Phật trước sau đồng một vị
Nầy
Dược Vương! Sau Như Lai diệt độ
Người
hành trì, ghi nhớ Pháp Hoa kinh
Hoa
trên tòa sen bát ngát lá xanh
Phật
và Thánh ngự chung ai người rõ
Vầng
nhật nguyệt châu trời soi lối ngõ
Hộ
niệm người như khoác chiếc minh y
Nếu
có người đọc tụng hoặc hành trì
Chợt
thấy được tờ kinh vi diệu pháp
Đó
là chỗ nên xây lầu, dựng tháp
Cúng
dường kinh bằng bảy báu trong tâm
Nên
hiểu rằng kinh pháp chính Phật thân
Đâu
bận trí tìm cầu thêm xá lợi
Người
cầu đạo Pháp Hoa kinh mở lối
Cũng
là đường trực chỉ đến Phật tâm
Người
chưa từng trì tụng luống uổng công
Nếu
tự nhận tu hành Bồ Tát đạo
Bởi
vì sao?
Pháp
quyền thừa, kinh là phương tiện xảo
Ví
như người đào giếng đất khô cằn
Phải
gắng công trì chí đến được gần
Lớp
đất ướt rồi đến dần mạch nước
Cũng
không khác, người tu hành kém phước
Chưa
từng nghe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa
Phải
biết rằng chánh đạo hãy còn xa
Chân-thật-tướng
trải tòa vô thượng giác.
Pháp
vi diệu Phật dạy hàng Bồ Tát
Khi
nghe qua lòng kinh sợ, nghi nan
Nếu
là người tu pháp hạnh Thanh Văn
Phải
nên biết là kẻ tăng-thượng-mạn.
Nếu
là bậc sơ phát tâm Bồ Tát
Cũng
sinh lòng sợ sệt lẫn kinh nghi
Lại
dạy rằng: Về những kiếp sau nầy
Ai
người sẽ nói Liên-Hoa-Diệu-Pháp?
Nầy
Dược Vương!
Người
thiện hạnh lòng từ không khác Phật
Vô-sở-y
nhưng y ở từ tâm
Không
tông môn nhưng bi, trí làm nhân
Vô-sở-trụ
nhưng trụ tâm chư Phật
Tâm
Phật ấy cũng gọi là nước Phật
Nhà
Như Lai là rường cột đại bi
Người
thuyết kinh nhẫn lực phải thuần trì
Một
chữ Nhẫn mười phương chư Phật hiện.
Là
áo pháp đại hòa nghìn thế giới
Từ
hữu vi cho đến bậc vô sinh
Từ
tam hiền đến cùng khắp thánh nhân
Đạt
nhẫn địa tức khoác y của Phật
Đoạn
sinh tử, cảnh, tâm không có thật
Cộng-phàm-phu-như-thật-đà-la-ni
Sắc
rỗng không, tịch tĩnh chẳng đến, đi
Thân,
sợi khói trên đỉnh trầm nghi ngút
Không
chấp pháp, nhân duyên là giả lập
Không
chấp danh vì tánh, tướng dung thông
Pháp
phàm phu và Phật pháp đều Không
Nói
Thường tức như hư không bình đẳng.
Chẳng
ngã cũng chẳng nhân là chánh mạng
Giác
tánh Không tức tòa báu Bồ Đề
Tòa
Như Lai không giác cũng không mê
Thắng-nghĩa-đế
không có gì để được.
Lại
dạy rằng: Nầy Dược Vương Bồ Tát!
Người
đời sau thuyết Diệu-Pháp-Liên-Hoa
Thấy
hóa-nhân các cõi dưới pháp tòa
Tin
nhận pháp do uy thần Phật lực
Thấy
được Phật hiện thân muôn cõi nước
Thấy
trời, rồng cung kính chắp tay nghe
Chim
nhớ rừng, mây nhớ núi xuôi về
Vầng
nguyệt xuống lồng dưới khe róc rách.
11.
Phẩm Hiện Bảo Tháp
Sớ
đất vỡ chia hai bờ hư thực
Ngọn
tháp thiêng lòng đất nứt hiện ra
Trụ
giữa trời, hương trầm ngát đưa xa
Tàng
lọng kết chân châu thơm mã não
Cung
Đao-Lợi rải hoa tươi bảy báu
Nhạc
cõi trời tấu nhã điệu reo vui
Tuyệt
ly ngôn diệu lý ứng nên lời
Từ
tháp báu chuyển viên âm tán thán
Hy
hữu thay! Thích Ca Mâu Ni Phật!
Thánh
trí kia bình đẳng giọt mưa sa
Vì
trời, người thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Lời
chư Phật trước, sau đều chân thật.
Quỳ
gối hữu, Đại-Nhạo-Thuyết Bồ Tát
Bạch
Thế Tôn! Xin Ngài nói nhân duyên
Nguyên
do gì tháp hiện trụ thanh thiên
Tiếng
vi diệu vọng vang từ bảo tháp?
Phật
dạy rằng: Hỡi nầy, Đại Bồ Tát
Thuở
lâu xưa nghìn cõi nước Đông phương
Có
nước tên Bảo Tịnh - đấng pháp vương
Phật
Đa-Bảo, đã phát lời thệ nguyện
Tháp
bảy báu tán dương công đức hiện
Chứng
minh lời kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Thân
Như Lai đồng thấy ngự bửu tòa
Nghe
chánh pháp khắp mười phương tùy hỷ.
Đại-Nhạo-Thuyết
! Thật như ông đã thấy
Cùng
đã nghe lời tán thán diệu kinh
Liền
bạch rằng: Nay cung kính cầu xin
Khiến
chúng hội được nhìn thân cổ Phật
Phật
lại dạy: Nguyện lời xưa sâu nặng
Rằng:
Người sau muốn thấy được thân Ta
Các
phân thân vị Phật thuyết Pháp Hoa
Khắp
các cõi đồng hồi quy một chỗ.
Đại-Nhạo-Thuyết
!
Thân
phân hóa ở mười phương Phật độ
Sẽ
như lời hội nhập một thân Ta
Nói
dứt lời, từ tam muội phóng ra
Vầng
ánh sáng giữa chặng mày trí tuệ.
Rừng
thêm lá, mây xuôi về bốn bể
Cõi
trời Đông, nghìn cõi nước hiện ra
Đóa
tường vân về lại kết bửu tòa
Tiếng
pháp nhạc gần xa lồng bóng nắng
Sợi
tơ bay, lụa trời phơi sắc thắm
Đất
pha lê, hoa kết ngọc làm đèn
Vô
số hàng Bồ Tát cõi nhân, thiên
Thuyết
chánh pháp phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Lúc
bấy giờ khắp mười phương hóa Phật
Phóng
hào quang về cõi nước Diêm Phù
Rừng
thơm hoa, suối nước chảy như reo
Đào
chen mặt đất, gió theo áo người
Sao
về dự hội ven trời lại nở
Đại
tam thiên hội nhập một ứng thân
Là
đại hòa - thân, cảnh với Phật tâm
Là
cùng khắp - tam thân quy về Một.
Cõi
thuần
tịnh, không thiên đường, địa ngục
Tạng
hư không, Tánh và Tướng tương đồng
Ngọn
Diệu Cao, nhìn lại một bầu Không
Tam
thế giới, cũng trong vầng mây bạc.
Nước
sông xanh bản lai nguyên diện mục
Chiếc
lá vàng, vạn thủy hóa thiên sơn
Sao
giữa trời, hạt ngọc nở cành dương
Vầng
trăng bạc, hồ trường xanh nước tịnh.
Cõi
nước Phật hư không đồng một vị
Tâm
Bồ Đề lìa tất cả sở duyên
Không
nhiễm ô tức gọi tánh Tịnh thuyền
Trụ
Vô Tướng là hư không thực tướng
Đức
Thích Ca từ chỗ ngồi đứng dậy
Phóng
hào quang thân trụ giữa không hư
Đưa
cánh tay hoàng ngọc ấn đại từ
Mở
cửa tháp- Pháp Thân Đa-Bảo Phật
Như
tiếng động mở trời và dựng đất
Như
cung huyền uyên mặc gợn âm thinh
Như
tiếng vang tháo mở cổng đại thành
Như
sóng vỡ reo vui dòng xuân thủy
Cửa
tháp báu mở tuôn ân đại trí
Thấy
toàn thân Đức Đa-Bảo Như Lai
Đã
như từ vạn kỷ hiện thân nầy
Áo
bách- nạp trầm hương đưa gió thoảng
Đức
Đa-Bảo phát diệu âm tán thán
Hy
hữu ! Hy hữu thay ! Đức Thích Ca !
Ta
vì nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Từ
kim khẩu thuyết ra mà ứng hiện.
Vầng
trăng ngọc nghiêng vành như tàng nguyệt
Phấn
xuân bay dìu dịu rải hoa thơm
Chia
nửa tòa, chư Phật ngự trời không Ba
thân Phật- một sắc thân hội tụ.
Như
tự tánh, ai người không gồm đủ
Tự
thân nầy- tam Phật ngự bên trong
Tự
tâm nầy- tam Phật một dòng chân
Thể
tánh Phật không từ ngoài cầu được.
Đức
Đa-Bảo, Pháp-Thân-Thanh-Tịnh-Phật
Muôn
pháp từ nơi tự tánh hóa sinh
Như
triêu dương lồ lộ bóng ngọc quỳnh
Như
vòng nguyệt băng tâm ngời trí tuệ.
Vọng
niệm khởi ví thay hình, đổi thể
Tà
tâm sinh thì pháp Phật chẳng sinh.
Quy
y tự tâm giác lưỡng túc tôn
Phật
là Giác, lìa sắc, tài - lưỡng túc.
Pháp
là chánh, xa lìa tâm ái dục
Tịnh
là Tăng, không sinh khởi nhiễm ô
Tam
quy y tức tam bảo tự tâm
Về
tự tánh là quy y chơn Phật.
Niệm
niệm sinh chia ngã đường thiện, ác
Tướng
là hai mà thể tánh là Không
Tánh
toàn chân, pháp pháp tự chung đồng
Thể
toàn tịnh, tức báo thân viên mãn.
Nơi
thân nầy hóa ra thiên bách ức
Một
niệm sinh tức hóa hiện một thân
Tấm
lòng trong, hoa nở nụ thiên cung
Tà
ý khởi, hóa thân làm quỷ dữ.
Vô
phân biệt niệm chân như thường trụ
Biết
vô sinh tức nhập tánh Di Đà
Đá
hóa vàng, phàm hóa thánh đâu xa
Quy
niệm giác, trí sinh, thân ứng hóa.
Nương
thánh trí thấy tâm nào xa lạ
Trí
và tâm, tâm trí cũng không hai
Dòng
phân lưu biển rộng gặp sông dài
Tâm
tạp niệm trí hóa ra phàm trí.
Lúc
bấy giờ chúng hội lòng hoan hỷ
Nhìn
Như Lai ứng hiện giữa hư không
Lòng
ước mong Phật dụng lực thần thông
Đưa
thánh chúng lên ngồi tòa sư tử
Tâm
khởi niệm nguyện được liền như ý Lời
Thế Tôn phó chúc cõi Sa bà
Ai
là người tuyên diệu nghĩa Pháp Hoa
Nay
đúng lúc chuyển pháp âm tối thượng.
Đấng
Thánh Chúa diệt độ hằng vô lượng
Nay
hiện thân hy hữu cõi nhân gian
Người
trì kinh tức niệm niệm cúng dàng
Tam
thân Phật một dòng kinh kỳ diệu.
Ví
như người thuyết muôn kinh bất liễu
Hoặc
đưa tay dời đổi ngọn Tu Di
Dùng
ngón chân khuấy động cõi Đại Thiên
Thuyết
ngàn pháp trên cõi trời hữu đỉnh
Tay
nắm hư không lên đèo, xuống vịnh
Quả
đất nầy để trên một ngón chân
Cất
thân bay đến tận cõi Phạm Thiên
Cũng
không phải là việc làm khó được
Gánh
cỏ khô đi vào trong biển lửa
Được
an toàn cũng chẳng phải khó thay
Hoặc
như người trì tụng pháp Như Lai
Các
tạng pháp vì độ người diễn nói
Người
nghe pháp được thần thông vô ngại
Đắc
ngã không chứng thánh quả không nghi
Không
khó bằng người có thể phụng trì
Pháp
Hoa tạng sau khi Ta diệt độ.
Nầy
hỡi các thiện nam và thiện nữ!
Nếu
các ngươi có chí nguyện hành trì
Hãy
nói lời thuần thiện trước Như Lai
Kẻ
như vậy thật là người trì giới
Là
mắt tuệ bỏ đường mê, ngõ tối
Đuốc
soi đường cho khắp cõi thiên, nhân
Được
trời, người lòng cung kính tri ân
Dòng
mưa pháp thấm nhuần tươi ba cõi.
12.
Phẩm Đề Bà Đạt Đa
Giọt
sương rơi tan vỡ giấc mơ xuân
Phiến
mây nổi phiêu dao dòng ảo cảnh
Đêm
tàn mộng nguyệt treo đầu song lạnh
Một
trời thu man mác cõi sầu trường
Phấn
hương bay hiu hắt lối nghiêm cung
Viền
núi tím đâu dấu chân dã hạc.
Đánh
trống lệnh vang vang lời cầu pháp
Bỏ
ngôi vua đổi manh áo người tu
Nguyện
giữa trời nghe được pháp thâm sâu
Dùng
thân mạng cúng dường dù lao khổ
Lúc
bấy giờ có người tiên Trường Thọ
Lên
tiếng rằng: Ta có pháp Đại Thừa
Sẽ
y lời cung thỉnh của nhà vua
Thuyết
chánh tạng kinh Liên Hoa Diệu Pháp.
Vua
vui mừng biết lấy chi đền đáp
Liền
đi theo vào tận chốn rừng sâu
Đêm
trải màn, ngày bửa củi, hái rau
Lòng
cung kính phụng thờ không mỏi mệt
Một
nghìn năm tinh cần trì diệu pháp
Được
sắc thân rạng rỡ tựa hoàng kim
Đắc
Từ tâm tam muội, đức vô biên
Bốn
nhiếp pháp, bốn tâm vô sở úy
Mười
tám pháp bất cộng và lực trí
Đạo
viên thành rộng độ khắp thiên, nhân
Kiếp
lâu xưa, Ta - vua ấy tiền thân
Đề
Bà thuở ấy - tiên nhân Trường Thọ
Trải
hằng muôn pháp ân vô lượng độ
Sẽ
tựu thành Phật quả, hiệu Thiên Vương
Cõi
nước tên Thiên Đạo, Phật Thế Tôn
Trụ
trần thế đúng hai mươi trung kiếp
Cõi
trời người dâng ngọc châu xây tháp
Rải
hoa trời thơm bảy báu cúng dàng
Người
đời sau tin nhận chẳng nghi nan
Được
phước báu xa lìa ba ác đạo
Mười
phương Phật thuyết pháp âm vi diệu Cõi
sinh thân tai thường được nghe kinh
Trên
sen vàng thân bích ngọc hóa sinh
Biết
cảnh huyễn, tâm dung hòa thiện, ác.
Lúc
bấy giờ Đức Trí Tích Bồ Tát
Cõi
hạ phương khởi niệm muốn quay về
Phật
dạy rằng: Dừng ý, lắng tâm nghe
Quy
thân mạng dưới đài sen lãnh hội
Đại
Bồ Tát hiệu Văn Thù Sư Lợi
Sẽ
ứng thân tuyên nói nghĩa viên thông
Nói
dứt lời bát ngát giữa trời không
Đại
Bồ Tát ngự sen vàng nghìn cánh
Biển
nước xanh phóng hào quang đại định
Rời
chỗ ngồi đảnh lễ Đức Như Lai
Thân
và Tâm phủ phục trước bửu đài
Ngài
Trí Tích cũng vừa lên tiếng hỏi:
Từng
lên xuống hóa hoằng muôn ức cõi
Nơi
cung Rồng hóa độ được bao nhiêu?
Rằng:
Phải đâu khẩu, ý lượng ít, nhiều?
Trong
nhất niệm sẽ tự mình chứng biết!
Vừa
dứt lời giữa trời Không tịch diệt
Ngọn
long kỳ phất phới đỉnh Linh Sơn
Trên
tòa sen số Bồ Tát hằng muôn
Trụ
Không tướng hằng trang nghiêm Phật quốc
Chư
Bồ Tát như hoa trời tuệ nhật
Tự
tánh Không, đâu là chỗ sở cầu
Cõi
nước xanh, Linh Thứu khác gì nhau
Bồ
Đề tướng đồng hư không vô tướng.
Lòng
tán thán Ngài Trí Tích Bồ Tát
Nói
kệ rằng: Thực tướng nghĩa vô biên
Pháp
nhất thừa vô lượng nghĩa nhân duyên
Đại
thánh trí nay tôi đều đã thấy.
Ngài
Văn Thù: Ta ở nơi đại hải
Chỉ
trùng tuyên kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Lại
hỏi rằng: Pháp vi diệu sâu xa
Ai
là kẻ sớm tựu thành Phật quả?
Ngài
Văn Thù: Ta-Kiệt-La tiểu nữ
Được
tổng trì, trí tuệ một vầng trăng
Thường
vào ra tánh tướng pháp nhất chân
Các
yếu tạng Như Lai đều trì được
Sơ
phát tâm liền vào nơi bất thối
Mở
ngôn từ hiện vô ngại biện tài
Tâm
đại từ thương xót khắp muôn loài
Thân
thọ mệnh vào ra muôn triệu ức
Ngôn
cùng hạnh tương ưng, bi, trí đức
Tâm
khiêm cung, ý hòa nhã bao la
Quả
Bồ Đề trổ ngát ngón chân hoa
Phá
hình tướng để hiển dương thật Tánh.
Ngài
Trí Tích nói rằng: Muôn pháp hạnh
Không
nơi nào Từ Phụ chẳng trải thân
Đại
tam thiên thế giới đến vi trần
Mỗi
mỗi chỗ đều chứa thân của Phật
Hạnh
khó làm, Đạo dễ chi cầu được
Tôi
chẳng tin người nữ đắc Bồ Đề
Huống
chi rằng chỉ một phút rời mê
Mà
chứng được đại tâm vô thượng giác.
Vừa
dứt lời bổng hiện ra trước Phật
Dáng
khoan thai con gái của Long Vương
Dưới
tòa vàng đảnh lễ đấng Từ Tôn
Nói
dòng kệ tán dương công đức Phật
Tịnh
vi diệu Pháp thân ngời tuệ nhật
Thái
dương kia chiếu sáng khắp mười phương
Sắc
thân vàng ròng nghiêm tịnh Pháp Vương
Cõi
trời người đồng phát tâm quy ngưỡng
Con
nay nói pháp nhất thừa tối thượng
Độ
thoát người trên bể khổ chơi vơi
Ý
từ tâm, tâm ý thốt nên lời
Riêng
trí Phật mới chứng tâm đồng Phật.
Lúc
bấy giờ tôn sư Xá Lợi Phất
Ứng
tiếng rằng: Lời nói khó tin thay!
Bởi
vì sao? Phật đạo quãng đường dài
Nào
lục độ, nào góp gom công hạnh.
Lại
thân nữ có năm điều khó tránh
Từ
thiên vương, Đế Thích đến vua ma
Thân
uế nhơ còn chẳng được huống là
Thân
Rồng nữ lại ngồi tòa chư Phật?
Mở
lòng tay rạng ngời viên mai ngọc
Như
sao trời ba cõi đại tam thiên
Tiểu
nữ vương đảnh lễ đấng Thế Tôn
Quỳ
gối hữu, hai tay dâng ngọc quý.
Đức
Như Lai liền đưa tay nhận lấy
Con
vua Rồng lại hỏi các chư Tăng:
Châu
báu kia dâng hiến đấng Từ Tôn
Ngài
nạp thọ, chẳng hay mau hoặc chậm?
Liền
đáp lời: Rất mau, trong khoảnh khắc!
Tiểu
nữ vương liền nói: Hãy chú tâm!
Dụng
sức thần của tất cả các ông
Sẽ
thấy được tôi hóa thân thành Phật
Lại
còn mau hơn Thế Tôn nhận ngọc!
Nói
dứt lời tướng nữ biến thành nam
Hạnh
Bồ Đề tỏa rạng ánh huệ quang
Cõi
Vô Cấu ứng thân ngồi tòa báu
Bậc
chánh giác đủ tám mươi vẻ đẹp
Khắp
mười phương tuyên diệu pháp độ sinh
Đất
vui mừng chấn động diệu âm thinh
Chư
Bồ Tát, Thanh Văn quỳ dưới bệ
Chim
hót điệu reo vui đôi dòng kệ
Lời
kinh trăng đá tụng dưới khe xanh
Tấm
mây trời gấm trải giải thiên thanh
Giọt
mưa rụng đôi cành theo bóng gió
Biển
sớm âm ba trùng trùng vạn cổ
Nghiêng
chân chạm đất, ngữa tay gặp trời
Chẳng
thực chẳng hư một cõi luân hồi
Nước
tịnh thủy lệ tràn khuôn mặt tượng
Tâm
mê chấp vì không lìa được tướng
Trí
Bồ Đề an trụ tướng hư không
Hình
tướng kia vô ngã, nghĩa tùy tâm
Sáu
căn tịnh, cầu Tâm không cầu Phật.
13.
Phẩm Trì
Vọng
dấy khởi tâm ngăn rào dựng vách
Đã
từ Không sao chẳng lại về Không
Nét
họa thần tình muôn cảnh vạn duyên
Một
chiếc cọ vẽ thiên đường, địa ngục
Cánh
tay duỗi tìm được đâu đất Phật
Bước
chân qua đại đạo nở hài xanh
Nghĩa
trì kinh là niệm Sắc tức Không Vào
trí Phật đồng chân như thường trụ
Tâm
mê chấp cuốn trôi dòng thác lũ
Ngày
nối đêm, mộng nối mộng không thôi
Ôm
dòng kinh tờ lá cũ ngậm ngùi
Ai
tìm Phật, ai người không là Phật?
Lúc
bấy giờ Ngài Dược Vương Bồ Tát
Phát
thệ rằng: Lời nguyện trước Như Lai
Đổi
đài châu, tòa báu lấy bồ đài
Trong
đời ác chúng sinh vô lượng độ
Nhẫn
đến kẻ tà tâm hằng sa số
Nghe
lời kinh sinh trí hẹp chê bai
Cho
đến người tham lợi dưỡng, sắc tài
Một
dòng kệ nguyện vì người thường đọc
Ôi
như kẻ hữu tâm và hữu học
Tâm
sinh tình, học lìa trí thế gian
Huyễn
duyên sinh, huyễn cảnh lại buộc ràng
Tội
như huyễn, phước kia cùng như huyễn
Ai
người giác, lấy vật gì để giác
Ngã
đã Không thì Pháp cũng là Không
Ngã
pháp kia chỉ Một - có đâu hai
Thân
giả huyễn số nhiều như cát bụi
Xin
đảnh lễ dưới chân người đại trí
Một
dòng xanh có thấy lại bao giờ!
Chỉ
một Tâm sao ở cả hai bờ
Tịnh
Tâm ấy tức trì kinh chư Phật.
Dưới
đài báu năm trăm A La Hán
Cùng
tám nghìn Thích tử phát thiện tâm
Xin
ở nơi an tịnh, ít tham sân
Chúng
con nguyện mang kinh nầy giảng dạy
Người
trong cõi Diêm Phù nhiều tà vạy
Tâm
thị phi, đức mỏng, dễ giận hờn
Vì
ôm lòng chấp ngã tựa băng sơn
Trí
hạn hẹp khó sinh tâm thọ pháp.
Đại-Ái-Đạo
tỳ khiêu ni nhìn Phật
Và
sáu nghìn ni chúng chắp tay hoa
Phật
dạy rằng: Vô lượng kiếp lại qua
Ứng
thân hiện làm Pháp sư thuyết đạo
Hạnh
Bồ Tát, trí đại bi thâm áo
Sẽ
tựu thành Phật quả, đức đủ đầy
Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Hỷ-Kiến
Như Lai
Là
Phật hiệu khiến trời người ứng cúng.
Lúc
bấy giờ Bà Gia-Du bái vọng
Lòng
nghĩ thầm: Phật chẳng nhắc tên tôi.
Mắt
hồ xuân lay động khóe môi tươi
Tâm
khao khát được nhận lời thọ ký
Phật
dạy rằng: Thấm nhuần muôn pháp vị
Hội
đạo tràng làm vị đại Pháp sư
Hạnh
Bồ Đề viên mãn, đức ân dư
Thành
chánh quả, Phật hiệu là Cụ Túc
Phật
trụ thế dài lâu vô lượng kiếp
Cõi
nước tên Thiện Quốc, độ trời, người.
Được
như lời, đại ni chúng mừng vui
Nói
dòng kệ nguyền xiển dương Diệu Pháp.
Phật
từ mẫn nhìn xuống chư Bồ Tát
Bậc
chánh tâm được các pháp tổng trì
Đức
sâu dày, nguyện lực trụ vô y
Bất
thối chuyển đến, đi trong tam giới
Chư
Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy
Cùng
chắp tay chờ lời dạy phụng trì
Nét
xuất phàm nghiêm tịnh vẻ phong nghi
Phật
yên lặng. Liền nói lời thệ nguyện:
Diệu
pháp tạng thấm sâu lòng tuế nguyệt
Ngọn
đuốc thiêng ngời ánh tuệ quang minh
Nguyện
giữa trời thọ muôn vạn thân sinh
Như
huyễn trụ tùy duyên khai chánh đạo
Tướng
vô tướng sinh thân tùy thuận tướng
Tâm
vô tâm vào sáu nẻo luân hồi.
Muôn
pháp sinh nào khác tuyết hoa rơi
Khi
thức, ngủ vẽ vời mê đồ trận
Cảnh
chẳng thực, lòng xuân say túy mộng
Biết
Tâm nầy, vào yếu tạng Như Lai
Chẳng
giữ Tâm lại cầu pháp bên ngoài
Đường
vạn dặm chỉ hoài công cầu pháp.
|
14.
Phẩm An Lạc Hạnh
Lúc
bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi
Tán
thán rằng: Hy hữu! Bạch Thế Tôn
Thệ
nguyện kia như đổi bể, dời non
Lòng
thế tục, dòng trường lưu đại mộng
Sinh
đời ác, muốn hộ trì chánh tạng
Làm
thế nào có thể nói kinh nầy?
Phật
dạy rằng: Thấy thực tướng không hai
Trụ
nhẫn địa, đó gọi là hành xứ.
Hạnh
kiên cố, Tánh Không là pháp lữ
Lời
khen chê, tiếng thuận nghịch gió bay
Tịnh
chẳng cầu, động cũng tựa áng mây
Quán
các pháp nhân duyên là Như Vậy
Giữ
đại tâm, chẳng gần người tiểu trí
Một
Tâm nầy tức đồng với Phật tâm
Đành
lòng sao, làm nhơ nhuốc tông môn
Giòng
giống Phật, hạt mầm ươm đại địa
Vọng
niệm khởi, Tâm thay hình, đổi thể
Khi
đồng tâm với những kẻ bạo quyền
Hoặc
thấy mình bổng như kẻ mơ duyên
Tà
sen rụng tưởng cánh thuyền du tử
Cũng
lại chẳng sinh tâm gần người nữ
Màu
phấn hoa há xiêu được lòng tu
Phải
trì tâm như mặt nước hồ thu
Giữ
tâm ấy như giữ lòng chư Phật
Trụ
thuyền định, nhiếp tâm lìa lục tặc
Tâm
trì tâm, nhất niệm chẳng buông lung
Ví
như người tuổi dại chẳng cùng chung
Trì
giới hạnh tức giữ tâm đạo vậy.
Thả
phước báu theo dòng xuôi nước chảy
Thả
sắc tài trên tận đỉnh mây trôi
Trả
xác thân về nấm đất nông vùi
Tâm
đứng vững như cây rừng đại thọ.
Tâm
an lạc xuôi chèo trên sóng bủa
Thấy
tâm mình, chẳng thấy lỗi thế gian
Khởi
lòng thương kẻ chẳng hiểu kinh vàng
Kẻ
kém phước chưa một lần được đọc
Kẻ
như vậy thích nói lời thô độc
Khi
chê người thường ngụ ý tự khen
Trải
từ bi với muôn vạn chúng sinh
Cảm
ân đức tạo nhân duyên thành Phật
Người
chân tu ngữ ngôn đồng tánh giác
Đóa
sen thơm vô lượng đức nở hoa
Ngón
tay vàng chỉ nước Phật đâu xa
Trụ
như huyễn tức ngồi tòa chư Phật
Chỗ
xa lìa cũng không sinh niệm ác
Bỏ
ghét, ưa lòng đố kỵ thế gian
Thanh
tịnh tâm, sinh tử tức Niết Bàn
Chánh
trì giới là lìa tâm tam giới
Lại
thêm nữa! Nầy Văn Thù Sư Lợi!
Ví
kho tàng có vô số bảo châu
Từ
ngựa xe, thành ấp đến gác lầu
Vua
ban thưởng kẻ dày công khó nhọc
Chỉ
riêng ngọc minh châu trong búi tóc
Dành
ban cho vị tướng thắng vạn quân
Pháp
Như Lai tám vạn bốn nghìn môn
Tùy
căn nghiệp chúng sinh mà hóa độ
Dạy
nhẫn nhục, tinh cần và thiền tọa
Dạy
tịnh tâm, chánh niệm, chánh tư duy
Riêng
Pháp Hoa yếu tạng bất tư nghì
Là
diệu pháp Phật dạy hàng Bồ Tát
Là
diệu tạng dạy chúng sinh thành Phật.
* 15.
PhẩmTùng Địa Dũng Xuất
Lúc
bấy giờ số hằng muôn Bồ Tát
Khắp
mười phương cõi nước chắp hai tay
Liền
bạch rằng: Kính lạy Đức Như Lai
Xin
được nguyện lời hộ trì chánh tạng
Xin
được nguyện hằng giữ gìn đọc tụng
Vì
chúng sinh đời ác trược nói kinh.
Phật
dạy rằng: Cõi nước chúng hữu tình
Số
Bồ Tát hằng sa và quyến thuộc
Phật
diệt độ, sẽ trùng tuyên, tụng đọc
Cõi
Diêm Phù diệu pháp trổ liên hoa
Nói
dứt lời đất rúng động mở ra
Từ
lòng đất hiện hằng muôn Bồ Tát
Thân
sắc vàng tỏa ngời vô lượng đức
Vô
lượng quang chiếu rạng cõi thinh không
Dưới
đài hoa đảnh lễ nhiễu quanh vòng
Nói
lời kệ nhất niệm tâm tán thán
Non
Linh Thứu không, thời như tịch lặng
Trải
năm mươi tiểu kiếp tựa nửa ngày
Như
vi trần mỗi mỗi đến và đi
Thân
hóa hiện không rời an lập định
Bậc
thượng giác, vô biên, thanh tịnh hạnh
Trí
vô sư không năng, sở biện phân
Một
bầu Không nguyên vẹn thể hư tâm
Tánh
vạn pháp bản lai thường tịch diệt
Niệm
vô niệm vào chân như thực tánh
Biết
vô sinh lục đạo nhập đại thừa
Sáu
căn cùng năm ấm gió mây đưa
Vô
nhất vật, chẳng sinh tâm tức Phật
Rời
động, tịnh, đây, kia là bến giác
Vốn
xưa nay chư Phật chẳng mong cầu
Tánh
thường nhiên ngay tại cõi bể dâu
Thể
thường trụ thức phàm sinh trí thánh.
Chốn
đạo tràng là nơi thuần đạo hạnh
Cõi
tịch nhiên tức chỗ chẳng nhiễm ô
Sự,
lý viên dung vô ngại nhất thừa
Niệm
nối niệm vào ra muôn cảnh giới
Chẳng
làm kẻ mỏi mắt trông vời vợi
Chẳng
làm người cầu pháp lại mê tâm
Chẳng
thực, chẳng hư vạn thể tự đồng
Tánh
của Sắc, tướng của Không đồng vị.
Thiện
nam tử! Hãy phát tâm tùy hỷ
Thuận
chân như tánh tướng tự phô bày
Cát
lẩn vàng, ngọc ẩn đá chẳng hay
Biết
nhận lấy chẳng bao giờ thiếu hụt.
Lúc
bấy giờ hóa thân muôn cõi nước
Có
các hàng Bồ Tát khởi lòng nghi
Phật
dạy rằng: Hãy lắng niệm thọ trì
Đại
Bồ Tát sẽ vì người thưa hỏi.
Ngài
Di Lặc, vị nhất-sanh-bổ-xứ
Nói
kệ rằng: Kính lạy Đức Như Lai
Nhân
duyên gì có sự lạ dường nầy
Các
Bồ Tát hiện thân từ lòng đất
Số
đại chúng vô lượng nghìn muôn ức
Đại
thần thông, trí tuệ chẳng nghĩ bàn
Chí
niệm kia kiên cố khó ai hơn
Trụ
nhẫn nhục một lòng cầu Phật đạo.
Tại
đạo tràng với hằng muôn quyến thuộc
Cùng
hộ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Hoặc
ở nơi thanh vắng số hằng sa
Cùng
đi đến dưới đài sen phụng thỉnh
Tâm
an định vững vàng như tuyệt bích
Vẻ
phong tư uy đức ví tịnh châu
Ai
là người giáo hóa khiến quy tâm
Đâu
tôn chỉ, kinh thọ trì tu tập
Cảm
thần lực, đất bốn phương chấn động
Cõi
nước nào đã ứng hiện nơi đây
Khắp
đạo tràng cùng muốn rõ nguyên lai
Từ
kim khẩu xin một lời giải nói.
Phật
dạy rằng: Ra vào muôn ức cõi
Trí
Như Lai chiếu diệu bất tư nghì
Giữ
một lòng trân trọng chẳng hoài nghi
Trụ
nhẫn thiện thấy điều chưa từng thấy
Đại
Bồ Tát từ trong lòng đất dậy
Như
cánh vàng hé nhụy ngọc mở ra
Như
sen thơm vượt bùn đất đơm hoa
Người
kém phước chẳng thấy là diệu tuyệt
Cỏ
Phì-Nhị bò ăn trên núi Tuyết
Đủ
phước duyên biến thành sữa đề hồ
Như
non cao bảy báu dựng phù đồ
Trí
tuệ đến từ thất tình phiền não
Đại
Bồ Tát do Như Lai hóa đạo
Quốc
độ kia thấy hiện giữa hư không
Chẳng
nắm trời, chẳng giữ đất sinh tâm
Chân
không trụ ví như vô sở trụ
Không
chướng ngại, chân tâm làm pháp lữ
Thường
vui nơi lan nhã, giảm tạp duyên
Chẳng
sinh lòng biện bác hí luận kinh Niệm
niệm khởi cũng không rời chánh niệm
Tâm
cầu đạo một lòng không thối chuyển
Sẽ
tựu thành quả Phật chẳng nghi nan.
Lúc
bấy giờ phủ phục dưới bệ vàng
Ngài
Di Lặc nghĩ: Quyết không hư vọng
Bạch
Thế Tôn! Nhớ ngày rời cung ngọc
Thành
Già Da lấy cỏ kết bồ đài
Đạo
viên thành tinh vẹn ánh sao mai
Từ
thuở ấy đâu dạn dày năm tháng
Đại
Bồ Tát có người râu tóc bạc
Nét
uy nghi công đức tạng sâu dày
Số
hằng muôn không tính đếm được thay
Giữ
phạm hạnh trồng gốc lành thanh tịnh.
Nhớ
lời Phật tướng kia như bào ảnh
Phật
tùy nghi nói diệu pháp độ sinh
Trí
thế gian hạn hẹp tất hãi kinh
Không
lường được nhân duyên và quả báo.
16.
Phẩm Như Lai Thọ Lượng
Dưới
tòa báu gối quỳ đầu chấm đất
Chư
Thanh Văn, Bồ Tát áo vàng mây
Phật
dạy rằng: Pháp vi diệu cõi nầy
Các
ông hãy lắng tâm mà tin nhận
Lời
Như Lai trước sau đều chân thật.
Phật
ba lần lập lại những lời trên
Chúng
đạo tràng xác quyết một lòng tin
Ba
lần lạy, ba lần xin giảng dạy.
Cõi
trời người chiếc lều cỏ, đài mây
Nước
bốn bể lệ xanh đồng vị mặn
Đi
qua, đi qua đường trần mấy chặng
Thân
rồi thân lấy bỏ đã bao lần
Tiếng
thở dài sương rụng mấy tầng không
Đường
cô quạnh mưa giăng mù bóng nhỏ
Núi
Diệu Cao mấy lượng cân mà đủ
Nước
tịnh bình bao giọt rót cho đầy.
Phật
lại dạy rằng: Vô lượng Như Lai
Một
thân Phật hiện hằng muôn triệu ức
Tâm
thế gian theo dòng đời xuôi ngược
Cõi
trời, người vẫn tưởng một thân Ta
Vị
Cồ Đàm thuộc dòng tộc Thích Ca
Đêm
sương lạnh mở cổng thành từ biệt
Dòng
sông tịnh áo đính châu bỏ lại
Rừng
thâm u kết cỏ trải tòa ngồi
Có
biết rằng thân Phật khắp nơi nơi
Dòng
kinh tuệ rạng ngời bông nắng sớm
Từ
thuở đất chưa trải dài nương ruộng
Từ
thuở sông chưa đắp đổi phù sa
Từ
gió chưa cuồng cuộn dậy phong ba
Và
như thế, thân Ta vô lượng cõi.
Ví
vô tận đại thiên nghiền ra bụi
Có
một người mang số bụi về Đông
Đi
ngang qua vô lượng cõi thế trần
Mỗi
lần đến hạt bụi hồng rơi lại
Và
như vậy qua hằng muôn kiếp hải
Số
vi trần rơi hết những lần qua
Những
thế giới kia tính đếm được chăng?
Ngài
Di Lặc thưa rằng: Không thể được!
Bạch
Thế Tôn! Các
cõi nước thật vô biên, vô lượng
Kẻ
thế gian chẳng biết được do tâm
Hàng
Nhị Thừa trí vô lậu siêu phàm
Cũng
chẳng thể tính ra vô số cõi
Hàng
Bồ Tát trụ đất tâm bất thối
Cũng
không hề thông đạt tận cơ duyên
Phật
dạy rằng: Các cõi nước vô biên
Cõi
vướng bụi hoặc cõi không vướng bụi
Nay
có kẻ nghiền ra như đã nói
Lại
ví như mỗi kiếp một vi trần
Vô
lượng kiếp, làm Phật vô lượng lần
Và
như thế, ứng thân vô lượng cảnh
Chẳng
đến, chẳng đi, chẳng thành, chẳng hoại
Một
thân nầy uyên mật nói thành ba
Ví
như người nhìn mặt kính vạn hoa
Thấy
một cảnh đổi ra muôn sai biệt
Như
phương tiện thuyết minh và quyền biến
Phật
đản sinh, Phật nhập diệt Niết Bàn
Hoặc
lâu xưa có Phật hiệu Nhiên Đăng
Tuyên
diệu dụng bất tư nghì phổ thuyết
Nầy
pháp tử! Tâm chúng sinh hạn hẹp
Phật
tùy nghi ứng hợp thuận căn cơ
Thấy
chúng sinh nương dựa pháp Tiểu Thừa
Phật
liền nói: Ta xuất gia được pháp
Điều
Ta nói như nhân duyên tương hợp
Hợp
với người ưa thích pháp hữu vi
Ngôn
ngữ Như Lai diệu dụng tuyệt kỳ
Khi
đóng mở, khi xa gần dẩn dụ
Hoặc
chỉ thân mình, thân người tán tụ
Dùng
bao nhiêu phương thức chuyển pháp luân
Công
đức hải pháp giới vô biên thân
Vô
sinh diệt thị hiện thân sinh diệt
Vô
danh tướng thị hiện thân danh tướng
Sắc
hình như ảnh tượng chẳng đến đi
Biển
âm thinh Bồ Tát khéo thọ trì
Khéo
hội nhập trụ nơi Như Lai địa
Tánh
vốn tự tại, thân là trí huệ
Pháp
làm thân, Pháp Thân đồng hư không
Vì
hạng người đức mỏng lại buông lung
Trí
kém cỏi, tâm nghèo cùng hèn hạ
Chẳng
biết được hoa ưu đàm khó gặp
Đức
Như Lai khó thấy được vậy thay!
Ta
vì người thị hiện nhập Niết Bàn
Thể
tánh Phật có đâu từng xuất, nhập.
Ví
như vị lương y cỏ cây hòa hợp
Tinh
luyện lương dược cứu bệnh nhân gian
Bốn
phương trời bầu thuốc một càn khôn
Khi
gió bể, khi sao rừng nhàn nhã
Hoa
núi tịnh trổ mười phương đất lạ
Đường
đi qua bước bước tựa mây bồng
Đất
cũng Không mà trời cũng thật Không
Ai
tương biệt liễu xanh lồng bóng nước.
Đường
quanh co, đàn con thơ xuôi ngược
Hoa
bướm, sắc hình, trên dưới, trước sau
Vạn
nhân sinh, vạn duyên hiện nối nhau
Phơi
ảnh tượng đậm một mầu hư ảo.
Tâm
mê loạn, trí cuồng si điên đảo
Thấy
cha về lòng khôn xiết bi ai
Quỳ
lạy thưa: Xin cứu khổ, ban vui
Xin
tiên dược mưa xuống đời ai oán.
Người
cha nhìn: Bao giờ dòng lệ cạn
Bao
giờ sông thôi bồi đắp nên non
Đến
bao giờ mặc nước chảy đá mòn
Dòng
sinh hóa ảo huyền như sóng nắng.
Nầy
con hỡi! Thuốc kia nên vị đắng
Bởi
vì sao? Tham dục rẽ ngược dòng
Đời
qua đời, thang bắc đáy khe trong
Nắm
sao được nhạn hồng in bóng nước.
Nghe
cha dạy thuốc kia là lương dược
Đứa
kính tin gìn giữ chẳng rời tay Đứa
khôn ngoan nhận uống vượt hiểm nguy
Đứa
mê muội nghĩ thầm chưa cần vội
Người
cha thấy con mình thân mòn mỏi
Liền
gọi con: Cha để thuốc lại đây
Cha
tuổi già, sống thác cũng có ngày
Nhớ
lời dạy, chớ lo không lành bệnh.
Nói
dứt lời, đi sang miền lân cận
Lại
sai người tìm gặp các con thơ
Nhắn
lời rằng: Cha đã chết bao giờ
Lòng
trẻ dại bơ vơ mong gì gặp.
Nước
hồ chao hay lệ tràn khoé mắt
Gió
rung cây hay tiếng khóc đầu đời
Nhớ
lời cha, uống vị thuốc thơm tươi
Trừ
khí độc, được thân người lành mạnh.
Người
cha biết các con mình khỏi bệnh
Liền
trở về khiến trẻ được mừng vui
Nầy
thiện nam! Ý ngươi nghĩ thế nào
Người
cha ấy có phải là hư dối?
Bạch
Thế Tôn! Chẳng phải là hư vọng.
Phật
dạy rằng: Ta chẳng khác người kia
Đã
từng khi nói đến hoặc nói về
Tùy
tâm niệm chúng sinh mà tuyên thuyết
Phật
thọ lượng trải A tăng kỳ kiếp
Tòa
Như Lai không có chỗ đến, đi
Pháp
Thân Ta thường trụ ở nơi đây
Dùng
các sức thần thông mà hóa đạo
Lòng
luyến mộ cúng dường thân Xá-lợi
Tăng
trưởng tâm khát ngưỡng thấy Như Lai
Người
thọ trì giữ niệm mỗi phút giây
Nghe
được tiếng Như Lai đang thuyết kệ
Linh
Thứu sơn nhất thời Phật tại thế,
Thì
nơi đâu chẳng phải núi Linh Sơn.
17.
Phẩm Phân Biệt Công Đức
Người
khởi niệm tin Pháp Thân thường trụ
Đắc
công năng gọi công đức thiện hành
Vô
lượng tâm được Pháp-Nhẫn-Vô-Sinh
Chứng
thực tướng chân như không sinh diệt
Ví
giọt nước cành dương tiêu vạn nghiệp
Trên
báu trì sẽ ngự đóa liên hoa
Tam
muội tổng trì, nầy A-Dật-Đa!
Đại
Bồ Tát số nghìn lần chứng đắc
Nghe,
tin, hiểu, hiển minh chánh pháp tạng
Số
như vi trần Bồ Tát biện tài
Nhạo
thuyết vô ngại thật tướng Như Lai
Thanh
tịnh, bất thối hoặc một đời thành Phật.
Ca
ngợi đức dung quang dâng nhã nhạc
Tiếng
tơ buông, ngọc chạm vỡ giai âm
Hoa
mạn-đà rải cánh ngát tầng không
Rơi
trên áo Thế Tôn và tháp Phật
Gỗ
chiên-đàn thơm bay vui điệu trống
Như-ý-châu
nạm ngọc chín phương trời
Cõi
Phạm-Thiên tàng lọng nếp mây xuôi.
Ngài
Di-Lặc trịch áo bày vai hữu
Dâng
kệ tán thán Pháp Thân thường trụ
Phật
dạy rằng: Nghe thọ mệnh khai tâm
Hiểu
và tin vô lượng thọ Phật thân
Được
công đức hơn tịnh tu hữu tướng.
Ví
như kẻ dày công cầu pháp Phật
Na-do-tha
kiếp số chẳng buông lung
Bố
thí cúng dường báu vật mười phương
Vườn
lan nhã cây trầm làm tinh xá
Trì
cấm giới, điều tâm tu nhẫn nhục
Lời
khen chê như gió thoảng, mây đưa
Hạnh
giản duyên, thân, khẩu, ý ngăn ngừa
Lòng
trong lặng như nước hồ tín thủy
Chí
tinh tiến, ý không ngoài đạo vị
Thường
ưa nơi thanh vắng nhiếp tâm tu
Hoặc
đứng, hoặc ngồi, sức định thâm sâu
Muôn
ức kiếp trụ tâm không tạp niệm
Tịnh
tâm sinh phước, thiện duyên trùng điệp
Không
sánh bằng người tin nhận Pháp Thân
Người
thọ trì, giải nói rộng đức ân
Trí
thâm tín có thể sinh Phật tuệ
Nhất
thiết chủng trí hội nhập vào đại thể
Thấy
Như Lai huyền nhiệm đỉnh Linh Sơn
Diệu
pháp âm lay động phiến kinh thơm
Ngời
tâm tuệ sáng hai hàng đuốc thắp
Thấy
cõi đất Diêm Phù châu kết lọng
Lá
lưu ly, cây ngọc trổ trái vàng
Bồ
Tát hiện thân, đất hóa đạo tràng
Chiếc
cung bạc treo lưng trời Xá Vệ
Cánh
sao nở lửa thiêng soi dòng kệ
Nghìn
ngày sau ai kẻ chép tờ kinh
Thấy
tâm mình là Phật chẳng còn nghi
Dấu
hài cũ mải đi, bao giờ đến!
Ai
ngồi kết tháng năm thành một chuỗi
Ai
đem đời cột trói những vu vơ
Hai
cõi thánh, phàm ngăn cách đường tơ
Một
niệm khởi chia hai trời và đất Định
thì tâm diệt, vô minh sinh giác
Phật
là Tâm đâu nhọc sức van cầu
Đường
thênh thang mặc bể với mặc dâu
Tâm
thanh tịnh phải đâu là vô ký.
Miệng
nhả ngọc trên dòng kinh pháp vị
Tay
trầm hương đất dậy tiếng thần chung
Tháp
báu là thân đảnh lễ mười phương
Trí
tịch chiếu thần minh khai tuyệt lộ.
Lại
thêm kẻ thường phụng hành lục độ
Công
đức sâu dày, sự lý viên dung
Cội
Bồ Đề hoa rải trụ hư không.
*
18.
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức
Lúc
bấy giờ Ngài Di Lặc Bồ Tát
Bạch
Phật rằng: Kính lạy bậc thiên tôn
Nghìn
năm sau thiện nam tử, nữ nhân
Tịnh
tâm ý nghe Liên Hoa Diệu Pháp
Sinh
tùy hỷ kính tin tri kiến Phật
Biết
Như Lai không phải chỗ tìm cầu
Tin
tâm nầy và Phật khác chi nhau
Người
như vậy được bao nhiêu phước đức?
Tâm
chẳng tìm Tâm, Phật không cầu Phật
Sản
nghiệp kia tự có chẳng ai hơn
Cũng
chẳng hao mòn tánh đức, thiên chân
Tự
đầy đủ, rộn ràng chi lấy, bỏ.
Nương
giông bão rồng thiêng cuồng cuộn gió
Kẻ
không tin chẳng lượng được sức rồng.
Phật
dạy rằng: Tâm tùy hỷ tin sâu
Nghe
được pháp lại cùng người giải nói
Hoặc
thành ấp, xóm làng và pháp hội
Người
dạy người, pháp nối pháp reo vui
Chuyển
vần xoay cho đến thứ năm mươi
Nầy
A-Dật-Đa!
Đức
tùy hỷ của người khôn lường được
Bốn
trăm muôn ức hằng sa thế giới
Bốn
chủng loài trong sinh tử sáu đường
Loài
không chân cho đến giống nhiều chân
Loài
có tưởng hoặc loài không tư tưởng
Ví
có người bố thí lầu vàng, gác phượng
Hoặc
đủ đầy vật dụng chỗ bày phô
Ngọc
lưu ly, voi, ngựa cõi Diêm Phù
Hằng
bố thí tám mươi năm như vậy.
Lúc
bấy giờ người ấy nhìn, tự nghĩ
Những
kẻ kia tuổi tác đã già nua
Trọn
một đời bận rộn chỗ thích ưa
Chánh
pháp tạng chưa một lần tụng đọc.
Liền
tuyên thuyết nghìn lời châu, ý ngọc
Đưa
dắt người vượt thoát bể trầm luân
Dứt
tam đồ, đạt bốn quả Thanh Văn
Sức
thiền định và tám môn giải thoát.
Nói
dứt lời, Phật hỏi Ngài Di Lặc
A-Dật-Đa!
Ý ông nghĩ thế nào
Công
đức kia tính đếm được nhiều chăng?
Liền
bạch Phật: Đức vô biên, vô lượng
Bạch
Thế Tôn!
Việc
tài thí đã hằng vô số phước
Lại
vì người mê đắm thí đại ân.
Trang
thánh thư chìm nổi một dòng tâm
Cửa
địa ngục mở ra nghìn phước hạnh.
Giãi
trần cấu buộc ràng cơn ấm, lạnh
Lối
mê đồ quanh quẩn nẻo u minh.
Phật
dạy rằng: Người tùy hỷ lời kinh
Tin
Phật trí và Phật thân thọ mệnh
Công
đức kia cách muôn trùng hạnh nguyện.
Về
đời sau có kẻ đến vì kinh
Chốn
già lam hoặc đầu suối, cuối ghềnh
Dáng
thấp thoáng bên tờ kinh thần diệu
Nghe
câu kệ vỡ tung nghìn âm điệu
Tin
Tâm mình là Phật chẳng còn nghi
Biết
nhân duyên huyễn hoặc đến rồi đi
Sao
đành làm kẻ tù đồ miền thế tục.
Lòng
tĩnh lặng phát sinh muôn công đức
Khi
chuyển thân thọ phước báu thiên cung
Lại
như người chia nửa chỗ ngồi cùng
Nơi
pháp hội khuyến mời nghe diệu pháp
Khi
chuyển thân được ngồi tòa Đế Thích
Tòa
Phạm Vương hoặc ngôi bậc Thánh Vương
Cùng
Đà-La-Ni Bồ Tát thọ sinh thân
Ngời
trí tuệ, sắc thân như tượng ngọc
Đời
đời thọ thân được nghe, thấy Phật
Được
hộ trì diệu pháp tạng Như Lai
Phước
báu kia như trí lực hòa hài.
*
19.
Phẩm Pháp Sư Công Đức
Tay
thắp đuốc mong soi dòng phù thế
Tay
chép tờ kinh mực đọng như sương.
Thực
tướng Pháp Hoa - không sắc, không hương
Chẳng
tại, chẳng ly, bất đồng, bất dị.
Bất
hữu, bất vô, phi nhị, phi bất nhị
Không
tướng Bồ Đề, cũng chẳng tướng thế nhân
Chẳng
xã phàm phu, chẳng thủ thánh thần
Chúng
sanh giới tướng như chư Phật giới.
Không
thấy tịnh thanh, thấy đâu buộc trói
Nhập
pháp Không là A-Nậu-Đa-La
Pháp
ấn Như Lai- thực tướng Pháp Hoa
Không
một pháp, không một người, một vật
Ai
người khai ân, ai người thọ nhận
Cũng
là thân mà cũng chẳng là thân
Pháp
thuyết ra đồng một vị xuất trần
Vị
giải thoát, vị viễn ly, tịch diệt.
Quán
chiếu Pháp Hoa - tam-bình-đẳng-giác :
Thân
chúng sinh đồng tánh với Phật thân
Thân
vô biên, thanh tịnh, thể là Không
Không
tự nhận, đắm chìm trong ngã, pháp.
Chuyển
nghiệp lực hóa thân làm Bồ Tát
Chuyển
tàn thân, vạt cỏ hóa đài hoa
Áo
lụa xanh xuân hạ hóa cà-sa
Chiếc
hài rách vương bụi vàng cõi tịnh.
Tâm
đồng thể rỗng rang không loạn, định
Một
tâm nầy nào khác với Phật tâm
Vô
minh kia bổn tánh cũng là Không
Nhập
vô trụ hạnh Bồ Đề Tát Đỏa
Như-thật-trí
biết pháp từ Không hóa
Muốn
gặp Như Lai, đi đường Phật thường đi
Biết
chúng sinh như huyễn, khởi tâm bi
Biết
ngã tịnh tức chúng sinh cũng tịnh.
Dấu
chân người có đâu ngoài bước Phật
Rừng
dâu xanh rụng lá cội Bồ Đề
Pháp
giới nhất chân không chỗ đến, chỗ về
Nhập
Phật độ không tướng và không cảnh.
Nước
hồ tĩnh lặng soi viền trăng lạnh
Viền
trăng kia nào lựa chỗ, chọn hình
Ngã
đã Không, xứ, giới, chỗ nào sinh
Mười
phương Phật thương chúng sinh huyễn hiện.
Nên
thường tịch, nên thường quang huyền biến
Tánh
là Không nên Tướng cũng là Không
Như
hằng sa Phật quốc cõi trời Đông
Ai
lường được pháp môn vô lượng nghĩa.
Văn
tự Pháp Hoa - lời là phương tiện
Kẻ
tri âm đạt lý bỏ quên lời
Trắng
tờ kinh danh tự hóa ra Người
Ai
về rải hoa trời thơm cõi tục.
Tụng
dòng kinh ví cưỡi rồng trên sóng nước
Đoạt
ngọc long-châu chớ lấy chút vảy rồng.
Lúc
bấy giờ chư Bồ Tát, Thanh Văn
Quỳ
dưới bệ trí rạng ngời huệ giác
Tâm
tùy hỷ thơm hương sen Ưu-Bát
Linh
Thứu sơn bạch hạc múa cung tiên
Chiếc
bồ đoàn hóa tòa báu Phạm Thiên
Gió
ru lá, xanh đôi cành thiên điểu.
Phật
dạy rằng: Trang nghiêm thân vi diệu
Giải
lời kinh hoặc đọc tụng, thọ trì
Mắt
huệ quang thấu suốt ngục A-tỳ
Vượt
cõi Sắc lên đến trời Hữu-Đỉnh
Tám
trăm công đức nhãn căn thanh tịnh
Thấy
trời, người, thấy nghiệp quả đến, đi
Núi
Diệu-Cao vời vợi ngọn Thiết-Vi
Không
thiên nhãn đã diệu kỳ thần biến.
Thấy
Sắc rỗng không, vô trụ nên vô ngại
Thấy
pháp thế gian biến dạng gọi là sinh
Thấy
Bồ Đề không tướng cũng không danh
Thấy
địa ngục, thiên đường trong năm uẩn
Thấy
giải thoát trong lòng tay mở, nắm
Thấy
tham cầu chánh pháp hóa ra tà
Thấy
không người, không cảnh cũng không ta
Thấy
vạn pháp trên dòng mây phù lãng
Thấy
Vô-Tướng như hư không bình đẳng
Thấy
Pháp-Thân trên thập giá bao phen
Công
đức sinh từ cái thấy gọi là thiền
Không
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý.
Và
sáu căn cũng thấy đồng Như-Vậy
Mở
một căn là mở cả sáu căn
Một
cửa vào thấy sáu thức, sáu trần
Mười
tám giới tánh nhiệm mầu thanh tịnh.
Lại
dạy rằng: Lắng nghe Thường-Tinh-Tiến!
Người
thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh
Một
nghìn hai trăm công đức nhĩ căn
Tiếng
khắp cõi tam thiên không sai lạc.
Nghìn
âm điệu mở ra lời Như Thật
Một
lần nghe là nghe lại chân tâm
Cầu
đoạn trường qua mấy nhịp dư âm
Tiếng
rời rã của hoang tàn, ảo tượng
Tiếng
đành đoạn một dòng tâm mê loạn
Tiếng
thét gào máu pha lệ lầm than
Tiếng
Bích Chi, Duyên Giác, tiếng Thanh Văn
Tiếng
Hữu Đỉnh, Quang Âm và Biến Tịnh
Tiếng
giáo pháp của các hàng đại thánh
Tiếng
Như Lai thâm áo nghĩa thiên chân
Tiếng
hoa rơi phô dáng vẻ vô thường
Tiếng
suối chảy khen lời vi diệu pháp
Công
đức sinh từ nhĩ căn vô-sở-đắc
Dòng
khe xanh cá nghe được lời kinh
Chim
vườn xuân im tiếng hót nghiêng mình
Tàu
lá mới chen cành nghe mật ngữ.
Người
trì kinh, thiện nam và thiện nữ
Được
tám trăm công đức tại tỷ căn
Một
làn hơi dài, ngắn, cõi thế trần
Hoặc
thanh tịnh ngữi hương trời các cõi
Hoa
chiên đàn, mạn thù sa, trầm thủy
Hương
trầm thơm thân chư vị thiên vương
Áo
thanh đồng, thiên nữ, lụa bay hương
Thơm
chuỗi ngọc tịnh châu ngời thánh thể
Cành
thiên hương nở thơm hoa hồng quế
Mây
khánh tường năm sắc dấu hài tiên
Núi
Thiết Vi, biển Kiềm Hải bao quanh
Tiểu
thế giới như vi trần ẩn, hiện
Người
trì kinh biết thiên ma ngọc điện
Gió
thiên cung động các vị con trời
Khi
tham sân, lúc phóng dật dạo chơi
Biết
tâm niệm, biết thân nam, thân nữ
Chốn
hoang vu, núi dựng thành hiểm trở
Biết
giang san mãnh hổ chúa sơn lâm
Sư
tử vương tiếng rống động núi rừng
Bờ
suối vắng in dấu chân bạch tượng
Cửa
thạch động dạ minh châu thắp đuốc
Vườn
tàn xuân rơi nửa cánh phù dung
Kệ
đôi dòng phóng bút của người tu
Phiến
lá quỳ bức tiên-hoa đậm nét.
Hoa
phước báu ai rụng tàn cung nguyệt Hạt
thiện tâm nẩy lộc cửa thiên đình
Trời
Quang Âm, Hữu Đỉnh, Biến Tịnh thiên
Xuất
nhập định cung thiền trời Phạm Thế.
Hoặc
lều cỏ vách đề đôi câu kệ
Hoặc
cầu mây thanh thoát lối kinh hành
Hoặc
ven rừng, dốc suối, tụng dòng kinh
Hoặc
nghiêm tịnh tọa thiền nơi thảo dã.
Hội
Linh Sơn, lời Thế Tôn giáo hóa
Như
nghìn năm chưa dứt khói trầm bay
Như
nghìn năm sáo ngọc trổi đất nầy
Áo
chư thánh bày vai, quỳ gối hữu.
Người
trì kinh nhất vị đồng tánh giác
Một
nghìn hai trăm công đức thiệt căn
Lưỡi
sen hồng cánh ngọc vỡ nhất âm
Từ
tâm xuất miệng thơm lời vô thượng
Thuyền
duyệt thực nuôi thân, tâm tăng trưởng
Pháp
Như Lai làm hoa trái, dưa rau
Lời
nguyện giữa trời đối diện trăng sao
Niệm
danh Phật làm khẩu xưng tam muội
Niệm
chân như là Niết Bàn giải thoát
Ngôn
ngữ hợp hòa, chính, thực, thuận nhu
Như
sương mai trên nhánh lá nghìn thu
Như
suối mát tuôn giọt châu như-ý
Khi
cần mở miệng, nói lời thượng trí
Môi
hồng thơm pháp vị uống trăng thanh
Tạo
nhân duyên ngôn giáo dẩn chúng sinh
Cõi
trời, người đồng chắp tay cung kính
Trang
sách ngọc tụng câu kinh viên diệu
Đất
hộ trì, trời che chở giữ gìn
Phật
hiện thân khiến tăng trưởng lòng tin
Lời
như-thực viên âm làm công đức.
Vô
lượng thân hóa muôn thiên bách ức
Đại
từ tâm viên mật Phật hóa người
Bỏ
lại trầm luân, đời bỏ lại đời
Người
hóa Phật cũng đồng tâm, đồng cảnh.
Ánh
sáng trên thân rạng ngời nguyệt bạch
Như
dòng trong phai nhạt dấu lục phàm
Một
thân nầy thâu lại đại tam thiên
Mở
trời đất, dựng thiên đường, địa ngục.
Trận
cuồng lưu đổ tràn trên sức sóng
Giọt
sương hồng có mặt giữa đại dương
Thân
rồi thân hóa hiện cõi vô thường
Hạnh
thanh tịnh được tám trăm công đức.
Người
trì kinh mắt huệ đồng tánh giác
Biết
danh ngôn, văn tự tánh là Không
Dùng
ý căn tịnh huệ thọ trì kinh
Không
nắm giữ tức hộ trì chánh tạng
Ý
không ý tức không ngoài pháp ý
Một
dòng kinh thấu suốt tánh vô biên
Đạt
biện tài giải nói nghĩa thâm huyền
Vô
lượng nghĩa sinh ra từ một pháp.
Biết
thế pháp tánh đồng như Phật pháp
Thánh
trí từ năm ấm mở bày ra
Như
cây khô một sớm nở hồng hoa
Tàn
sương gió trải bao mùa ấm lạnh.
Lìa
thân, cảnh, không, thời là chánh định
Một
nghìn hai trăm công đức ý căn.
20.
Phẩm Thường-Bất-Khinh Bồ Tát
Phật
dạy cùng Đắc-Đại-Thế Bồ Tát
Công
đức sinh từ trí hạnh trì kinh
Nếu
có người mắng nhiếc hoặc chê khinh
Gieo
mầm ác sẽ có ngày kết trái.
Thuở
lâu xưa quá vô biên kiếp hải
Hiệu
Ly-Suy, nước tên gọi Đại-Thành
Có
Đức Uy-Âm-Vương Phật Thế Tôn
Ứng
căn tánh muôn loài tuyên diệu pháp
Phật
thọ mệnh muôn A-tăng-kỳ kiếp
Chánh
pháp trụ đời vô lượng vi trần
Phật
diệt độ rồi lại Phật ứng thân
Đồng
Phật hiệu trải hằng hai muôn ức
Chánh
pháp diệt qua đến thời tượng pháp
Hàng
tỳ khiêu tăng-thượng-mạn số đông
Khoác
cà-sa qua lại chốn già lam
Chấp
chỗ đắc tự cho là đã đủ
Tâm
ngạo mạn không lòng cầu quả Phật
Kiêu
khí hẫy hừng nhận lễ lạy thập phương
Trí
kém hèn, chút phước báu còn vương
Chẳng
tự biết như bụi đường trầm muội
Có
từng bao giờ ngồi hỏi lại đời
Lấy
câu trường mộng, lấy lời vô sinh.
Bấy
giờ có Bồ Tát Thường-Bất-Khinh Thường
đảnh lễ các tăng nhân, cư sĩ
Nói
lời rằng: Tôi một lòng kính quý
Bởi
tu trì Bồ Tát hạnh vô cầu
Nên
các ngài sẽ là Phật mai sau.
Hàng
tứ chúng cho là lời hư ngụy
Liền
mắng rằng: Ông tỳ khiêu vô trí!
Ta
chẳng nhận lời thọ ký dối hư kia.
Kẻ
ác tâm ném đá đánh đuổi đi
Trải
năm tháng chẳng sinh lòng hờn giận.
Pháp
Như Lai ngũ uẩn là hạt giống
Đóa
sen thơm trổ cánh cõi mê trầm
Chiếc
tàn y che mưa nắng Pháp Thân
Lòng
vọng dục ươm hạt mầm diệu tuệ
Thập
bất thiện bắc cầu miền Phật địa
Hồn
mê hoang gõ cửa lối thiên đường
Vườn
điêu tàn mai nở ngát hương xuân
Đêm
trường tịch gió ru vời âm điệu.
Ngời
thánh tuệ động hồi chuông thoát kiếp
Giữa
tầng không, nghe Phật thuyết lời kinh
Như
âm xưa nghìn kiếp chửa từng quên
Ân
pháp-nhũ sương bay ngàn cây cỏ
Sáu
căn thanh tịnh, thân vô lượng thọ
Phật
là Tâm, đồng một hiệu, một tên
Thuyết
pháp biện tài cứu độ nhân, thiên
Đến
lúc bỏ tàn thân liền thấy Phật
Hai
nghìn ức Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
Hội
đạo tràng thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Và
Phật hiệu là Văn-Tự-Tại-Đăng-Vương
Cũng
đồng thuyết Pháp Hoa kinh hải hội.
Hạt
giống Phật phá trừ tâm hôn muội
Một
tờ kinh thuyết lại đã bao lần
Linh
Thứu sơn vằng vặc một mầu trăng
Thân
hóa hiện ẩn tàng vô lượng độ.
Đắc-Đại-Thế!
Người tỳ khiêu thuở đó
Phải
ai người xa lạ, cũng thân Ta!
Đời
qua đời thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Đạo
vô thượng khiến người mau thành tựu
Hàng
tứ chúng xưa kia sinh niệm ác
Đã
nhiều đời không thấy được Như Lai
Ngục
A-Tỳ qua lại bạc gót hài
Sau
nghìn kiếp tái sinh nghe diệu pháp
Và
gặp lại Thường Bất Khinh Bồ Tát
Các
tăng nhân, cư sĩ pháp hội nầy
Không
nhân duyên đâu dễ gặp nơi đây
Trụ
bất thối sẽ thành vô thượng đạo.
Đắc-Đại-Thế!
Phải
biết rằng Liên-Hoa kinh thâm áo
Là
nguồn tâm, là thực tướng vô sinh
Người
chân tu niệm niệm hóa thành kinh
Hồ
nước tịnh sen xanh lồng sắc áo.
21.
Phẩm Như Lai Thần Lực
Đại
tam thiên số vi trần thế giới
Bồ
Tát từ lòng đất hiện toàn thân
Chắp
hai tay cung bái giữa thinh không
Đồng
bạch lời xin hộ trì chánh tạng
Thân
ẩn, hiện, không, thời, như điệp mộng
Gió
muôn phương ai biết dấu mà tìm
Đôi
tờ kinh để lại mở thiện duyên
Suối
nước mắt chúng sinh thay dòng mực.
Lúc
bấy giờ giữa hằng muôn triệu ức
Chư
tăng nhân pháp tử cõi trời, người
Phật
hiện thần thông tướng lưỡi rộng dài
Quang
minh chiếu rạng mười phương quốc độ
Muôn
chư Phật ngự trên tòa sư tử
Đồng
hiện thần thông vô lượng hào quang
Mười
phương vô ngại pháp giới nhất chân
Một
Phật hiện muôn phương đồng ứng hợp
Mãn
nghìn năm nghìn năm muôn cõi nước
Nhiếp
thần thông tịch lặng chuyển pháp luân
Bặt
ngôn từ diệu dụng ứng thinh âm
Ngón
tay động, như thuyết dòng vô tự
Giữa
trời không vọng vang lời thiên sứ:
Cõi
Sa Bà Phật thuyết Pháp Hoa kinh
Pháp
Đại thừa dạy Bồ Tát nhân, thiên
Niệm
quy niệm, tâm quy tâm đảnh lễ
Mưa
trút lưới châu trang nghiêm Phật địa
Hương
trầm thơm tàng lọng kết hoa trời.
Pháp
giới dung thông Phật hiện cõi người
Đồng
tâm thể, đồng không thời, tịch tịnh.
Không
phân cách hiện toàn chân thể tánh
Sắc
tướng tinh ròng ảnh hiện lung linh
Hạt
bụi hồng dung chứa đại tam thiên
Giọt
sương mỏng hiện muôn nghìn đại hải
Sợi
nắng rụng chiều đi đêm về lại
Vòng
trăng xanh dấu nửa mặt trời hồng
Tâm
đại hòa thấu suốt vạn nhân duyên
Lúc
ẩn hiện, khi mặc tình lấy bỏ
Dòng
thu gợn cuốn tràn muôn sức gió
Cọng
rêu xanh đi suốt cõi trời, người
Lưới
đế châu trùng điệp chiếu rạng ngời
Khôn
cùng tận khi một lần có mặt
Lòng
tay mở thuyết lời vô sở đắc
Dấu
hài qua ai nhớ đã bao lần
Chuỗi
thời gian kết lại mấy thu xuân
Ngày
dựng đất, tạo trời đâu từng thiếu
Nhất
niệm viên minh nghìn kinh nhập diệu.
Lúc
bấy giờ Phật dạy hàng Bồ Tát
Thần
lực Như Lai bất khả tư nghì
Chấn
động trời, rung chuyển đất mỗi uy nghi
Nếu
Ta nói hết ra không cùng tận
Vô
lượng vô biên nghìn muôn ức kiếp
Không
ngôn từ nói công đức kinh hoa
Lời
lời kinh tuyên thuyết pháp Đại thừa
Mật
yếu tạng đời đời chư Phật nói
Sắc
thanh tịnh trang nghiêm vô lượng cõi
Tâm
như như không chỗ đến, chỗ đi
Thành
tựu vô ngại đại lực trí, bi
Các
ông phải hằng thọ trì tụng đọc.
Pháp
chư Phật rạng lời châu, ý ngọc
Thân
vô biên, sắc tướng khó nghĩ lường
Như
hư không thị hiện bóng lồng gương
Người
trì niệm lời kinh như thấy Phật
Đó
là chỗ nên xây đền, dựng tháp
Bởi
vì sao? Nơi đó chính đạo tràng
Đó
là nơi chư Phật chuyển pháp luân
Nơi
chư Phật ở đây mà nhập diệt.
22.
Phẩm Đà-La-Ni
Lúc
bấy giờ Đức Bồ Tát Dược Vương
Quỳ
gối hữu, áo bày vai, bạch Phật
Bạch
Thế Tôn! Bậc thiện nhân trì tụng
Cúng
dường kinh được phước báu nhiều chăng?
Phật
dạy rằng: Thiện nam tử, nữ nhân
Hằng
đảnh lễ na-do-tha chư Phật
Ý
ông nghĩ sao?
Người
như vậy được bao nhiêu phước đức?
Bạch
Thế Tôn! Vô lượng đức nghiêm thân!.
Thật
như lời! Nếu có bậc thiện nhân
Tâm
thanh tịnh thọ trì đôi dòng kệ
Vì
chúng sinh nói câu kinh liễu nghĩa
Công
đức trên dù vậy chẳng phần hơn.
Dưới
bệ vàng, Đức Bồ Tát Dược Vương
Liền
bạch Phật xin nói lời thần chú
Đà-la-ni,
nghìn muôn chư Phật nói
Lời
hộ trì, gìn giữ kẻ chân tu.
Liền
nói chú rằng:
An
nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ,
già
lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chuyên đế, mục
đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta
lý xoa duệ, a xoa duệ, a kỳ nhị chuyên đế xa lý, đà
la ni, a lư dà bà kỵ đá tỳ xoa nhị, nễ
tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a
đàn dá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a
la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật
đà tỳ kiết lợi diệt đế đạt ma ba lợi sai đế, tăng
già niết cù sa nễ bà xá bà xá thâu địa, mạn
đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu
lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược, ác
xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a
ma nhã na đa dạ.
Phật
khen rằng: Hy hữu! Hy hữu thay!
Lời
hộ pháp vì người ban phước báu.
Lúc
bấy giờ ngài Dũng Thí Bồ Tát
Bạch
Phật rằng: Con xin được hộ trì
Vì
pháp sư nói chú Đà-la-ni
Lời
chư Phật bảo toàn người trì pháp
Liền
nói chú rằng:
Toa
lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a
lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y
trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ trí nỉ, niết
lệ trì nỉ, niết lê trì bà để.
Quỳ
gối hữu, Tỳ Sa Môn Thiên Vương
Vị
thiên chủ tầng trời nơi cõi Bắc
Vị
quản lãnh hàng Dạ Xoa, La Sát
Nguyện
giữ gìn, bảo hộ kẻ trì kinh
Nói
lời chú của hằng muôn chư Phật
Liền
nói chú rằng:
A
lê, na lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na lý.
Lúc
bấy giờ ngài Trì Quốc Thiên Vương
Quỳ
đảnh lễ Thế Tôn xin hộ pháp
Cùng
muôn ức thần linh dâng nhã nhạc
Nói
lời chú của hằng muôn chư Phật
Liền
nói chú rằng:
A
dà nễ, dà nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma
đắng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa nỉ, át để.
Mười
La Sát nói kệ dâng chư Phật
Nguyện
đồng tâm xin bảo hộ người tu
Như
kẻ nào làm não loạn Pháp sư
Đầu
sẽ vỡ bảy phần như chú nguyện
Như
phạm tội giết cha và giết mẹ
Tội
gian lường, tội phá chúng, hại Tăng
Nguyện
phò trì, mang lại sự bình an
Lìa
khổ hoạn, không nhiễm ô độc dược.
Liền
nói chú rằng:
Y
đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê
lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê,
lâu hê, đa
hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê.
Có
chi để thành, có chi để diệt
Có
diệt chăng là khổ tưởng, mê trầm
Người
chân tu thương xót kẻ loạn tâm
Thân
không thực, thinh âm nào có thực
Không
ta, người, đại từ nương Phật lực
Đưa
tay vàng đỡ lấy tiếng chê khinh Hóa
giải muôn lời ác biến thành kinh
Cầu
phước báu cho người nơi cõi tục.
Và
như vậy, đắc Vô-sinh-pháp-nhẫn.
23.
Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
Thân
tâm đảnh lễ, Tú-Vương-Hoa Bồ Tát
Bạch
Phật rằng: Thế Tôn nghìn uy đức
Con
cầu xin dòng pháp chuyển thành âm
Cõi
trời, người muốn biết hạnh khó làm
Lời
khó nguyện của Dược Vương Bồ Tát
Hy
hữu thay!
Như
mây mấy thuở nay còn về lại
Gió
bao mùa mà gió vẫn chưa đi
Mười
phương trời quang sắc rạng dung nghi
Chân
vạn dặm có bao giờ dừng nghỉ.
Phật
dạy rằng qua nghìn muôn kiếp hải
Phật
Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Như Lai
Mặt
trời hồng rạng đức tự nguyên lai
Đóa
trăng biếc ngời tịnh minh diệu tuyệt
Tâm
Bồ Tát suối trong vằng vặc nguyệt
Cây
báu kết tàng sao thắp sàng thiền
Ngọc
dựng thành, hoa trải đất trang nghiêm
Giọt
thánh thót thiên âm vời thúy trúc
Phật
thọ lượng bốn muôn hai nghìn kiếp
Luôn
vì
người thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Vị
chân nhân tu khổ hạnh đầu đà
Ngài
Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Hỷ-Kiến
Trải
lòng Từ được sắc thân đoan chính
Bóng
người tu đạp ngã vạn thành sầu
Đã
từng phen cười bể với cợt dâu
Tướng
của sắc bổn lai thường tịch diệt
Biết
thực tướng chúng sinh vô khả đắc
Biết
chân tâm, ngũ uẩn thể tánh đồng
Tận
nguồn tâm muôn pháp một bầu Không
Hiện
nhất-thiết-sắc-thân tam muội
Tướng
giả lập Sắc là Không tùy thuận
Không
nữ, không nam, không hoại, không thành
Một
pháp Không tất cả pháp đều Không
Trí
diệu dụng thần thông vô chướng ngại.
Đắc
tam muội, lòng vui mừng tự nghĩ
Được
tịnh thân từ Diệu Pháp Liên Kinh
Rải
hoa thơm nghìn cánh giữa thanh thiên
Hải
thử ngạn chiên đàn dâng cúng Phật.
Lại
nghĩ rằng: Đã đành muôn thần lực
Sánh
sao bằng đem thân mạng cúng dường
Liền
uống hương trời nghiêm tịnh sắc thân
Dùng
lụa quý cõi trời làm y phục
Lửa
tam muội lấy thân mình làm đuốc
Vầng
quang minh chiếu rạng cõi thiên, nhân
Thân
cúng dường cháy suốt cả nghìn năm
Mười
phương chư Phật viên âm khen ngợi.
Lại
hóa thân vào đền vua Tịnh Đức
Dáng
uy nghi tĩnh tọa nói kệ rằng:
Đã
từng phen hoàn nguyện bỏ nhục thân
Lòng
cầu đạo giữ tâm hằng tinh tiến
Đắc
định nhất-thiết-sắc-thân tam muội
Xưa
kinh hành chốn ấy lại sinh đây
Lại
thưa rằng:
Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức
Như Lai
Thọ
mệnh vô lượng nay còn tại thế
Đại
Vương!
Tôi
trước đã cúng dường, nghe pháp kệ
Tám
trăm nghìn muôn vạn ức tạng kinh
Đắc
Giải-Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Ngữ-Ngôn Thấy
thân tướng ẩn tàng nghìn thế giới
Thấy
sợi cỏ già nua muôn vạn tuổi
Thấy
cành thu vàng rụng một đêm xanh
Biết
rõ tâm và ngôn ngữ chúng sinh
Biết
vạn cảnh từ một tâm lưu xuất
Biết
tánh tướng đồng hiển bày như thực Nay
thân tôi lại đảnh lễ cúng dường.
Nói
dứt lời bay lên giữa hư không
Đến
chỗ Phật lạy dưới chân tán thán:
Vầng
ánh sáng tỏa mười phương chiếu rạng
Con
về đây lại được thấy dung quang.
Phật
dạy rằng:
Đã
đến thời ta thị hiện Niết Bàn
Giáo
pháp Phật ta vì ông phó chúc
Thu
xá-lợi rộng bày nghìn tháp báu
Vì
trời, người lưu lại để làm tin.
Phật
như lời nhập diệt khoảng giữa đêm
Đất
rúng động ba nghìn muôn thế giới
Ngọc
sáng như sao tượng hình xá-lợi
Ngọn
phù đồ đôi nhạn trắng vui bay
Phím
tơ ngà dường như bật muôn dây
Mười
phương Phật một đất nầy ẩn hiện
Vị
Bồ Tát sinh tâm vô hạn lượng
Nơi
thân nầy nhập bất-nhị pháp môn
Đây
chân thân, không sinh, diệt, ngã, nhân
Không
hữu, không vô, không mê, không giác
Đại
hòa tính thiện nên không làm ác
Chứng
như như không danh tự, văn ngôn
Không
chấp năng không, không chấp sở không
Thể
tánh tịch nhiên chưa hề xuất, nhập
Liền
ở trước tám muôn bốn nghìn tháp Phật
Chứng
nhập chân tâm nhất thể hồi quy
Ví
như lời nguyện đốt cháy đôi tay
Một
pháp giới, một tâm đồng chánh giác
Lửa
tam muội cháy ròng ba nghìn cõi
Chư
Thanh Văn, Duyên Giác phát đại tâm
Định
thâm vi ứng hiện sắc kim thân.
Phật
dạy rằng:
Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Hỷ-Kiến
Bồ Tát
Ứng
thân nầy là Bồ Tát Dược Vương
Đã
muôn lần, vạn kiếp phá chấp thân.
Nghìn
thế giới hiện thân, thân nào thực?
Người
cầu đạo quên thân lìa ngã, pháp
Đem
quách thành, thê tử, cõi tam thiên
Cây
xanh rừng, suối mát, núi uy nghiêm
Biển
châu ngọc cúng dường không hối tiếc
Vượt
thô ngã, pháp - muôn vàn sai biệt
Sánh
với người tâm niệm một dòng kinh
Nầy
Tú-Vương-Hoa!
Với
sông hồ, tánh biển cả bao la
Trong
các tạng kinh, Pháp Hoa thâm mật
Núi
hùng vĩ, Tu-Di-Sơn cao vút
Các
tàng kinh, Diệu Pháp nở Liên Hoa
Một
trời sao nạm ngọc đẹp trăng ngà
Nghìn
kinh điển, Pháp Hoa là tối thiện
Xóa
bóng đêm, mặt trời hồng huyền nhiệm
Kinh
Pháp Hoa phá vỡ niệm mê lầm
Như
Thánh Vương ngang dọc một kim luân
Diệu
pháp tạng được thiên, nhân tôn kính
Như
Đế-Thích, vua nước trời Đao-Lợi
Pháp
Hoa kinh là vua của các kinh
Đại-Phạm-Thiên-Vương,
cha của chúng sinh
Cũng
như vậy, Pháp Hoa sinh Phật, Thánh
Hàng
nhị thừa, Duyên Giác là tột đỉnh
Diệu
Pháp Liên Hoa, nguồn mạch Phật tâm
Hạnh
Bồ Tát vượt Duyên Giác, Thanh Văn
Pháp
Hoa hạnh có đâu rời Phật hạnh
Đấng
Pháp Vương, Như Lai là thực tánh
Pháp
Hoa kinh bè ngọc giữa biển tâm.
Nầy
Tú Vương Hoa!
Đây
tờ kinh cứu muôn vạn chúng sinh
Như
kẻ khát bao ngày nhìn thấy nước
Như
kẻ lạnh không nhà tìm được lửa
Như
kẻ nghèo được y phục che thân
Như
trẻ thơ lưu lạc gặp mẫu thân
Như
bến đợi bên sông thuyền trở lại
Như
người bệnh mỏi mòn nay được thuốc
Như
bảo châu vào tay kẻ khốn cùng
Pháp
Hoa kinh chỉ lối vượt mê trầm
Mở
dây trói vòng tử sinh, sinh tử
Nầy
Tú Vương Hoa!
Người
nghe được phẩm Dược Vương Bản Sự
Đúng
như lời mà giữ hạnh, tu tâm
Trên
sen thơm như tượng ngọc nữ thần
Cõi
An Lạc thấy Pháp Thân thường trụ
Lìa
vọng dục, tham sân si, mê đắm
Được
thần thông chứng pháp nhẫn vô sinh
Phật
hiện tiền đồng ứng diệu âm thinh
Cùng
khen ngợi: Công đức kia vô lượng
Nghìn
chư Phật nói cũng không cùng tận
Người
trì kinh phá được vạn quân ma
Đường
tử sinh như mộng những lần qua
Sức
hộ niệm hiện ra nghìn vạn Phật
Bậc
trí tuệ vượt Thanh Văn, Duyên Giác
Trụ
định thuyền Bồ Tát khó ai hơn
Người
đời sau nghe được phẩm Dược Vương
Tâm
tùy hỷ, thân thơm hoa Ưu Bát
Nầy
Tú Vương Hoa!
Như
lương dược cứu người lìa tạp loạn
Cõi
Diêm Phù phước báu được nghe kinh
Chẳng
bệnh, chẳng già, chẳng diệt, chẳng sinh
Người
biết sống, sống như kinh không khác
Miệng
nói lời kinh, tai nghe tiếng Phật
Dấu
chân qua bước bước đất thành hoa
Phá
diệt tà tâm, thổi đại pháp loa
Đánh
trống pháp độ người lìa vọng dục
Thấy
người trí, dâng sen xanh tán tụng
Biết
chẳng lâu trải cỏ chứng Bồ Đề.
Núi
Linh Sơn gió động mấy cành xuân
Mặt
trời hiện non xanh ngày về lại
Chư
Bồ Tát nhập ngữ ngôn tam muội
Hàng
thu dương nắng nhỏ giọt sương mai
Lời
muôn kinh trong tâm của muôn loài Lồng
lộng gió thành viên âm tán thán:
Hy
hữu thay! Tú Vương Hoa Bồ Tát!
Ngài
vấn kinh lợi ích đến vậy thay!
Công
đức kia thành tựu bất tư nghì.
24.
Phẩm Diệu Âm Bồ Tát Lai Vãng
Như
ánh sáng nghìn đại thiên tương hội
Biển
sóng vàng từ đảnh tướng Thế Tôn
Vầng
bạch hào chiếu vô tận thượng phương
Muôn
nước Phật cõi trời Đông vi diệu
Hằng
sa cõi đến Tịnh Quang thế giới
Phật
hiệu Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai
Trên
tòa vì người hằng chuyển pháp luân
Chư
Bồ Tát quỳ dưới chân phụng thỉnh
Như
nhật nguyệt trải dài miền đất tịnh
Tỏa
ngời thân vị Bồ Tát Diệu Âm
Dùng
vô biên đại tam muội nghiêm thân
Hạnh
Bồ Tát dúm bụi hồng phù thế
Bay
trong cõi kinh vàng ru sóng bể
Một
lần qua rồi lại những lần qua
Vô
lượng thân rụng xuống nụ tàn hoa
Mầm
nhánh mới bật chồi rung chuyển đất.
Đảnh
lễ Phật, ngài Diệu Âm Bồ Tát:
Bạch
Thế Tôn! Nay con muốn tìm qua
Đức
Thích Ca ứng hiện cõi Sa Bà
Chư
Bồ Tát, Thanh Văn đồng tụ hội
Pháp
Vương Tử- ngài Văn Thù Sư Lợi
Hạt
giống Bồ Đề gieo mảnh đất tâm.
Phật
dạy rằng: Cũng nên chớ sinh lòng
Khởi
ý tưởng cõi Diêm Phù hạ liệt
Vô
lượng chúng sinh, chẳng hư, chẳng thiệt
Phật
Thích Ca thương xót ứng hiện thân
Giáo
pháp cho người, điều phục khó khăn
Chư
Bồ Tát mang thân hình đen đúa
Chẳng
như ông- từ nhân lành kết quả
Được
sắc thân sáng rực, trí quang minh
Như
thân ta trùm khắp đại tam thiên
Sắc
thân Phật cõi Diêm Phù chẳng vậy.
Ngài
Diệu Âm bạch rằng: Như uyên hải
Con
nay qua đến cõi nước Diêm Phù
Nương
oai thần, Phật lực khối tâm hư
Nhập
tam muội dụng thần thông như ý.
Lúc
bấy giờ trên núi Kỳ-Xà-Quật
Đóa
sen thơm chen đất nở nghìn hoa
Ngó
sen vàng, cánh bạc, nhụy kim cang
Thân
Bồ Tát chẳng rời tòa bất động.
Ngài
Văn Thù bạch rằng: Xin lời Phật
Nhân
duyên gì sen trổ trước sân chầu
Một
mùi hương thoảng, một mầu Như Lai.
Phật
dạy rằng: Liên kinh hội hoằng khai
Đại
Bồ Tát Diệu Âm và thánh chúng
Từ
cõi nước Tịnh Quang vào chánh định
Hiện
sắc hoa như nhất cúng dường kinh
Ngài
Văn Thù Sư Lợi lại bạch rằng:
Cúi
xin dạy những gì là công hạnh
Vị
Bồ Tát đắc thần thông đại định
Xin
Thế Tôn cho thấy được thân Người.
Phật
dạy rằng: Đức Đa Bảo Như Lai
Như
lời nguyện sẽ chỉ bày thân tướng.
Phật
dứt lời đất mười phương rung động
Hoa
trời bay, nghìn âm điệu reo vui
Mắt
hồ sen xanh nước tịnh thêm tươi
Thân
chói rạng sắc vàng muôn công đức
Từ
đài báu ứng thân Kỳ Xà Quật
Hai
tay dâng chuỗi ngọc quý cúng dường
Bạch
lời rằng: Kính lạy Đức Thế Tôn!
Uy
đức Phật hẳn chúng sinh điều phục
Chẳng
tà kiến, tham sân si, vọng dục
Không
ghét ghen, bỏn xẻn hoặc giận hờn
Không
vô nghì hoặc chẳng kính Sa Môn
Không
chẳng nhiếp năm tình sinh tà vạy.
Đức
Đa Bảo Phật thân xin được thấy.
Phật
nối lời: Vị Bồ Tát Diệu Âm
Muốn
cúng dường, đảnh lễ Phật chân thân!
Nói
dứt lời, tiếng vang từ tháp báu:
Hy
hữu thay! Đại Đạo chẳng từng xa!
Vì
cung kính cúng dường từ Tâm hiện.
Hoa
Đức Bồ Tát bấy giờ bạch Phật
Ngài
Diệu Âm trồng gốc cội, tu nhân
Công
đức gì được tự tại thần thông
Khẩn
cầu Phật vì chúng sinh giải nói.
Phật
dạy rằng: Qua nghìn muôn kiếp hải
Cõi
nước tên Hiện Nhất Thiết Thế Gian
Phật
hiệu là Đức Vân Lôi Âm Vương
Kiếp
Hỷ Kiến- có Diệu Âm Bồ Tát
Cúng
dường Phật, tấu hằng muôn kỹ nhạc
Cùng
dâng lên bát báu số muôn nghìn
Lời
Như Lai ứng hợp diệu âm thinh
Cõi
tâm tịnh, sắc, thanh như bào ảnh.
Nầy
Hoa Đức! Xưa Diệu Âm Bồ Tát
Hiện
thân nầy cũng pháp hiệu Diệu Âm
Sắc
và thanh đâu ngoài một nguồn tâm
Tâm
tinh vẹn ví gặp hằng sa Phật.
Thanh
vô thanh- không người và không vật
Nên
vào ra vô ngại ứng muôn thân
Tùy
hạnh duyên qua lại bể trầm luân
Như
tiếng sóng vỗ đôi bờ sinh tử.
Hoặc
hiện thân Phạm Vương, thân Đế Thích
Thân
thiên vương, hoặc thân đại tướng quân
Tỳ
Sa Môn hoặc thân Chuyển Luân Vương
Thân
trưởng giả hoặc là thân cư sĩ
Thân
đồng nam hoặc hiện thân đồng nữ
Hoặc
thân trời cho đến quỷ Dạ Xoa
Hoặc
phi nhân như loài Khẩn Na La
Cửa
địa ngục, cổng thiên đường chẳng ngại.
Tiếng
kêu cứu có bao giờ dừng lại
Cõi
mê tâm người, vật nuốt ăn nhau
Cũng
là lời, là tiếng hóa thành châu
Diệu
pháp tạng từ một tâm lưu xuất.
Phật
lại dạy rằng: Hỡi nầy Hoa Đức!
Bồ
Tát Diệu Âm biến hóa muôn thân
Dùng
âm thanh mà hoán chuyển tam luân
Dâng
kỹ nhạc khiến chúng sinh nhiếp ý
Cảm
hóa tâm người đưa về nhất thể
Độ
tam đồ cũng vẫn nói kinh nầy
Hoặc
hậu cung ứng hiện bậc vương phi
Đại
thần lực đến đi không tổn giảm.
Nếu
tương ưng pháp Thanh Văn độ thoát
Liền
ứng thân người tu hạnh nhị thừa
Nếu
độ người mến thích cảnh thanh u
Rừng
suối vắng liền hiện thân Duyên Giác
Người
phát đại tâm năng cầu đại pháp
Liền
hiện thân Bồ Tát nói lục hành
Nếu
người cầu thấy Phật chuyển mê tình
Trên
đài báu hiện ngồi tòa chư Phật.
Chỗ
chúng sinh biếng lười tâm thối thất
Liền
vì người thị hiện nhập Niết Bàn
Đại
thần thông trí tuệ khó so lường
Như
đại hải, biển âm thinh vô ngại.
Lại
thưa rằng: Vị Diệu Âm Bồ Tát
Trồng
cội căn lành độ thoát thế gian
Bạch
Thế Tôn! Chánh định khó nghĩ bàn
Xin
được dạy những gì là tam muội?
Phật
lại dạy rằng: Hỡi nầy Hoa Đức!
Chánh
định là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân
Danh
vô danh, tướng vô tướng chuyển luân
Luôn
khai triển vô lậu tâm hằng hữu.
Muôn
sắc lạ tỏa ngời non Linh Thứu
Số
hằng muôn Bồ Tát trụ vô thanh
Chưa
tàn thu giậu cúc có lần xanh
Tìm
chi mải chỗ rụng cành, rơi lá
Thân
ứng hiện không quen mà chẳng lạ
Vầng
trăng non đâu chẳng đã đến đây
Một
cung cầm làm rúng động bốn dây
Một
tâm tịnh mở ra nghìn cõi tịnh.
Chứng
vô sinh bốn muôn nghìn thiên tử
Hoa
Đức Bồ Tát nhập chánh định Pháp Hoa.
25.
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát - Phổ Môn
Lúc
bấy giờ Vô Tận Ý Bồ Tát
Áo
bày vai đảnh lễ Đức Thế Tôn
Bạch
lời rằng: Đại Bồ Tát Quán Âm
Xin
Phật dạy nhân duyên sinh danh hiệu.
Phật
dạy rằng: Đại bi tâm vi diệu!
Nghe
lời than từ vô lượng chúng sinh
Người
kính tin niệm nhất niệm xưng danh
Sức
cảm ứng từ âm thanh mà hiện
Lòng
vọng dục sân si như lửa đỏ
Sông
ái ân vây bủa sóng vạn trùng
Mê
sắc tài cuồng vọng giữa bể Đông
Thuyền
phiêu bạt trên dòng sâu nghịch gió
Tâm
mải miết tìm đường hoa, lối cỏ
Say
men đời nghiêng bóng đổ lầm than
Rồi
đường ma, nẻo quỷ tiếc đêm tàn
Chút
phù bạc giam cầm như vô tận
Chấp
nhân ngã, thị phi là oán tặc
Lòng
dâm ô, kiêu mạn gốc mê lầm
Một
lời kêu cầu danh hiệu Quán Âm
Thường
cung kính tức tâm tâm như nhất
Trên
tương hợp giác tâm đồng chư Phật
Dưới
độ muôn loài mở ngục tử sinh
Cầu
thân trượng phu trí dũng, hiền minh
Cầu
thân nữ nét băng trinh như ngọc
Vô
Tận Ý! Quán Thế Âm thần lực
Chúng
sinh nên hằng lễ lạy cúng dường
Nếu
có người trì niệm Phật mười phương
Tâm
cung kỉnh trọn đời không thối thất
Công
đức sinh chẳng bao giờ mai một
Đồng
như người một lần niệm xưng danh
Bởi
vì sao? Phật đồng Phật, khác tên
Tánh
đồng Tướng vô biên công đức tạng
Ngài
Vô Tận Ý chắp tay bạch Phật:
Quán
Thế Âm ứng hiện cõi Sa Bà
Phổ
độ sáu đường sinh tử lại, qua
Dụng
phương tiện thế nào mà vô ngại?
Phật
dạy rằng: Lực Từ vào biển ái
Đắc
Kim Cang tam muội ứng muôn thân
Kẻ
mê lòng khởi kiến chấp ngã, nhân
Hiện
nghìn tướng hóa thân từ thực tướng
Ví
có Bồ Tát vào Tam Ma Địa
Tu
pháp môn vô lậu bậc Trung thừa
Hằng
xa lìa phiền não, bỏ ghét, ưa
Liền
thị hiện Phật thân mà thuyết đạo
Hàng
hữu học đạt tịch minh thâm áo
Liền
hiện thân Độc Giác thuyết minh kinh
Đoạn
nhân duyên được thắng giải hiện tiền
Liền
đem pháp đại bi mà thuyết giảng
Người
trì giới tu hạnh môn nhập diệt
Đạt
pháp Không, Tứ Thánh Đế Nhị thừa
Liền
hiện thân giới, định, tuệ Thanh Văn
Thuyết
liễu nghĩa khiến cho người giải thoát
Nếu
có chúng sinh mến thân trong sạch
Liền
hiện thân thanh tịnh của Phạm Vương
Nếu
có người cầu cảnh giới Thiên cung
Thân
Đế Thích lại vì người mà hiện
Nếu
người cầu có được thân thần biến
Liền
hiện thân Đại Tự Tại Thiên Vương
Nếu
người cầu bay bỗng khắp mười phương
Liền
hóa hiện thân Thiên Vương Tự Tại
Nếu
người cầu thân anh hùng trí dũng
Liền
hiện thân vị Thiên tướng cõi trời
Nếu
như người muốn điều ngự bốn phương
Liền
thị hiện Tứ Thiên Vương thân tướng
Nếu
như người cầu thiên binh vạn tướng
Sai
khiến quỷ thần, thống lĩnh Thiên cung
Liền
ứng hiện thân Thái tử Thiên vương
Thuyết
chánh pháp khiến được như ý nguyện
Nếu
có người cầu hoàng cung ngọc điện
Liền
vì người hóa hiện sắc thân vua
Nếu
như người cầu thiên tứ vạn chung
Liền
thị hiện ứng thân người trưởng giả
Nếu
như người thích văn đàn tao nhã
Liền
hiện thân cư sĩ luận đàm kinh
Nếu
như người thích quản trị, điều hành
Liền
ứng hiện thân Tể quan thuyết đạo
Nếu
như người thích suy tầm số thuật
Liền
hiện người tu hạnh Bà la môn
Nếu
như người cầu trí tuệ cửa Không
Liền
hóa hiện thân người tu tịnh hạnh
Nếu
như có thiện nữ nhân, nam tử
Lòng
kính tin ngũ giới nhất tâm trì
Liền
hiện thân Ưu bà tắc, Ưu bà di
Thuyết
thiện pháp khiến người mau thành tựu
Hóa
hiện giai nhân gần ngôi Vương hậu
Hướng
tâm người đoan chính chốn phòng loan
Nếu
có người đồng nữ hoặc đồng nam Trí
tinh vẹn, liền ứng thân thuyết đạo
Nếu
có chư Thiên biết thiên đình huyễn ảo
Liền
hóa thân thiên nữ hoặc kim đồng
Như
gấm thêu lụa dệt sắc mây lồng
Cõi
phước báu có sinh thì có diệt
Nơi
bể thẳm vẫy vùng đà thấm mệt
Loài
rồng thiêng nay chẳng muốn trứng rồng
Liền
ứng thân vào tận cửa long cung
Thuyết
chánh đạo đổi thành thân trí hạnh
Loài
quỷ dữ sinh tâm cầu thân tịnh
Liền
tùy tâm ứng hiện cõi Dược Xoa
Nếu
nhạc thần Đế Thích Càn Thát Bà
Bỏ
ý tưởng chấp thân là cố định
Liền
hóa hiện tương tợ thân thiện hạnh
Thuyết
lời kinh như tháo củi mở lồng
Nếu
như lòng sân hận cõi Thiên ma
Bỏ
tâm chấp liền ứng thân cứu giúp
Nếu
như Khẩn Na La thần âm nhạc
Nghe
âm giai biết thực tướng âm thinh
Liền
hóa thân tương tợ thuyết lời kinh
Chánh
pháp tạng có đâu rời cung bậc
Nếu
như đại mãng xà bỏ tâm hung độc
Nghe
Phật danh liền quy niệm nhất tâm
Như
tâm Từ liền tương tợ ứng thân
Thuyết
đại pháp bỏ thân nhiều oán trược
Nếu
như người thích vun bồi cội phước
Thích
sinh thân qua lại cõi nhân gian
Sắc
là niệm, niệm khởi ứng nghìn thân
Thuyết
phước báu được thân người gặp Phật
Nếu
có chúng sinh vô hình, vô hữu tưởng
Muốn
thoát vòng ràng buộc của thức tình
Dòng
vọng tâm như trường dạ minh minh
Liền
ứng hiện tương tợ thân thuyết giảng.
Nầy
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát
Dùng
vô tác diệu lực tam muội Kim Cang
Mở
Bi tâm với tất cả chúng sinh
Phát
thệ nguyện làm mất lòng kinh sợ
Mười
bốn pháp ban bố tâm vô úy
Quán
tâm người năng quán được âm thinh
Xoay
thấy nghe về tự tánh bổn sinh
Vào
nước lửa Pháp Thân nào tổn hoại
Vọng
tưởng diệt chân tâm là thường trụ
Ví
như người đi giữa lũ yêu ma
Có
bao giờ quỷ mị ngự tâm ta
Lực
vô ngại vào ra muôn ức cõi.
Luôn
huân tập Cái Nghe về bản tánh
Đem
sáu căn về lại một Tánh Nghe
Khiến
chúng sinh đương lúc bị lâm nguy
Đao
gãy đoạn như chạm vào sắt thép
Nước
tĩnh lặng chỉ hoài công kiếm bén
Tánh
nguyên lai chẳng lay động bao giờ
Một
Tánh Nghe rỗng suốt cõi thiên thu
Xóa
bóng tối u đồ bừng tuệ nhật
Nghe
như không nghe, tiếng như không tiếng
Âm
thinh trần nguyên hiện tánh âm thinh
Những
gông cùm xiềng xích chốn ngục hình
Chẳng
giam nổi thánh tâm người đạt Đạo.
Tiếng
theo tiếng trả về cho tĩnh lặng
Thuần
Tánh Nghe viên mãn chẳng đến đi
Đại
lực Từ viên mật suốt trong ngoài
Cảnh
đối cảnh, người đối người an lạc
Vững
vàng như núi ai người nhổ được
Lìa
sắc thanh, vọng dục vướng chi chân
Căn
cảnh viên dung không sở, không năng
Ai
người nói ai người nghe đối đãi
Lìa
sân hận không ta, người, khôn, dại
Biết
cảnh trần hư dối tướng đến, đi
Pháp
giới, thân tâm như minh nguyệt lưu ly
Tâm
mông muội san bằng như thạch bích
Muôn
cõi tịnh đạo tràng là thế giới
Vào
thế gian chẳng hoại pháp thế gian
Pháp
tử mười phương đảnh lễ cúng dàng
Là
trí tuệ đồng hằng sa chư Phật
Lục
căn viên thông, cảnh tâm bất nhị
Như
mặt gương hiện rõ nghiệp chúng sinh
Vô
lậu căn thân, kính trí Đại Viên
Thể
tròn sáng tánh Không Như Lai Tạng
Tri
kiến đồng Phật hiện thân đồng Phật
Vào
tận mật ngôn, mật ngữ Như Lai
Sinh
ra Văn-Thù nhiều đến sáu mươi hai
Số
hạt cát sông Hằng nghìn thế giới
Trăm
ức mặt trời hiện trăm ức cõi
Vòng
trăng xanh nguyệt chiếu mỗi song mây
Pháp
Như Lai tùy phương tiện mãn khai
Tùy
căn tánh chúng sinh mà thuyết giáo.
Đắc
nhĩ căn viên thông vô thượng đạo
Vô
tác thần thông diệu đức bất tư nghì
Bửu
giác viên dung Kiến, Văn, Giác, Tri
Thân
ứng hóa trên đường mây, bóng lá
Hiện
tám muôn bốn nghìn hình tướng lạ
Khi
từ bi, khi định, tuệ, oai nghi
Nói
vô biên thần bí tạng chân ngôn
Vào
biển khổ hải triều âm bất tuyệt
Cảnh
hóa trần ví mây che mặt nguyệt
Do
Văn, Tư đã đối cảnh vô tâm
Như
âm thinh vượt tường vách che ngăn
Hiện
thần dụng lướt trên ngàn mẫu tự
Tín
tâm minh vượt vạn trùng sóng dữ
Lòng
kinh nghi khiếp hãi được bình an
Chút
thịt xương kết hợp gọi là thân
Người
tịnh hạnh đã từng phen buông xã
Như
trí Phật trang nghiêm nghìn cõi nước
Như
tâm Từ hiện Như Ý bảo châu
Cảnh
trời, người ba cõi nhiếp tâm tu
Thấy
Phật lực như sở cầu ứng hiện.
Bậc
Tịnh Thánh chúng sinh thường tâm niệm.
Lúc
bấy giờ Vô Tận Ý Bồ Tát
Bạch
Phật rằng: Nay xin được cúng dàng
Hai
tay dâng chuỗi Anh Lạc nơi thân:
Xin
Ngài nhận chuỗi ngọc là pháp thí.
Bồ
Tát Quán Thế Âm liền từ chối
Lại
thưa lời: Xin mở lượng xót thương!
Phật
dạy rằng: Đã phát nguyện cúng dường
Xót
sinh tử nên vì người thọ nhận!
Bồ
Tát y lời tiếp thu chuỗi ngọc
Trên
tay vàng phân chuỗi ngọc làm hai
Một
phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni
Phần
còn lại dâng tháp Đa Bảo Phật.
Lúc
bấy giờ ngài Trì Địa Bồ Tát
Tán
thán rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn!
Đạo
nghiệp tự tại thị hiện phổ môn
Tất
cả pháp viên dung trong một pháp
Phước
đức nghe kinh lấy gì tương xứng
Chuyển
pháp luân nay lại có nhân duyên.
Mặt
trời hồng rực rỡ đóa tuệ quang
Chư
thánh chúng phát tâm vô thượng giác
Một
đất tâm diệu kỳ sinh vạn vật.
26.
Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự
Lúc
bấy giờ Phật dạy hàng đại chúng
Bất
khả tư nghì số kiếp lâu xưa
Vân
Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai
Kiếp
Hỷ Kiến, Quang Minh Trang Nghiêm cõi nước
Đại
vương tên Diệu Trang Nghiêm trị quốc
Phu
nhân là Tịnh Đức có hai con
Tịnh
Tạng, Tịnh Nhãn, trí đức thần thông
Hạnh
Bồ Tát, tịnh tu ba la mật
Đắc
chánh định được trang nghiêm tam muội
Phật
trải tòa thuyết Diệu Pháp Hoa Kinh
Giáo
pháp cho vua và vô số chúng sinh
Dìu
dịu nắng lung linh trên nhánh lá.
Lúc
bấy giờ Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn
Chắp
tay thưa cùng với đức phu nhân
Cầu
xin người đến lễ lạy cúng dường
Liên
kinh hội Phật ra đời khó gặp.
Phu
nhân dạy rằng: Cha con không cầu Phật
Hãy
đến thưa người, sau sẽ cùng đi
Hai
người con vâng lời mẹ, chắp tay
Mà
than rằng: Chúng con là pháp tử
Nhân
duyên gì lại sinh nơi tà kiến!
Mẹ
dạy lời: Hãy thương tưởng cha con
Nên
vì người mà hóa hiện thần thông
Cha
thấy được hẳn sinh lòng khâm phục Được
tín tâm sẽ cùng đi đến Phật.
Vâng
theo lời bay lên giữa hư không
Hiện
một thân rồi lại hóa muôn thân
Trên
thân tuôn nước, dưới thân bừng lửa
Khi
ẩn tàng, khi hiện thân lớn, nhỏ
Đi
vào lòng đất tựa giữa nước trong
Sức
thần thông dụng lực một đất tâm
Hạnh
phương tiện khiến tâm người điều phục.
Diệu
Trang Nghiêm Vương chắp tay hoan hỷ:
Ai
là người đã giáo pháp các con?
Cùng
thưa là Đức Phật Vân Lôi Âm
Hiện
chuyển pháp dưới cội cây bảy báu
Vua
liền nói: Ta muốn cùng thấy Phật.
Hai
người con liền đến chỗ phu nhân
Chắp
tay thưa rằng: Cha đã phát tâm!
Nay
xin mẹ thuận lòng cho thí phát.
Lại
nói kệ rằng: Như hoa Ưu Đàm Bát
Linh
Thụy hoa nhiều kiếp nở một lần
Phật
trụ đời càng lại khó thấy hơn
Bộng
cây nổi rùa mù đâu thường gặp
Phước
sâu dày sinh đời nầy gặp Phật.
Phu
nhân nói rằng: Lời thật vậy thay!
Lúc
bấy giờ ở nơi chốn hậu cung
Hằng
vô số người người kham thụ pháp
Đã
từ lâu xưa Tịnh Nhãn Bồ Tát
Đắc
định thần thông tam muội Pháp Hoa
Ngài
Tịnh Tạng hằng muôn kiếp lại, qua
Đắc
được chánh định Ly-Chư-Ác-Thú
Đưa
chúng sinh xa lìa muôn đường dữ
Một
nhánh tâm chia lục đạo, tam đồ
Một
tàng kinh sáu cõi nhập đại thừa
Ngài
Tịnh Đức đắc Phật tâm đại định
Chư-Phật-Tập
tam muội là diệu tịnh
Vào
thâm sâu dược-tạng của tâm Không
Tại
đạo tràng đảnh lễ nhiễu ba vòng Đầu
mặt lạy dưới chân người đại giác.
Đức
Vân Lôi Âm vì vua nói pháp
Thuyết
diệu kinh được lợi ích vui mừng
Diệu
Trang Nghiêm Vương cùng với phu nhân
Mở
chuỗi ngọc cúng dường trên thân Phật.
Giữa
hư không ngọc châu ngời ánh sáng
Hóa
báu đài bốn cột trụ uy nghiêm
Như
tượng vàng, Phật ngự giữa thanh thiên
Như
tám thức đã chuyển thành bốn trí.
Trên
bửu đài Sắc và Tâm bất nhị
Trụ
hư không Sự và Lý nhất chân.
Lúc
bấy giờ, ngài Diệu Trang Nghiêm Vương
Khởi
tâm niệm: Phật sắc thân vi diệu!
Tánh
tướng nhất như, tri tâm nhập đạo
Đức
Vân Lôi Âm nhìn tứ chúng dạy rằng:
Các
người thấy Diệu Trang Nghiêm Vương chăng
Giữ
pháp Phật làm tỳ khiêu hóa đạo
Thành
Phật vào Đại-Cao-Vương thiện kiếp
Hiệu
Ta-La-Thụ-Vương, cõi nước Đại-Quang
Vô
lượng chúng sinh, Bồ Tát và Thanh Văn
Cõi
tịnh hạnh đủ đầy muôn công đức.
Vua
nghe Phật, nhìn dòng đời sơ bạc
Liền
truyền ngôi, giao nước lại cho em
Sợi
tóc xanh ngó lại đã điểm sương
Kiếm
trí huệ cắt lìa ngang búi tóc
Vua
cùng phu nhân, tùy tùng, quyến thuộc
Và
hai con lập chí nguyện xuất gia
Tám
muôn bốn nghìn năm trì hạnh Pháp Hoa
Đắc
Nhất-Thiết-Tịnh-Công-Đức-Trang-Nghiêm tam muội
Bay
lên giữa hư không nói lời tán tụng
Bậc
thiện nhân đã hóa hiện làm con!
Dụng
thần thông hoán chuyển được tà tâm
Tịnh
phước báu từ thân sinh diệu đức.
Phật
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
Bảo
vua rằng: Thật vậy, thiện nam nhân!
Ví
có người cội phước khéo vun trồng
Thiện-tri-thức
đời đời thường được gặp.
Là
đại nhân duyên mở bày Phật pháp.
Nầy
đại vương! Như hai người Bồ Tát
Tại
cung vàng hóa hiện thọ thân sinh Từng
cúng dường, trì tụng Pháp Hoa kinh
Sinh
bất cứ nơi nào đều gặp Phật
Lòng
thương xót những chúng sinh tà kiến
Lập
hạnh duyên qua lại chuyển nghiệp luân
Lúc
bấy giờ ngài Diệu Trang Nghiêm Vương
Từ
hư không bước đến nói kệ rằng:
Đức
Như Lai đảnh tướng một màu trăng
Mắt
dài rộng như cánh sen xanh biếc
Tướng
bạch hào đẹp như vòng Kha nguyệt
Những
hạt răng như bạch ngọc sáng trong
Như
trái tần-bà tươi sắc môi hồng.
Dứt
lời kệ vua chắp tay bạch Phật
Bạch
Thế Tôn! Thật chưa từng có vậy!
Pháp
Như Lai vi diệu bất tư nghì
Mỗi
mỗi lời khuyến dạy dứt lòng nghi
Được
chánh pháp con từ nay an ổn
Chẳng
tự theo tâm hành sinh kiêu mạn
Chẳng
ôm lòng tà kiến hoặc giận hờn.
Phật
Vân Lôi Âm nhìn xuống đạo trường:
Diệu
Trang Nghiêm Vương phải đâu người khác!
Thọ
sinh thân nầy là Hoa-Đức Bồ Tát
Quang-Chiếu-Trang-Nghiêm-Tướng
là Tịnh Đức phu nhân
Tịnh
Tạng và Tịnh Nhãn là Dược Thượng, Dược Vương
Vị
thuốc chúa hằng vì người hóa hiện
Cõi
trời người nên sinh tâm cung kính.
Vòng
thế sự ví lòng người chẳng bạc
Cỏ
Cát Tường hẳn Bồ Tát chẳng sinh.
Nhuốm
chút phong hầu tấc dạ đã mê
Ngọc
chôn ngọc, mai vùi mai chẳng rõ.
Một
Phật cũng Không, chín địa vì người mà có
Muôn
thánh nghìn hiền như phiến sao băng
Cõi
thế tình tròn khuyết mấy lần trăng
Còn
một ít lá khô làm chân lý.
Phật
không là Trí, chẳng không không Trí
Bức
mê đồ lãng đãng bóng Sắc, Danh
Con
mắt pháp chứng thực tướng Vô Sinh
Gọi
bốn trí thể tánh đồng, tên khác.
27.
Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát
Như
âm điệu trên muôn trùng sóng nước
Mở
ra nghìn tiếng tơ đồng như bay
Cõi
trời Đông sen báu trổ hồng tay
Đất
rúng động, ngài Phổ Hiền xuất hiện
Chư
đại Bồ Tát số không tính kể
Chư
thiên nhân, thần nhạc, quỷ Dạ Xoa
Uy
đức thần thông hiện cõi Sa Bà
Non
Linh Thứu nhiễu quanh vòng đảnh lễ
Bạch
Phật rằng: Xa nghe dòng pháp kệ
Phật
độ là Bảo-Uy-Đức-Thượng-Vương
Vô
lượng chúng sinh, Bồ Tát số hằng muôn
Cùng
tụ hội cúi xin lời của Phật
Ví
như người thiện nam và thiện nữ
Công
đức gì trì được Pháp Hoa kinh?
Phật
dạy rằng: Thiện nam tử, nữ nhân
Được
bốn pháp sau đây mà thành tựu
Một
là được chư Phật hằng hộ niệm
Hai
là trồng cội gốc đức ân sâu
Ba
là vào chánh định chẳng loạn tâm
Bốn
là phát đại bi tâm cứu thế.
Đại
Hạnh Phổ Hiền phát lời nguyện thệ
Bạch
Thế Tôn! Trong đời ác về sau
Người
thụ trì diệu pháp tạng vô cầu
Nguyện
gìn giữ, hộ trì muôn khổ hoạn
Trừ
diệt tà ma hôn trầm mê loạn
Hai
mươi mốt ngày chẳng kể gần, xa
Trên
tượng vương sáu ngà hóa hiện ra
Cùng
chư Bồ Tát cúng dường, thủ hộ.
Một
dòng kệ, một câu kinh chẳng rõ
Liền
vì người tháo mở chỗ ngại nghi
Kiên
cố tâm vào được đà-la-ni
Lòng
hoan hỷ càng sinh tâm tinh tiến.
Liền
nói chú rằng:
A
đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế,
đàn
đà cưu xá lệ đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ,
tu
đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát
bà đà la ni a bả đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu
la bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng
già bà đà địa, đế lệ a nọa tăng già đâu lược, a
la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam
ma địa dà lan địa, tát
bà đạt mạ tu ba lợi sát đế, tát
bà tát đõa lâu đà kiêu xá lược, a
nâu dà địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.
Lại
bạch rằng: Nếu Bồ Tát được nghe
Phải
nên biết sức Phổ Hiền chú nguyện
Người
ghi nhớ, hành trì và đọc tụng
Đó
là người tu đại hạnh Phổ Hiền
Người
chép kinh đổi kiếp thọ sinh thiên
Gốc
công đức được Như Lai quán đảnh
Đội
mũ ngọc quỳnh thân trời, tâm thánh
Bốn
muôn tám nghìn thiên nữ hòa vui
Người
trì tu lý giải nghĩa chân kinh
Thân
sau cuối được gặp nghìn chư Phật
Lại
thọ sinh nơi cảnh trời Đâu Suất
Vào
trong dòng quyến thuộc bậc Đại Tiên
Di
Lặc Bồ Tát thân tướng uy nghiêm
Chư
thánh chúng dưới tòa vàng chiêm bái
Bạch
Thế Tôn! Con
dụng thần lực bảo trì, lưu bố
Cõi
Diêm Phù khiến chẳng để suất khinh
Người
giữ kinh ví biết giữ trí mình.
Phật
dạy rằng: Như Phổ Hiền đại hạnh
Đã
tựu thành bất khả thuyết đức ân
Kiếp
lâu xưa vô thượng đạo phát tâm
Cũng
như thế! Phật giữ người tịnh đức
Phải
nên biết người thuyết minh diệu pháp
Chẳng
khác người hằng thấy Đức Như Lai
Như
nụ sen hồng từ kim khẩu mãn khai
Là
người vì pháp cúng dường tối thượng.
Người
như vậy tâm đã lìa sắc tướng
Chẳng
còn ưa năm món dục trong đời
Thấy
thân mình cũng chẳng khác thân người
Thấy
nghìn cõi cũng vào trong một cõi.
Năm
trăm năm sau Như Lai diệt độ
Cội
bồ đề trải cỏ phá quân ma
Chuyển
pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa
Rưới
pháp vũ, đắp y vàng của Phật. Nầy
Phổ Hiền!
Chúng
sinh thấy người hành trì kinh điển
Lại
sinh lòng oán ghét hoặc khinh khi
Phải
biết rằng quả báo tại đời nầy.
Phật
dứt lời số hằng sa Bồ Tát
Đắc
vô biên vô lượng đà la ni
Hạnh
Phổ Hiền đầy đủ đại tam thiên.
28.
Phẩm Chúc Lũy
Lúc
bấy giờ Phật từ pháp tòa đứng dậy
Đưa
cánh tay vàng hiện lực thần thông
Đặt
trên đầu Bồ Tát nói lời rằng:
Từ
vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp
Hằng
tu trì tối thượng thừa khó được
Nay
Ta đem phó chúc lại các ông
Vì
thương chúng sinh nên phải nhất tâm Trải
chánh pháp vào giữa lòng nhân thế.
Phật
lập lại đến ba lần như vậy
Lại
dạy rằng: Các ông không cầu Phật
Mà
chỉ nên cầu trí tuệ Như Lai
Trí
tự nhiên có sẳn ở mỗi người
Đã
khai thị gắng mở tâm ngộ nhập.
Đức
Như Lai không có lòng cố chấp
Không
lo âu, sợ sệt một điều gì
Vầng
Như Lai là ánh sáng đại bi
Là
thí chủ cúng dường kinh Diệu Pháp.
Hỡi
nầy tứ chúng! Hỡi nầy Bồ Tát!
Mang
Phật vào đời diễn nói không lầm
Nghìn
năm sau thiện nam tử, nữ nhân
Tin
Phật tuệ các ông nên thí pháp
Vì
người ấy nói Liên Hoa Diệu Pháp
Chỉ
cho người đại đạo ngón tay hoa
Chỉ
cho người trí Phật sẳn trong ta
Một
sợi tóc chẻ hai đường mê, ngộ.
Nếu
có người chẳng tin mình tự độ
Chẳng
tin mình có tri kiến Như Lai
Chớ
quên rằng giáo hóa quãng đường dài
Dụng
phương tiện chỉ bày cho khế hợp
Được
như vậy tức báo ân chư Phật.
Chư
đại Bồ Tát nghiêng mình cung kính
Cùng
chắp tay hướng về Đức Thế Tôn
Thưa
lời rằng: Chúng con nguyện nhất tâm!
Ba
lần lạy, ba lần đồng kính bạch.
Lúc
bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật
Đưa
phân thân hóa Phật khắp mười phương
Trở
về nơi bản quốc, nói lời rằng:
Ứng
thân Phật đã về nơi tùy dụng
Pháp
Thân Đa Bảo lại hoàn như cũ!
Phật
dứt lời muôn cõi nước vui mừng.
Đính
Chính
*
...
đôi tàng kinh cũ,
đôi
lời huyết âm.
Từ
Hoa
tuhoaalannha@yahoo.com
|