Chương II: Cách Chuẩn Bị Chết

10/12/20193:46 CH(Xem: 2889)
Chương II: Cách Chuẩn Bị Chết

Tủ Sách Bảo Anh Lạc 30
CÁCH CHUẨN BỊ CHẾT
SANGYE KHADRO
 (Song ngữ: Việt –Anh)
Chuyển ngữ: TN Giới Hương
Nhà Xuất Bản Hồng Đức

   

 

CHƯƠNG 2
CÁCH CHUẨN BỊ CHẾT

 

1.Bốn Nghệ Thuật của Sống và Chết

Christine Longaker, một phụ nữ người Mỹ với hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc với người chết, đã đưa ra bốn cách giúp chúng ta chuẩn bị cho cái chết, cũng như để sống một cuộc sống viên mãn và đầy ý nghĩa. Bốn nghệ thuật của sống và chết là:

a) Hiểu và chuyển hóa khổ đau: về cơ bản, điều này có nghĩa là sẽ chấp nhận các thử thách, khó khăn và trải nghiệm đau đớn bởi lẽ đây là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc sống và học cách đối phó với chúng. Nếu có thể học cách đối phó với những đau khổ nhỏ hơn mà chúng ta đã trải qua trong cuộc sống thì sẽ có khả năng tốt hơn để đối phó với những đau khổ lớn hơn mà chúng ta sẽ phải đối mặt khi chúng ta chết.

Chúng ta có thể tự hỏi mình: Tôi sẽ đối phó thế nào khi gặp những khó khăn về thể chất hay tinh thần, xảy ra với tôi? Có phải cách của tôi có phản ứng lành mạnhtốt đẹp không hay làm sao để cải thiện? Tôi có thể học cách nào để đối phó tốt hơn với các vấn đề này?

Truyền thống Tây Tạng đề nghị một số pháp tu bao gồm kiên nhẫn, quán niệm về nghiệp, từ bi, và cho-nhận (“tonglen” —xem phần phụ lục 1). Nhiều giải thích chi tiết về pháp tu này có thể được tìm thấy trong cuốn Chuyển Hóa Phiền Não Thành An Vui do Lama Zopa Rinpoche biên soạn (Nhà Xuất Bản Wisdom [Trí tuệ], Boston, 1993).

b) Tạo kết nối, chữa lành các mối quan hệ và buông xả: Cách này đề cập mối quan hệ của chúng ta với những người khác, đặc biệtgia đình và bạn bè. Điểm chính ở đây là học cách giao tiếp một cách trung thực, thương yêu, độ lượng, và dùng những đức tánh này để giải quyết bất kỳ khó khăn tồn đọng nào mà chúng ta có thể có với những người khác.

Hãy quán niệm mối quan hệ của chúng ta với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, v.v. Còn có bất kỳ vấn đề nào chưa được giải quyết không? Làm thế nào chúng ta có thể bắt đầu để giải quyết những vấn đề này?

Gợi ý: Xem Quán niệm về Tha thứ (xem Phụ Lục 2 ở cuối sách này) để giải quyết vấn đề.

c) Chuẩn bị tinh thần cho cái chết: Christine viết:

“Mọi truyền thống tôn giáo đều nhấn mạnh về chăm sóc tinh thần chuẩn bị cho cái chết, nhưng điều quan trọng chúng ta cần thực hành ngay bây giờ một sự tu tập tâm linh hằng ngày, ăn sâu trong tạng thức để nó trở thành một phần của thịt xương của chúng ta, để luôn giác tỉnh khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, kể cả khi đối mặt với những khổ đau.”[1] 

Dưới đây có trình bày một số các phương pháp thực hành tâm linh trong truyền thống Phật giáo như sau:

Quán sát: cố gắng tưởng tượng chính mình đang ở vào thời điểm chết - những suy nghĩcảm xúc nào sẽ xuất hiện trong tâm trí lúc bấy giờ (cận tử nghiệp)? Có bất kỳ ý tưởng hay thực hành tâm linh nào mà chúng ta đã học hoặc có kinh nghiệm nào sẽ mang đến sự chánh niệmtự tại cho chúng ta vào thời điểm đó không?

  • d) Khiến đời sống ý nghĩa: Nhiều người trong chúng ta trải qua cuộc sống mà không có một ý tưởng rõ ràng về mục đíchý nghĩa của sự tồn tại của mình là gì. Sự thiếu hiểu biết này có thể trở thành một vấn đề khi chúng ta già đi và gần chết hơn, bởi vì chúng ta trở nên ít có khả năng tự lực và khả năng lệ thuộc vào người khác nhiều hơn. Vì vậy, thật quan trọng để tìm những đáp án cho những câu hỏi như: “Mục đích sống của tôi là gì? Tại sao tôi ở đây? Điều gì là quan trọng và không quan trọng?

Bốn cách này được giải thích đầy đủ trong cuốn sách: “Đối mặt với cái Chết và Theo Đuổi Hy vọng” của Christine Longaker (NY: Doubleday, và London: Century, 1997) trang 37- 157.

2. Sống Đạo Đức

Trải nghiệm đau đớn hay sợ hãi đã xảy ra vào thời điểm chết và sau khi chết là do kết quả của hành động hoặc nghiệp báo xấu. Để ngăn chặn những trạng thái xấu như vậy, chúng ta cần phải chuyển hóa những hành động tiêu cực thành tích cực hướng thượng nhất có thể. Ví dụ, chúng ta có thể cố hết sức để tránh mười điều bất thiện (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, vu khống, tán gẫu, tham lamtà kiến...) và thực hành mười điều thiện (không sát sanh, không trộm cắp, v.v... và ngược lại với mười điều ác). Thêm vào đó, hằng ngày phát nguyện trì giới luật và giữ trai tịnh cũng rất tốt.

Một khía cạnh khác của đạo đức Phật giáochánh niệm hộ trì tâm để giảm thiểu những nguyên nhân sanh khởi các ác hạnh: vọng tưởng hay phiền não, chẳng hạn như tham, sân, kiêu mạn, v.v... Và thường quán niệm về cái chết cũng là một trong những phương thuốc giải độc hiệu quả nhất cho các vọng tưởng.

Để minh họa cho điều này, xin kể một câu chuyện như sau: có một người phụ nữ mắng đứa trai cô trước khi cậu bé cùng chồng của cô đi câu cá. Sau đó, thật bất hạnh con trai đã bị chết trên chuyến đi đó. Chúng ta có thể làm dịu cơn đau mà người mẹ phải chịu đựng - không chỉ cô ấy mất con trai, mà những lời cuối cùng mà cô ấy nói với  con mình là những điều tức giận la mắng.

Không có cách để biết khi nào cái chết sẽ xảy ra cho chính chúng ta hay người khác. Mỗi lần chúng ta chia tay với ai đó, ngay cả trong một thời gian ngắn, cũng không có sự chắc chắn rằng chúng ta sẽ gặp lại họ nữa. Nhận ra điều này có thể giúp chúng ta tránh được những cảm xúc tiêu cực và giúp giải quyết càng nhanh càng tốt những xung đột bất đồng với những người khác. Điều đó sẽ đảm bảo rằng chúng ta không chết với những gánh nặng đó trong tâm trí của chúng ta, hoặc chúng ta sẽ không sống trong hối tiếc khi chưa có cơ hội xin lỗi với người chết.  

Ngoài ra, khi tiếp cận gần cái chết, tốt nhất chúng ta nên bắt đầu chia tài sản của chúng ta hoặc ít nhất là có một di chúc để lại. Làm như vậy vào lúc chết sẽ giúp giảm bớt tham luyếnlo lắng (“Điều gì sẽ xảy ra cho tất cả tài sản của tôi?” “Ai sẽ lấy cái gì?”)

Học những giáo lý tâm linh như những lời dạy của Đức Phật sẽ giúp chúng ta vượt qua những vọng tưởngác hạnh, và sẽ giúp chúng ta trở nên trí tuệtừ bi hơn. Hơn nữa, càng hiểu về thực tại hay sự thật - bản chất của nhân thế, vũ trụ, nghiệp lực, khả năng phát triển tâm linh của chúng ta và làm thế nào để tăng trưởng các chức năng này, v.v... thì sẽ khiến chúng ta ít sợ chết hơn.

3.Tu Tập

Khi cận tử nghiệp đến, chúng ta có thể thấy mình đang trải qua sự khó chịu và đau đớn về thể chất. Thêm vào đó, chúng ta cũng có thể trải qua những suy nghĩcảm xúc quấy rầy, chẳng hạn như hối tiếc về quá khứ, lo sợ về tương lai, nỗi buồn về xa lìa người thân và tài sản của chúng ta, và sân giận về những vận mệnh đang xảy ra với chúng ta. Như đã đề cập ở trên, điều rất quan trọng để giữ tâm của chúng ta thoát khỏi những vọng tưởng như vậy, và thay vào đó, nên có suy nghĩ hướng thiện vào thời điểm cận tử nghiệp. Những tư tưởng thiện như:

i) Quán niệm một đối tượng đáng kính của chúng ta như Đức Phật hay Đức Chúa Trời.

ii) Bình tĩnh chấp nhận cái chết đến với chúng ta và những vấn đề liên quan đến cái chết.

iii) Không tham luyến vào những người thân và tài sản của chúng ta.

iv) Vui với cuộc sống mà mình đã sống và nhớ những điều tốt đẹpchúng ta đã làm.

v) Cảm thấy thông cảmyêu thương những người khác.

Để có thể khơi dậy những tư tưởng hướng thượng vào lúc cận tử nghiệp, chúng ta cần phải quen dần với những quán niệm như trên. Để quen thuộc với trạng thái tích cực của tâm phụ thuộc vào việc đặt thời giannỗ lực vào sự thực hành tu tập tâm linh khi chúng ta còn sống thì thời điểm tốt nhất để bắt đầu là bây giờ, vì chúng ta không có cách nào để biết khi nào cái chết sẽ đến với mình.

Phật giáo đề nghị một số phương pháp cần tu tập như:

     a) Quy Y

Trong Phật giáo, quy y là sự tin tưởng và nương tựa vào Tam Bảo (ba điều quý báu: Phật, Pháp và Tăng), với tấm lòng chân thành tu họcthực hành những lời dạy của Đức Phật. Quy y là có một chỗ nương tựa về tinh thần ngay cả được quy y vào lúc cận tử nghiệp cũng là gieo một chủng tử tốt giúp chúng ta có được một sự tái sinh may mắn và tránh một đời sống bất hạnh ở kiếp lai sanh. [2] Tin một bậc đạo sư nào đó hoặc một vị Phật hay Bồ Tát cụ thể như Đức Phật A Di Đà hay Bồ Tát Quan Âm, cũng sẽ có cùng một kết quả và sẽ đem lại niềm an lạc lớn cho tâm vào lúc cận tử nghiệp.

b) Tịnh độ

Tịnh độ là một pháp môn phổ biến trong Phật giáo đại thừa, cầu được tái sinh về cõi an lành, chẳng hạn như Tịnh độ hay Cực lạc (Sukhavati) của Đức Phật A Di Đà. Tín-hạnh-nguyện và phát nguyện vãng sanh sẽ được Đức Phậtthánh chúng rước về Cực Lạc để cùng chư Phật và Bồ tát tiếp tục tu tiếp cho đến ngày thành Phật đạo.

Bokar Rinpoche đề cập đến bốn điều kiện cần thiết cần phải được tu tập để được vãng sanh Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà:

i) Chúng ta phải nên quen thuộc với hình ảnh của Tịnh Độthiền quán về cõi tịnh.

ii) Chán cõi sanh tử mà tha thiết hết lòng cầu nguyện muốn sanh cõi tịnh độ này.

         iii)Thanh lọc ác hạnh (tín), tích lũy thiện hạnh (hạnh), và hồi hướng công đức (nguyện) này để được sinh trong cõi Tịnh Độ. 

         iv) Phát Bồ Đề tâm - mong đạt được giác ngộ (Buddhahood) để có thể cứu tất cả chúng sinh — như là lý do cầu vãng sanh Cực Lạc[3] 

c)      Chánh niệm

Chánh niệm là pháp thiền quán các đối tượng liên quan đến thân và tâm, dù vui hay giận, chúng ta đều tỉnh giác quan sát với tâm buông xả, khinh an, không dính mắc tham luyến. Tập quen với pháp quán này sẽ giúp chúng ta có khả năng đối phó với đau đớn và khó chịu, giữ cho tâm thoát khỏi những cảm xúc phiền nãoduy trì an bình tự tại trong khi chết. Cuối tác phẩm này có giới thiệu một số sách nói về chánh niệmthiền định.

d) Từ bi

Pháp quán này liên quan đến tình thương yêu, quan tâm và tử tế đối với tất cả chúng sinh khác. Khi đối mặt với những khó khăn hay đau khổ, chính sự tham luyến “cái Ta” làm tăng thêm nỗi đau khổ của cá nhân mình và làm giảm quan tâm đến nhiều người. Tập quan tâm đến người khác để bớt sự đau khổ của chính mình. Vào thời điểm chết, quán tưởng đến những chúng sinh khác và cầu cho họ được hạnh phúc, thoát khỏi đau khổ thì chính điều này sẽ mang lại sự bình an tuyệt vời cho tâm chúng ta. Đức Lạt Ma Zopa Rinpoche nói rằng đây là những suy nghĩcảm giác tốt nhất mà chúng ta có thể có trong tâm mình trước và trong khi chết. Chúng không chỉ giúp chúng ta có cái chết bình yên hơn, mà còn làm sạch những tâm xấu tiêu cực và tích luỹ tiềm năng thiện hoặc công đức, để đảm bảo một sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sau.

Có thể tìm thấy thêm thông tin trong cuốn “TBi - Nghệ Thuật Cải Đổi Hạnh Phúc” (Loving Kindness— The Revolutionary Art of Happiness) của Sharon Salzburg ở phần tham khảo cuối cuốn sách này.

4.Trở nên Quen thuộc với các Giai đoạn của Quy trình Chết.

Tám Giai Đoạn

Một lý do khiến nhiều người có xu hướng sợ chết là vì họ không biết điều gì sẽ xảy ra với họ. Truyền thống Phật giáo Tây Tạnggiải thích rõ ràngchi tiết về quá trình chết bao gồm tám giai đoạn. Các giai đoạn này tương ứng với sự tan rả dần dần của các đại như: đất, nước, lửa và không khí. Khi trải qua tám giai đoạn, có nhiều dấu hiệu bên trong và bên ngoài xuất hiện.

Bốn đại tan rả trong bốn giai đoạn đầu tiên như sau:

i)       Địa Đại tan rả: Khi sắc uẩn đất trong người phân tán, cơ thể bên ngoài mất hết sức mạnh, trở nên yếu đuối mong manhnội tâm giao động thấy chập chờn. 

ii)     Thủy đại tan rả: dấu hiệu bên ngoài là chất lỏng trong cơ thể khô cạn (cảm thấy khát nước) và nội tâm của người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn.

iii)    Hỏa đại tan rả: Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần sức nóng và khả năng tiêu hóa của cơ thể suy giảm, và nội tâm thấy có những đốm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra như những con đom đóm.

iv)      Phong đại tan rả: dấu hiệu bên ngoài là không còn bất kỳ chuyển động nào trong não hoặc hệ thống tuần hoàn. Càng lúc càng khó thở và thình lình dừng thở, còn bên trong tâm (nội tâm) thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Đây là điểm mà xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”. Các yếu tố vật lý tổng thể đã tan rả và hơi thở đã dừng lại. Tuy nhiên, theo Phật giáo cái chết vẫn chưa hẳn xảy ra vì nội tâm hay ý thức vẫn còn hiện diện trong cơ thể.

Có nhiều cấp độ khác nhau trong sự tan rả ở nội tâm từ thô đến tế và rất tinh tế. Nội tâm bao gồm sáu thức của chúng ta (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thứcý thức) và tám mươi bản năng. Sáu thức tan rả trong bốn giai đoạn đầu tiên của quá trình chết, trong khi tám mươi bản năng biến mất trong giai đoạn thứ năm, sau đó thấy một tinh chất màu trắng. Trong giai đoạn thứ sáu, màu trắng tan biến và tinh chất màu đỏ xuất hiện. Rồi màu đỏ tan biến và màu đen xuất hiện giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong màn đêm dày đặc là giai đoạn thứ bảy. Tinh chất trắng, đỏ và đen hòa nhau tạo thành mức độ tinh tế của một trạng thái tâm thức không có tư tưởng.

Cuối cùng, trong giai đoạn thứ tám, màu đen tan rả và tâm tinh tế của ánh sáng rõ ràng được hiển lộ như một bầu trời vô nhiễm không mây mù hay được gọi là “tâm với ánh sáng của sự chết.” Đây là cấp độ tinh tế, sâu xa và tinh khiết nhất trong tâm trí, hay thức của chúng ta. Thiền sưkinh nghiệm có thể sử dụng tâm sáng rõ ràng này để nhập định, sẽ chứng ngộ chân lý tuyệt đối và thậm chí đạt được giác ngộ. Đó là lý do tại sao những thiền sư như vậy không sợ chết và thậm chí trông đợi cái chết đến giống như đang đi kỳ nghỉ!

Đây chỉ là sự giải thích ngắn gọn về tám giai đoạn. Có nhiều sách giải thích chi tiết (xin xem phầm tham khảo ở cuối sách), chẳng hạn như Tử Thư Tây Tạng do Robert Thurman chuyển ngữ, trang 23-50. Bản tánh chúng ta thường sợ hãi với những gì chưa biết đến; nếu nay trở nên quen thuộc với các giai đoạn của quá trình chết sẽ giúp giảm bớt nỗi sợ hãi của chúng ta về cái chết. Và nếu chúng ta có thể thực hành thiền quán về quá trình chết và khơi dậy tâm tri kiến thì thậm chí chúng tathể đạt được chứng ngộ khi chết như truyền thống Kim Cương Thừa Tây Tạng đã chứng minh.  

Đây chỉ giới thiệu vài phương pháp thực hành tâm linh để chúng ta có thể học hỏirèn luyện bản thân trong cuộc sống hằng ngày của mình. Điều này sẽ giúp chúng ta chuẩn bị trước cho cái chết. Tuy nhiên, có rất nhiều phương pháp để phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau. Khi nói đến việc chọn phương pháp nào phù hợp, chúng ta có thể sử dụng trực giáctrí tuệ của riêng mình để chọn hoặc tham khảo các bậc thầy tâm linh đáng tin cậy mà chúng ta biết.

Bây giờ hãy xem những gì chúng ta có thể làm để giúp những người khác đang sắp chết.



[1] Christine Longaker, Facing Death and Finding Hope (London: Century, and NY: Doubleday, 1997), p.113.

[2] Pabongka Rinpoche, Liberation in the Palm of Your Hand (Boston: Wisdom, 1991), p.422.

[3] Bokar Rinpoche. Death and the Art of Dying in Tibetan Buddhism. San Francisco: ClearPoint Press, 1993; tr.52-53.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
18/03/2012(Xem: 36530)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.