LITERARY HISTORY OF SANSKRIT BUDDHISM
J. K. NARIMAN
Thích Nhuận Châu dịch
CHƯƠNG V
VĂN HỌC AVADĀNA (THÍ DỤ)
Bản sanh man (Jātakamālā)[54] còn được gọi là Bodhisattva Avadāna mālā, vì Bodhisattva Avadāna đồng nghĩa với Jātaka. Cho nên Bản sanh (Jātaka) chẳng gì khác hơn là Avadanas (Thí dụ) mô tả Bồ-tát là các bậc anh hùng. Dó vậy, các tác phẩm như Trang nghiêm Kinh và Bản sanh man (Jātakamālā) có nhiều điểm chung về văn bản với văn học Avadāna. Mặt khác, vô số truyện bản sanh được tìm thấy trong bộ sưu tập Avadāna.
Về văn học Avadāna, nói chung xin xem tác phẩm Dẫn nhập Lịch sử Phật giáo (Introduction to the History Of Buddhism, p. 207 ) của Burnouf. Của Feer trong phần giới thiệu về bản dịch của ông; và Speyer trong Lời nói đầu trong ấnn bản của ông về Avadansahataka.
Sự tôn kính Đức Phật
Như hai tác phẩm văn học truyện ký Phật giáo, các văn bản của Avadāna vẫn còn, nên có thể nói rằng, nó đứng một chân trên Tiểu thừa và chân kia trên Đại thừa. Và Nghĩa Tịnh (Takakusu, p. xxii f. và 14 f.), cho chúng ta biết rằng đường phân ranh giữa Tiểu thừa và Đại thừa vốn thường là cái gì đó không linh động. Những tác phẩm cổ xưa hơn hoàn toàn thuộc về Tiểu thừa và do vậy, nó thể hiện cùng lòng tôn kính đối với Đức Phật mà như thế, lại thiếu trong truyện Bản sanh của Pāli là apadana; nhưng chúng tránh lối cường điệu thần thoại trong Đại thừa, trong khi avadāna muộn nhất lại thấm đẫm chất Đại thừa.
Avadāna là gì?
Thuật ngữ avadāna biểu tượng cho sự sùng đạo cao tột hoặc sự thành tựu đạo đức, cũng như là lịch sử của sự thành tựu cao cả ấy. Những công hạnh cao cả ấy có thể bao gồm trong sự hy sinh cuộc đời của chính mình, mà cũng có thể bị giới hạn trong sự hình thành một cơ sở từ thiện để cung ứng hương hoa, vàng bạc châu báu để kiến trúc, xây dựng chùa tháp, chi-đề (caitya), v.v... Vì những truyện nầy như là một phép tắc được cho là khắc sâu vào tâm trí rằng làm những việc xấu ác sẽ phải gánh chịu những quả báo đen tối, làm những việc phân minh sẽ có những quả báo tốt lành, cùng lúc và hành vi của con người trong một đời lại liên quan mật thiết với những gì đã có trong quá khứ hoặc sẽ xảy đến trong tương lai? Nó được xem như là truyện ký chỉ từ quan niệm hiện thời của chúng ta. Đối với Đức Phật, chúng đều là hiện thực. Quả thực chúng đã được chính Đức Phật kể lại và được bảo đảm đó là lời nói của Đức Phật–Buddhavacana; Phật ngôn–tương tự như Kinh (Sutra). Cũng như truyện Bản sanh (jātaka), Thí dụ (avadāna) là một trong những thể loại của Kinh. Thể loại nầy thường kể theo lối giới thiệu nơi nào hoặc dịp nào mà Đức Phật kể câu chuyện vào thời quá khứ, và khi kết luận, Đức Phật rút từ trong câu chuyện tính chất luân lý của giáo pháp. Do vậy, thông thường Thí dụ (avadāna) gồm có một câu chuyện hiện tại, một câu chuyện thời quá khứ và một lời răn dạy. Nếu người anh hùng trong câu chuyện thời quá khứ là một Bồ-tát, Thí dụ (avadāna) cũng có thể được chọn để làm một truyện Bản sanh (jataka). Một thể loại đặc biệt khác như Thí dụ là trong đó Đức Phật thay vì kể lại chuyện quá khứ mà là sự Thọ ký (prognostication) cho tương lai. Những giai thọai tiên tri nầy được xem như câu chuyện trong quá khứ để giải thích cho nghiệp trong hiện tại. Ngoài ra còn có những Thí dụ (avadāna) trong đó cả phần câu chuyện là nhất quán và cuối cùng có một dạng trong đó nghiệp báo hiển bày hoặc tốt hoặc xấu tuỳ theo hiện đời. Tất cả các loại Thí dụ (avadāna) nầy thỉnh thoảng xảy ra trong Luật tạng (Vinaya piṭaka) và Kinh tạng (Sutra piṭaka). Tuy nhiên, chúng được kết tập thành những bộ đồ sộ với mục đích khai sáng tâm thức hay động cơ tham vọng văn học hơn. Một tác phẩm đa dạng nhất là Avadānashataka, có lẽ là tác phẩm cổ xưa nhất trong thể loại nầy. Nó là một bộ gồm khoảng 100 truyện Thí dụ (avadāna). Vì nó đã được dịch sang tiếng Hán vào nửa đầu thế kỷ thứ III và vì nó đề cập đếndinara, chúng ta có thể tạm quy cho nó thuộc nửa đầu thế kỷ thứ II stl. Thuộc về truyền thống Tiểu thừa đã được biểu thị bởi đặc điểm giai thoại; nhưng tương tự như chứng thực bởi trường hợp trong truyện kể về hiện tại, có những đoạn rời tiêu biểu từ trong tạng Sanskrit của Nhất thiết hữu bộ nói về Kinh Đại bát niết-bàn (Pari nirvāṇa) và những kinh khác. Trong những truyện ký nầy, việc sùng kính Đức Phật đóng một vai trò chính. Tuy vậy, không có một dấu tích về cảctuyện ấy, về tín ngưỡng Bồ-tát hay các huyền thọai Đại thừa.
Avadānaṣataka
Avadānaṣataka gồm một bộ 10 quyển, mỗi quyển đề cập một chủ để khác nhau. Bốn quyển đầu đề cập đến bản chất của hành vi, sự thể hiện các hành vi đó khiến con người trở thành Phật hay Bích chi Phật (Pratyeka Buddha). Sự phân chia thành hai varga (p: vagga) của 10 thành phần của mỗi varga là thích hợp với tạng Pāli và do vậy, nó sẽ xuất hiện với niên đại đạo Phật nguyên thuỷ. Các câu chuyện thuộc quyển đầu và hầu như ba quyển đầu đều có tính chất tiên tri (thụ ký–prophetic).
Ở đây, hành vi hiếu thảo được kể bởi những người –một Bà-la-môn, một công chúa, con trai của người cho vay, thương gia giàu có, người làm vườn, ông vua, người đưa đò, cô thiếu nữ, v.v... –thể hiện sự kính trọng Đức Phật để thường dẫn đến việc xảy ra nhiều điều kỳ diệu, và từ đó Đức Phật với một nụ cười cho biết rằng những con người đặc biệt ấy, trong đời tương lai sẽ thành Phật, hoặc là trở thành (trong quyển thứ ba) một Bích chi Phật. Mặt khác, các câu chuyện trong quyển thứ hai và thứ tư là truyện Bản sinh (Jataka). Về đức hạnh của các bậc thánh và những hành vi kinh ngạc của các ngài, được giải thích rằng nhân vật anh hùng của các chuyện nầy chẳng ai khác hơn chính là Đức Phật trong một đời trước của ngài. Một dạng của Ngạ quỷ sự (s: Pretavastu; p: Petavatthu), được trình bày trong quyển thứ năm. Một vị Thánh, thông thường là Mục-kiền-liên (Maudgalyayana)–đi vào cõi giới ma quỷ và quán sát nỗi buồn của một trong các chúng sinh ở đó, quỷ nam hay quỷ nữ. Ngài hỏi loài quỷ về nguyên nhân qủa báo của họ. Quỷ xem ngài như là Đức Phật, và sau đó kể câu chuyện về ác nghiệp (black deed), từ chối việc bố thí, xúc phạm các vị thánh, v.v... mà chúng sinh nầy đã phạm trong đời trước. Quyển thứ sáu kể chuyện người đàn ông và loài vật qua việc tu đạo mà được thọ sanh thiên thần ở cõi trời. Bốn quyển cuối cùng kể những câu chuyện với nội dung chỉ ra bản chất của hành vi dẫn đến qủa vị A-la-hán. Các vị A-la-hán trong quyển thứ 7 đều xuất thân từ dòng họ Thích-ca (Śākya); những nhân vật trong quyển thứ 8 đều là phụ nữ; những nhân vật trong quyển thứ 9 đều có đạo đức không chê trách được; và những nhân vật trong quyển thứ 10 là những người trước đó đã phạm ác nghiệp và chịu khổ kết quả sau đó nhờ vào hành vi đạo đức mà cứng được quả vị A-la-hán.
Mô thức nhất định
Bây giờ những câu chuyện nầy trong bộ sưu tập của chúng ta không chỉ được sắp xếp theo một kế hoạch hay hệ thống rõ ràng mà được kể theo một mô thức đã định. Tiến trình công việc nầy tuỳ thuộc vào một mô dạng được tuân thủ với mức lặp lại liên tục những câu và miêu tả những tình huống với những chuỗi ngôn từ không thay đổi. Như theo một mẫu cứng nhắc, mỗi câu chuyện đều bắt đầu với thể thức quá dài dòng:
‘Đức Phật, Thế tôn, Tối thắng, Chí tôn, Đại danh dự, được tán dương bởi các quốc vương, đại thần, trưởng giả, các thần dân, các nghệ sĩ, các thủ lĩnh đoàn hành hương, chư thiên, long thần, Dạ-xoa, a-tu-la, ca-lầu-la, Khẩn-na-la và Ma-hầu-la-già (gigantic snakes), Đức Phật, Thế tôn, Đấng Đại oai đức, Đấng Phụng sự, dấn thân tu hành cùng các đệ tử và cung ứng cho họ những thứ cần thiết như thực phẩm, giường nằm, chỗ ở và thuốc thang trong hình tướng của người khất thực, và đang lưu trú tại...’
Tương tự nhau, mỗi truyện nầy đều kết thúc bằng:
‘Sau khi nghe Đức Phật nói như vậy, các vị tỷ-khưu trong lòng phấn chấn, hoan hỷ tán thán lời dạy của Thế tôn.’
Sau cùng, khi tính chất luân lý của câu chuyện được chỉ bày, tiến trình lúc nào cũng được mô tả qua những lời:
‘Do vậy, nầy các tỷ-khưu, quả của các ác nghiệp là hoàn toàn xấu xa; quả của các thiện nghiệp là hoàn toàn tốt đẹp; quả của các nghiệp vô ký (mixed) thì luôn luôn hỗn loạn; do vậy các tỷ-khưu, các thầy nên từ bỏ ác nghiệp và nghiệp vô ký, và chỉ tạo sự an vui của mình bằng những việc lành.’
Dấu tích văn hoá
Người mộ đạo, giới trưởng giả, kẻ quyền lực tối cao, một đám cưới hạnh phúc, thanh niên trưởng thành, hình tướng Đức Phật thời nguyên thuỷ và các hiện tượng tuần hoàn tương tự là luôn luôn được mô tả bằng các thuật ngữ rập khuôn. Điều nầy không những chẳng áp dụng cho vài câu đơn giản, mà nó còn giữ nhiều đoạn hoặc kéo dài vài trang in. Một trong những đoạn nhất định nầy mô tả nụ cười Đức Phật mà về sau dẫn đến một điều là mọi người đều có thể nắm bắt được hình tượng Đức Phật. Đức Phật luôn luôn chuyển sang mỉm cười trước khi ngài thọ ký cho tương lai. Khi cười, từ miệng ngài thường phóng ra những luồng hào quang màu xanh, vàng, đỏ và trắng. Một trong những chùm ánh sáng này phóng xuống tận địa ngục, và những chùm khác lại phóng lên tận cõi trời. Sau khi vây quanh hàng ngàn và hằng ngàn ngôn từ, luồng ánh sáng ấy quay về Đức Phật và tan biến vào trong chi phần khác của thân Phật tuỳ theo tính chất của lời thọ ký; và tất cả những điều nầy được mô tả đến từng chi tiết vi tế nhất. Sự phong phú và chi tiết nầy là đặc điểm của mô thức truyện kể trong Avadana-śataka. Tuy nhiên, cùng với nhiều truyện là sự sáo rỗng và nhàm chán, chúng ta luôn luôn có những chuyện có tính giáo dục và nhiều giai thoại giá trị cũng những điều đáng ghi nhớ đa dạng về các truyện khác để chúng ta có thể sử dụng được từ các phần khác của văn học truyện kể. Chúng ta chỉ có thể trích dẫn vài ví dụ để nêu ra một ý tưởng mô tả bộ sưu tập đáng lưu ý nầy của văn học dân gian Phật giáo. Ở đây có vài mẫu chuyện tiêu biểu trong đó đời sống xã hội chân thực của Ấn Độ được phản ánh.
Đệ tử nữ: Câu chuyện 28
Một cô gái nghèo xoa chân Đức Phật bằng bột chiên đàn hương.[55] Việc nầy khiến cho toàn thành phố ngập tràn mùi hương chiên đàn. Ngay nơi điều kỳ diệu nầy, cô gái vô cùng hân hoan, cô quỳ dưới chân Phật và cầu nguyện rằng trong đời sau, cô sẽ được sinh làm một vị Bích chi Phật. Đức Phật mỉm cười và thọ ký rằng cô sẽ được thành Bích chi Phật có danh hiệu là Gandhamadana (e: Fragrance-Delight).
Lòng từ cao độ: Câu chuyện 34
Câu chuyện nầy là phiên bản chuyện Thi tỳ vương (Śibi), người đã bố thí hết tài sản của cải. Tuy nhiên, ông ta không chỉ hài lòng việc làm cho mọi người vui lòng, ông muốn thể hiện tâm từ của mình đến mọi loài chúng sinh vi tế nhất. Ông dùng dao cắt thịt mình và phơi trần mình ra để cho chiêu đãi bầy ruồi bằng máu của mình. Việc nầy Đế thích (Śakra; Indra) từ trên cung trời trông thấy và hiện đến để thử vua Thi tỳ vương (Śibi) một lần nữa, Đế thích hiện ra trước vua bằng con chim kên kên đang sẵn sàng vồ chụp lấy vua. Vua nhìn chim chỉ với lòng từ và nói, ‘Này bạn, hãy ăn phần thân thể nào của ta mà bạn thích; Ta sẵn sàng dành cho bạn.’ Từ đó, Đế thích liền hiện ra thành Phạm thiên và xin vua cho hai con mắt. Thi tỳ vương (Śibi) nói, ‘Xin Phạm thiên hãy lấy cái gì mà ngài muốn. Tôi không dám trái ý ngài.’ Sau đó, Đế thích liền hiện lại thân mình và hứa với Thi tỳ vương (Śibi) rằng ông sẽ đạt được sự giác ngộ viên mãn.
Tình thương không vụ lợi: Chuyện 36
Đây là truyện về Maitrakanyaka tiêu biểu qua bản tiếng Sanskrit từ truyện Bản sanh trong tạng Pāli là Mittavindaka. Nhưng ở đây chuyện xảy ra hoàn toàn khác với chuyện trong tạng Pāli vì anh hùng là Bồ-tát. Ở đây ngài cũng có tội lỗi vì xúc phạm mẹ mình và phải chịu hình phạt bị lăn trong bánh xe lửa. Nhưng khi ông phải chịu nỗi sợ hãi khi bị tra tấn, ông ta được thông báo rằng phải chịu khổ trong 66.000 năm cho đến khi nào có tội nhân cùng một hình phạt ấy thế chỗ. Ông cảm thấy thương xót cho chúng sinh và phát nguyện chịu bánh xe nghiền nát đầu để đời đời không còn chúng sinh nào phải chịu đau đớn cực độ như vậy nữa. Thế nên do ý nguyện từ bi nầy, mà bánh xe biến mất khỏi đầu ông.
Lòng thành kính của Hoàng hậu: Chuyện 54
Với lời thỉnh cầu của Haòng hậu, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) cho xây một cái tháp trong nội cung để thờ những móng tay và tóc do Đức Phật tặng cho ông. Ngôi tháp được các cung nữ dâng cùng các thứ hương đèn, hoa quả, v.v... Nhưng khi vua A-xà-thế ám sát vua cha và lên ngôi vua, ông hạ lệnh cấm các cung nữ trong nội cung không được thờ phụng ngôi tháp, nếu bất tuân sẽ chịu tội chết. Tuy nhiên, Śrimati, một cung nữ trong nội viện, không tuân hành lệnh cấm. Cô vẫn dùng hương và tràng hoa đến cúng dường quanh tháp, làm A-xà-thế tức điên lên ra lệnh tử hình. Cô chết với tâm tưởng Đức Phật trong mình và tức khắc được chuyển sanh ở cõi trời.
Phần thưởng cho việc thờ Phật: Chuyện 100
Trong khi các anh hùng của các chuyện Avadāna đều là những người cùng thời với Đức Phật, vị anh hùng của câu chuyện nầy là người sống vào thời của vua A-dục. Mối liên quan với thời Đức Phật được lập thành bởi sự thêm vào sự miêu tả về sự nhập diệt của Đức Phật. Đoạn nầy được trích từ Kinh niết-bàn (Parinibbanasutta) và có thể tương ứng với bản Pāli của kinh Đại bát niết-bàn (Mahaparinibbanasutta). (Một đọan khác từ kinh Parinibbanasutta có thể được xem như phần dẫn nhập cho câu chuyện số 40).
Vua A-dục sống vào thời 100 năm sau Đức Phật nhập diệt. Ông ta có người con tên là Câu-na-la (Kunala) rất thông minh tuấn tú đến mỗi vua nghĩ rằng chẳng có ai trên thế gian bằng con mình. Tuy vậy, một hôm ông nghe tin từ những người lái buôn từ Gandhara rằng còn có nhiều người thông minh tuấn tú hơn cả hoàng tử trong nước mình. Theo các vị lái buôn, có chàng trai tên là Sundara không những thông minh tuấn tú không chê vào đâu được, mà bất cứ nơi đâu anh ta đến, thì nơi đó đều hiện ra một hồ sen và một khu vườn. Vua A-dục phái sứ giả đến và mời Sundara về cung để thỏa mãn cho vua sự hiếu kỳ nầy. Vua hỏi nhờ nghiệp gì mà anh ta có được quả bảo thù thắng như vậy. Trưởng lão Ưu-ba-cấp-đa (Upagupta) giải thích rằng: vào thời Đức Phật vừa mới nhập niết-bàn, thì chàng Sundara hiện nay chỉ là một người nông dân nghèo, sắm sửa nhà tắm và nơi tĩnh dưỡng, cúng dường thực phẩm cho ngài Đại Ca-diếp cùng tăng chúng gồm 500 người, là những vị đã dự lễ trà-tì của Đức Phật, những người rất đau buồn khi sự nhập diệt của Đức Phật, và đã kiệt sức vì cuộc hành trình quá dài. Bây giờ Sundara hưởng quả báo từ việc làm tốt đẹp của anh ta.
Avadānaśataka và các truyện có cùng nguồn gốc
Một số truyện trong Avadānaśataka của chúng ta hoá ra là hợp tuyển khác của Avadāna (Thí dụ) và một vài Avadānaśataka cũng là Apadana (Thí dụ) trong tạng Pāli. Như vậy truyện ký về Hộ quốc (Rāṣṭra-pāla), số 90 trong bộ sưu tập của chúng ta tương đương phần lớn với Kinh Ratthapalasutta tiếng Pāli trong Trung bộ kinh (Majhimani-kāya) và phần lớn của Ratthapala Apadana. Nhưng sự tương đương chấm dứt khi thiếu đi nhan đề phần tiếng Sanskrit và Pāli, và phầnApadana tiếng Pāli biểu lộ sự phân kỳ quá lớn (Feer, pp. 240 1, 313 f., 335, 340 f., 354 f., 360 f., 372 f, 439 f.)
Tương tự Tây Tạng và Trung Hoa
Một tác phẩm xưa cũ có sự giống nhau rất lớn với Avadanaśataka, và có nhiều chuyện giống với nó là Karmaśataka(Hundred Karma Stories; Một trăm truyện về Nghiệp). Tác phẩm nầy, tuy vậy, không may, chỉ được lưu truyền bằng tiếng Tây Tạng. (Feer pp. XXIX 1, 442 ff; V. V, 382 ff., 404 ff. and JA 1901 V. XVII, pp. 50 ff., 257 ff3., 410 ff.; Speyer p. XIX f.). Đã được dịch sang tiếng Sanskrit nhưng không còn được lưu giữ bằng ngôn ngữ gốc cũng chính là bộ sưu tập Avadāna tiếng Tây Tạng, ngày nay nổi tiếng trên thế giới như là sách truyện của Dsanglun với nhan đề The Wise Man and the Fool.[56] Đã được J. Schmidt dịch sang tiếng Đức. Takakusu đề cập đến bản tiếng Hán của tác phẩm nầy (JRAS 1901, p. 447 ft.).
Divyavādāna
Một bộ sưu tập sớm hơn Avadanaśataka, nhưng là bộ kết hợp chặc chẽ với bộ ấy một cách quá mức đó là Divyavādāna(e: Divine Avadāna). Bản gốc tiếng Sanskrit đã được Cowel và Neil thuộc trường Đại học Cambridge biên tập. Những trích dẫn đồ sộ trong đó đã được Burnouf phiên dịch trong Introduction to the History of Indian Buddhism. Nhan đề tác phẩm không chắc chắn, chỉ được tìm thấy trong phần đầu chương của một số thủ bản. Rajendralal Mitra mô tả một thủ bản có nhan đề Divyavadanamala với phần lớn sai lệch rất xa với ấn bản chúng ta đang có. (Nepalese Buddhist Literature, pp. 304-316). Còn có một thủ bản của Paris được mô tả trong ấn bản của trường Đại học Cambridge (p. 663 ff.) hài hoà với chỉ một phần với bộ sưu tập Divyavādāna (e: Divine Avadāna) mà chúng ta đang có.
Đặc điểm
Bộ truyện sưu tập nầy, có tầm quan trọng lớn lao đối với ngành xã hội học Ấn Độ, được bắt đầu với lời kinh tán thán tri ân theo truyền thống Đại thừa. ‘Cung kính đảnh lễ chư Phật và Bồ-tát’ và dĩ nhiên chứa đựng một vài phần thêm vào về sau với ý tưởng Đại thừa. Tuy nhiên, như một toàn thể, tác phẩm trực tiếp thuộc về Tiểu thừa. Như một ví dụ của sự thêm thắt vào mang chất Đại thừa mà chúng ta có thể đề cập đến là chương XXXIV, được ghi chú trong chính bộ sưu tập như là Kinh Đại thừa (Mahāyānasūtra) (p. 483). Trong chương XXX, có sự xuất hiện Lục tự đại minh chân ngôn (vidyā-ṣaḍakṣarī Oṃ maṇi padme hūṃ), chính là chân ngôn nổi tiếng của người Tây Tạng, (Poussin Boudhisme p. 381). Kinh tạng tiếng Sanskrit Phật giáo được đề cập nhiều lần và riêng những bộ kinh được trích dẫn như Trường A-hàm (Dīgha-āgama), Tự thuyết(Udāna), Trưởng lão tăng kệ (Thera-gāthā) (Oldenberg, ZDMG 52, 1891, pp. 653, 655 f.;658, 665). Đề cập đến bốn bộ A-hàm (āgama) (p. 333). Nhiều câu chuyện mở đầu và kết thúc đúng y như trong Avadanaśataka. Và sau cùng một số câu và mô tả rập khuôn, rất là tiêu biểu, lại xuất hiện những từ rất giống trong Divyavādāna. Trong mọi khả năng, chúng đều xuất phát từ cùng một nguồn, đó là Luật tạng (Vinaya-piṭaka) của Nhất thiết hữu bộ. Như một vấn đề thực tế, hơn một nửa giai thoại đã được vay mượn từ sau nầy, mà một số đã lấy từ Trang nghiêm Kinh (Sutralaṃkāra) của Mã Minh mà chúng ta đã thảo luận ở trên. (Huber. BEFEO IY, 1904, 709 ff.;VI, 1906, 1 ff.;–Sylvain Levi T'oung Pao, V, VII, 1907,105 ft, và SpeyerAvadanaśataka II, preface p. XVI f.).
Phân tích thành phần
Divyavadāna được biên soạn từ rất nhiều nguồn tư liệu. Nó không có yếu tố phân chia, cũng chẳng làm cho trở nên đồng dạng về ngôn ngữ và văn phong. Phần lớn truyện ký nầy được viết rất đơn giản bằng tiếng Sanskrit thể văn xuôi, thỉnh thoảng bị chen vào bởi các dòng kệ. Nhưng trong vài đoạn văn, chúng ta cũng thấy có những đoạn thơ trau chuốt đúng như thể kavya với những từ ghép khá dài. Do vậy, người biên tập bộ truyện nầy đơn thuần đã ghép từng truyện lại với nhau, một dạng khác nhau từ các bản văn khác. Từ đây cũng kèm theo vài thành phần của tác phẩm được quy vào cho các thời kỳ khác nhau. Nếu bộ sưu tập chúng ta, đang được khẳng định mà chưa được chứng minh, là đã được dịch sang tiếng Hán vào thế kỷ thứ III, thì lẽ ra nó đã không được ấn hành dạng gốc từ lâu xa trước niên đại đó. Cùng lúc trong tâm trí chúng ta ghi nhận vì có vài Avadāna trong Divyavadāna được dịch sang tiếng Hán vào thế kỷ thứ III (Cowel Neil, p. 655,), do vậy, không cần thiết phải theo rằng tác phẩm như là một toàn thể được dịch sang tiếng Hán (Kern Manual, p. 10 Barth, RHB 889, V. 19, p. 260). Đó Không chỉ là đề cập đến hậu duệ của A-dục vương, vị vua của triều đại Śunga cho đến Puśyamitra (178 B.C.), mà có sự lập lại sự kiện dinara, đưa chúng ta trở về thế kỷ thứ II. Và thời kỳ khoảng sau Mã Minh trôi qua trước một cuộc kết tập có thể được trích dẫn từ Trang nghiêm kinh về hợp tuyển của ngài. Do vậy, Divyavadāna, đúng ra là một biên soạn từ thế kỷ thứ III hơn là thế kỷ thứ II. Tuy nhiên, nó đáng chú ý vì chí một truyện trong toàn thể truyện ký của Divyavadāna, đó là truyện Śardulakarna, đã được dịch sang tiếng Hán năm 265 stl. Nội dung của Avadāna nầy đáng để ý trong nhiều phương diện, đó là:
Śardulakarna: tình yêu của tầng lớp tiện dân
Thế tôn đang du hoá ở thành Xá-vệ và A-nan hằng ngày thường vào thành để khất thực. Một hôm, khi từ thành trở về tinh xá, A-nan thấy khát nước và xin một người phụ nữ dòng dõi Chiên-đồ-la tên là Prakriti, đang kéo nước từ giếng. ‘Xin cô cho tôi chút nước để uống.’
Prakriti đáp: ‘Thưa ngài A-nan, Tôi là con gái dòng chiên-đồ-la.’
A-nan đáp lại: ‘Cô gái. Tôi chỉ xin nước. Tôi không hỏi về gia đình và dòng dõi của cô. Cho tôi nứớc. Tôi đang khát.’
(Lưu ý rằng có chuyên tương tự như vậy đối với Jesus và Samaritan đáng ngạc nhiên, John 4, 7 ff), nhưng toàn bộ tiến trình câu chuyện tiến xa hơn trong Phúc âm (Gospel) là quá khác biệt, đến mức chúng ta hiếm khi nghĩ rằng có mối liên hệ nào giữa Kinh điển Phật giáo và Thánh kinh).[57] Cô gái trao nước cho A-nan và có tình yêu với vị tăng. Cô ta bảo với mẹ cô rằng, nếu không cưới được A-nan làm chồng, cô sẽ chết. Người mẹ vốn là ngoại đạo có tà thuật, chuẩn bị bùa chú rất hiệu nghiệm và thi thố ma thuật ở A-nan bằng thần chú (mantras). Tiến trình nầy được mô tả theo cách tương tự như thần chú trong Kauśikasūtra của Atharvaveda. Sức mê hoặc đã thành công. A-nan đến nhà của chiên-đồ-la nơi niềm vui mà cô gái Prakriti đang chuẩn bị trên giường. Nhưng trong phút giây nguy hiểm nhất, A-nan bỗng dưng rơi lệ và cầu khẩn Đức Phật trong cơn tuyệt vọng. Sau đó Đức Phật liền phái người[58] đến cứu hộ A-nan bằng thần chú hoá giải cuả ngài.[59] A-nan rời nhà của cô gái chiên-đồ-la kém may mắn của mình nhờ oai lực của Đức Phật Cô-đàm (Gautama) mạnh hơn tà thuật của bà. Nhưng cô gái chiên-đồ-la Prakriti vẫn chưa nguôi ngoai vì thất tình. Nên cô ta vào thành và theo A-nan ngày này sang ngày khác khi A-nan đi khất thực. Một hôm A-nan buồn phiền, xin Đức Phật cứu giúp. Sau đó Đức Phật gọi Prakriti đến và làm ra vẻ đồng ý với ước muốn của cô rằng sẽ đồng ý cho A-nan làm chồng cô. Sau đó, Đức Phật dẫn dắt cô đến một tâm trạng là cô phát nguyện xuất gia trở thành tỷ-khưu ni. Không những cô cạo tóc và mặc y phục của người xuất gia, mà cô còn tu tập thâm sâu Tứ diệu đế và hoàn toàn chứng nhập đạo giải thoát của Đức Phật.[60]
Tuy nhiên, khi tầng lớp Bà-la-môn, chiến sĩ, và thị dân thành Xá vệ nghe tin Đức Phật đã độ một cô gái chiên-đồ-la thành tỷ-khưu ni, họ rất bất bình, họ kéo nhau đến vua Ba-tư-nặc và sau đó, liền cùng nhau kéo đến chỗ Đức Phật để phản đối ngài. Vô số người Bà-la-môn, chiến sĩ, và thị dân thành Xá vệ đã cùng nhau tập hợp ở đó. Lúc ấy Đức Phật kể chuyện Triśanku, thủ lĩnh của dòng dõi chiên-đồ-la, mong muốn cưới vợ cho con trai có học thức cuả mình là con gái của Bà-la-môn danh giá Puṣkarasari. Người Bà-la-môn phản đối việc cầu hôn ấy với sự khinh bỉ, và bây giờ theo những lời đối thoại thú vị nhất qua đó Triśanku đưa ra để chỉ trích sâu sắc hệ thống giai cấp và quy tắc luân lý của Bà-la-môn. Ông ta chứng minh rằng giữa các thành phần của các giai cấp khác nhau vẫn không có sự tồn tại sự khác biệt tự nhiên như giữa các giống loài của thú vật và thảo mộc. Lại nữa, không có giai cấp trong mỗi cá nhân được thọ sanh tuỳ theo hành vi của chính mình. Sau cùng, Puṣkarasari tin vào sự uyên bác của Triśanku và đồng ý việc cưới hỏi. Và Đức Phật kết luận, con gái của người Bà-la-môn trong đời trước chẳng gì khác hơn là bà cô của cô gái Prakriti thuộc dòng dõi chiên-đồ-la. Đức Phật thời đó chính là Triśanku, và Śardulakarna chính là A-nan.
Câu chuyện rất hay nầy của đạo Phật được biết đến qua Richard Wagner nhờ vào bản dịch tiếng Pháp của of Burnouf (Introduction p, 205 ff.) và nhờ vào đó, ông ta đã lập ‘Kẻ chiến thắng–Victors’ của mình.
A-dục vương truyện (Aśokavādāna )
Nó xưa cũ vì đã được dịch sang tiếng Hán vào thế kỷ thứ III, và cũng là chuỗi xích của chuyện có tên là Aśokavadānaxen kẽ với Divyavadāna (XXVI-XXIX). Nhân vật trung tâm của câu chuyện là vua A-dục. Về mặt lịch sử, chuyện nầy ít chứa đựng điều gì về thời đó. Nhưng ngoại lệ quan trọng là, trước hết, về sự ngược đãi Kỳ-na giáo (Jainism) (p. 427); thứ hai là, sự ngược đãi chư tăng dưới triều vua Puṣyamitra (p. 433 f.). Rhys Davids[61] đã nghiên cứu những mặc ý nầy (JPTS 1896, p. 88 f.). Câu chuyện trở nên giá trị hơn từ quan điểm văn học. Trước hết, ở đây chúng ta có câu chuyện gây xúc động sâu sắc về Upagupta và Mara. Đó là ý tưởng rõ nét khác thường để chuyển hoá Ma vương, Người ác, thành Tăng sĩ đạo Phật. Vẫn đậm nét khi thánh tăng Ưu-ba-cấp-đa (Upagupta), đã quán tưởng Đức Phật từ lâu, ngài đã nhập niết-bàn hằng thế kỷ nay, đã van xin Ma vương đã cải đạo hiện hình thành Đức Phật với y vàng ra trước mặt ngài, và sau đó, như một kịch sĩ đầy kinh nghiệm, thủ vai hoàn toàn giống như Đức Phật khiến mọi người đều lắng lòng đảnh lễ ngài. Cảm thức đột ngột ấy là toàn thể nội dung câu chuyện khiến mọi người có thể tin rằng ở đây, kịch tính đạo Phật được tóm tắt lại. Về ngôn ngữ, văn phong và vận luật của tác phẩm thuộc về nghệ thuật thi ca cung đình. Do vậy, chúng ta hoàn toàn không ngạc nhiên rằng, như đã được Huber chứng minh, người người sưu tập Divyavadāna đã trích toàn bộ từng chữ nội dung tráng lệ nầyTrang nghiêm Kinh của Mã Minh.
Divyavadāna pp, 356-364, do Wintlisch dịch, nhan đề Mara and Buddha: p, 161 ff, Huber Ashvagosha: Trang nghiêm Kinh (Sutralankara) được dịch sang tiếng Pháp p, 2G3 if, and BEFEO 4, 1904 p, 709 ff.
Bản tiếng Pāli của truyện nầy hoàn toàn thiếu tính nghệ thuật và kịch tính được phát hiện từ Burmese book of Lokapannattiby Durotselle (BEFEO, 4 1904, p. 414 ff.) Đáng lưu ý rằng tu viện nơi lưu trú của Ưu-ba-cấp-đa (Upagupta) (sau nầy thành thầy của A-dục vương), được kiến tạo do anh em Nata (kịch sĩ) và Bhata (chiến sĩ), và thuộc về Natabhatika. Không phù hợp khi Levi gọi Aśokavādāna là một dạng của Đại thừa (Mahatmya) của Tu viện Natabhatika ở Mathura.
Câu-na-la (Kunala)
Hoàng hậu và con chồng
Nguồn gốc của một trong những câu chuyện xúc động nhất trong chuỗi truyện vua A-dục trong Divyavadāna vẫn còn chưa biết được. Đó chính là tình tiét cảm động về thái tử Câu-na-la (Kunala). Thái tử là con vợ trước của Vua A-dục, và do mưu mô của người mẹ kế mà thái tử Câu-na-la bị móc đôi mắt đẹp. Lúc ấy, thái tử vẫn không thấy căm giận thù hằn mẹ kế, người đã gây ra đau khổ quá lớn cho mình.
Bản Pāli đối chiếu
Divyavadāna có nhiều truyện có cùng đặc điểm như trong tạng Pāli. Chương thứ 7 là trích từ Đại bát niết-bàn kinh (Mahāparinirvāṇasutra). Về bản kinh nổi tiếng từ tạng Pāli, hay là cuộc đối thoại tương ứng với lịch sử của ngài Phú-lâu-na, lên đường như một người truyền bá Phật pháp đến vùng Śronaparantakas dân tình hoang dã và thô lỗ, đã quyết định đem tâm bình đẳng và hoà nhã để đối phó với sự chửi rủa đánh đập, hăm doạ giết chết của dân ở đó. (Divyavadāna, p. 36ff).
Samyuttanikāya IV p, 60; Majjhimanikāya III, 267; JPTS 1887, p, 23 Pāli jātaka No, 4, kjhớp với mô tả trong Divyavadāna, p, 498 ff, câu chuyện con của một thương gia trẻ, bán một con thỏ chết và sau đó, dần dần có được rất nhiều của cải, trở nên giàu có.
Sự hy sinh của Rūpāvatī
Rūpāvatīavadāna, hai phần ba trong sưu tập nầy gợi cho chúng ta đi xa hơn với truyện Rūpāvatī trong Bản sanh man (Jātakamala).