- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số
1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Hai Mươi Tám
NÓI RÕ
PHẨM TẠP TỤNG THỨ SÁU
VẤN ĐỀ Y CA-HI-NA.
Khi Phật an trú tại Câu
Thiểm Di, vườn Cù Sư La, được Chư Thiên và người đời cúng dường. Bấy giờ, phu
nhân của vua Câu Thiểm Di đem 500 tấm lụa dâng cúng cho Thế Tôn. Phật bèn bảo
A-nan:
- Ông đem các tấm lụa
này cho các Tỉ kheo.
Nhưng các Tỉ kheo không
lấy, nói với A Nan:
- Đức Thế Tôn không cho
phép cất vải thừa, dùng lụa này để làm gì? Hơn nữa, nó cũng chưa được giặt
nhuộm, lại càng không hợp pháp.
A-nan bèn đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với A-nan:
- Từ nay trở về sau, Ta
cho phép cất vải thừa trong 10 ngày.
Thế rồi, các Tỉ kheo
cất các vải ấy đủ 10 ngày, bèn cầm đến bạch với Phật:
- Các vải này đã cất đủ
10 ngày, bạch Thế Tôn!
Phật liền dạy:
- Từ nay trở về sau, Ta
cho phép thọ y Ca-hi-na. Y Ca-hi-na có các trường hợp: thời gian; chúng Tăng
nhiều người, một người; năm việc lợi ích; mới; chưa thọ; bất đình, tiệt tịnh;
nhiễm tịnh; điểm tịnh; đao tịnh.
1- Thời gian: Thời gian thọ y Ca-hi-na từ 16 tháng 7 đến 15 tháng 8.
Đó gọi là thời gian.
2- Chúng Tăng: Chúng Tăng làm y Ca-hi-na thì không được cho nhiều
người, không được cho một người; nhiều người làm y Ca-hi-na thì không được cho
một người.
3- Năm việc lợi ích: Khỏi phạm năm tội sau đây: được ăn riêng chúng; được ăn
nhiều chỗ; trước bữa ăn, sau bữa ăn đi đâu không cần bạch với chúng; được cất
vải lâu ngày; được rời y mà ngủ. Đó gọi là năm việc lợi ích.
4- Mới: vải mới.
5- Chưa thọ: Chưa từng dùng làm ba y.
6- Bất đình: Y tịnh thí khi xả rồi được dùng làm y Ca-hi-na. Đồng
thời các loại y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, y che ghẻ, y tắm mưa và
những tấm vải được may thêu mà chưa sử dụng đều được dùng làm y Ca-hi-na.
7- Tiệt tịnh: Cắt các tua để tác tịnh.
8- Nhiễm tịnh: Nhuộm để tác tịnh.
9- Điểm tịnh: Chấm ở góc để tác tịnh. (452b)
10- Đao tịnh: Dùng dao cắt ba nhát, đứt ba sợi, cách đầu góc tấm vải
chừng bốn ngón tay, đó gọi là đao tịnh.
Nếu đàn việt cúng dường
cho Tăng vải may y Ca-hi-na, thì không được im lặng thọ nhận, mà người thọ nhận
nên nói như sau:
- Nay tôi nhận vải để
may y Ca-hi-na này cho Tăng.
Khi nhận xong, đem vào
giữa Tăng, tay cầm tấm vải căng ra, dơ cao lên nói như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe! Nay Tăng được tấm vải này, nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nhận lấy
tấm vải may y Ca-hi-na này. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng
nghe! Nay Tăng được tấm vải này, Tăng nay nhận tấm vải may y Ca-hi-na này. Các
đại đức nào bằng lòng nhận lấy tấm vải may y Ca-hi-na này thì im lặng, ai không
bằng lòng hãy nói: Tăng đã bằng lòng nhận lấy tấm vải may y Ca-hi-na này xong,
vì im lặng, tôi ghi nhận việc này như vậy.
Khi nhận xong, xem
trong Tăng ai có thể may y Ca-hi-na được thì làm yết ma giao cho một, hai hoặc
ba người. Người làm yết ma nên nói như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Nay Tăng được tấm vải này. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cử Tỉ kheo
mỗ giáp, mỗ giáp và những người khác may y Ca-hi-na cho Tăng. Đây là lời tác
bạch.
- Xin đại đức tăng lắng
nghe. Nay Tăng được tấm vải này, Tăng nay cử Tỉ kheo mỗ giáp, mỗ giáp và những
người khác may y Ca-hi-na cho Tăng. Các đại đức nào bằng lòng Tỉ kheo mỗ giáp,
mỗ giáp và những người khác may y Ca-hi-na cho Tăng thì im lặng, ai không bằng
lòng hãy nói.
Tăng đã bằng lòng cử Tỉ
kheo mỗ giáp, mỗ giáp may y Ca-hi-na cho Tăng xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận
việc này như vậy.
Một người làm chủ trong
số những người làm yết ma, khi nhận tấm vải này, nên nói như sau:
- Nhận tấm vải may y
Ca-hi-na này, Tăng nên nhận.
(Nói như vậy ba lần)
Khi giặt nên nói như
sau:
- Giặt y Ca-hi-na này,
Tăng nên nhận.
Khi cắt, khi may, khi
nhuộm, khi điểm tịnh tùy theo việc làm gì đều nói như trên.
Người dùng dao điểm
tịnh, khi hạ dao cắt cách đầu góc tấm vải bốn ngón tay, nên nói như sau:
- Y Ca-hi-na này Tăng
nên thọ.
(Nói ba lần như thế)
Khi làm các việc khác
cũng phải nói như thế. Nếu tác tịnh mà không nói thì cũng được gọi là y
Ca-hi-na, nhưng phạm tội Việt-tì-ni. Nếu làm các việc đều nói mà không tác tịnh,
thì không được gọi là y Ca-hi-na, phạm tội Việt-tì-ni. Nếu mỗi việc làm đều
khởi tâm tác tịnh, thì được gọi là y Ca-hi-na, không có tội.
Nếu Tăng được y đúng
thời, làm xong, thì tất cả nên hòa hợp. Người làm yết ma nên cầm y xổ ra, đưa
cao lên, nói như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Nay Tăng được y này đã làm xong. Nếu thời gian của Tăng đã đến, [425c]
Tăng nay thọ y Ca-hi-na này. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức tăng lắng
nghe. Nay Tăng được y này đã làm xong. Tăng nay thọ y Ca-hi-na này. Các đại đức
nào bằng lòng thọ y Ca-hi-na này thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng đã bằng lòng thọ y
Ca-hi-na xong, vì im lặng; tôi ghi nhận việc này như vậy.
Khi thọ y xong, nên xếp
lại bỏ vào rương, rải hoa lên trên, rồi từ Thượng Tọa trở xuống theo thứ tự,
nói lời tùy hỷ như sau:
- Xin trưởng lão ghi
nhớ cho, Tăng ở trú xứ này thọ y Ca-hi-na, tôi Tỉ kheo mỗ giáp xin tùy hỷ thọ
cho đến hết bốn tháng mùa Đông. Khi ở trú xứ này hết thời hạn, tôi sẽ xả.
(Nói như vậy ba lần)
Nếu đại chúng đông đến
một vạn, hai vạn người, tập họp khó khăn, thì nhiều người được thọ y Ca-hi-na
riêng, nhưng tất cả phải làm như đại chúng, chỉ có gọi tiếng nhiều người là
khác thôi. Tuy nhiên, từ bốn người trở lên thì không được làm riêng. Nếu chỉ có
một người làm thì khi thọ nên nói:
- Nay tôi xin nhận tấm
vải làm y Ca-hi-na này.
(Nói như vậy ba lần)
Khi cắt nên nói như
sau:
- Y Ca-hi-na này nay
tôi xin thọ.
Khi may, khi giặt, khi
nhuộm, khi điểm tịnh, khi cắt làm dấu tác tịnh đều nói như trên.
Khi làm hoàn thành, tâm
nghĩ miệng nói:
- Tôi là Tỉ kheo mỗ
giáp, thọ y Ca-hi-na này.
(Nói như vậy ba lần)
Vấn đề thọ y Ca-hi-na
có các trường hợp: Có trường hợp khi làm mà không phải khi thọ; Có trường hợp
khi thọ mà không phải khi làm; Có trường hợp khi làm cũng là khi thọ; Có trường
hợp không phải khi làm, cũng không phải khi thọ.
1. Khi làm mà không
phải khi thọ: Trong
đây có khi cầm để làm mà không phải cầm để thọ trì, cũng được gọi là thọ.
2. Khi thọ mà không
phải khi làm: Khi cầm
để thọ trì mà không phải cầm để làm, cũng được gọi là thọ.
3. Khi làm cũng là
khi thọ: Khi cầm để
làm cũng là khi cầm để thọ. Đó gọi là khi làm cũng là khi thọ.
4. Không phải khi
làm, cũng không phải khi thọ: Không phải thọ ngay khi cầm để làm, cũng không phải thọ khi
thọ.
Khi thọ nên tùy hỷ,
nói:
- Xin trưởng lão ghi
nhớ cho, trú xứ này Tăng thọ y Ca-hi-na, tôi là Tỉ kheo mỗ giáp xin tùy hỷ thọ
đến hết bốn tháng mùa đông, tùy theo trú xứ này mãn hạn, tôi sẽ xả.
Đó là những vấn đề
thuộc y Ca-hi-na.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả Tôn Đà La Nan-đà dùng vải thưa
làm y Ca-hi-na. Phật dạy:
- Ta không cho phép
dùng vải thưa làm y Ca-hi-na.
Khi ấy tôn giả A Nan-đà
dùng nhung kiếp bối làm y Ca-hi-na. Lại có Tỉ kheo dùng một miếng vải nhỏ để
làm. Lại có Tỉ kheo dùng vải cũ để làm. Lại có Tỉ kheo dùng mền bằng lông dê để
làm [453a] Lại có Tỉ kheo dùng mền bằng tóc để làm. Lại có Tỉ kheo dùng áo bằng
cỏ để làm. Lại có Tỉ kheo dùng áo bằng da để làm. Lại có Tỉ kheo dùng áo bằng
vỏ cây để làm. Lại có Tỉ kheo dùng áo bằng miếng gỗ để làm. Phật dạy:
- Tất cả những thứ vừa
kể trên đều không nên làm. Tất cả những thứ ấy đều chẳng phải là y, không thể
gọi là y Ca-hi-na.
Lại có các trường hợp
không thể gọi là y Ca-hi-na như sau:
- Làm lúc phi
thời.
- Không cắt bỏ các tua cho sạch.
- Không nhuộm cho sạch.
- Không điểm tịnh.
- Không dùng dao tác tịnh.
Những trường hợp như
vậy đều không được gọi là y Ca-hi-na.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo thường thường thay y, trước
bữa ăn, mặc một y khác, sau bữa ăn, mặc một y khác. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Những y mà ông thường
thường thay đổi là y của ai vậy?
- Bạch Thế Tôn! Đó là y
của con.
- Vì sao nhiều quá vậy?
- Vì con thọ y
Ca-hi-na.
- Vì sao lúc nào ông
cũng thọ y Ca-hi-na? Từ nay về sau phải xả bỏ. Có 10 trường hợp xả y như sau:
1- Y cánh xả.
2- Thọ thời xả.
3- Thời cánh xả.
4- Văn xả.
5- Tống xả.
6- Hoại xả.
7- Thất xả.
8- Xuất khứ xả.
9- Thời quá xả.
10- Cứu cánh xả.
1- Y cánh xả: Khi thọ y Ca-hi-na, nghĩ như sau: "Khi ta may y
xong sẽ xả y Ca-hi-na", thì khi may y hoàn thành, tức là xả. Đó gọi là y
cánh xả.
2- Thọ thời xả: Khi thọ y, suy nghĩ: "Khi ta thọ y này sẽ xả y
Ca-hi-na", thì khi thọ y tức là xả. Đó gọi là thọ thời xả.
3- Thời cánh xả: Nếu suy nghĩ: "Đến thời gian ấy ta sẽ xả y
Ca-hi-na", thì khi tới thời gian ấy tức là xả. Đó gọi là thời cánh xả.
4- Văn xả: Nếu suy nghĩ: "Khi nào ta nghe Hòa Thượng, A xà lê
xả y Ca-hi-na thì ta sẽ xả". Sau đó nghe Hòa Thượng, A xà lê nói:
"Hôm nay Tăng xả y Ca-hi-na", thì khi ấy tức là xả. Đó gọi là văn xả.
5- Tống xả: Nếu suy nghĩ: "Khi nào ta đem cái y này cho người
khác xong thì sẽ xả y Ca-hi-na", sau đó đem cho cái y của mình, tức là xả.
Đó gọi là tống xả.
6- Hoại xả: Trong thời gian sau khi thọ y Ca-hi-na rồi, bỗng nhiên
một hôm nói: "Nay ta xả y Ca-hi-na", thì khi nói lời ấy tức là xả. Đó
gọi là hoại xả.
7- Thất xả: Nếu suy nghĩ: "Khi nào cái y này hư, hoặc mất không
còn nữa thì ta sẽ xả y Ca-hi-na", sau đó chiếc y ấy bị hư hoặc mất, tức là
xả. Đó gọi là thất xả.
8- Xuất khứ xả: Nếu suy nghĩ: "Khi nào ta rời khỏi đây thì sẽ xả y
Ca-hi-na", thì khi ra đi tức là xả. Đó gọi là xuất khứ xả.
9- Thời quá xả: (453b) Nếu tới ngày 15 tháng chạp mà không xả, để đến ngày
16 đương nhiên là xả, nhưng phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là thời quá xả.
10- Cứu cánh xả: Đến ngày 15 tháng chạp đương nhiên phải xả. Một người nên
xướng ở giữa Tăng như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Hôm nay Tăng xả y Ca-hi-na. (nói như vậy ba lần).
Đó gọi là Cứu cánh xả.
Trên đây là 10 trường
hợp xả y Ca-hi-na.
Có các trường hợp sau
đây:
- Trong lúc an cư chưa
xong; Khi an cư xong; Trong lúc đang an cư; Vì sợ mất mạng; Vì sợ mất phạm
hạnh; Y phi thời; Y đúng thời; Việc xảy ra ở Câu Thiểm Di.
1- Trong lúc an cư
chưa xong.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ kheo an cư trong thôn xóm
chưa kết thúc mà đến nhà đàn việt, nói như sau:
- Này lão trượng! Hãy
cúng dường y an cư cho tôi.
- Thưa tôn giả! Nay
chưa đúng lúc, đợi khi an cư kết thúc, mùa màng thu hoạch xong, nhân dân hoan
hỷ nghĩ nhớ công ơn, phát tâm bố thí, thì bấy giờ mới có thể bố thí được.
- Này lão trượng! Ông không
biết rằng cuộc đời này vốn vô thường, hoặc bị nạn vua quan, nạn nước lửa, hoặc bị
cướp bóc, lúc ấy tôi sẽ mất lợi mà ông cũng mất phước.
- Tôn giả chỉ cho tôi
thấy lẽ vô thường mà không tự thấy chính mình. Tôn giả muốn được gấp phẩm vật
an cư để đem đi nơi khác, hay là muốn thôi tu mà gấp gáp đến như vậy? Kỳ thay,
quái gỡ, nhiều tham dục không biết chán.
Ông nói thế rồi, sinh
tâm không hoan hỷ, bèn bỏ đi. Các Tỉ kheo liền đem sự việc ấy đến bạch đầy đủ
lên Thế Tôn. Phật bèn hỏi nhóm sáu Tỉ kheo:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy. Bạch
Thế Tôn!
- Này các Tỉ kheo! Vì
sao an cư chưa kết thúc mà các ông đòi cúng dường y an cư? Từ nay về sau, Ta
không cho phép an cư chưa kết thúc mà đòi cúng dường y an cư. Nếu ai làm như vậy
thì phạm tội Việt tỳ ni.
Đó gọi là trường hợp an
cư chưa xong.
2- Khi an cư xong.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ kheo ở tinh xá Kỳ hoàn an cư
xong bèn chia y An cư. Lúc ấy, nhóm sáu Tỉ kheo an cư tại chỗ khác xong, liền
đến giữa Tăng chúng Kỳ hoàn, nói như sau: "Thưa trưởng lão, đức Thế Tôn
chế định khi an cư xong sẽ được phần y an cư. Tôi cũng đã an cư xong, đương
nhiên phải được y an cư. Vậy hãy chia phần y an cư cho tôi".
Các Tỉ kheo bèn đem sự
kiện ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- An cư nơi khác thì
đương nhiên không được phần y an cư nơi này. Tùy theo an cư nơi nào thì nhận
phần nơi đó.
Đó là trường hợp an cư
xong.
3- Trong lúc đang an
cư.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ kheo đến ngày an cư,
(453c) bèn nhận phòng xá, rồi đem giày da, dụng cụ để nhuộm và các vật linh
tinh khác bỏ vào trong phòng, đoạn, nói như sau:
- Thưa các trưởng lão,
tôi an cư nơi đây. Các vị chớ có chán ghét tôi. Tôi biết các vị thường không ưa
tôi.
Thế rồi, họ thuê người
nhận phần y an cư. Đoạn, tìm nơi khác an cư.
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Hễ an cư ở nơi nào
thì nhận phần y ở nơi đó.
4- Vì sợ mất mạng.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tại Tỳ-Xá-Ly gặp nạn đói lớn, khất
thực khó khăn. Các Tỉ kheo bèn đi đến thành Xá-vệ, gặp lúc các Tỉ kheo ở tinh
xá Kỳ Hoàn vừa an cư xong, đang chia y. Các Tỉ kheo ở Tỳ Xá Ly bèn vào tham dự.
Các Tỉ kheo ở Kỳ Hoàn hỏi:
- Thưa các trưởng lão!
Đức Thế Tôn chế định hễ an cư ở nơi nào thì được nhận phần y ở nơi đó. Vậy các
vị an cư ở đâu?
- Thưa trưởng lão!
Chúng tôi sợ mất mạng nên mới đến đây. Nếu không đến đây thì e đói chết mất.
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Nếu vì sợ mất mạng mà
đến thì nên chia phần y.
Đó gọi là trường hợp sợ
mất mạng.
5- Vì sợ mất phạm
hạnh.
Bấy giờ tại thành Vương
Xá có một người con của ngoại đạo xuất gia. Khi ấy, cha mẹ muốn đến đem con về
nhà thì những người khác nói:
- Sa-môn rất trọng việc
an cư, trong lúc an cư ắt hẳn không gây trở ngại gì, bấy giờ hãy đem về.
Người chị vì thâm tín
Phật pháp nên nói với em:
- Cha mẹ muốn đem em về
nhà, vậy hãy nhanh chóng lánh đi nơi khác.
Người em bèn đi đến
thành Xá-vệ, gặp lúc các Tỉ kheo ở tinh xá Kỳ hoàn vừa an cư xong, đang chia y.
Thầy Tỉ kheo ấy bèn vào tham dự. Các Tỉ kheo ở Kỳ Hoàn hỏi:
- Này trưởng lão! Đức
Thế Tôn chế định hễ an cư ở nơi nào thì được nhận phần y ở nơi đó, (ngoại trừ
trường hợp ở nơi khác) sợ bị mất mạng mà đến mới được chia phần. Còn thầy thì
như thế nào?
- Vì cha mẹ muốn đem
tôi về nhà, nếu tôi không đến đây thì sẽ mất phạm hạnh.
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Nếu vì sợ mất phạm
hạnh mà đến thì nên cho phần y.
Đó gọi là sợ mất phạm
hạnh.
6- Y phi thời.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo đi du hành trong nhân gian,
chở đầy xe y đi đến. Phật biết mà vẫn hỏi:
- Này Tỉ kheo! Y của ai
thế?
- Bạch Thế Tôn! Đó là y
của con.
- Đây là y đúng thời
hay y phi thời?
- Bạch Thế Tôn! Đây là
y phi thời.
- Đã tịnh thí chưa?
- Bạch, chưa.
- Tất cả các y đó nên
cho chúng Tăng.
Đó gọi là y phi thời.
7- Y đúng thời.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo đi du hành trong nhân gian,
chở đầy xe y đi đến. Phật biết mà vẫn hỏi:
- Này Tỉ kheo! Đó là y
của ai vậy?
- (454a) Bạch Thế Tôn!
Đó là y của con.
- Đây là y đúng thời
hay y phi thời?
- Đây là y đúng thời.
- Y này nhiều quá, đem
cho Tăng bớt một nửa.
Đó gọi là y đúng thời.
8- Việc xảy ra tại
Câu Thiểm Di.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Lúc ấy, quân của nước Câu Tát La cướp lấy xóm
làng Câu Thiểm Di, rồi kéo về thành Xá-vệ. Bấy giờ có Tỉ kheo ở tinh xá Kỳ Hoàn
(thuộc Xá-vệ) đến xóm làng này đòi y cúng dường an cư. Các Tỉ kheo ở Câu Thiểm
Di trước đó đã an cư tại xóm làng này, bèn nói:
- Này trưởng lão! Trước
đây tôi nương nơi xóm làng này mà an cư, lẽ ra tôi phải đòi trước.
Thế là hai người cãi
nhau, rồi cùng kéo đến chỗ Phật, đem sự việc trên trình bày đầy đủ với Thế Tôn.
Phật liền dạy:
- Ai an cư tại đó thì
được quyền đòi trước, rồi mới đến người khác. Nếu hai người cùng đòi thì nên
cùng chia đều. Nếu Tỉ kheo an cư tại đó chưa đòi mà người khác đòi, thì phạm
tội Việt tỳ ni.
Lại nữa, lúc bấy giờ có
hai đệ tử đồng hành của tôn giả Kiếp Tân Na nhân vì có việc bất bình nên xả
giới, nhưng không hủy hoại phạm hạnh, rồi sau đó thọ cụ túc trở lại. Khi ấy,
các Tỉ kheo ở Kỳ hoàn an cư xong, chia y mà không chia cho họ, nên họ nói:
- Thưa trưởng lão! Vì
có việc bất bình nên tôi xả giới, nhưng không hủy hoại phạm hạnh, rồi thọ cụ
túc trở lại. Vậy nên chia phần cho chúng tôi.
Thế rồi họ cùng đi đến,
bạch với Phật. Phật dạy:
- Nếu người nào có việc
bất bình mà xả giới, nhưng không hủy hoại phạm hạnh, rồi thọ cụ túc trở lại,
thì nên chia phần đồng đều. Thế nhưng, có 5 trường hợp không nên cho. Đó là: -
Bị cử; - Thôi tu; - Qua đời; - Phá an cư; - Đi không dặn lại.
1- Bị cử: Phạm một trong ba kiến giải, hủy báng Kinh điển, tà
kiến, biên kiến, được khuyên can mà không bỏ lỗi, bị làm yết ma cử tội. Đó gọi
là bị cử.
2- Thôi tu: Người nào xả giới thì không nên cho. Nhưng nếu họ dựa
thế lực của nhà vua, đại thần hay đảng cướp, nói như sau:
- Nếu Sa-môn không chia
phần cho tôi, thì tôi sẽ gây ra chuyện rắc rối.
Với hạng người như thế
tuy không đáng cho ta cũng nên cho. Đó gọi là người thôi tu.
3- Qua đời: Người chết thì đương nhiên không được chia phần. Tuy
nhiên, khi y an cư đã tập trung chưa chia, mà có người sắp mệnh chung rồi căn
dặn đem phần mình cho người nào đó, thì khi người ấy qua đời, nên đem cho người
đó. Đó gọi là qua đời (vô thường).
4- Phá an cư: Tỉ kheo không tiền an cư, không hậu an cư đương nhiên
không được chia phần. Nhưng nếu họ dựa thế lực của nhà vua, đại thần hay bọn
giặc mà nói rằng: "Nếu không cho tôi, tôi sẽ gây ra chuyện rắc rối",
thì hạng người như vậy tuy không đáng cho, cũng nên cho. Đó gọi là phá an cư.
5- Đi không dặn lại: Người ra đi mà không dặn lại lấy giúp phần y của mình, thì
không nên cho. Khi chia, người chia phẩm vật nên hỏi: "Ai nhận phần cho mỗ
giáp?". Nếu có người nhận thì nên hỏi: "Khi vị ấy đi có dặn thầy nhận
không?" Nếu trả lời: "Không dặn", (454b) thì nên nói: "Thầy
đừng lo về việc ấy". Nếu nói: "Có dặn", thì nên xem tướng người
ấy. Nếu là người đáng tin, thì nên đưa. Nếu là người không đáng tin thì nên
nói: "Thầy đừng lo về việc ấy". Nếu hai người ấy trước đây đồng chí
hướng, thường nhận giúp cho nhau, thì nên đưa.
Đó gọi là 5 trường hợp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một Tỉ kheo an cư xong, trở về thăm
quê hương của mình. Những người bà con bèn thiết lễ cúng dường rộng rãi các y
vật nhân dịp Tỉ kheo này về thăm. Chư Tăng trước đây an cư nơi xóm làng này
nghĩ rằng vì mình an cư nên được cúng dường, do đó, không chia phần cho vị Tỉ
kheo kia. Các người bà con bèn hỏi thầy:
- Thầy có được phần y
không?
- Không được.
- Chúng tôi vì thầy mà
thiết lễ cúng dường này, tại sao lại không được?
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Đàn việt vì Tỉ kheo
này mà thiết lễ cúng dường, vậy nên chia phần cho thầy ấy.
Rồi Phật tiếp:
- Có 5 cách nói thì khi
cúng dường như sau: Y này cúng dường cho chúng Tăng an cư; Tiền sắm y này cúng
dường cho chúng Tăng an cư; Phẩm vật này cúng dường cho chúng Tăng an cư; Số
tiền sắm vật dụng này cúng dường cho chúng Tăng an cư; Cúng dường cho những
người an cư ở trú xứ này.
Đó gọi là năm cách nói
cúng dường.
Nếu gia đình bố thí
muốn cúng dường chung cho các Tỉ kheo khác, thì tùy theo ý nguyện của đàn việt,
nên cho đều.
Lại có bốn thứ phẩm vật
tùy theo thí chủ nói mà thuộc về Tăng hiện tiền. Đó là khi họ nói:
- Tôi cúng dường y;
tiền sắm y; phẩm vật; tiền sắm vật dụng.
Đó gọi là bốn thứ phẩm
vật thuộc Tăng hiện tiền.
Lại có 10 loại khi nhận
được phải thuộc về Tăng hiện tiền. Đó là:
1- Thuốc dùng đúng
thời.
2- Thuốc dùng ban đêm.
3- Thuốc dùng trong bảy ngày.
4- Thuốc dùng suốt đời.
5- Vật của Tỉ kheo qua đời.
6- Vật bố thí cho trú xứ.
7- Vật cúng dường trong các dịp đại hội. 8-
Y phi thời.
9- Vật linh tinh.
10- Mời thọ trai.
1- Thuốc dùng đúng
thời: bữa ăn trước, bữa ăn sau, bữa ăn a
ba na, Tăng hiện tiền có quyền thọ hưởng. Đó gọi là thuốc (thức ăn) đúng thời.
2- Thuốc dùng ban
đêm: Gồm 14 loại nước uống như trước kia
đã nói. Đó gọi là thuốc dùng ban đêm.
3- Thuốc dùng trong
bảy ngày: Sữa, dầu,
mật, đường phèn, sữa tươi, mỡ, như trước kia đã nói rõ. Đó gọi là thuốc dùng
trong bảy ngày.
4- Thuốc dùng suốt
đời: Ha lê lặc, Bỉ hê lặc, A ma lặc như
trong giới thứ hai đã nói rõ. Đó gọi là thuốc dùng suốt đời.
5- Vật của Tỉ kheo
qua đời: Khi Tỉ kheo
qua đời, thì y bát và các vật linh tinh thuộc quyền thừa hưởng của Tăng chúng
hiện tiền. Đó gọi là vật của Tỉ kheo qua đời.
6- Vật cúng dường
cho trú xứ: Nếu đàn
việt xây phòng Tăng, tinh xá, rồi mở đại hội đem trú xứ ấy và các vật khác cúng
dường, thì Tăng hiện tiền được quyền thừa hưởng. Đó gọi là vật cúng dường cho
trú xứ.
7- Vật thu nhận
trong dịp đại hội: Trong
các dịp đại hội như Phật đản sinh, Phật thành đạo, Chuyển pháp luân, A nan, La
Hầu La, năm năm đại hội một lần, các vật cúng dường trong những dịp ấy, Tăng
(454c) hiện tiền được quyền thừa hưởng.
8- Y phi thời: Nếu không có y Ca-hi-na thì 11 tháng, nếu có y Ca-hi-na
thì 7 tháng; những vật cúng dường trong thời gian ấy, Tăng hiện tiền được quyền
hưởng dụng. Đó gọi là y phi thời.
9- Những vật linh
tinh: Bát, sóng đựng bát, đai lưng, dao,
hộp sắt, giày da, chai đựng dầu, túi da, chén, bình tưới, những vật cúng dường linh
tinh như thế, Tăng hiện tiền được quyền nhận. Đó gọi là vật linh tinh.
10- Mời thọ trai: Đàn việt mời Tăng theo thứ tự đến nhà họ cúng dường trai
phạn. Đó gọi là mời thọ trai.
Trên đây là 10 trường
hợp Tăng hiện tiền được quyền hưởng dụng.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Vương Xá, lúc ấy các Tỉ kheo may y mà không cắt các tua vải, như
đã nói rõ về ba loại hoại sắc trong giới Ba-dạ-đề ở trên.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một Tỉ kheo đi đến chỗ Phật,
cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cho
phép con mặc một y để ít ham muốn, ít bận bịu.
Phật nói với thầy:
- Ông giữ gìn ba y,
bình bát, là ít ham muốn, ít bận bịu rồi.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con mặc hai
y.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con dùng mền
bằng lông dê.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con dùng mền
bằng tóc.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con dùng mền
bằng lông đuôi ngựa.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con mặc y
phục bằng cỏ.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con mặc y
phục bằng vỏ cây.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con mặc y
phục bằng da.
Phật dạy:
- Tất cả các loại y
phục kể trên đều không được mặc.
Lại có Tỉ kheo nói:
- Cho phép con sống lõa
thể, ít ham muốn, ít bận bịu.
Phật dạy:
- Này Tỉ kheo! Đó là
phép tắc của ngoại đạo. Chỉ cần giữ gìn ba y, bình bát tức là ít ham muốn, ít
bận bịu rồi.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ kheo mặc y màu sắc lộng
lẫy, bị người đời chê trách rằng:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mặc y màu sắc lộng lẫy chẳng khác gì người thế tục.
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Ta không cho phép mặc
y có màu sắc lộng lẫy. Màu sắc lộng lẫy tức là nhuộm bằng khâu khư, nhuộm bằng
Ca di già, Câu bỉ la, Lặc xoa, Lô đà la, Phi uất kim, hồng lam, màu xanh, màu
trắng, màu hoa, tất cả những màu sắc lộng lẫy đều không cho dùng. Chỉ nên dùng
rễ, lá, hoa, vỏ cây để nhuộm, tối thiểu là dùng nước của đá mài để nhuộm.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Vương Xá, Ngài đi kinh hành trước hang đá của trời Đế Thích, thấy
những bờ ruộng lúa ở Ma Kiệt Đề rõ ràng, chênh lệch nhau rất hợp lý. Thấy thế,
Phật liền nói với các Tỉ kheo:
- Y pháp của chư Phật
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri trong quá khứ đều như thế đó. (455a) Từ nay về
sau khi may y nên theo cách thức ấy.
Lại nữa, khi ấy tôn giả
Đại Ca Diếp may y Tăng già lê, đức Thế Tôn tự tay cầm lấy, tôn giả A-nan cắt,
rồi có Tỉ kheo khâu lại, có Tỉ kheo may đường ngắn, có Tỉ kheo may đường dài,
có Tỉ kheo may đường viền, có Tỉ kheo kết khuy.
Lại nữa, có Tỉ kheo may
y rồi vẽ lá cây lên y. Phật dạy:
- Ta không cho phép vẽ
lá cây trên y.
Lại có Tỉ kheo may y
nhiều lớp. Phật dạy:
- Ta không cho phép may
y nhiều lớp, phải cắt bỏ đi.
Lại có Tỉ kheo may y
kết dính hai đầu lại. Phật dạy:
- Ta không cho phép may
kết dính hai đầu lại mà nên may kết lại từng tấm. Tấm rộng nhất bằng bốn ngón
tay, tấm hẹp nhất bằng hạt lúa lớn.
Lại có Tỉ kheo may các
điệp hướng về một bên. Phật dạy:
- Ta không cho phép như
vậy cần phải rẽ các điệp ra hai bên.
Lại có Tỉ kheo may y
các điều tướng bằng nhau. Phật dạy:
- Ta không cho phép như
vậy. Y 5 điều nên một dài một ngắn. Y 7 điều cho đến 13 điều nên may 2 dài, một
ngắn. Y 15 điều nên may ba dài, một ngắn.
Lại có Tỉ kheo may y
rồi khâu dính các biên vải vào y. Phật dạy:
- Ta không cho phép như
vậy. Y ở phía sau nên để thông thoáng; nên làm như răng ngựa. (?)
Có Tỉ kheo y ở biên
trên và biên dưới bị rách. Phật dạy:
- Nên may viền ở các
mép y.
Có Tỉ kheo may y 4 màu
sắc. Phật dạy:
- Ta không cho phép như
vậy. Chỉ nên dùng một màu sắc.
Có Tỉ kheo được y với
màu sắc rực rỡ muốn giặt cho hoại sắc. Phật biết mà vẫn hỏi:
- Này Tỉ kheo! Ông định
làm gì đó?
- Bạch Thế Tôn! Vì Thế
Tôn chế giới không cho phép mặc y có màu sắc rực rỡ, nên con muốn giặt cho hoại
sắc.
- Không cần phải giặt.
Ta cho phép dùng những màu khác nhuộm cho hoại sắc.
Y gồm có 7 loại:
1- Y khâm bà la.
2- Y kiếp bối.
3- Y sô ma.
4- Y câu xá da.
5- Y xá na.
6- Y ma.
7- Y khu mâu đề.
Đó gọi là y pháp.
Kệ tóm tắt:
"Bố tát và yết
ma
Gởi dục nói thanh tịnh.
An cư cùng Tự tứ,
Thọ y Ca-hi-na
Phi y Ca-hi-na
Xả y Ca-hi-na
An cư xong, dâng y,
Kết thúc phẩm thứ tư".
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Phật bảo A-nan:
- Ông hãy lấy cái khóa
cửa lại đây, Như Lai muốn đi thanh tra phòng của chư Tăng.
A-nan đáp:
- Lành thay Thế Tôn.
Rồi thầy cầm cái khóa
cửa đi theo sau Thế Tôn. Đoạn Thế Tôn đi đến một căn phòng bị hư nát, thấy có
một Tỉ kheo bị bệnh, nằm trên phân tiểu, không thể đứng dậy nổi. Phật bèn hỏi:
- Này Tỉ kheo! Khí lực
ông như thế nào? Cơn đau tăng hay giảm?
- Bạch Thế Tôn! Cơn đau
chỉ có tăng (455b) mà không giảm.
- Hôm nay có ăn được
không?
- Không được, bạch Thế
Tôn!
- Hôm qua ăn có được
không?
- Không được, bạch Thế
Tôn!
- Hôm kia ăn có được
không?
- Cũng không được, bạch
Thế Tôn! Con không được ăn nay đã 7 ngày.
- Có thức ăn mà không
ăn được hay không có thức ăn nên không ăn?
- Không có thức ăn,
bạch Thế Tôn!
- Ở đây, có Hòa Thượng
của ông không?
- Không có, bạch Thế
Tôn!
- Có đồng Hòa Thượng
không?
- Không có, bạch Thế
Tôn!
- Có thầy giáo thọ
không?
- Không có, bạch Thế
Tôn!
- Có đồng thầy giáo thọ
không?
- Không có, bạch Thế
Tôn!
- Phòng bên cạnh không
có Tỉ kheo sao?
- Bạch Thế Tôn! Vì con
hôi thối, họ không thích nên đã dời đi nơi khác, do đó, con cô độc đau khổ lắm,
bạch Thế Tôn! Con cô độc lắm Thiện Thệ.
- Ông đừng sầu não, Ta
sẽ làm bạn với ông. Này Tỉ kheo! Hãy lấy y đưa đây, Ta sẽ giặt cho ông.
Khi ấy, A-nan bạch với
Phật:
- Để đấy, thưa Thế Tôn!
Y của Tỉ kheo bệnh để con giặt cho!
- Ông giặt y đi, để Ta
xối nước cho.
Thế rồi, A-nan đem ra
giặt, Thế Tôn xối nước. Khi giặt xong, thầy đem đi phơi nắng. Xong rồi, A-nan
bồng Tỉ kheo bệnh đặt trên chỗ đất trống, lau chùi phân uế, đem giường gối và
các vật bất tịnh ra ngoài, rưới nước trong phòng, quét dọn sạch sẽ, dùng giẻ
lau lau sàn nhà, giặt giũ giường nệm, vá lại giường dây, đặt vào chỗ cũ, tắm
rửa cho Tỉ kheo bệnh, rồi đem thầy đặt nằm lại trên giường.
Khi ấy, Thế Tôn dùng
bàn tay mềm mại, sắc vàng óng ánh được trang nghiêm bằng vô lượng công đức xoa
trên trán Tỉ kheo, hỏi:
- Cơn đau tăng hay
giảm?
- Nhờ ơn Thế Tôn dùng
bàn tay đặt trên trán con, nên mọi nỗi thống khổ đều dứt hết.
Bấy giờ Thế Tôn bèn tùy
thuận thuyết pháp cho Tỉ kheo bệnh khiến thầy sinh tâm hoan hỷ. Rồi Thế Tôn
tiếp tục thuyết pháp làm cho thầy đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Sau khi Tỉ
kheo khỏi bệnh Thế Tôn bèn đi đến chỗ đông đúc các Tỉ kheo, trải tọa cụ ngồi,
rồi đem sự việc trên trình bày lại đầy đủ với các Tỉ kheo. Đoạn, ngài hỏi thầy Tỉ
kheo ở phòng bên cạnh là ai. Vị ấy đáp:
- Chính là con đây,
bạch Thế Tôn!
Phật liền nói với Tỉ
kheo:
- Những người đồng phạm
hạnh với các ông bị đau ốm, các ông không săn sóc cho nhau thì ai săn sóc? Các
ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin mà bỏ nhà xuất gia, sống không
nhà, đều cùng một họ Sa-môn Thích tử, đồng tu phạm hạnh, nếu không săn sóc lẫn
nhau thì ai săn sóc? Này Tỉ kheo! Ví như con sông Hằng, sông Diêu phù na, Tát
la, Ma hê chảy vào biển lớn, liền mất tên cũ mà hợp lại thành một vị, gọi là
biển lớn. Các ông cũng như vậy. Ai nấy đều bỏ họ cũ mà cùng chung một họ Sa-môn
Thích tử. Các ông không săn sóc cho nhau thì ai sẽ săn sóc? Ví như các chủng
tộc Sát lợi, Bà la môn, Phệ xá, Thủ đà la, mỗi người đều khác họ, cùng vào
(455c) trong biển lớn thì được gọi là người đi buôn trên biển. Cũng như thế đó
Tỉ kheo. Các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin, bỏ nhà xuất gia,
sống không nhà, đều cùng một họ Sa-môn Thích tử, nếu không săn sóc lẫn nhau thì
ai săn sóc? Nếu Tỉ kheo bệnh thì Hòa Thượng phải săn sóc. Nếu không có Hòa Thượng
thì đồng Hòa Thượng phải săn sóc. Nếu ai không săn sóc thì phạm tội Việt-tì-ni.
Nếu có thầy giáo thọ thì thầy giáo thọ phải săn sóc. Nếu không có thầy giáo thọ
thì thầy giáo thọ đồng hành phải săn sóc. Nếu ai không săn sóc thì phạm tội
Việt tỳ ni. Nếu có người cùng phòng thì người cùng phòng phải săn sóc. Nếu
không có người cùng phòng, thì người ở phòng bên cạnh phải săn sóc. Nếu không
săn sóc thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu cũng không có người ở phòng bên cạnh thì
Tăng phải sai người chăm sóc. Tùy người bệnh cần bao nhiêu người thì phải sai
bấy nhiêu. Nếu không săn sóc thì tất cả Tăng đều phạm tội Việt tỳ ni.
Này các Tỉ kheo! Các
ông hãy trở về săn sóc Tỉ kheo ở phòng bên cạnh mình.
Thế rồi, Phật biến hóa
một Sa di bệnh ở cách Phật không xa, rồi Ngài bảo:
- Các ông hãy săn sóc luôn cả Sa di bệnh ấy. Đó là cách phạt các ông làm phước vậy.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có hai Tỉ kheo ở phương Nam
cùng đi đến thăm viếng Thế Tôn. Khi đi đến giữa đường, một Tỉ kheo lâm bệnh, một
Tỉ kheo chờ đợi hai, ba ngày, bèn nói với Tỉ kheo bệnh:
- Tôi muốn đi trước,
đến thăm viếng Thế Tôn, thầy khỏi bệnh rồi sẽ đi sau.
- Này trưởng lão! Đợi
tôi khỏi bệnh rồi hãy cùng đi.
- Thưa trưởng lão! Tôi
không gặp Thế Tôn đã lâu ngày, ngưỡng mộ như khát nước không thể đợi nhau được
nữa, khi nào khỏi bệnh thầy sẽ đi sau.
Thế rồi, Tỉ kheo ấy đi
đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn
hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Tỉ kheo bèn đem sự kiện
trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật khiển trách:
- Này Tỉ kheo! Đó là
việc ác. Nếu có Tỉ kheo lòng đầy phóng dật, lười biếng không chuyên cần, không
thể kiềm chế các căn, dong ruổi theo lục dục, dù ở gần Ta mà chẳng thấy Ta và
Ta cũng không thấy người ấy. Trái lại, nếu có Tỉ kheo kiềm chế các căn, tâm
không phóng dật, chuyên nghĩ về đạo, thì dù cách xa Ta vẫn thấy được Ta và Ta
cũng thấy người ấy. Tại sao vậy? Vì tùy thuận pháp thân của Như Lai, phá hoại
các việc ác, lìa bỏ tham dục, tu tập tịch tĩnh. Này Tỉ kheo! Cùng xuất gia tu
phạm hạnh, các ông không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc? Ông hãy trở lại trông
nom vị Tỉ kheo bệnh ấy.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có hai Tỉ kheo ở nước Bát La
Chân cùng kết bạn đi đến thăm viếng Thế Tôn. Khi đến thôn Ong, một Tỉ kheo lâm
bệnh, vị Tỉ kheo kia đợi được hai, ba ngày, rồi nói với Tỉ kheo bệnh:
- Tôi muốn đến thăm
viếng đức Thế Tôn trước (456a) khi nào thầy khỏi bệnh rồi sẽ đến sau.
- Này trưởng lão! Đợi
tôi khỏi bệnh rồi cùng đi luôn.
- Thưa trưởng lão! Tôi
không gặp Thế Tôn đã lâu ngày, ngưỡng mộ như khát nước, không thể đợi nhau được
nữa.
- Nếu thầy nhất quyết
muốn đi, vậy hãy vì tôi nhắn giùm cư sĩ Chất Đế Lợi.
Thế rồi, thầy bèn đi
đến chỗ cư sĩ, nói:
- Này lão trượng! Hai
chúng tôi từ xa đến, muốn viếng thăm Phật, nhưng nay một người lâm bệnh, phải
tạm thời ở lại đây, xin lão trượng chăm sóc giúp giùm tôi. Tôi muốn đi trước
đến vấn an Thế Tôn.
- Thưa tôn giả! Nên ở
lại chăm sóc nhau, khi khỏi bệnh rồi cùng đi luôn.
- Này cư sĩ! Không thể
được. Tôi không gặp Phật đã lâu ngày, trông mong như người khát nước.
- Tôn giả có đến đó thì
Thế Tôn cũng bảo thầy trở lại, chỉ uổng công nhọc sức mà thôi.
Tỉ kheo vẫn nhất quyết
đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà
vẫn hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Tỉ kheo bèn đem sự việc
kể trên trình bày đầy đủ với Thế Tôn. Phật khiển trách:
- Này Tỉ kheo! Đó là
việc ác. Các ông đều là những người khác họ, vì có lòng tin bỏ nhà xuất gia
sống không nhà, cùng là họ Thích, lúc đau ốm không săn sóc nhau thì ai săn sóc?
Ông hãy trở lại săn sóc cho Tỉ kheo bệnh ấy.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có một Tỉ kheo từ phương Bắc
đến, muốn thăm viếng Thế Tôn nhưng nghe nói bên đường có Tỉ kheo bị bệnh, bèn
suy nghĩ: "Đức Thế Tôn chế giới hễ gặp người bệnh thì phải chăm sóc. Nếu
ta gặp người ấy thì không thể bỏ đi". Nghĩ thế, thầy bèn quay lại đi con
đường khác đến chỗ Thế Tôn, rồi cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên.
Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Ông từ đâu đến?
- Bạch Thế Tôn! Con từ
phương Bắc đến.
- Đi đến bằng con đường
nào?
- Đi đến từ con đường
mỗ.
- Vì lý do gì mà bỏ con
đường chính để đi con đường vòng vo?
- Thầy bèn đem sự việc
kể trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền khiển trách:
- Này Tỉ kheo! Đó là
việc ác. v.v... (cho đến): Ông hãy trở lại chăm sóc cho Tỉ kheo bệnh.
Nếu Tỉ kheo đi chung
với người đi buôn, đến nơi hoang vắng rồi lâm bệnh thì Tỉ kheo đồng bạn không
được bỏ đi, mà phải dẫn theo, đồng thời mang giúp y bát, lại phải gần gũi giúp
đỡ, không được rời xa. Nếu đi không nổi thì nên đến thương nhân thuê mướn họ
chở đi, nói như sau:
- Này lão trượng! Người
xuất gia này lâm bệnh không thể đi theo kịp bạn, hãy chở giúp giùm tôi để thoát
khỏi hiểm nạn.
Nếu được thì tốt, còn
nếu như họ nói: "Này tôn giả, xe tôi đã chở nặng rồi", thì nên nói:
- Này lão trượng! Tôi
sẽ hoàn lại tiền lúa, cỏ cho ông.
Nếu được, thì không nên
để ngồi trên xe trâu cái chở cỏ ngựa v.v... , mà nên để ngồi trên xe trâu đực
chở các thứ. (456b). Nếu bệnh nặng không phân biệt được gì, thì ngồi xe không
có tội. Nếu đi xe không thể được thì nên để lại người nào có thể săn sóc bệnh
nhân hoặc một, hai hay ba người, và bảo:
- Thầy hãy chăm sóc
người bệnh, để tôi vào trong thôn tìm xe cộ đến đón.
Đồng thời để lại lương
thực, cho người ở lại không bị thiếu thốn. Nếu ai cũng từ chối, nói: "Ai
mà có thể hy sinh thân mạng mình ở nơi hoang vắng này", rồi không chịu ở
lại, thì cũng không được bỏ đi mà phải che chòi rạp, rải cỏ làm nệm, đốt lửa,
lấy củi nước giúp, để lại thuốc đúng thời, thuốc dùng ban đêm, thuốc dùng bảy
ngày, thuốc dùng suốt đời, rồi nói với bệnh nhân: "Trưởng lão hãy yên tâm
ở đây. Tôi tới thôn phía trước tìm xe đến đón". Khi đến trong thôn, không
được nhiễu tháp, thăm hỏi Hòa Thượng, A xà lê mà chỉ nên nói với các Tỉ kheo ở
trong thôn:
- Ở nơi hoang dã có Tỉ
kheo bệnh, chúng ta cùng đến đón về đây.
Nếu họ hỏi: "Ở nơi
nào?", thì hãy đáp: "Ở tại mỗ xứ".
Nếu họ nói: "Nơi
đó có nhiều cọp sói, e rằng chúng ăn thịt hết cả, đâu để sót mống nào!",
dù nghe nói như thế cũng không được ở lại đó mà phải trở lại xem. Nếu từ xa thấy
chim quạ, cũng không được trở lui mà phải đi tới nơi đó. Nếu thấy đã chết thì
nên lễ bái nhục thân. Nếu còn sống thì nên đem vào trong thôn, nói với Tỉ kheo
thường trú:
- Thưa trưởng lão! Đây
là Tỉ kheo bị bệnh ở nơi đó, tôi đã chăm sóc. Giờ đưa đến đây, xin trưởng lão
trông nom giúp cho.
Nếu Tỉ kheo ấy không
chịu trông nom thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu không có Tỉ kheo, thì nên nói với
Ưu bà tắc:
- Này lão trượng! Ở nơi
hoang vắng kia có Tỉ kheo bị bệnh, cho tôi mượn xe đến đón vị ấy.
Nếu đàn việt hỏi:
"Ở đâu?", v.v... , cho đến đón về nhà đàn việt, đặt nằm ở một phòng
riêng kín đáo. Nếu nhiều người thì nên nhờ hai, ba người biết nuôi bệnh chăm
sóc giúp.
Nếu bệnh nhân nói:
"Cần nhiều người cho vui", thì nên ở hết nơi đó để an ủi khuyên lơn;
hoặc bệnh nhân đòi hỏi bữa ăn trước, bữa ăn sau thuốc đúng thời, thuốc dùng ban
đêm, thuốc dùng bảy ngày, thuốc dùng suốt đời thì hãy cung cấp đừng để cho
thiếu thốn. Nếu có Tỉ kheo khách đến thì không được nói liền: "Trưởng lão!
Thầy hãy trông nom Tỉ kheo bệnh",
mà nên nói: "Lành thay! Trưởng lão đến đây".
Thế rồi, mang giúp y
bát, chuẩn bị giường ghế, đưa nước rửa chân và dầu thoa chân. Nếu họ đến đúng
giờ thì nên cung cấp bữa ăn trước, bữa ăn sau. Nếu họ đến không đúng lúc thì
nên cung cấp nước trái cây phi thời. Sau
khi họ nghỉ ngơi rồi, nên nói:
- Trưởng lão! Vị Tỉ
kheo bệnh này tôi chăm sóc đã lâu rồi, giờ đến phiên trưởng lão trông nom giùm.
Nếu bệnh nhân qua đời thì nên cúng dường xá lợi.
Nếu Tỉ kheo, Tỉ-kheo-ni
cùng đi với khách buôn mà Tỉ-kheo-ni lâm bệnh, thì Tỉ kheo không được bỏ đi mà
nên bảo họ rằng chị em cùng đi chung phải giúp đỡ lẫn nhau, như trường hợp của
Tỉ kheo đã nói ở trên, chỉ trừ việc bồng đỡ. Nếu cần xoa bóp, (456c) xức dầu
vào thân thì nên thuê phụ nữ làm. Nếu họ qua đời mà có y bát để lại thì nên
dùng y bát trả công cho người hỏa thiêu. Nếu họ không có y bát thì nên bỏ đi.
Nếu bị người thế tục chê trách rằng:
"Vì sao để tử thi lại rồi bỏ đi?", mà mình có thể tưởng tượng
thi thể đó như đất thì nên khiêng vác đi tới một nơi xa xôi.
Lúc bấy giờ, tôn giả
Ưu-ba-li bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vị
Tỉ kheo có đức lớn lâm bệnh thì phải chăm sóc như thế nào?
Phật nói với Ưu-ba-li:
- Nếu vị Tỉ kheo có đức
lớn lâm bệnh thì không được để nằm trong phòng xếp, nhỏ, xấu xí; không được để nằm
ở gần lối đi mà nên để nằm trong một căn phòng thông thoáng, rộng rãi. Các đệ
tử đồng hành, đệ tử y chỉ phải thường xuyên hầu hạ hai bên, quét dọn trong phòng,
rải đá, lau chùi sàn nhà, đốt các loại hương thơm cho đảm mùi hôi hám và sắp
đặt giường ghế tươm tất.
Nếu có Tỉ kheo đến thăm
bệnh, nên dọn thức ăn trước, thức ăn sau.
Nếu họ đến không đúng
lúc, nên cung cấp thức uống phi thời.
Nếu họ có hỏi việc gì
thì người bệnh nên trả lời. Nếu người bệnh yếu sức thì thị giả nên trả lời thế.
Nếu Ưu bà tắc đến thăm
hỏi thì nên nói:
- Lành thay! Lão trượng
đến đây.
Đoạn, mời họ ngồi rồi
giảng giải:
- Ông được công đức rất
lớn, như đức Thế Tôn nói:
- Thăm hỏi Tỉ kheo trì
giới bị bệnh thì chẳng khác gì thăm hỏi Ta.
Nếu có người cúng dường
thì hãy chú nguyện rồi nhận lấy.
Nếu người bệnh muốn di
tiểu đại, đòi đi gấp, thì không được để lâu mà phải đưa đi tức tốc.
Nếu người bệnh không ra
ngoài được thì nên dùng ba cái bô đựng phân tiểu: một cái trao cho người bệnh,
một cái mang ra ngoài, một cái đem rửa sạch, bôi dầu rồi đem phơi nắng, để thay
đổi mà dùng. Đồng thời để một người giữ cửa, không cho ai vào đột ngột; một người
ở gần người bệnh, tùy thời thuyết pháp an ủi. Như thế đó Ưu-ba-li, vị Tỉ kheo
có đức lớn bị bệnh, nên chăm sóc như vậy.
Thế rồi, tôn giả
Ưu-ba-li lại hỏi Thế Tôn:
- Vị Tỉ kheo có đức
hạnh nhỏ khi bệnh nên chăm sóc như thế nào?
Phật nói với Ưu-ba-li:
- Vị Tỉ kheo có đức
hạnh nhỏ khi bệnh không nên đặt nằm nơi căn phòng rộng rãi, thông thoáng, e mùi
hôi hám bốc ra ngoài; cũng không nên để nằm ở chỗ khuất kín, sợ khi chết không
ai biết, nên để nằm ở giữa mọi người. Nếu người bệnh có Hòa Thượng, A xà lê,
hoặc là đệ tử đồng hành, đệ tử y chỉ thì những người này nên chăm sóc. Nếu không
có thì chúng Tăng nên sai người nuôi bệnh, hoặc một, hai, ba người lo trông
nom. Nếu người bệnh ngoài y bát ra còn có tiền mua thuốc thì nên lấy đem đi mua
thuốc cho thầy. Nếu không có thì chúng Tăng nên cho tiền. Nếu Tăng không có mà
người bệnh có y bát đáng giá thì nên đem bán lấy tiền mua những thứ cần thiết
cho thầy. Nếu người bệnh tiếc của, thì nên bạch với chúng Tăng:
- Bạch đại đức Tăng! Tỉ
kheo mổ giáp bị bệnh mà không hiểu lẽ vô thường, tiếc rẻ y bát không cho đem
đổi thứ khác.
Bạch Tăng rồi, nên dùng
lời dịu ngọt thuyết phục để thầy hiểu rõ, rồi mới đem y bát đi trao đổi. Nếu
cũng không có thì nên đi xin những thứ cần thiết về cho thầy. Nếu xin cũng
không được thì nên lấy thức ăn ngon nhất của Tăng (457a) đưa cho. Nếu cũng
không có thì người nuôi bệnh nên cầm theo hai cái bát vào thôn khất thực, rồi
đem cái bát ngon hơn đưa cho thầy. Này Ưu-ba-li! Đó là cách thức chăm sóc một
Tỉ kheo ít đức bị bệnh.
Nếu người bệnh có đầy
đủ 5 yếu tố sau đây thì rất khó săn sóc. Đó là:
1- Không thể uống
thuốc phù hợp với bệnh và ăn thức ăn phù hợp với bệnh.
2- Không nghe lời khuyên của người nuôi
bệnh.
3- Bệnh tăng giảm không biết.
4- Không kham nhẫn nổi sự đau đớn.
5- Lười biếng vô trí.
Đó gọi là 5 yếu tố
người bệnh khiến cho người nuôi bệnh khó mà săn sóc.
Nếu người bệnh có đầy
đủ 5 yếu tố sau đây thì dễ dàng săn sóc. Đó là:
1- Có thể uống thuốc
phù hợp với bệnh, ăn thức ăn phù hợp với bệnh.
2- Theo lời khuyên của người nuôi
bệnh.
3- Nếu có ai hỏi thì biết bệnh tăng hay
giảm.
4- Kham nhẫn được sự đau đớn.
5- Tinh tấn, có trí tuệ.
Đó gọi là 5 yếu tố
người bệnh khiến cho người nuôi bệnh dễ dàng chăm sóc.
Nếu ai đầy đủ 5 yếu tố
sau đây thì không thể nuôi bệnh. Đó là:
1- Hay nhờm gớm, không
thể đem đổ bô đựng phân tiểu, ống nhổ. v.v...
2- Không thể xin thuốc hợp với bệnh, thức ăn
hợp với bệnh giúp cho bệnh nhân.
3- Không thể thường thường tùy thuận thuyết
pháp cho bệnh nhân nghe.
4- Có tâm hy vọng (về lợi lộc).
5- Tiếc rẻ công việc của mình.
Đó gọi là 5 yếu tố khó
mà nuôi bệnh.
Ai thành tựu 5 yếu tố
sau đây thì có thể chăm sóc người bệnh. Đó là:
1- Ít nhờm gớm, có thể
đem đổ bô đựng phân tiểu, ống nhổ. v.v...
2- Có thể xin thuốc hợp bệnh, thức ăn hợp
cho người bệnh.
3- Có thể thường thường tùy thuận thuyết
pháp cho bệnh nhân nghe.
4- Không có tâm hy vọng (về lợi lộc).
5- Không tiếc rẻ công việc của mình.
Đó gọi là 5 yếu tố có
thể trông nom người bệnh.
Nếu bệnh nhân có đủ 9
yếu tố sau đây thì tuy chưa hết thọ mạng ắt hẳn sẽ chết đột ngột. Đó là:
1- Biết những thức ăn
có hại mà vẫn tham ăn.
2- Sống không có điều độ.
3- Thức ăn trong bụng chưa tiêu hóa mà ăn
nữa.
4- Thức ăn chưa tiêu hóa mà móc họng cho mửa
ra.
5- Thức ăn đã tiêu hóa muốn đi cầu mà vẫn cố
kiềm chế.
6- Ăn thức ăn không hợp với bệnh.
7- Ăn thức ăn hợp với bệnh nhưng không có
điều độ.
8- Lười biếng.
9- Không trí tuệ.
Đó gọi là đầy đủ 9 yếu
tố ắt hẳn sẽ chết đột ngột.
Lại nữa, nếu ai đầy đủ
9 yếu tố sau đây thì sẽ không thể chết đột ngột. Đó là:
1- Biết thức ăn không
ích lợi nên ăn ít.
2- Biết sống có điều độ.
3- Thức ăn trong bụng tiêu hóa hết, mới ăn
nữa.
4- Không cưỡng bách mửa ra.
5- Không cố giữ lại.
6- Không ăn thức ăn không hợp với
bệnh.
7- Ăn thức ăn hợp với bệnh và ăn có điều
độ.
8- Không biếng nhác.
9- Có trí tuệ.
Đó gọi là người có đủ 9
yếu tố sẽ không chết đột ngột.
Phật nói với Ưu-ba-li:
- Có ba loại người
bệnh. Đó là:
1- Có loại người bệnh
được thuốc hợp bệnh, được thức ăn hợp bệnh, có người nuôi bệnh đúng pháp mà
chết.
2- Có loại người bệnh không được thuốc hợp
bệnh, không được thức ăn hợp bệnh, có người nuôi bệnh đúng pháp mà sống.
3- Có người bệnh được uống thuốc hợp bệnh,
được thức ăn hợp bệnh, được người nuôi bệnh đúng pháp, bệnh ắt hẳn bớt không
đến nỗi bị chết.
Này Ưu-ba-li! Trong số
Tỉ kheo bị bệnh, vì không có người nuôi bệnh đúng pháp (457b) mà chết, vì được
người nuôi bệnh đúng pháp mà sống. Do vậy cần khéo chăm sóc khiến cho bệnh nhân
được yên ổn, tức là bố thí mạng sống vậy. Thế nên, chăm sóc bệnh được công đức
rất lớn, chư Phật đều hoan hỷ. Đó gọi là cách thức chăm sóc người bệnh.
Khi Phật đang du hành
tại nước Câu Tát La, tôn giả Xá-lợi-phất bị lên cơn động phong. Các Tỉ kheo bèn
đem sự việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền hỏi:
- Này Tỉ kheo! Cần phải
dùng thuốc gì?
- Bạch Thế Tôn! Cần
dùng ha lê lặc.
- Từ nay về sau Ta cho
phép Tỉ kheo bệnh được uống ha lê lặc.
Thế rồi Phật nói với
các Tỉ kheo:
- Đợi khi Ta trở về lại
thành Xá-vệ, nhắc lại Ta, Ta sẽ quy định về vấn đề thuốc men cho các đệ tử.
Khi Phật trở về thành
Xá-vệ, các Tỉ kheo bèn bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Xin Thế
Tôn hãy vì các đệ tử mà chế định về việc thuốc men, giờ đây là đúng lúc.
- Này các Tỉ kheo! Từ
nay về sau Ta cho phép các Tỉ kheo bệnh được uống thuốc. Về thuốc có các loại:
Củ đúng thời, củ phi thời. Cũng vậy, cọng, vỏ, lá, quả, nước uống.
- Củ đúng thời: Củ
cải, củ hành, củ khẩn xoa, củ a lam phù, củ khoai nước, củ ma đậu la, củ sen.
Các thứ đó ăn chung với thức ăn, nên gọi là củ đúng thời.
- Củ (rễ) phi thời: Rễ
cây bà tra, rễ cây lá lốt, rễ cây dương liễu, rễ cây khư đề la, rễ cây tô kiện
xà. Các loại như vậy không ăn chung với thức ăn, nên gọi là rễ phi thời. Ngoài
ra, các loại cọng, vỏ, lá, hoa, trái cũng như vậy.
- Nước uống: Gồm có
nước uống đúng thời, nước uống phi thời.
- Nước uống đúng thời:
Tất cả nước gạo, nước bột gạo, sữa, sữa chua, nước trong. Đó gọi là nước uống
đúng thời.
- Nước uống phi thời:
Tất cả loại đậu, tất cả ngũ cốc, tất cả loại thóc đem ngâm nước mà đầu không
nứt ra, và tô, dầu, mật, đường phèn. Đó gọi là nước uống phi thời.
Nếu Tỉ kheo bị bệnh mà
thầy thuốc nói: "Cho ăn sẽ sống, không cho ăn sẽ chết", thì nên đem
một cái nồi rửa 7 lần cho thật sạch, rồi lấy một nắm thóc đãi kỹ bỏ vào một cái
túi buộc chặt lại, để vào trong nồi nấu mà đầu hạt thóc không nứt ra, đoạn đưa
cho người bệnh uống.
Tất cả đất cũng có loại
đúng thời, có loại phi thời; trừ 8 loại tro, ngoài ra các loại tro khác cũng có
loại đúng thời, có loại phi thời. Đó gọi là vấn đề thuốc men.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo một tuổi hạ dẫn theo một đệ
tử chưa có tuổi hạ, hai vai mang mỗi vai một túi y, trên đầu đội một túi, tay
trái cầm bát và giày da, tay phải xách bình nước và túi da đựng dầu, cùng đi
đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ. Cái túi y trên đầu thầy rơi trên đầu gối Phật,
Phật bèn gạt ra, tuy Ngài biết nhưng vẫn hỏi:
- Vật này của ai vậy?
- (457c) Bạch Thế Tôn!
Của đệ tử cùng đi với con.
- Ông được mấy tuổi hạ?
- Dạ một tuổi, bạch Thế
Tôn!
- Đệ tử mấy tuổi?
- Dạ chưa có tuổi hạ.
- Ông mới một tuổi hạ
mà đã nuôi đệ tử chưa có tuổi hạ thì cũng giống như người yếu đuối mà lại cứu
người yếu đuối.
Thế rồi, Phật nói với
các Tỉ kheo:
- Bản thân mình không
tự hàng phục được mà muốn hàng phục người khác thì không có lẽ đó. Bản thân
mình không tự chế ngự được mà muốn chế ngự người khác, thật không có lẽ đó. Bản
thân mình chưa tự độ được mà muốn độ người khác, thật không có lẽ đó. Bản thân
mình chưa giải thoát mà muốn giải thoát cho người khác, thật không có lẽ đó.
Này các Tỉ kheo! Tự
hàng phục được mình rồi mới hàng phục người khác, điều đó có thể. Tự chế ngự
được mình rồi mới chế ngự người khác, điều đó có thể. Tự độ được mình rồi mới
độ người khác, điều đó có thể. Tự mình đã giải thoát rồi mới giải thoát cho
người khác, điều đó có thể. Này các Tỉ kheo! Từ nay về sau, Ta không cho phép
Tỉ kheo dưới mười tuổi hạ độ người xuất gia thọ cụ túc.
Sau khi Phật đã chế
giới không cho phép Tỉ kheo dưới mười tuổi hạ độ người xuất gia thọ Cụ túc, rồi
Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đủ mười tuổi hạ, độ người xuất gia thọ Cụ túc mà không dạy
dỗ. Họ giống như trâu trời, dê trời, sống phóng túng không kỷ cương, không biết
chế ngự, thiếu sự trong sạch, uy nghi không đầy đủ, không biết phụng sự Hòa
Thượng, A xà lê, không biết vâng lời Tỉ kheo trưởng lão, không biết phép tắc
vào thôn xóm, không biết phép tắc ở nơi hoang vắng, không biết phép tắc vào
trong chúng, không biết cách thức khoác y cầm bát. Các Tỉ kheo bèn đem sự kiện
ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ nay về sau, ai
thành tựu mười điều kiện sau đây, Ta mới cho phép độ người xuất gia thọ Cụ túc.
Mười điều kiện đó là:
1- Giữ giới.
2- Nghe nhiều A tì đàm.
3- Nghe nhiều Tì ni.
4- Học giới.
5- Học định.
6- Học tuệ.
7- Có thể xuất tội và sai người khác xuất
tội.
8- Có thể nuôi người bệnh và nhờ người khác
nuôi người bệnh.
9- Khi đệ tử gặp nạn có thể giải cứu, hoặc
nhờ người giải cứu.
10- Đã đủ mười tuổi hạ.
Đó gọi là mười điều
kiện để Ta cho phép độ người xuất gia thọ Cụ túc. Tối thiểu là đủ mười tuổi hạ,
biết hai bộ Luật thì cũng được phép làm thầy.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo mệnh chung, hai
người đệ tử cọng trú vì nhớ thương sầu thảm, cùng ngồi dưới gốc cây, như khách
buôn bị mất của. Phật biết mà vẫn hỏi các Tỉ kheo:
- Đó là Tỉ kheo nào
vậy?
Các Tỉ kheo bèn đem sự
việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ nay về sau, Ta cho
phép thỉnh thầy y chỉ và tôn kính vị này như Hòa Thượng. Thể thức thỉnh cầu
thầy y chỉ bằng cách trật vai áo bên phải, quì gối, vịn tay vào bàn chân, nói
như sau:
"Kính xin Hòa
Thượng (tôn giả) thương xót. Con là mỗ giáp, nay thỉnh cầu Hòa Thượng (458a)
làm thầy y chỉ. Mong Hòa Thượng vì con làm thầy y chỉ. Con nương vào Hòa Thượng
mà an trú". (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Lại nữa, có Tỉ kheo mới
một tuổi hạ đã nhận Tỉ kheo chưa có tuổi hạ y chỉ, cho đến Tỉ kheo chín tuổi hạ
mà nhận Tỉ kheo tám tuổi hạ y chỉ. Các Tỉ kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch đầy
đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép người dưới mười tuổi hạ mà nhận người khác y chỉ.
Thế rồi, nhóm sáu Tỉ
kheo đủ mười tuổi hạ nhận người khác y chỉ mà không dạy dỗ, khiến họ giống như
trâu trời, dê trời, cho đến không biết phép tắc khoác y cầm bát. Các Tỉ kheo
bèn đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ nay về sau, ai
thành tựu mười điều kiện sau đây, Ta mới cho phép nhận người y chỉ. Đó là: Giữ
giới v.v... cho đến đủ mười tuổi hạ. Đó gọi là mười điều kiện được nhận người y
chỉ. Tối thiểu là đủ mười tuổi hạ, biết hai bộ Luật cũng được nhận. Khi muốn
cầu thỉnh thầy y chỉ, không được hấp tấp đến thỉnh ngay mà phải xem người nào
thành tựu năm điều kiện sai đây mới nên thỉnh. Đó là:
1- Có tấm lòng từ
ái.
2- Cung kính.
3- Biết tự thẹn với mình.
4- Biết xấu hổ với người.
5- Sống an lạc.
Đó gọi là 5 điều kiện
nên thỉnh cầu làm thầy y chỉ.
Lại có bốn hạng A xà
lê. Thế nào là bốn? Đó là:
1- Thầy (A xà lê) y
chỉ.
2- Thầy dạy giáo pháp.
3- Thầy dạy giới Luật.
4- Thầy dạy mình ở nơi vắng vẻ.
Lại có bốn hạng A xà lê
khác như sau:
1- Có A xà lê không
cần thưa mà nên bỏ đi.
2- Có A xà lê nên thưa rồi mới ra đi.
3- Có A xà lê dù ở đó khổ cũng phải đeo đuổi
suốt đời.
4- Có A xà lê sống được an lạc thì dù có bị
xua đuổi, suốt đời cũng không rời bỏ.
1- Hạng thầy không
thưa mà đi: Có những
vị thầy sống nương tựa với họ không có y phục ẩm thực, khi đau ốm không có
thuốc men, cũng không thể thuyết giảng về quả vị Sa-môn vô thượng của người
xuất gia tu phạm hạnh. Hạng thầy như vậy không cần thưa mà nên bỏ đi.
2- Hạng thầy thưa
rồi mới đi: Có những
vị thầy sống nương tựa với họ, tuy có y phục ẩm thực, khi đau ốm có thuốc men
nhưng không thể thuyết giảng về quả Sa-môn vô thượng của người xuất gia tu phạm
hạnh. Hạng thầy như vậy nên thưa rồi mới đi.
3- Hạng thầy dù khổ
vẫn ở: Có những vị
thầy sống nương tựa với họ, tuy không có y phục ẩm thực, khi đau ốm không có
thuốc men, nhưng khéo thuyết giảng về quả vị Sa-môn vô thượng của hạnh xuất gia
tu phạm hạnh. Hạng thầy như vậy tuy sống với họ cực khổ suốt đời cũng không nên
rời bỏ.
4- Hạng thầy sống
gần được an vui: Có
những vị thầy sống nương tựa với họ, họ có thể cung cấp y phục ẩm thực, khi đau
ốm có thuốc men, có thể thuyết giảng về quả vị Sa-môn Vô thượng của người xuất gia
tu phạm hạnh. Hạng thầy như vậy, dù có bị xua đuổi, suốt đời cũng không nên rời
bỏ.
Đó gọi là 4 hạng A xà
lê.
Lại có 4 hạng thầy nữa
như sau:
Dạy về
phép tắc; làm chỗ nương tựa cho mình; điều phục tham dục sân hận ngu si. Trong
đây, hạng thầy có thể vì đệ tử khéo thuyết pháp để đoạn trừ tham dục, sân hận,
ngu si (458b) được xem là hạng thầy tối thượng tối thắng. Ví như từ sữa được
sữa đóng váng, từ sữa đóng váng được sữa chua, từ sữa chua được đề hồ; đề hồ là
tối thượng, tối thắng.
Hòa Thượng, A xà lê nên
dạy bảo đệ tử đồng hành, đệ tử y chỉ. Phương pháp dạy dỗ là:
1- Họ không thanh tịnh
nên ngăn cản.
2- Khuyên đừng đến những nơi không nên
đến.
3- Họ bị yết ma phải giúp đỡ.
4- Họ sinh tà kiến, mình phải giải tỏa, hay
nhờ người giải tỏa.
5- Tự mình xuất tội, hay nhờ người xuất
tội.
6- Khi họ bệnh, tự mình hoặc nhờ người chăm
sóc.
7- Khi họ gặp nạn, tự mình hoặc nhờ người
giải cứu.
8- Khi họ gặp nạn vua, giặc, mình phải hóa
giải.
1- Khi đệ tử không
thanh tịnh, nên ngăn cản: Khi đệ tử phạm các giới nhỏ như: ăn riêng chúng, ăn nhiều chỗ, ở
cùng nhà với phụ nữ, ngủ chung với người chưa thọ cụ túc quá ba đêm, làm tổn
hại cỏ tươi, ăn trái cây không thanh tịnh, thì nên dạy: "Ông đừng làm như
thế".
Nếu đệ tử nói:
"Thưa Hòa Thượng, A xà lê, con sẽ không làm nữa", thì tốt.
Nếu họ nói: "Hòa
Thượng, A xà lê hãy tự dạy mình, chứ dạy người khác làm gì!", thì nên bảo
người coi việc giường nệm lấy lại giường nệm, bảo người coi việc ăn uống cắt
đứt phần ăn.
Nếu người đó hung ác,
dựa vào thế lực của nhà vua, của đại thần, có thể gây ra rắc rối, thì hoặc là
chính Hòa Thượng nên lánh đi nơi khác, hoặc là thầy y chỉ nên mang theo y bát ra
khỏi cương giới ngủ một đêm rồi trở về, như vậy tức là cắt đứt sự y chỉ.
Nếu đệ tử sống chung,
đệ tử y chỉ có những hành vi bất tịnh mà Hòa Thượng, A xà lê không dạy bảo thì
phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là nên ngăn ngừa những hành vi bất tịnh.
2-
(Ngăn đệ tử đến) những nơi không nên đến:
Như nhà của đồng nữ lớn tuổi, nhà quả phụ, nơi cờ bạc, chỗ quán rượu,
Tỉ-kheo-ni có tiếng xấu, Sa di ni có tiếng xấu. Nếu đệ tử lui tới những nơi ấy
thì Hòa Thượng, A xà lê nên bảo họ đừng tới lui những chỗ ấy, vì đó là nơi
không nên đến gần.
Nếu họ vâng lời thì
tốt, cho đến ra khỏi cương giới ngủ một đêm rồi trở về, tức là cắt đứt sự y
chỉ.
Nếu đệ tử sống chung,
đệ tử y chỉ lui tới những nơi không nên đến mà không dạy dỗ, thì phạm tội Việt
tỳ ni. Đó gọi là những nơi không nên đến.
3- (Giúp đỡ khi đệ
tử) bị yết ma: Nếu
trường hợp đệ tử bị Tăng xử đoán làm các pháp yết ma chiết phục, không cùng nói
chuyện, phát hỉ, tẫn xuất; hoặc đệ tử phạm một trong ba kiến chấp là hủy báng
kinh điển, ác kiến, biên kiến; hoặc bị yết ma cử tội vì khuyên can mà không bỏ
lỗi, thì Hòa Thượng, A xà lê nên vì đệ tử
xin lỗi mọi người rằng:
- Thưa các trưởng lão!
Kẻ này trước đây có ác kiến, bây giờ đã bỏ, tùy thuận vâng lời. Kẻ phàm phu ngu
si làm sao khỏi lầm lỗi! Đứa nhỏ mới học muộn màng này quả thực có lỗi đó. Từ
nay tôi sẽ dạy bảo để y không tái phạm nữa.
Sau khi đã làm cho tâm
ý của đại chúng vui vẻ, hãy xin Tăng giải pháp yết ma. Nếu đệ tử cùng sống
chung, đệ tử y chỉ bị Tăng làm yết ma mà thầy không giải tỏa cho họ thì phạm tội
Việt tỳ ni. Đó gọi là đệ tử bị làm yết ma.
4- Khi ác tà kiến
sinh khởi (458c) tự mình hoặc nhờ người hóa giải: Nếu đệ tử có những kiến chấp như hủy báng kinh điển,
hoặc ác tà kiến, hoặc biên kiến thì Hòa Thượng, A xà lê nên dạy:
- Ông đừng sinh khởi
kiến giải như thế. Đó là việc ác, sẽ rơi vào đường ác, đọa xuống địa ngục chịu khổ
lâu dài.
Nếu dạy bảo y các điều
như vậy mà y bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên nhờ người quen biết với y như
sau: "Xin trưởng lão hãy khuyên người ấy từ bỏ ác kiến". Nếu không tự
mình hoặc nhờ người hóa giải thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là đệ tử có ác
kiến, tự mình hoặc nhờ người hóa giải.
5- Tự mình xuất tội
hoặc nhờ người xuất tội:
Nếu đệ tử phạm tội có thể sửa trị, như phạm tội Tăng già bà thi sa mà che giấu,
thì nên tự mình cho pháp Ba lợi bà sa.
Nếu y không che giấu,
thì nên cho pháp Ma na đỏa. Cho đến phạm tội Việt tỳ ni, thì nên tự mình trị
phạt.
Nếu mình không trị được
thì nên nhờ người khác trị.
Nếu đệ tử cùng sống
chung, đệ tử y chỉ phạm tội mà thầy không tự mình xuất tội, không nhờ người
khác xuất tội cho họ thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là tự mình hoặc nhờ người
xuất tội.
6- Khi đệ tử bệnh,
tự mình hoặc nhờ người chăm sóc: Nếu đệ tử bị bệnh thì tự mình phải săn sóc hoặc nhờ người khác
săn sóc. Không được sai người khác săn sóc mà bản thân mình không quan tâm đến.
Mỗi ngày nên đến thăm ba lần, và cổ vũ người nuôi bệnh: "Ông chớ nên uể oải,
chăm sóc lẫn nhau là điều mà Phật rất khen ngợi". Nếu đệ tử cùng sống
chung, đệ tử y chỉ lâm bệnh mà thầy không trông nom thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó
gọi là đệ tử bị bệnh, tự mình hoặc sai người chăm sóc.
7- Khi đệ tử lâm
nạn, tự mình hoặc nhờ người đưa đi: Nếu thân nhân của đệ tử muốn lôi kéo đệ tử trở về nhà, thì thầy
nên bảo họ lánh đi xa, để hoàn thành công đức xuất gia, và nên tự mình đưa đi.
Nếu vì già bệnh hoặc bận công việc của Tăng thì nên nhờ người khác đưa đi giúp.
Nếu không tự mình hoặc
nhờ người đưa đi thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là khi gặp nạn, hoặc tự mình
hoặc nhờ người đưa đi.
8- Khi đệ tử gặp nạn
vua, nạn giặc: Nếu đệ
tử bị vua bắt đi thì thầy không nên bỏ mặc như vậy mà phải ở bên ngoài thăm dò
tin tức. Nếu nhà vua hỏi: "Ai là Hòa Thượng, A xà lê?", thì khi ấy
nên đi vào.
Nếu sự việc bị hàm oan
thì nên tìm người quen biết làm chứng. Nếu cần tiền của để theo đuổi công việc
thì nên cho y bát. Nếu không có thì nên xin để cho. Nếu đệ tử bị giặc bắt đem
bán nơi phương xa thì thầy nên tìm kiếm chuộc về. Nếu đệ tử bị nhà vua, bị bọn
giặc bắt mà Hòa Thượng, A xà lê không cứu chuộc thì phạm tội Việt tỳ ni.
Nếu Hòa Thượng, A xà lê
(gặp các trường hợp trên) thì đệ tử cộng trụ, đệ tử y chỉ cũng phải can gián
như vậy. Nhưng không được nói thô lỗ như để dạy bảo, mà phải dùng lời nhã nhặn
khuyên can Hòa Thượng, A xà lê không nên làm việc đó.
Nếu thầy nói: "Ta
sẽ không làm nữa", thì tốt. Nếu (459a) Hòa thượng nói: "Im, im đi.
Ngươi không phải Hòa Thượng, A xà lê của ta. Lẽ ra ta dạy bảo ngươi mà ngươi
lại dạy bảo ta giống như vuốt mắt tre ngược chiều, ngươi chớ nói nữa", thì
nên bỏ đi xa.
Nếu đó là thầy y chỉ
thì nên mang y bát ra ngoài cương giới ngủ qua một đêm rồi trở về y chỉ người
khác.
Nếu thầy có thế lực thì
nên bỏ đi xa.
Nếu không bỏ đi thì nên
y chỉ người có đức độ. Nếu thầy đến những nơi không nên đến, hoặc bị yết ma thì
phải lo giúp đỡ.
Nếu thầy khởi ác kiến
thì phải tự mình giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa; tự mình hay nhờ người xuất
tội. Thầy bệnh hay không bệnh đều phải cung cấp.
Nếu thầy gặp nạn thì
nên đưa đi.
Nếu bị vua, giặc bắt
thì phải theo cứu giúp. Nếu đệ tử cọng trú, đệ tử y chỉ thấy thầy phạm những
giới nhỏ mà không can gián, cho đến bị vua, giặc bắt mà không theo cứu giúp thì
phạm tội Việt tỳ ni.
Đệ tử cọng trú, đệ tử y
chỉ ở gần Hòa Thượng, A xà lê phải làm các việc sau đây: Đứng dậy đón tiếp; trả
lời; làm việc; làm việc cho mình, làm giúp người khác; vấn đề y bát; tự cạo
đầu, cạo đầu cho người; dùng dao chữa trị; cho và nhận; lấy thức ăn cho mình,
lấy thức ăn cho người; tự mình trì kinh, dạy kinh cho người; gởi dục, nhận dục;
uống thuốc; rời khỏi cương giới; tổ chức cúng dường; đi không thưa.
1- Đứng dậy tiếp
đón: Đệ tử thấy Hòa Thượng, A xà lê từ
xa nên đứng dậy đón tiếp.
Nếu đang ăn năm món ăn
chính hoặc thọ trì hạnh ăn một lần không thể đứng dậy được thì nên cúi đầu
xuống.
Nếu thọ trì hạnh ăn một
lần thì nên bạch với thầy. Thầy nên hỏi:
"Ông có thể ăn một lần không? Nếu chịu đựng được thì nên thọ
trì". Nếu đáp: "Không chịu đựng nổi", thì nên bảo đừng thọ trì.
Nếu đệ tử thấy thầy mà
không đứng dậy thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là không đứng dậy đón tiếp.
2- Trả lời: Khi Hòa Thượng, A xà lê gọi thì đệ tử phải đáp. Nếu
trong miệng đang ngậm cơm mà tiếng nói không khác thì nên đáp. Nếu không thể
được thì đợi nuốt xong rồi mới đáp.
Nếu thầy trách:
"Vì sao nghe ta gọi mà không đáp", thì nên nói: "Vì trong miệng
đệ tử đang ngậm cơm". Nếu thầy gọi mà không đáp thì phạm tội Việt tỳ ni.
Đó gọi là trả lời.
3- Làm việc: Nếu Hòa Thượng, A xà lê bảo đệ tử làm việc ấy mà đúng pháp
thì nên làm. Nhưng nếu bảo: "Gọi cô gái ấy đến, lấy rượu đem lại",
thì nên dùng lời nhỏ nhẹ thưa lại: "Con nghe nói rằng các việc như vậy là
phi pháp, không nên làm". Nếu thầy bảo làm việc đúng pháp mà không làm thì
phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là bảo làm việc.
4- Làm việc cho mình
và làm việc với người:
Nếu muốn làm việc gì thì nên hỏi thầy: "Con muốn làm việc ấy với mỗ giáp.
Thầy nên xem tướng người ấy, nếu y không khéo trì giới thì nên bảo đừng làm
việc với y. Nếu thấy kẻ ấy khéo trì giới thì nên cho phép cộng tác. Nếu đến
phiên mình làm Duy na trực nguyệt thì nên bạch với thầy. Như trong Thiên uy
nghi (459b) đã nói rõ. Đó gọi là tự mình làm việc và làm việc với người.
5- Vấn đề y bát: Khi muốn hơ bát hoặc kê đá làm lò để hơ thì mỗi việc đều
nên thưa với thầy. Nếu không thể thưa từng việc một, thì chỉ cần nói: "Con
muốn hơ bát". Một lần thưa là gồm tất cả. Khi hơ bát nên thưa Hòa Thượng,
A xà lê có muốn hơ hay không. Nếu bảo hơ, thì nên hỏi cái nào hơ trước, cái nào
hơ sau hay là hơ chung một lần. Nếu bảo hơ một lần thì nên hỏi cái nào để trên,
cái nào để dưới, tùy thầy dạy nên làm theo ý. Khi muốn nhuộm y, nên thưa với
thầy; hoặc khi giặt, vá, nấu, tất cả đều nên thưa. Nếu không thể thưa từng việc
một thì chỉ cần nói: "Con muốn nhuộm y". Một lần thưa là gồm tất cả.
Khi nhuộm y, trước hết nên hỏi Hòa Thượng, A xà lê có muốn nhuộm y hay không.
Nếu nói: "nhuộm" thì nên hỏi cái nào nhuộm trước, cái nào nhuộm sau
hay nhuộm cùng lúc. Nếu bảo "cùng nhuộm một lần", thì nên nhuộm y Hòa
Thượng, A xà lê trước. Cũng vậy, khi vá, khi nhuộm, khi cầm, không được dùng y
của thầy gói y của mình mà nên lấy y mình gói y thầy. Khi làm các việc về y bát
mà không thưa với thầy thì phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là những việc thuộc về y
bát.
6- Tự cạo đầu và cạo
đầu cho người khác: Khi
mình muốn cạo đầu, nên thưa thầy. Thầy nên hỏi:
- Ai cạo cho ông?
- Dạ thưa mỗ giáp.
- Mổ giáp có biết cạo
không?
- Việc đó dễ như trở
bàn tay.
Thầy nên nói: - Không
nên.
Nhưng nếu nói
"biết" thì thầy nên quan sát người ấy. Nếu y không khéo trì giới thì
cũng nên bảo: "Không nên".
Nếu thấy y khéo trì
giới, thì nên nói: "Cạo được".
Khi muốn cạo đầu cho
người khác, nên thưa với thầy: - Con cạo đầu cho Tỉ kheo mổ giáp.
Thầy nên hỏi: - Ông có
cạo được không?
Nếu đáp: "Việc đó
dễ như trở bàn tay có gì mà không làm được", thì thầy nên nói: "Không
nên làm".
Nếu đệ tử nói:
"Con có thể làm được", thì thầy nên xem tướng y, nếu y không khéo trì
giới thì nên nói: "Không nên làm".
Nếu thấy y khéo trì
giới thì thầy nên nói: "Ý kiến ấy rất hay". Nếu Hòa Thượng, A xà lê
vào xóm làng, rồi thợ cạo đầu đến muốn cạo đầu thì mình nên bạch với các trưởng
lão Tỉ kheo khác rằng: "Con muốn cạo đầu". Sau khi thầy trở về, nên
thưa lại cho thầy biết. Khi thầy đi khỏi thì mình được nhờ thợ cạo, cạo đầu cho
mình. Đó gọi là cạo đầu cho mình và cạo đầu cho người khác.
7- Dùng dao chữa
bệnh: Khi muốn mổ mụt nhọt cho người
khác nên thưa với thầy:
- Con mổ mụt nhọt cho
Tỉ kheo mổ giáp.
Thầy nên hỏi:
- Ông làm có được
không?
Nếu đáp: "Việc này
dễ như trở bàn tay mà có gì làm không được", thì thầy nên nói:
- Không nên làm.
Nếu nói: "Con có
thể làm", thì thầy nên xem tướng, nếu y không khéo trì giới thì nên nói:
- Không nên làm.
Nếu thấy y khéo trì
giới, thì nên hỏi mụt nhọt ở chỗ nào. Nếu nói: "Ở chỗ bẩn thỉu", thì
nên nói:
- Trong phạm vi cách
cốc đạo (hậu môn) bốn lóng tay không nên chạm đến. Nếu lể đầu ra máu, hoặc chữa
trị các mụt ở chỗ khác (459c) thì nên làm.
Khi muốn phá mụt nhọt
của mình, nên thưa với thầy. Thầy nên hỏi ở chỗ nào. Nếu cho biết ở chỗ bẩn
thỉu thì nên bảo không nên làm. Nếu nói rằng ở những nơi khác thì cách xử trí
như ở trên. Đó gọi là dùng dao để chữa bệnh.
8- Cho và lấy: Khi muốn cho ai vật gì, nên thưa với thầy. Thầy nên hỏi:
- Cho ai?
Nếu nói: "Cho quả
phụ, đồng nữ, dâm nữ, bọn vô lại, kẻ hung ác, Tỉ-kheo-ni mang tiếng xấu, Sa di
ni mang tiếng xấu, Tỉ kheo không khéo giữ giới", thì nên bảo:
- Không nên cho và thân
cận với những hạng người như vậy.
Nếu cha mẹ không tin
Tam bảo, thì nên ít lui tới. Nếu có lòng tin thì nên cung cấp tận tình đừng để
thiếu thốn.
Khi muốn lấy vật của
người khác nên thưa với thầy. Thầy nên hỏi:
- Ai cho ông?
Nếu đáp: "Do đồng
nữ, cho đến Tỉ kheo không khéo giữ giới cho con", thì nên bảo:
- Chớ nên giao du thân
mật với những hạng người này.
Nếu đáp: "Người đó
khéo giữ giới", thì nên bảo: "Cứ lấy".
Hỏi:
- Khi cho hay nhận vật
chừng cỡ nào thì không cần thưa với thầy?
Đáp:
- Như chừng nửa sợi chỉ
hay nữa bữa ăn. Đó là các trường hợp cho và lấy không cần thưa.
9- Lấy thức ăn cho
người, lấy thức ăn cho mình: Khi người khác nhờ mình đi lấy thức ăn thì phải thưa với thầy
rằng:
- Con lấy thức ăn giúp
cho Tỉ kheo mổ giáp.
Thầy nên hỏi:
- Vị Tỉ kheo ấy vì sao
không đi lấy?
Đáp: "Ăn ở đó cực
khổ, ăn ở đây sướng hơn", thì nên nói:
- Nếu vì muốn sướng thì
đừng có nhờ người ta.
Nếu lấy giúp cho Duy na
hay người bệnh thì nên xem tướng người ấy. Nếu y không khéo trì giới thì nên
nói:
- Không nên đi.
Nếu nói: "Đến
phiên con đi lấy", thì nên bảo:
- Lấy bát của người ấy
rửa cho sạch rồi hợp chung với bát của mình cầm theo.
Nếu nói: "Người ấy
khéo trì giới", thì nên bảo:
- Hãy lấy giúp cho ông
ta.
Nếu muốn nhờ người khác
đi lấy giúp thức ăn thì nên thưa với thầy. Thầy nên hỏi:
- Vì sao ông không đi?
Nếu đáp: "Ăn ở đó
cực khổ, ăn ở đây sướng hơn", thì nên nói: "Ông vì thích sướng nên
không thể được".
Nếu (người đệ tử này)
đang làm Duy na hay bị bệnh, thì nên hỏi:
- Ông nhờ ai đi lấy?
Đáp:
- Mổ giáp.
Nếu thấy y không khéo
trì giới, thì nên nói: - Không thể được.
Nếu đáp: "Đến
phiên người ấy lấy phần cho con", thì nên bảo:
- Nên nhờ người khác,
hoặc là người cùng một Hòa Thượng, A xà lê, hoặc là người khéo trì giới đi lấy
giúp.
Đó gọi là đi lấy thức
ăn cho mình, lấy thức ăn cho người.
10- Đọc Kinh, dạy
Kinh cho người: Khi
muốn dạy Kinh cho ai nên thưa với thầy. Thầy nên hỏi:
- Dạy Kinh cho ai?
Đáp:
- Dạy Kinh cho Tỉ kheo
mổ giáp.
Lại hỏi:
- Dạy Kinh gì?
Nếu đáp: "Kinh Sa
Lộ Da Đà", thì nên nói:
- Không được, đức Thế
Tôn không cho phép.
Nếu nói: "Chú
Kinh", thì nên nói:
- Được, nhưng hãy bảo
ông ta đừng dùng Kinh này để làm kế sinh sống.
Nếu đáp: "Kinh A
Hàm", thì thầy nên xem tướng anh ta, nếu không khéo trì giới, thì nên nói:
- Không được.
Nếu thấy khéo trì giới
thì nên hỏi:
- Ngươi đọc Kinh có
trôi chảy không?
Đáp: "Không (460a)
trôi chảy, để con hỏi lại ông ta rồi con sẽ dạy", thì nên nói:
- Không nên dạy.
Nếu đáp: "Đọc trôi
chảy", thì nên bảo:
- Cứ dạy.
Khi mình muốn đọc Kinh
cũng phải thưa với thầy, như cách thức ở trên. Đó gọi là tự mình đọc Kinh, dạy
Kinh cho người.
11- Gởi dục, nhận
dục: Khi gởi dục hay nhận dục nên thưa
với thầy, như vấn đề lấy thức ăn.
12- Uống thuốc: Khi muốn ống thuốc trước hết phải thưa với thầy. Nếu đã
ngồi rồi muốn uống sữa trước rồi ăn sau thì dù không thưa mà uống, cũng không
có tội.
13- Rời khỏi cương
giới: Khi muốn rời khỏi Tăng già lam
chừng 25 khuỷu tay nên thưa với thầy rồi mới đi. Nếu đi kinh hành hoặc ngồi
thiền nên thưa để thầy biết chỗ. Nếu đang ở trước thầy mà muốn đi đại tiểu thì
nên cúi đầu tỏ sự cung kính rồi mới đi. Nếu không ở trước thầy thì không tỏ sự
cung kính, không có tội.
14- Tổ chức bố thí
rộng rãi: Nếu muốn tổ
chức bố thí lớn, nên thưa với thầy rằng:
- Con muốn bố thí hết
tất cả những vật sở hữu của con.
Thầy nên nói:
- Người xuất gia cần phải
có ba y, bình bát, tọa cụ, túi lọc nước, giày da.
Nếu đệ tử nói:
"Ngoại trừ các vật vừa kể, còn tất cả các thứ khác con muốn bố thí
hết", thì thầy nên xem tướng người ấy, nếu y không khéo trì giới, không
chịu tụng Kinh, hành đạo, nên nói:
- Đồng ý.
Nếu thấy y khéo trì
giới, thường đọc tụng hành đạo, thì nên nói:
- Bố thí chẳng phải là
giải pháp tốt nhất. Ông nhờ các vật ấy làm phương tiện (như là món thuốc) để mà
tọa thiền, tụng kinh, hành đạo.
Nếu nói: "Con có
thân nhân cung cấp cho y phục ẩm thực và thuốc chữa bệnh rồi", thì thầy
nên nói:
- Nếu thế thì thầy đồng
ý.
Đó gọi là bố thí rộng
rãi.
15- Thưa thầy rồi
mới đi: Khi muốn đi đâu phải thưa trước
với Hòa Thượng, A xà lê không được để đến lúc đi rồi mới thưa, mà phải thưa
trước chừng một tháng, nửa tháng rằng:
- Đệ tử muốn đến quốc
độ ở mỗ phương.
Thầy nên hỏi:
- Về việc gì mà đi?
Nếu nói: "Ở đây
Tăng làm việc cực khổ, đọc Kinh, tụng Kinh cực khổ quá; Hòa Thượng, A xà lê còn
bảo: ăn ít, uống ít, thức nhiều còn ở nơi kia thì sống sướng hơn", thì thầy
nên nói:
- Ông vì thế mà xuất
gia, vì sao lại khước từ sự cực khổ?
Nếu nói: "Hòa
Thượng, A xà lê lo việc kinh doanh, không dạy Kinh cho con, nên con phải
đi", mà mình có thể dạy được thì nên bảo:
- Đừng đi.
Nếu mình không thể dạy
được mà trong chúng có người khéo trì giới, tụng Kinh lưu loát thì nên bảo đến
người đó thụ giáo. Nếu cũng không có mà ở nơi kia có Tỉ kheo quen biết đa văn
thì nên gởi gấm cho họ. Nếu lúc đi không thưa với Hòa Thượng, thầy y chỉ mà đi,
thì phạm tội Việt tỳ ni. Ở đây, đệ tử cọng trú, đệ tử y chỉ đối với Hòa Thượng,
A xà lê phải làm những việc ấy. Đó gọi là thưa với Hòa Thượng, A xà lê rồi mới
đi.
LUẬT MA
HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ hai mươi tám.