Tam tạng pháp số phiên bản mới nhất và đầy đủ nhất

03/01/20174:05 SA(Xem: 8544)
Tam tạng pháp số phiên bản mới nhất và đầy đủ nhất

TAM TẠNG PHÁP SỐ
PHIÊN BẢN MỚI NHẤT VÀ ĐẦY ĐỦ NHẤT
Thích Quang Định giới thiệu

Tam Tạng Pháp Số  

Trong quá trình học tập và nghiên cứu Phật điển Hán tạng, chúng tôi nhận thấy việc ghi nhớ các từ ngữ Phật học là điều không dễ, bởi số lượng từ ngữ Phật học rất nhiều, Phật Quang Đại Từ Điển tổng cộng có 22608 mục từ. Nếu đi vào cụ thể từng tông phái thì số lượng mục từ đó vẫn còn chưa đủ, chỉ xét riêng tông Duy Thức đã có hơn 15.000 từ ngữ; Thiền tông có hơn 8.000 mục từ…nếu không tuần tự đi từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu người học sẽ ngập mình trong khối từ ngữ Phật học. Thêm vào đó, trong cùng một từ ngữ như “tâm”, “tính”, “thể”, “tướng”, “nhất tâm”…chúng đều có các nét nghĩa khác nhau theo từng tông phái, đây là trở ngại lớn cho người nghiên cứu Phật học qua Phật điển Hán tạng. Để góp phần vào việc giảm bớt rào cản ngôn ngữ cho người học Phật, chúng tôi chọn và soạn dịch bộ Tam Tạng Pháp Số bởi ba lí do:

1. Đây là bộ sách dạng từ điển có tính Phật học thuần túy, bởi ngoài từ ngữ chỉ các khái niệm về Phật học ra, sách này không thu vào các từ chỉ liên quan đến Phật giáo như tên chùa, tên danh tăng, tên tông phái...

2. Về số lượng, đây là sách có khối lượng từ ngữ Phật học vừa phải nhưng chúng đều có tần suất sử dụng rất cao kinh văn Phật giáo.

3. Các mục từ đều được ghi rõ nguồn gốc xuất xứ ở các kinh, luận trong đại tạng. Với trường hợp các từ nguyên văn giải thích rườm rà khó hiểu, tác giả giải thích một cách chiết trung, súc tích giúp người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Điều này có lợi trong việc giúp người đọc dễ dàng tìm hiểu nghĩa sâu hơn trong nguyên bản, đồng thời đây là dụng ý của soạn giả chỉ ra lỗi của người giới nghiên cứu Phật học “thời đó” là “nói thiếu dẫn chứng” như trong lời nói đầu của học giả Đinh Phúc Bảo. Trong quá trình biên dịch sách này, chúng tôi tránh hai thái cựclạm dụng âm Hán – ViệtViệt hóa từ ngữ Phật học một cách thái quá. (chỉ xét riêng trong cách chuyển dịch từ ngữ Phật học tiếng Hán thành từ tương đương trong tiếng Việt)

Với trường hợp thứ nhất tức trường hợp lạm dụng âm Hán – Việt. Theo quan điểm này, sẽ chỉ phiên thành âm Hán – Việt đối với tất cả các từ ngữ Phật học trong tiếng Hán. Ví dụ: 一心約教有異 sẽ được dịch ra tiếng Việt bằng cách phiên âm từ này là Nhất tâm ước giáo hữu dị hay 水喻真心有十義 sẽ dịch thành tiếng Việt bằng cách phiên âm thành Thủy dụ chân tâm hữu thập nghĩa mặc nhiên xem đây là đơn vị từ vựng Phật học tiếng Việt. Thật ra đây không phải là từ Hán Việt mà mới chỉ là cách đọc Hán - Việt. Ưu điểm của việc dịch bằng cách dùng trực tiếp cách đọc Hán - Việt là ngắn gọn. Nhưng ưu điểm này không thể bù cho các khuyết điểm: 1. Những mục từ được thu nhập trong từ điển chỉ xuất hiện ở từ điển chứ không xuất hiện trong văn bản dịch. Vì vậy, tuy là từ điển Phật học tiếng Việt nhưng phần lớn chỉ được tra cứu trong trường hợp đọc trực tiếp bằng văn bản tiếng Hán, điều này đã làm giảm đi rất nhiều chức năng của từ điển. 2. Tuyệt đại đa số từ, cụm từ đó đều mang cấu trúc từ pháp tiếng Hán, không phù hợp với cách cấu tạo từ của tiếng Việt, do vậy chúng không thể liên kết thành câu trong tiếng Việt.

Trường hợp thứ hai là Việt hóa từ ngữ một cách thái quá. Chúng tôi dùng chữ thái quáquan điểm này có xu hướng không dùng những từ Hán Việt vốn đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt. Ví dụ các từ đã thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt như Tam bảo, Chính đạo sẽ được dịch là ba ngôi báu trong đời; con đường chân chính…cách dịch này có ưu điểm dễ hiểu, dễ tiếp thu, có cấu trúc từ, cụm từ đúng với từ pháp tiếng Việt, tuy nhiên vẫn có một số hạn chế: 1. Thiếu tính súc tích, vắn gọn; thiếu tính nhất quán, tính đơn nghĩa và nhất là thiếu tính tôn giáo (khi nói Tam bảo, bát chính đạo thì ai cũng biết đó là từ ngữ Phật học, dù không biết nội dung cụ thể là gì, đấy là tính tôn giáo) của thuật ngữ. 2. Việt hóa quá mức những từ vốn đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt trong khi chưa có khái niệm cụ thể về ý nghĩa của “từ thuần Việt”, do vậy phải dịch bằng cách giải thích rườm rà, nhất là cách dịch này sẽ làm nghèo vốn từ vựng tiếng Việt.

Để tránh rơi vào hai trường hợp vừa nêu, chúng tôi tiến hành định lượng khảo sát các từ ngữ Phật học hiện đã trở thành lớp từ phổ thông, xem chúng đã chuyển dịch Hán sang Việt như thế nào bằng cách phân loại theo tiêu chí âm tiết, cụ thể là từ một âm tiết, hai âm tiết và ba âm tiết trở lên như sau.

Từ 1 âm tiết

Từ 1 âm tiết trong tiếng Hán dịch thành 1 âm tiết tiếng Việt chiếm hơn 99,9 %. Ví dụ các từ: Phật – Phật, Pháp – Pháp; Tăng – Tăng; Giới – Giới; Định – Định; Tuệ - Tuệ; Tướng – Tướng; Thể - Thể; Dụng – Dụng; Ý – Ý; Sắc – Sắc....Trong số đó, có cực hiếm những từ đơn âm tiết trong nguôn ngữ nguồn được dịch thành từ hai âm tiết trong ngôn ngữ đích. Từ “Tăng” có lúc tự dịch bằng cách thêm từ thành “chúng tăng” hoặc chữ “trần” thành “trần gian”. Từ điểm này cho thấy, đối với từ ngữ Phật học chỉ có 1 âm tiết thì khi dịch thành tiếng Việt sẽ tương ứng là 1 âm tiết. Tức cách đọc Hán – Việt trùng lên nghĩa tương ứng của từ đó trong tiếng Việt.

Từ có 2 âm tiết

Từ có 2 âm tiết trong tiếng Hán có nhiều cách dịch trong tiếng Việt, tức không còn tỉ lệ đối ứng 2 âm tiết Hán = 2 âm tiết Việt nữa. Ví dụ từ 四谛 có nhiều cách dịch như Tứ đế; Bốn chân lí; Bốn sự thật. Tuy nhiên, cách dịch có tỉ lệ đối ứng 2 âm tiết Hán = 2 âm tiết Việt chiếm tỉ lệ cao hơn nhiều, nguyên nhân là vì chúng không có từ tương đương trong tiếng Việt, do vậy xem cách đọc Hán – Việt chính là nghĩa tương ứng của từ đó trong tiếng Việt. Ví dụ các từ: duyên khởi, nhân duyên, nhân quả, quy y, vô thường, thiền định; bát nhã...tỉ lệ dịch theo phương pháp này chiếm khoảng hơn 97% trong tổng số từ ngữ Phật học có 2 âm tiết.

Từ có 3 âm tiết trở lên

Trường hợp 3 âm tiết trở lên khá phức tạp vì chúng có thể là từ, có thể là cụm từ. Một số từ có cấu trúc ngược (ví dụ theo tiếng Việt là Luận về Tư bản nhưng đã quen dùng Tư bản luận) nhưng dùng quen và rộng rãi trong tiếng Việt thì chúng tôi giữ lại, cách giữ lại này chúng tôi dựa vào lí luận phiên dịch của Huyền Tráng, tức thuộc “thuận cổ bất phiên” trong “ngũ chủng bất phiên”, các trường hợp còn lại đều được chuyển dịch cho phù hợp với cấu trúc từ tiếng Việt.

Những từ có nhiều biến thể âm đọc trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chọn cách đọc đúng với âm Hán - Việt của từ đó. Ví dụ từ 比丘có bốn biến thể âm đọc theo từng vùng: miền Bắc đọc Tỉ khưu hoặc Tỉ khiêu; miền Trung, miền Nam đọc Tỉ kheo, Tì kheo, Tì khưu, Tỉ khưu. Trường hợp này chúng tôi sẽ đọc đúng âm Hán Việt của từ đó là Tỉ khâu. (nguyên nhân đọc chệnh này không phải vì ảnh hưởng cách phát âm địa phương mà do kiêng tên của Khổng Tử) Đối với các từ dịch âm gốc Phạn sang Hoa, trong quá trình dịch thành tiếng Việt, chúng tôi chỉ dịch bằng cách phiên thành âm Hán Việt. Thông thường những từ ngữ phỏng âm theo tiếng nước ngoài qua tiếng Hán làm trung gian đều dùng dấu gạch nối giữa các tiếng. Ví dụ: Thích-ca Mâu-ni, Bồ-tát, La-hán…song trên thực tế sử dụng (khảo sát trong Đại từ điển tiếng Việt hiện đại và trong các tuyển tập ca dao tục ngữ) đều không có dấu gạch nối. Theo chúng tôi, có ba lí do không nên dùng dấu gạch nối giữa các tiếng trong từ dịch âm gốc Hán: 1. Dấu gạch nối chỉ sử dụng cho các từ phiên âm từ tiếng Anh, Pháp chứ không thích hợp cho các từ gốc Hán, vì dùng gạch nối giữa các từ dịch âm sẽ tạo thành ngăn cách khiến các từ đó không chuyển thành từ Hán Việt, trong khi đó từ phiên âm Hán – Việt “luôn có tiềm năng trở thành từ Hán Việt một khi có điều kiện”. 2. Thiếu mĩ quan và không tiết kiệm. 3. Nếu chiếu theo quy tắc gạch nối này thì rất nhiều từ Hán - Việt đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt cũng phải có dấu gạch nối, ví dụ: La sát, Diêm vương, Sám hối...Nếu chúng ta dùng dấu gạch nối giữa các tiếng đối với các từ dịch âm gốc Hán sẽ làm người Việt có cảm giác xa lạ với những từ vốn đã thành lớp từ phổ thông. Ngoài ra, danh hiệu Phật, Bồ tát, tên quả vị tu chứng, nhân danh, địa danh, tên kinh luận chúng tôi đều dùng chữ in hoa đối với tất cả các tiếng.

Xét về chức năng, đây là sách công cụ mang hình thức từ điển song ngữ Phật học Hán – Việt. Tôn chỉ, linh hồn của từ điển song ngữ ở điểm “cung cấp từ tương đương ở ngôn ngữ đích sao cho từ đó có nội dung ý nghĩa tương đồng với ngôn ngữ nguồn” (Theo Ladislar Zgusta trong cuốn Manual of Lexieography, trang 404 – 1983), do vậy, trong cuốn sách này chúng tôi cố gắng cung cấp các đơn vị từ tương đương với mục từ trong ngôn ngữ nguồn giúp người tra cứu có những đơn vị từ ngữ để tham khảo biểu đạt trong quá trình dịch thuật. Ngoài ra, trong quá trình sử dụng thực tế, thuật ngữ nói chung và thuật ngữ Phật học nói riêng sẽ có những “biến thể” nhất định để phù hợp với văn phong, với văn cảnh, với đối tượng tiếp thu, đấy chính là lí do chúng tôi đã cung cấp nhiều từ tương đương trong ngôn ngữ đích cho cùng một từ trong ngôn ngữ nguồn vậy.

Do điều kiện lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ…giữa hai nước Việt – Trung khiến Phật giáo Việt Namnhân duyên khắn khít không thể phân tách khỏi Phật giáo Trung Quốc và kho tàng Phật điển Hán tạng, đặc biệt là về mặt từ ngữ Phật học. Qua việc khảo sát từ ngữ Phật học hiện đã trở thành lớp từ thường dân trong các từ điển tiếng Việt hiện đại chúng tôi nhận thấy việc dịch kinh Phật đã, đang và sẽ làm phong phú hơn cho kho từ vựng tiếng Việt.

Những năm gần đây có nhiều nhiều tổ chức, nhiều trung tâm, nhiều nhà nghiên cứu Phật học đã nỗ lực cống hiến sức mình qua việc lần lượt giới thiệu các dịch phẩm kinh, luật, luận đến với người đọc, trong đó, việc dịch và biên soạn từ điển cũng có những bước tiến rõ về số lượng lẫn chất lượng. Đây là điều mà mỗi người con Phật đều lấy làm vui mừng. Để góp chút sức mình vào việc phiên dịch Phật điển Hán – Việt, chúng tôi cảm thấy hân hạnhvui mừng khi được giới thiệu sách này đến quý độc giả. Mặc dù cố gắng nhiều nhưng chắc chắn vẫn không khỏi thiếu sót, kính mong quý độc giả hoan chỉ chỉ giáo để chúng tôi hoàn thiện trong những lần tái bản.

Xin cảm ơn Công ty CP sách Thái Hà đã phát hành Tam Tạng Pháp Số, tác phẩm rất có giá trịcần thiết này.

Thích Quang Định

Nhà sách Thái Hà giới thiệu:

Tam Tạng Pháp Số còn gọi Đại Minh Pháp Số hay Phật Học Từ Điển… là bộ sách giúp người học Phật dễ dàng tra cứu giáo lí Phật đà, phù hợp cho nhiều tầng lớp đối tượng: từ sơ học đến người đã có trình độ cao, do Nhất Như, Đạo Thành…thời nhà Minh cùng một số đại sư khác phụng chiếu nhà vua biên soạn.

Pháp sư Nhất Nhưcao tăng đắc đạo, người đứng đầu trong tám vị cao tăng của ban giảo kham Đại tạng kinh nhằm hoàn thành bộ kì thư vĩ đại – Vĩnh Lạc Đại Điển thời Minh. Năm thứ 17 niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ban chiếu chỉ thỉnh sư cùng một số cao tăng khác biên soạn bộ “pháp số” dựa theo tam tạng kinh điển Phật giáo. Do đây là bộ sách chuyên sưu tập, giải thích các danh từ Phật học khởi đầu từ những con số trong tam tạng kinh điển nên gọi là Tam Tạng Pháp Số.

Nguyên tác Tam Tạng Pháp Số được chia làm 50 quyển, sưu tập 1555 mục từ, khởi đầu từ “Nhất tâm” đến kết thúc là “Tám vạn bốn nghìn pháp môn”. Ở mỗi mục pháp số đều ghi rõ xuất xứ, điều này giúp người đọc dễ dàng kiểm chứng và tra cứu nguyên bản, tránh được cái tệ giấu điển hoặc không ghi xuất xứ của các nhà Phật học thời đó. Trường hợp một mục từ pháp số có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau của mỗi trường phái đều được nêu dẫn chứng rõ ràng, tường tận. Với trường hợp xuất xứ của pháp số khó hiểu, tối nghĩa hoặc trình bày rối, tạp đều được Pháp sư diễn đạt lại bằng những từ ngữ bình dị, thông tục ngắn gọn và dễ hiểu. Việc lấy số thứ tự từ nhỏ đến lớn để sắp xếp trật tự nội dung cho cuốn sách là một sáng kiến mang tính vạch thời đại của các nhà làm từ điển của Trung Quốc nói chung và các nhà nghiên cứu Phật học nói riêng.

Tính đến nay, Tam Tạng Pháp Số đã gần sáu trăm tuổi nhưng nhiều nhà nghiên cứu Phật học cận, hiện đại vẫn xem đây là cách sắp xếp khoa học, dễ dàng tra cứu nhất.

Thông tin tác giả:

Pháp sư Thích Nhất Như, người Cối Kê, trú trì chùa Thiên Trúc Giảng thượng, do ba chùa cùng tên, cùng núi nên đặt chùa Thiên Trúc Giảng thượng, chùa Thiên Trúc Giảng trung và chùa Thiên Trúc Giảng hạ, Hàng Châu nay là phố Hàng Châu, Triết Giang, Trung Quốc. Theo sách Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập của tỉ khâu Đại Văn Huyễn Luân và sách Hàng Châu Thượng Thiên Trúc Giảng Tự Chí của Thích Quảng Tân ghi thì vào năm 1419 có tám vị pháp sư, trong đó có Nhất Như, Thiện Thế… phụng chiếu vua Vĩnh Lạc giảo khám Đại tạng, đối chiếu bản cũ mới để hoàn thành bộ Vĩnh Lạc Bắc tạng. Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập, cuốn 2 ghi “ngày mùng 3 tháng 3, ban mệnh cho tám người như Đạo Thành, Nhất Như giảo khám tạng kinh, đối chiếu mới cũ, tụ tăng ghi chép” Tam nguyệt sơ tam, mệnh Đạo Thành, Nhất Như đẳng bát nhân, giảo khám tạng kinh, tân cựu tỉ đối, tụ tăng tả lục. Đoạn nói về sách Pháp Số ghi rằng “cuốn Đại Minh Pháp Số, pháp sư Nhất Như, phụng sắc nghiên cứu kinh điển trong Đại tạng, chọn lựa tập hợp lại để biên soạn các mục từ có cùng chủng loại. Đại Minh Pháp Số, Nhất Như pháp sư, phụng sắc thám thảo Đại tạng quần kinh, thái tập loại biên. Ngoài đoạn ghi tả về soạn giả Nhất Như trong hai sách vừa nêu chỉ nói về sách Pháp Số và soạn giả như vậy, ngoài ra, có đoạn ghi rời về chức năng, nhiệm vụ của pháp sư được nhà vua giao chứ không thấy nói gì thêm về năm sinh, năm mất.

Nhưng theo bài tựa của Đinh Phúc Bảo ghi trong lần ấn hành đầu tiên, ông nói sư Nhất Như “là người có tư chất thông minh bẩm sinh lại tinh cần học hỏi, khả năng ghi nhớ tốt. Kinh điển Đại thừa, Tiểu thừa hễ lướt mắt qua là thuộc nằm lòng dường như đã gieo duyên từ tiền kiếp. Xuất gia tại chùa Thiên Trúc Giảng thượng ở Hàng Châu, là đệ tử của pháp sư Cụ Am, được truyền thừa chân chính từ thầy. Rộng thông giáo nghĩa, giảng thuyết hùng biện, sở trường về kinh Pháp Hoa, có trước tác bộ Pháp Hoa Kinh Khoa Chú. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc, sắc mệnh biên tu Đại tạng, trong đó sư giữ chức tổng quản công trình, sau thăng giữ chức quản lí tăng đoàn tăng lục ti của Xiển giáo, thị tịch vào tháng 3 năm thứ nhất niên hiệu Hồng Hy 1425, được vua Nhân Tông ban lễ tế tang”. (Theo Trùng khắc Đại Minh Tam Tạng Pháp Số tự).



Tác giả: Thích Nhất Như
Giá bìa: 499.000
Số trang: 1120 trang
Khổ: 20.5 x 29.7 cm
Nhà xuất bản: NXB Lao Động

Quý độc giảViệt Nam có thể mua sách tại các nhà sách.
Ở xa Việt Nam có thể tải về miễn phí phiên bản PDF
:
pdf_download_2
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng



 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
07/10/2019(Xem: 8722)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.