Bốn Chân lý cao quý, Nhị đế, Toàn-hảo xác-định, và Tích tập Phúc Tuệ

15/01/20164:00 SA(Xem: 8291)
Bốn Chân lý cao quý, Nhị đế, Toàn-hảo xác-định, và Tích tập Phúc Tuệ

Đức Đạt Lai Lạt Ma
BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ, NHỊ ĐẾ, TOÀN HẢO XÁC ĐỊNH VÀ TÍCH TẬP PHÚC TUỆ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
(Lược trích với chú thích mới từ Bài 1. Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí)
Bản Anh: THE MIDDLE WAY. Faith grounded in Reason. Wisdom, 2009.


***

the middle way1. Thứ tự của sự phân tích

Về thứ tự thực tế trong thi hành phân tích, trong “Ca tụng 17 Đại sư Nalanda”, tôi đã viết:

Bằng lí hội thông hiểu nhị đế, bản chất của nền tảng,

Tôi sẽ tìm biết xác định cách nào, xuyên qua bốn chân lí cao quý, chúng ta đi vào và ra khỏi sinh tử tương tục;

Tôi sẽ tạo lập và xác định chính tín nơi Tam Bảo, chính tín này phát sinh từ trí tuệ.

Tôi mong ước được gia hộ để cho gốc rễ của con đường tu tập giải thoát được an lập vững chắc trong tôi.

Ở đây, thực hành Phật pháp, nghĩa là tuân theo đức hạnh, tự ngăn không làm mười bất thiện và đào luyện đại bitừ bi trong khung cảnh tìm cầu giải thoát. Một cách chỉ thuần tự ngăn không làm mười bất thiện hoặc đào luyện đại bitừ bi mà thôi thì cũng không có nghĩa là thực hành chuyên biệt của Phật pháp. Nói chung, những tu tập như thế về đức hạnhđại bi là một đặc điểm của nhiều truyền thống tâm linh.

Khi chúng ta nói về Phật pháp trong ngữ cảnh này, thuật ngữ Pháp hoặc tâm linh (Dharma or spirituality) là đang nói về sự tịch tĩnh của niết bàn -- giải thoát – và về toàn hảo xác định (definite goodness), một thuật ngữ bao gồm cả giải thoát cách tuyệt luân hồi cộng thêm vào sự toàn giác của trạng thái phật.

(When we speak of Buddhadharma in this context, the term Dharma (or spirituality) refers to the peace of nirvana – liberation – and to definite goodness, a term that encompasses both liberation from samsara as well as the full enlightenment of buddhahood).

Chúng ta sử dụng thuật ngữ toàn hảo xác định bởi vì sự tịch tĩnh của niết bàn thì hoàn toàn tuyệt hảo, thanh tịnhvĩnh viễn. Khi những thực hành tỉ dụ tránh những hành động bất thiện và đào luyện từ biđại bi đều là một phần của công cuộc tìm kiếm thành đạt giải thoát cách tuyệt luân hồi, lúc đó chúng thực sự trở thành Pháp trong ý nghĩahoạt động tâm linh của Phật giáo.

“Giải thoát” ở đây được định nghĩa là sự diệt tận (cessation) của các nhơ nhuốm của tâm xuyên qua năng lực của áp dụng những thuốc giải tương ứng.

Cái nhơ nhuốm chính yếu, cái gốc rễ chính xác của hiện hữu bất giác của chúng ta, là sự chấp thủ ngã, chấp thủ hiện hữutự tính (self-existence), và những thành tố tâm lí, cảm xúc phát sinh từ chấp thủ vào hiện hữutự tính.

Thuốc giải trực tiếp (Direct antidote) đối với tâm chấp ngã cũng như những thành tố tâm ý/tinh thần là tuệ quán hội nhập vào vô ngã (insight into selflessness). Thế nên, chính là trên cơ sở của thực chứng vô ngãchúng ta thành đạt giải thoát chân thực.

Đây là con đường đạt đến toàn hảo xác định và con đường tu tập đạt giải thoát và cũng là con đường độc đáo của Phật giáo. Thế nên, tôi đã viết, “Tôi mong ước được gia hộ để cho gốc rễ của con đường tu tập giải thoát được an lập vững chắc trong tôi.”

2. Bốn Chân lí cao quý

Giờ đây để an lập gốc rễ của con đường tu tập giải thoát vững chắc trong chúng ta, lí hội thông hiểu bốn chân lí cao quý là điều chính yếu. Bốn chân lí cao quý giống như nền tảng cho tất cả giáo pháp của Phật -- cả kinh thừa và mật thừa. Khi Phật bắt đầu dạy Pháp cho các đệ tử đầu tiên của ngài, ngài đã dạy bốn chân lí cao quý.

Nếu chúng ta chiếu soi sâu sắc trên đường lối Phật đã dạy bốn chân lí cao quý, chúng ta thấy rằng trước nhất ngài miêu tả các tướng trạng hoặc bản chất của chúng (theircharacteristicsor nature); thứ nhì, chức năng của chúng và thứ ba, thành quả (the outcome) chúng ta sẽ kinh nghiệm một khi chúng được thực chứng một cách trực tiếp. Đây là lí do tại sao trong giáo pháp Phật giáo, chúng ta thường tìm thấy những cuộc thảo luận về ba nguyên tố chính yếunền tảng, con đường tu tập (đạo lộ), và thành quả (ground, path, and result).

Sự lí hội thông hiểu bản chất của thực tại là nền tảngcon đường tu tập thì được tiến hành căn cứ trên sự lí hội thông hiểu về nền tảng, và cuối cùng là thành quả thì được kinh nghiệm trong trạng thái một thành quả của tiến trình đào luyện con đường tu tập.

Giáo pháp của Phật về bốn chân lí cao quý là một miêu tả bản chất thực sự của thật tại (pháp tính).

Khi Phật dạy bốn chân lí cao quý, ngài bắt đầu bằng cách miêu tả các bản chất của chúng, tuyên bố “Đây là chân lí cao quý về khổ, đây là chân lí cao quý về nguyên nhân của khổ, đây là chân lí cao quý về diệt tận của khổ, và đây là chân lí cao quý về con đường tu tập”. Bằng tuyên bố các chân lí cao quý theo đường lối này, Phật đưa ra một biểu từ xác định về cách thức sự-sự vật-vật hiện hữu [= Phật đưa ra một biểu từ xác định về thực tại tính / pháp tính]; ngài đang miêu tả bản chất của nền tảng.

(By declaring the truths in this way, the Buddha was making a statement about the way things exist; he was describing the nature of the ground).

Giờ đây, “đau khổ” trong chân lí cao quý thứ nhất của Phật, trong đó ngài nói, “Đây là chân lí cao quý về khổ”, gồm tất cả những đau khổ hành hạ chúng ta. Trong khổ này có nhiều mức độ sai biệt vi tế, không hoàn toàn chỉ là sự đau khổ hiển hiện của đau đớnvất vả cơ cực nhưng cũng còn là một phẩm tính lan toả sâu hơn và nhiều hơn của những kinh nghiệm của chúng ta. Biểu từ “Đây là chân lí cao quý về khổ”công nhận rằng tất cả những kinh nghiệm này đều không thỏa mãn nhu cầu hoặc “có bản chất đau khổ”.

Trong chân lí thứ nhì, biểu từ “Đây là chân lí cao quý về nguồn gốc của khổ” tuyên bố nguyên nhân làm duyên hội xảy ra đau khổ hoặc nguyên nhân kiến tạo nguồn gốc của đau khổ. Tuy nguồn gốc của khổ chính nó cũng là một hình dáng của khổ và như vậy được gồm trong chân lí thứ nhất, nhưng khổ và nguồn gốc của khổ được phân biệt ở đây và được miêu tả trong cách thức của một nguyên nhân và một hiệu quả.

Thêm một lần nữa, nguyên nhân quan trọng nhất của khổ mà Đức Phật nhận diện là sự chấp thủ của chúng ta vào hiện hữutự tính, căn bản vô minh làm sai lệch cái nhìn của chúng ta về thực tại tính/pháp tính (reality) và làm cho chúng ta quan liên duy chỉ những hiện tướng bị nhận lầm và không quan liên tới thật tướng / thực tại tính.

(Again, the primary cause of suffering that the Buddha identifies is our grasping at self-existence, the fundamental ignorance that distorts our view of reality and causes us to relate only to our confused appearances and not to the way things truly are).

Biểu từ trong chân lí cao quý thứ ba, “Đây là chân lí cao quý về diệt tận”, tuyên bố bản chất tự do cách tuyệt với đau khổ, chính là sự diệt tận hoàn toàn đau khổ. Nó khẳng định rằng những nguyên nhân của khổ có thể được chấm dứt một cách hữu ý. Khi những hạt giống của những nguyên nhân này càng ngày càng ít hơn và cuối cùng được xoá sạch, tự nhiên các phương diện khác không thể phát sinh những kết quả và các kinh nghiệm. Thế nên biểu từ ở đây tuyên bố sự khả hữu của một thời điểm khi sự đau khổ của chúng ta và nguồn gốc của nó được tịch tĩnh hoàn toàn

(So the statement here declares the possibility of a time when our suffering and its origin are totally pacified).

Để hiểu một cách trọn vẹn sự khả hữu của một sự diệt tận như thế, bạn không thể chỉ dựa vào thông hiểu các hiện tướng đơn thuần (mere appearances); nói đúng hơn, bạn phải thâm nhập cách thế chân thật của hiện hữu thể (rather, you must penetrate their true mode of being). Bạn không thể tin cậy vào mức độ bình thường của các hiện tướng bởi vì chúng không thể tin cậy được.

Nguyên nhân rất gốc rễ của đau khổ của bạn, căn bản vô minh, là bị lầm lẫn về cách thế chân thực của hiện hữu thể của các hiện tượng -- thật tướng – và căn bản vô minh kiểm soát mỗi sát na kinh nghiệm hiện tại của chúng ta.

(The very root cause of your suffering, fundamental ignorance, is deluded about the true mode of being of phenomena – the way things actually exist – and fundamental ignorance dominates every moment our present experience).

Tuy nhiên căn bản vô minh này có thể gỡ ra được vì nó chỉ kết hợp tạm thời với bản chất giác chiếu của những tâm của chúng ta. Thế nên một cách tối hậu, vô minh và tâm có thể được li cách; vô minh không là bản chấttự tính của những tâm của chúng ta.

(This fundamental ignorance, however, is not inextricably fused with the luminous nature of our minds. Ultimately, ignorance and the mind can be separated; ignorant is not inherent to the nature of our minds).

Thế nên, biểu từ trong chân lí thứ tư rằng “Đây là chân lí cao quý về con đường tu tập” tuyên bố rằng sự diệt tận có thể được thực chứng trong tương tục tâm xuyên qua những phương pháp minh định (certain methods). Quan trọng nhất trong những phương pháp này là trí bát nhã thực chứng bản chất của thực tại. Để xoá bỏ căn bản vô minh, chúng ta đào luyện trí tuệ vô ngãthiền định trên chân lí này. Con đường tu tập thực chứng trực tiếp vô ngã có thể tấn công trực tiếp tâm vọng tưởng nhận thức sai lầm trạng thái hữu ngã và xoá bỏ nó. Trong cách này, bản chất của con đường tu tập được tuyên bố.

Tóm lại, trong tiến trình đánh số thứ tự nhận diện đặc tính của bốn chân lí, Đức Phật đã dạy bản chất của nền tảng, thật tướng, và có thể được giảng giải bằng tỉ dụ tương tự sau đây: Khi một người nào yếu đau có thể chữa khỏi, bạn có sự đau khổ của chính sự yếu đau, những thành tố đối ngoại, đối nội sinh ra sự yếu đau, tiềm năng để lành bệnh, và thuốc giải hoặc thuốc men đẩy lui các nguyên nhân yếu đau và đem đến sự chữa lành. Trong một cách thức giống như thế, có một con đường tu tập dẫn đến sự diệt tận của tất cả những đau khổ. Đây là bản chất của nền tảng, sự lí hội thông hiểu của thật tướng / thực tại tính.

Chúng ta tự động tìm kiếm hạnh phúccố gắng vượt qua đau khổ, và chúng ta không cần lí luận chứng tỏ đó là hai điều cần theo đuổi. Khuynh hướng tìm kiếm hạnh phúccố ý tránh né đau khổ hiện hữu một cách tự nhiên trong chúng ta, và cũng ngay cả trong những súc sinh. Khuynh hướng tự nhiên tìm kiếm hạnh phúcngăn ngừa đau khổ xảy ra là sự kiện căn bản thực tại của chúng ta, thế nên bốn chân lí cao quý có tính nhân quả -- khổ và nguồn gốc của nó, sự diệt tận và con đường tu tập -- cũng là những sự kiện căn bản của thực tại.

Giờ đây, câu hỏi là, “Lấy những sự kiện này làm căn bản, làm cách nào chúng ta áp dụng trí tuệ của chúng ta về bốn chân lí cao quý -- sự lí hội thông hiểu về nền tảng?” Đáp lại câu hỏi này, Đức Phật đã trả lời, “Nhận diện đau khổ, xóa bỏ nguồn gốc của đau khổ, thực hiện sự diệt tận, và đào luyện con đường tu tập”

(‘‘Recognize suffering, eliminate the origin of suffering, actualize cessation, and cultivate the path”).

Trong cách liệt kê lần thứ nhì bốn chân lí cao quý, Đức Phật đã dạy các nhiệm vụ của chúng, tiến trình chúng ta phải theo để thực hiện chúng trong tâm của chúng ta. Trong những giảng giải ba lần -- về nền tảng, con đường tu tập, và thành quả-- đây là giảng giải về con đường tu tập.

Giờ đây, khi chúng ta đi đến nhận diện đau khổ một cách toàn thể, thì mong ước cách tuyệt với đau khổ phát sinh một cách tự nhiên. Thế nên với biểu từ, “ Nhận diện đau khổ”, Phật đã dạy sự quan trọng của sự lí hội thông hiểu tốt tất cả mức độ thô và vi tế của đau khổ. Thiền quán về đau khổ tiến hành bằng cách tiến tuần tự qua ba loại vi tế nhiều hơn của đau khổ: khổ hiển nhiên, khổ do biến dịch, và khổ tùy thuộc vào duyên.

Đau khổ hiển nhiên (evident suffering), cũng được gọi là khổ của khổ, là đau đớn hiển hiện và lao tác nhọc nhằn -- định nghĩa thế tục của khổ.

Đau khổ do biến dịch (Changeable suffering) được thông hiểu theo quy ước thế tục trong trạng thái lạc thú (pleasure), nhưng tính không vững bền tự bản chất của nó, sự vô thường của nó, luôn luôn mang đến đau khổ trong thức tỉnh lúc cuối của nó.

Mức độ vi tế nhất, đau khổ do nhân và duyên (suffering of conditioning), là chính cái phẩm tính của tất cả các kinh nghiệm tùy thuộc nhân và duyên bởi vô minh -- nhiều đau đớn, có thể lạc thú, hoặc các phương diện khác. Nói chung, khổ hiển nhiên là cái ngay cả những súc sinh cũng có thể nhận ra. Chúng ta không cần đến thiền quán siêu đẳng để phát triển lòng mong muốn cách tuyệt với nó. Tuy nhiên, khổ hiển nhiên đến trên căn bản của khổ do biến dịch mà khổ do biến dịch này có gốc rễ trong khổ do nhân và duyên.

Thế nên dầu chúng ta có thể cố gắng xóa bỏ riêng một cái khổ hiển nhiên, trong bao lâu mà khổ do nhân và duyên còn tiếp tục hiện hữu, thì khổ hiển nhiên chỉ có thể bị giảm xuống nhưng nó không thể bị xoá bỏ. Thế nên, để xoá bỏ khổ hiển nhiên một cách trọn vẹn, chúng ta phải xoá bỏ khổ do nhân và duyên. Như vậy ý nghĩa của biểu từ “Nhận diện khổ” là để nhìn nhận khổ do nhân và duyên.

Một cách tương tự, ý nghĩa của biểu từ “Xoá bỏ nguồn gốc của đau khổ” là xoá bỏ nguyên nhân gốc rễ của tất cả đau khổ, đó là căn bản vô minh. Ý nghĩa của biểu từ “Thực hiện diệt tận” là chấm dứt hoàn toàn đau khổ và nguồn gốc của nó. Đây là cái chúng ta phải tìm kiếm, cái mục đích cuối cùng chúng ta hi vọng tới được -- toàn hảo xác định đã nói ở trên.

Cuối cùng, “Đào luyện con đường tu tập” nghĩa là diệt tận phải được thực hiện trong tâm của chúng ta (nghĩa là không ở ngoại giới. ĐHP), thế nên chúng ta phải luyện tập về các nguyên nhân sẽ dẫn chúng ta đến những thành tựu của diệt tận. Chúng ta phải đem sự lí hội thông hiểu của chúng ta vào trong thực hành thực sự. Nói về hiện hữu bất giác và hữu giác – luân hồiniết bàn –chúng ta thực sự đang nói về hai trạng thái tâm sai biệt. Bao lâu tâm vẫn còn ở trong một trạng thái vọng tưởng, bất giác, che lấp bởi vô minh, thì chúng ta vẫn ở trong luân hồi hoặc hiện hữu bất giác.

(In speaking of unenlightened and enlightened existence – samsara and nirvana – we are really talking about two different states of mind. As long as the mind remains in an unenlightened, deluded state, obscured by ignorance, we are in samsara or unenlightened existence).

Một khi chúng ta đạt tới tuệ quán về bản chất thật của thực tại [= thực tại tính/pháp tính]chúng ta thấy sáng tỏ không còn bị sự lừa dối của vô minh, thì tiến trình giác ngộ bắt đầu. Từ lí do này, luân hồiniết bàn, u minhgiác ngộ, đều thực sự là những chức năng của chúng ta, bất kể chúng ta vô tri hoặc có tuệ quán về bản chất tối hậu của thực tại.

(Once we gain insight into the true nature of reality and see through the deception of ignorance, the process of enlightenment beginsHence samsara and nirvana, benightedness and enlightenment, are actually functions of whether we are ignorant of or have insight into the ultimate nature of reality).

Tâm yếu của hành trình của chúng ta tới giác ngộ là tiến trình phát triển tuệ quán này.

Tóm lại, Phật mở đầu tuyên bố bốn chân lí cao quý, kế đến dạy cách nào áp dụng chúng, giảng giải thứ tự chúng ta tiến bước theo con đường tu tập. Bước thứ nhất Đức Phật khuyên chúng ta là “Nhận diện đau khổ”. Đức Phật giải thích rõ hơn, nói “Nhận diện đau khổ , nhưng không có đau khổ được nhận diện; xoá bỏ nguồn gốc của đau khổ, nhưng không có nguồn gốc của đau khổ bị xoá; thực hiện sự diệt tận, nhưng không có sự diệt tận được thực hiện; đào luyện con đường tu tập, nhưng không có con đường tu tập được đào luyện.” (Đây cũng là ý của Kinh Kim Cương. ĐHP). Với những biểu từ này, Phật đã làm cho chúng ta ngưỡng mộ – thông qua trí tuệ - về bốn chân lý cao quý đạt tới đỉnh cao nhất – đó chính là thành quả của con đường tu tập. Ở thành quả của con đường tu tập, chúng ta không cần nhận diện bất kì đau khổ nào thêm nữa hoặc xoá bỏ bất cứ nguồn gốc đau khổ nào thêm nữa. Thực tại tính/ Như thực tính này là thực chứng rốt ráo của bốn chân lí cao quý.

Đây là cách Đức Phật trình bày bốn chân lí cao quý theo phương diện của nền tảng, con đường tu tập, và thành quả.

Khi Phật dạy bốn chân lí cao quý, Phật nói về hai tập hợp nguyên nhânhiệu quả -- khổ và nguồn gốc của khổ, là một phương diện, và sự diệt tận và nguyên nhân của nó, gọi là con đường tu tập, là một phương diện khác.

Nguyên nhânhiệu quả thứ nhất thuộc về những hiện tượng phiền não – về sự tái sinh của chúng ta trong luân hồi—trong khi nguyên nhânhiệu quả thứ hai thuộc về những hiện tượng giác ngộ -- về trạng thái khổ bị xoá bỏ một cách hoàn toàn. Những nguyên nhânhiệu quả của nhóm phiền nãovô minh làm gốc rễ, trong khi đó nguyên nhânhiệu quả của giác ngộ tiếp tục tiến triển xuyên qua sự diệt tận của căn bản vô minh -- tiến trình tịnh hoá nguyên nhânhiệu quả phiền não.

Ở đây chúng ta thấy một lần nữa cả hai luân hồi và sự siêu việt của nó – luân hồiniết bàn -- được định nghĩa theo phương diện vô minh hoặc trí tuệ về bản chất tối hậu của thực tại. Và lại một lần nữa chúng ta thấy rằng sự sai biệt giữa luân hồiniết bàn là một sự sai biệt trong cách như thế nào chúng ta nhận thức thực tại.

3. Nhị Đế

Đại sư Long Thọ khẳng định trong “Những tụng căn bản về Trung Đạo” của ngài rằng:

Những giáo pháp Phật dạy thuần túy đặt căn bản trên nhị đế.

Để lí hội thông hiểu sự trình bày bốn chân lí cao quý theo tri kiến Trung Quán, quan trọng chính yếuthông hiểu hai mức độ của chân lí -- quy ước thế tụctối hậu. Như chúng ta đã thấy, khi chẳng thông hiểu chân lí tối hậu – cách thế hiện hữu chân thật của sự-sự vật-vật -- thì thật là khó lòng tin chắc sự diệt tận trong tất cả các phương diện toàn diện. Đây là tại sao tôi đã viết,

Do bởihội thông hiểu nhị đế, bản chất của nền tảng,

Tôi sẽ tìm biết xác định cách nào, xuyên qua bốn chân lí cao quý, chúng ta đi vào và ra khỏi luân hồi.

Và bởi vì trên căn bảnhội thông hiểu nhị đếchúng ta thông hiểu trọn vẹn bản chất của Pháp Bảo, và trên căn bản này, chúng ta đạt sự lí hội thông hiểu sâu xa hơn các bản chất Phật BảoTăng Bảo, nên tôi đã viết:

Tôi sẽ tạo lập và xác định chính tín nơi Tam Bảo, chính tín phát sinh từ trí tuệ

Tôi nguyện ước được gia hộ để cho gốc rễ của con đường tu tập giải thoát được an lập vững chắc trong tôi.

Nói một cách khác, nguyện ước tín nhiệm vững chắc vào Tam Bảo phát sinh trong tôi do từ trí tuệ nhận biết sáng tỏ các bản chất của ba đối tượng quy y; và trên căn bản này nguyện ước cho gốc rễ của con đường tu tập đi tới giải thoát được an lập vững chắc trong tôi.

Thứ tự tôi mô tả sơ lược ở đây được căn cứ trên cách trình bày của Ngài Di Lặc (Maitreya) trong “Thực chứng trang nghiêm” (Abhisamayalamkara; Ornament of Clear Realizations), ở đó , sau khi phát tâm bồ đề, ngài trình bày những chỉ giáo tiếp theo :

Những tu tập và bốn chân lí cao quý, cộng thêm Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng già…

Trong những giòng kệ tụng này ngài Di Lặc, trong thảo luận nội dung của tu tập, trình bày những chỉ giáo về nhị đế, những chỉ giáo về bốn chân lí cao quý -- cấu trúc của những tu tập – và những chỉ giáo về Tam Bảo, đó là những tăng cường cho những tu tập. Tôi theo cùng một thứ tự trong giòng kệ tụng của tôi ghi trên.

Hiện nay, Phật giáomục đích tức thời giúp chúng ta đạt được tái sinh cõi cao làm một người hoặc một vị trời và mục đích tối hậu là đạt sự toàn hảo xác định (definite goodness). Những giáo pháp về các phương tiện đạt được tái sinh cõi cao được căn cứ trên sự đào luyện “tri kiến chân chính về thế gian” (“ the right worldly view”). Tri kiến chân chính về thế gian là gì? Đó là tri kiến chân chính về luật của nghiệp và những nghiệp quả của nó được căn cứ trên chính tín vào nguyên lí duyên khởi. Mục tiêu được tìm kiếmthành đạt trên căn bản của một tri kiến như thế là tái sinh cõi cao.

Từ một phương diện khác, chúng ta phát triển sự lí hội thông hiểu ý nghĩa vi tế của sự-sự vật-vật hiện hữu như thế nào trong trạng thái những khái niệm giả danh (as conceptual designations), lúc đó chúng ta sẽ lí hội thông hiểu duyên khởi thì rỗng thông[= chân không diệu hữu] (to be empty) và trên căn bản đó, ‘tri kiến chân chính siêu thế gian’ phát sinh (nhưng không là tri kiến chân chính thế gian); [‘the right transworldly  view (as opposed to “the right worldly view’) arises]. Tri kiến này có mục tiêu thành tựu một kết quả là sự toàn hảo xác định. Thế nên, ngay cả những mục tiêu của Tâm linh Phật giáo đều được cấu trúc trong ngữ cảnh của nhị đế.

Hơn thế nữa, sự toàn hảo xác định cao nhất, trạng thái nhất thiết trí của một vị phật , thì kết hợp bởi hai biểu trưng hoàn hảo – sắc thân/ thân tối thắng của hình dáng (rupakaya) và pháp thân/ thân tối thắng của chân lí (dharmakaya)

[Furthermore, the highest definite goodness, the omniscient state of a buddha’s , is composed of two embodiments – the sublime body of form (rupakaya) and the sublime body of truth(dharmakaya)].

Sắc thân của một vị phật được thành tựu xuyên qua tích tập của phúc đức --tiềm năng cao cả tích cực phát sinh bởi những hành động trong sáng của từ bi, bố thí, và các thực hành đức hạnh khác – trong khi pháp thân của một vị phật được thành tựu xuyên qua tích tập của trí tuệ hoặc tuệ quán vào thực tại tính / pháp tính.

( A Buddha’s form body is achieved through the accumulation of merit – the positive potential produced by pure acts of kindness, generosity, and other virtuous practices – while a buddha ‘s truth body is achieved through the accumulation of wisdom, or insight into reality).

Bởi vì chúng ta tích tập phúc đức trên căn bản của phương diện hiển hiện của duyên khởi và tích tập trí tuệ trên căn bản của phương diện chân không diệu hữu / rỗng thông ( empty aspect) của duyên khởi, thế nên điều này hiện lên sáng tỏ rằng ngay cả trạng thái phật cũng được miêu tả rõ ràng trên căn bản nhị đế.

(Since we accumulate merit on the basis of the apparent aspect of dependent origination and accumulate wisdom on the basis of the empty aspect of dependent origination, it emerges that even the state of buddhahood is defined on the basis of the two truths).

Do các lí do này những giáo pháp Phật trình bày, dù có mênh mông đến bao nhiêu đi nữa, được tuyên bố rằng, đã được giảng dạy trong cấu trúc của nhị đế.

Điều được nói đến trong trạng thái nhị đế là hai phương diện của thực tại, phương diện của hiện tướngphương diện của thực tại tính hiện hoạt (actual reality). Tương ứng với hai phương diện này là sự lí hội thông hiểu thế giới được đặt căn cứ trong phương diện hiện tướngsự lí hội thông hiểu thế giới được đặt nền tảng trong phương diện của thực tại tính hiện hoạt, thật tướng.

(What are referred to as two truths are the two levels of reality, that of appearance and that of actual reality. Corresponding to these two levels is the understanding of the world that is grounded within the appearance level and the understanding of the world grounded within the level of actual reality, the way things truly are)

Trong lối nói hàng ngày của chúng ta, chúng ta công nhận những phương diện khác biệt của thực tại tính nên tạo ra sự phân biệt nổi bật những hiện tướngthực tại tính/pháp tính, và chúng ta cảm thức những phương diện sai biệt của chân lí. Các giáo pháp về nhị đế khái niệm hoá một cách minh bạch trực giác của chúng ta về sự sai biệt này. Trong sự phân biệt nổi bật đáng chú ý này, chúng ta kinh nghiệm giữa hiện tướngthực tại tính hiện hoạt, bản chất hiện hoạt rốt ráo của sự-sự vật-vật thành lập chân lí tối hậu (ultimate truth), trong khi sự lí hội thông hiểu được phát triển trong cấu trúc của hiện tướng, hoặc của nhận thức hằng ngày của chúng ta, thành lập chân lí quy ước thế tục (conventional truth).

Vậy thì cái gì là những đặc điểm của nhị đế? Những chân lí quy ước thế tục đều là những sự kiện của thế giới được ghi nhận bởi một sự lí hội thông hiểu mà không bị phê phán bằng cách đối chiếu với thực tại tính tối hậu. Bất cứ khi nào, chúng ta không thoả mãn bởi những hiện tướng đơn thuần quán sát bởi một toàn cảnh khách quan không phê phán (uncritical perspective), chúng ta hãy khảo sát sâu xa hơn với một phân tích phê phán, tìm kiếm cho được cách thế chân thực hiện hữu của sự-sự vật-vật, và sự kiện ghi nhận được xuyên qua một nghiên cứu như thế lập nên chân lí tối hậu.

Thế nên chân lí tối hậu này, bản chất rốt ráo của sự-sự vật-vật, không quy chỉ về một cái tuyệt đối tự lập, độc lập -- một cái thực thể lí tưởng cao vời.

Chính xác hơn, nó quy chỉ về bản chất rốt ráo của một sự vật đặc thù hoặc hiện tượng.

Sự vật đặc thù –cái căn bản—và cách thế chân thực của hiện hữu của nó -- bản chất tối hậu của nó – thành lập thực thể viên nhất và đồng nhất.

Như vậy, mặc dầu những toàn cảnh khách quan hoặc những đặc hữu của nhị đế được định nghĩa một cách khác hẳn nhau, chúng thuộc về thực thể viên nhất và đồng nhất.

Tất cả các hiện tượng, bất cứ cái gì chúng có thể là, đều sở hữu cả hai của hai chân lí này.

(This ultimate truth, the final nature, of things, therefore, does not refer to some independent, self-standing absolute – some lofty ideal entity. Rather it refers to the final of a particular thing or phenomenonThe particular thing – the basis – and its true mode of being – its ultimate nature – constitute one and the same entity. Thus, although the perpectives or the characteristics of the two truths are defined distinctly, they pertain to one and the same reality. All phenomena, whatever they may be, possess each of these truths). 

------------------

Chú thích của bản Việt

Bồ tát Long Thọ 
Ca Tụng Pháp Giới (Tán Pháp Giới Tụng
Năm bài tụng (ĐHP dịch)
------------------------------------------------------------ 
Tôi kính lễ pháp giới (pháp giới= phật tính = …)
Trú trong mỗi hữu tình
Nhưng họ không nhận biết
Nên nhân duyên ba cõi
(cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) (Tụng 1)
-------------------------------------------------------------
Do tịnh hóa vô-minh
Nguyên-nhân tâm ba cõi (tâm=a-lại-da thức)
Tịnh hóa là niết-bàn 
Và hơn nữa : pháp-thân (Tụng 2)
--------------------------------------------------------------
‘Vô-thường’, ‘khổ’, ‘không’
Cả ba tịnh hóa tâm
Pháp tốt nhất tịnh tâm
Là pháp vô tự-tính (Tụng 26)
---------------------------------------------------------------
Giác chẳng xa, chẳng gần,
Và chẳng đến, chẳng đi
Trú: hoặc thấy, không thấy,
Trong mù sương phiền-não. (Tụng 49)
---------------------------------------------------------------
Thật-chứng trí bát-nhã
Đạt vô-thượng tịch-tĩnh
Thế nên kinh tạng nói:
Trú: tuệ-tri chính mình . (Tụng 50)
-----------------
Nagarjuna—In Praise of Dharmadhatu
( Commentary by Karmapa the third,
Translated & Introduced by Karl Brunnholzl -2007 ) 
----------------
I bow to you, the dharmadhatu,
Who resides in every sentient being,
But if they aren’t aware of you
They circle through this triple being (Stanza 1)

Due to just that being purified
What is such circling’s cause,
This very purity is then nirvana.
Likewise, dharmakaya is just this. (Stanza 2)


‘Impermanence’,’suffering’, ‘empty’,
These three, they purify the mind.
The dharma purifying mind the best
Is the lack of any nature. (Stanza 26)

*
Enlightenment is neither far nor near,
And neither does it come nor go.
It’s whether it is seen or not,
Right in the midst of our afflictions. (Stanza 49)

*
By dwelling in the lamp of prajna,
It turns into peace supreme.
So the collection of sutras says:
‘By exploring your self, you should rest!’ (Stanza 50)
------------

Chú thích của bản Việt (edited & new note, 15.01.2016 )

Definite: clear and unambiguous : xác định.
Definitive: final and decisive; xác định rốt ráo; rốt ráoquyết định; minh định rốt ráo

Trong bản dịch ‘Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí’, Definite Goodness đã được dịch là: Tất cả toàn hảo.

01.12.2016 ,  đọc lại Ratnavali (Vòng bảo châu) của Ngài Long Thọ, được biết Definite Goodness  = Skt. naihsreyasal,  nên xin dịch là: Toàn hảo xác định
------------
Skt. naihsreyasa , được Jeffrey Hopkins dịch sang tiếng Anh là Definite Goodness (Toàn hảo xác định) :

‘... Thus for naihsreyasaI I prefer the literal translation " definite goodness" in order to convey the sense that the state of liberation from cyclic existence (as well as the great liberation of Buddhahood ) are stable and thus unlike high status within cyclic existence which can deteriorate. Also , there is evidence that Ajitamitra read the compound as "definitely good" , or "decidedly good", for in commentary on verse 25 a he says: 

From these [practices] one achieves the definitely good and virtuous liberation; therefore, these are [the practices of ] definite goodness; just it is definitely good .
(Jeffrey Hopkins. Nagarjuna 's Precious Garland . p.46) 
*

Hopkins cũng không đồng ý với cách dịch là final beatitude (đại lạc tối hậu) , vì beatitude xa nghĩa với goodness . 
Naihsreyasa có 2 phương diện -- giải thoát luân hồi sinh tử (liberation from cyclic existence) thì không là thành tựu tối hậu (final achievement), và chỉ có đại giải thoát của trạng thái phật (great liberation of Buddhahood) là thành tựu tối hậu duy nhất (the only final achievement) .

Nagarjuna . Precious Garland 
Verse 25

The doctrines of definite goodness
Are said by the Conquerors
To be deep, subtle, frightening
To the childish, who are not learned.

Verse 26

'I am not, I will not be 
I have not, I will not have’,
That frightens all the childish
And extinguishes fear in the wise 
---------
Long Thọ. Vòng bảo châu

Kệ tụng 25

Các học thuyết về toàn hảo xác định

Do chư Tối Thắng nói

Thâm mật, vi tế, kinh sợ

Đối với những kẻ sơ trí chưa hiểu biết

*

Kệ tụng 26

‘Tôi hiện hữu, tôi sẽ không hiện hữu

Tôi có, tôi sẽ không có’

Điều đó làm kinh sợ tất cả những kẻ sơ trí

dập tắt sợ hãi nơi những kẻ trí.


Bài đọc thêm:

TRUNG ĐẠO 
Chánh Tín Căn Cứ Trong Suy Lý 
Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc 
Bản Anh: The Middle Way. Faith grounded in Reason. Wisdom, 2009
the middle wayMỤC LỤC
PHẦN I: Nghiên cứu “Các tụng căn bản về Trung Đạo” của Long Thọ

(An Exploration of Nagarjuna's "Fundamental Stanzas on the Middle Way")
1. Tiến tới Diệu Nghĩa Thâm Sâu (Approaching the Profound)
2. Mười hai chi của Duyên Khởi (Twelve Links of Dependent Origination)
3. Phân tích Ngã và Vô Ngã (The analysis of Self and No-Self)
4. An lập Chân lí quy ước thế tục (Establishing Conventional Truth)
PHẦN IINghiên cứu về Ba phương diện chính yếu của Con Đường Tu Tập của Tsongkhapa (An Exploration of Tsongkhapa's "Three Principal Aspects of the Path")
5. Tu tập Diệu Nghĩa Thâm Sâu (Practicing the Profound)
6. Mặt trời chiếu sáng ba phương diện chánh tín 
Phiên bản pdf :
Trung đạo - đức đạt Lai Lạt Ma



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/06/2012(Xem: 79483)
02/10/2012(Xem: 49454)
09/10/2016(Xem: 10057)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.