- Ông cứ hỏi đi.
Tổ cùng
đại chúng ra
hang núi phía sau, quả nhiên thấy xác một con chồn, bèn làm lễ thiêu như một vị Tăng.
Ông
già chỉ sai một chữ mà bị đọa làm chồn 500 kiếp. Người đại
tu hành mở sáng mắt
trí tuệ, thấy tột cùng và không
lầm lẫn nhân quả chứ không thể tránh
nhân quả. Do
nghiệp nhân từ trước, các ngài dù đã đạt đạo nhưng vẫn thọ
quả báo. Có điều, tuy thọ quả nhưng các ngài vẫn
an nhiên tự tại, vì biết
tự tánh của
nghiệp chướng vốn là không.
Thiền sư Huyền Giác viết:
“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái”.
Khi đã
liễu ngộ,
rõ ràng nghiệp chướng xưa nay vốn không; nhưng nếu chưa liễu, thì mọi oan trái đã gây đều phải đền trả.
Chúng ta không thể dùng tài
biện luận để cãi chối, không thể dùng
phương tiện khéo léo nào để
trốn tránh nhân quả, như vẫn thường làm ở
thế gian. Ngoài đời có
luật pháp, có tòa án, nhưng nhiều khi xử lầm hoặc kết oan người vô tội; còn tòa án
lương tâm và luật Nhân quả -
Nghiệp báo thì không hề
bỏ sót một ai.
Nhà Phật có
bài kệ nổi tiếng về
nhân quả ba đời:
Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị.
Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn sự
lãnh thọ ở đời này.
Hoàn cảnh chánh báo và
y báo đời này
tốt đẹp là do đời trước tạo
nghiệp nhân thiện lành; nếu đời này ta gặp nhiều chuyện không
như ý, đó là vì đời trước đã gây nhân xấu ác. Lại nữa, muốn biết
đời sau cuộc sống mình thế nào, cứ nhìn
sự tạo tác đời này sẽ rõ.
Khổng tử nói “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, một miếng nước uống hay một miếng cơm ăn đều đã được định trước. Sự
định đoạt này không phải do
Thượng đế hay một đấng
quyền năng nào, mà do nghiệp tạo ra từ thân - miệng - ý của chính mỗi người.
Trong
thực tế, có nhiều người xấu ác nhưng vẫn sống
hạnh phúc giàu sang, lại có người chuyên làm
việc thiện mà vẫn khó khăn
bất hạnh mọi bề. Đó là quả của
việc làm kiếp này chưa trổ ra, còn
đời sống hiện tại là do
nhân duyên kiếp trước.
Đức Phật dạy,
quả báo có ba loại:
Hiện báo là khi nhân gây ra, quả đến ngay trong
hiện kiếp;
Sanh báo là nhân gây trong kiếp này, quả đến
kiếp sau mới trổ;
Hậu báo là quả đến rất muộn sau nhiều kiếp. Hiểu tường tận điều này,
chúng ta không chút
nghi ngờ về tính
bình đẳng và
tuyệt đối của lý
Nhân quả. Chính mình là
Thượng đế tự vẽ ra
chánh báo và
y báo cho mình, chính mình phải chịu
trách nhiệm về mọi tạo tác do mình gây ra, dù vô tình hay
cố ý.
Một điều cần
nhấn mạnh, sự tương tác giữa nhân và quả không phải
đơn giản theo
tinh thần “Nhân nào quả nấy”. Một nhân muốn trổ
thành quả phải có sự
tác động của nhiều
yếu tố trung gian gọi là Duyên. Một hạt xoài (nhân) cần có nhiều duyên như đất, nước, ánh sáng
mặt trời, công người trồng…, sau một
thời gian mới thành cây xoài, kết quả.
Trường hợp của
con người lại càng
phức tạp, không những tiến trình Nhân - Duyên - Quả chịu sự
ảnh hưởng của Duyên, mà chủ thể còn có thể chủ động thay đổi
Nghiệp duyên cũng như tạo thêm
nghiệp nhân mới để cho một kết quả
hoàn toàn khác. Nhà Phật gọi đó là sự chuyển nghiệp, cũng chính là
ý nghĩa của sự
tu hành.
Chúng ta đã biết, Nghiệp phát sinh từ thân, miệng và ý, trong đó tâm ý
dẫn đầu. Ý
suy nghĩ mới phát ra
lời nói và hành động, nên ý là chủ tạo nghiệp. Vì tâm ý là chủ tạo nghiệp, nên muốn
chuyển đổi nghiệp ác thành hiền thiện,
con người phải tu ngay tâm,
sám hối ngay
tại tâm mình.
Trường hợp của mẹ ngài Mục-kiền-liên được lý giải theo
tinh thần này. Do tâm bỏn sẻn trong
tiền kiếp, bà phải chịu
quả báo làm thân
ngạ quỷ, khổ sở
đói khát, đến nỗi bát cơm của con dâng lên cũng không có cơ hội được ăn. Nhờ
chư Hiền thánh Tăng chú nguyện,
kết hợp lòng thành của ngài Mục-kiền-liên cũng là một vị A-la-hán, nên
chuyển đổi được tâm bà từ xấu ác thành thiện lành. Tâm chuyển nên
nhân duyên chuyển - do tạo thêm nhân lành và duyên tốt, đưa đến quả tốt, bà
vãng sanh lên
cõi Trời. Như thế, lý
Nhân quả luôn luôn đúng trong mọi
trường hợp, nhưng nhờ
tu hành chuyển hóa tâm ý trở nên
tốt đẹp, có thể thay đổi được kết quả xấu vốn phải
thọ lãnh trong tương lai.
Tuy nhiên, vì sao ở đây nói Nhân
sanh diệt đưa đến quả sanh diệt? Bởi vì thông thường, làm bất cứ việc gì
chúng ta đều có
ngã tướng. Khi làm là thấy có ta làm, có
việc làm và có đối tượng của
việc làm ấy.
Chúng ta tu
năm giới hay
thập thiện là mong hưởng
phước báo nhân thiên, hoặc làm người đầy đủ
phước đức, hoặc sanh lên
cõi Trời với mọi điều
sung sướng. Do
ý thức chấp ngã nên còn lẩn quẩn trong
luân hồi, vì thế gọi là nhân và quả
sanh diệt.
Ngày xưa, các vị
tu tiên cầu
thần thông và sống lâu,
vẫn có tâm bám chặt vào
ngã tướng. Nhiều khi
thần thông càng cao, cái ngã càng lớn nên không dứt được
phiền não.
Kinh
Kim cang nói: Dù
bố thí bảy báu nhiều
vô lượng trong suốt bao nhiêu kiếp, cũng không bằng trì bốn câu kệ trong kinh
Kim cang.
Bố thí càng nhiều thì càng phải qua nhiều lần
sanh tử để hưởng phước, còn trì 4 câu kệ là sống với
bản tâm chân thật, đoạn dứt
sanh tử. Lại nữa, trong dòng
luân hồi, nhiều khi có
quyền thế lại dễ hại người, tạo thêm điều ác, cứ thế mà lên xuống mãi trong
ba cõi sáu đường.
Trong kinh
Viên giác, ngài
Văn Thù thưa hỏi
Đức Phật dùng nhân
ban đầu là gì để tu mà ngày nay
thành Phật.
Đức Phật trả lời, phải y nơi tánh
viên giác thanh tịnh, nghĩa là
thể tánh chân thật bất sanh bất diệt làm
nhân tu hành, mới
đắc quả Phật
thường trụ.
Vì sao
thể tánh chân thật là
bất sanh bất diệt? - Mọi sự vật trên
thế gian hễ có
hình tướng ắt có hoại, có sanh ắt có diệt. Thông thường khi ta nhìn phải có đối tượng cho cái nhìn của ta (sắc); lúc nghe phải có đối tượng của sự nghe (tiếng).
Tương tự cho các căn khác, khi
hoạt động đều cần đối tượng là các
trần cảnh bên ngoài, từ đó khởi lên
ý thức phân biệt hay dở, đẹp xấu… Những niệm
phân biệt ấy nương theo
hình tướng của
trần cảnh, lúc sinh lúc diệt, lúc đến lúc đi, vì thế
Đức Phật bảo, đó là cái biết theo duyên, cái biết
lệ thuộc vào đối tượng. Ngược lại, khi
tiếp xúc với
trần cảnh nhưng không dính mắc chạy đuổi theo chúng, cũng không khởi niệm phân tích chia chẻ - kể cả niệm “ta đang biết”, thì
lúc ấy, ta vẫn thấy nghe hay biết
rõ ràng. Cái biết ấy không
lệ thuộc vào đối tượng, cái biết không duyên nên không có
hình tướng, không có
sanh diệt, chẳng đến chẳng đi, không bao giờ vắng thiếu. Đó là cái biết
chân thật hay
bản tánh bất sanh, nhà Thiền gọi tên “Bản lai diện mục” - bộ mặt thật
xưa nay.
Nhận ra bản tánh ấy làm chánh
nhân tu hành,
chắc chắn nên quả Phật
thường trụ.
Nhưng làm thế nào tìm được bản tánh?
Nhiều người nghe nói, nhà Thiền chủ trương “Kiến tánh thành Phật”, hoặc “chưa
nhận ra bản tâm chân thật thì chưa bước vào cửa nhà Thiền”, nên rất mong muốn
tìm thấy tánh.
Tuy nhiên, ngay
từ ý niệm “tìm kiếm”,
chúng ta đã xa tánh nghìn trùng. Lại nữa, có người đọc
lịch sử Đức Phật và chư Tổ
tu hành và
thành đạo trong rừng núi, nên tưởng phải
ở ẩn một mình nơi
thâm sơn cùng cốc mới có thể
ngộ đạo. Thật ra,
bản tánh thanh tịnh hằng tri ấy chính là mình. Không phải tìm cầu bên ngoài, cũng không cần xa lánh
thế gian.
Lục tổ Huệ Năng dạy:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác.
Ly thế mích Bồ-đề
Kháp như tầm thố giác.
Phật pháp ở ngay
tại thế gian, không phải xa lánh
thế gian mà
giác ngộ. Nếu
lìa bỏ thế gian tìm cầu Bồ-đề, thì chẳng khác nào đi tìm
sừng thỏ. Ngay sóng đã là nước, ngay thân
sinh diệt đã có
bản tánh bất sanh, ngay dòng sông
vô thường động chuyển đã có cái
chân thường bất biến. Khi tâm ta
hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang, bặt mọi
vọng tưởng điên đảo phân biệt mà vẫn
rõ ràng thường biết, ta mới hay Đạo tại
nhãn tiền,
hoa sen nở trong lò lửa mà sắc vẫn thường tươi nhuận.
Nhận ra bản tâm thanh tịnh hằng hữu, ta đã có chánh
nhân tu hành. Đây mới là
bước đầu khởi tu,
cần phải mất bao nhiêu
công phu bào mòn
tập khí, phải miên mật từng phút giây hằng sống với
bản tâm và
thể nhập trọn vẹn vào đó. Đường tu rất dài và rất
gian nan chứ không dễ dàng như một số người lầm tưởng. Hiểu là một chuyện,
thực hành và
thể nhập tự tánh lại là chuyện khác,
xa nhau như trời vực. Nhưng khi đã
nhận ra tự tánh tức gieo nhân
vô sanh, ắt có ngày ta sẽ
viên thành Phật quả.
Đức Phật dạy,
con người có bốn hạng:
1- Từ tối đến tối: Người sanh trong
gia đình nghèo khổ, không có
văn hóa đạo đức, kiếp này lại không biết
tu hành, mãi tạo
nghiệp bất thiện.
Kiếp sau chắc chắn bị
đọa lạc.
2- Từ tối đến sáng: Người có
hoàn cảnh xấu về
nhân thân và
gia đình, nhưng kiếp này có duyên gặp
Chánh pháp,
tinh tấn tu hành, tịnh tu
ba nghiệp.
Kiếp sau tái sanh vào các cõi lành,
tiếp tục đi trên
con đường đạo, chuyển được nghiệp xấu ác thành hiền thiện.
3- Từ sáng đến tối: Do
nghiệp lành đời trước, kiếp này được sanh vào
gia đình giàu sang, có
văn hóa đạo đức. Nhưng người này không biết
tu hành, vô tình tạo nhiều
nghiệp bất thiện,
kiếp sau sẽ bị đọa vào các đường dữ.
4- Từ sáng đến sáng: Đây là
trường hợp tối ưu. Người có duyên nhiều đời với
Chánh pháp,
kiếp trước gieo nhân lành nên trong kiếp này,
hoàn cảnh chánh báo và
y báo đều
tốt đẹp. Người ấy lại
tinh tấn tu hành, vun bồi
phước đức.
Đời sau chắc chắn sanh vào các cõi lành,
tiếp tục đi theo Chánh pháp, ngày càng thăng tiến
đời sống tâm linh.
Như vậy,
hoàn cảnh sống của ta là do ta tạo ra, không ai làm thay cho mình, và mình cũng không thể tu thay cho người khác. Vì tâm
chuyển biến từ
trạng thái này sang
trạng thái khác, và nghiệp cũng theo tâm mà thay đổi nên
chúng ta cần
y cứ nơi tâm mà
sám hối và
tu hành. Nghèo không
bi quan oán trời trách người, giàu không
cống cao ngã mạn.
Chúng ta luôn tránh nghĩ điều
xằng bậy xấu ác mà suy tiến những
ý tưởng thiện lành. Từ
suy nghĩ lành dẫn đến
lời nói và
việc làm tốt đẹp,
chúng ta dần dần chuyển hóa nhân cách mình theo chiều
hướng thượng.
Cá nhân có
đạo đức ảnh hưởng tốt đến
gia đình và
xã hội được êm ấm an vui. Đây là
bước đầu tiên
áp dụng lý
Nhân quả vào
đời sống.
Tiến thêm bước nữa, người hiểu kỹ lý
Nhân quả để
công phu đoạn
trừ phiền não. Vì
vô minh chấp
thân tâm này là mình nên sinh lòng tham, muốn gom góp mọi thứ
vật chất và
tinh thần cho
bản thân. Ta
thương yêu người khác cũng vì mình, nên
tình thương luôn có tính
chiếm hữu, đây là một
biến chất của lòng tham. Chiếm được, lòng tham càng
tăng trưởng; chiếm không được, sanh tâm
sân hận. Chính
ba độc tham-sân-si là ngục tù
giam hãm con người, không có ngày
thoát khỏi. Người hiểu lý
Nhân quả biết tránh những điều
bất lợi cho người, không khởi lòng tham cầu
ngũ dục mà
tranh đoạt của người khác, biết
tỉnh giác nhận diện những
ý niệm sân hận mới manh nha để hóa giải kịp thời. Khi gặp
nghịch cảnh chướng duyên,
chúng ta không buồn khổ vì biết là
hậu quả của nhân
bất thiện đời trước, vững bước
vượt qua trở ngại và càng
tinh tấn tu hành để chuyển nghiệp.
Lúc được
hoàn cảnh thuận lợi,
mọi người quý kính,
chúng ta biết mình đã tạo nhân tốt, càng
cố gắng vun bồi
phước đức, gây nhiều
nghiệp lành. Nhờ vậy,
cuộc đời ta ngày càng
đẹp đẽ hạnh phúc, không mong cầu mà
phước báo vẫn đến. Nhưng hiểu lý
Nhân quả cho thấu đáo,
chúng ta thấy
nhân quả ngay
trong một niệm. Vừa động niệm là đã tạo nghiệp, từ đó mầm mống của quả có cơ hội phát sinh. Dù nghiệp thiện hay ác,
con người vẫn còn chịu
trầm luân trong
sanh tử.
Toàn thể vũ trụ luôn
vận hành không dừng nghỉ theo tiến trình
Nhân quả.
Bản thân mỗi người cũng
biến đổi trong từng sát-na. Không một
hoạt động vật lý,
sinh lý hay
tâm lý nào không chịu sự
chi phối âm thầm mà chặt chẽ của lý
Nhân quả. Bằng
trí tuệ siêu xuất,
Đức Phật đã
triển khai lý
Nhân quả thật tường tận từ cạn đến sâu để dạy
chúng ta hướng về
đời sống đạo đức, thăng tiến
tâm linh, bỏ ác về thiện và
cuối cùng siêu vượt cả
thiện ác.
Nền
văn minh thế giới ngày càng
tiến triển,
con người càng được
thụ hưởng những
thành tựu kỳ diệu của khoa học. Tuy vậy,
giá trị tinh thần không
nâng cao theo
tỷ lệ thuận với sự
sung mãn về
vật chất.
Con người đang phải đối mặt với những
vấn nạn đạo đức,
lối sống và
cách cư xử với nhau; vì càng
quay cuồng theo
vật chất,
phiền não tham sân si càng lẫy lừng. “Khoa học không có
lương tâm chỉ là sự hủy hoại linh hồn”,
nhân loại đang cần - và phải cần có nền
văn minh tâm linh, từ đó mới có thể tạo dựng
hạnh phúc đích thực trên trái đất này.
Lý
Nhân quả thật sự không phải
đơn giản và chỉ cần cho người
sơ cơ, mà tất cả
chúng ta đều phải hiểu tường tận để có
chánh kiến và
lòng tin sâu sắc về
đạo lý này. Có
Chánh kiến nhân quả,
chúng ta luôn
thận trọng trong từng
ý nghĩ,
lời nói và
việc làm để không
tổn hại cho mình và cho người;
chúng ta có
đời sống xả kỷ, hòa điệu với
vũ trụ vạn loại. Có thể nói,
điều kiện đầu tiên của người tu là phải tin sâu
nhân quả;
nếu không,
buông lung phóng dật mà cho là sự
tự tại phóng khoáng của người đạt đạo, thì không những
công phu không kết quả mà khó tránh đọa
tam đồ.