- Lời Nói Đầu
- Đức Phật Của Chúng Ta
- Vai Trò Của Người Có Trí, Của Trí Tuệ Trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ Con Đường Giáo Dục Chấm Dứt Đau Khổ Sanh Tử Luân Hồi
- Chánh Pháp Và Hạnhphúc
- Hội Chúng Tỳ Kheo Trong Thời Đức Phật Còn Tại Thế
- Kinh " Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra "
- Kinh Ví Dụ Con Rắn
- Vấn Đề Tái Sanh
- Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
- Người Việt Nam Thương Mẹ, Kính Cha Qua Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam
- Sống Theo Lý Tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật Và Nếp Sống Thiên Nhiên
- Năm Giới, Nếp Sống Lành Mạnh, An Lạc, Hạnh Phúc.
- Ý Đẹp Với Mùa Xuân
- Một Nền Giáo Dục Toàn Diện
- Kinh Dịch Và Đại Học
- Chùa Việt Nam Và Mối Liên Hệ Với Nền Văn Hoá Dân Tộc
- Xuân Về Với Những Lời Phật Dạy
Năm
1967, tôi viếng thăm Đại học Yale và được một giáo sư
Mỹ đang nghiên cứu Tây Tạng học đón tiếp tôi với bộ
mặt thật hớn. hở, sung sướng, và một câu đón chào mà
tôi không bao giờ quên: “Tôi sung sướng đón chào Thầy,
vì tôi chắc rằng Thầy đến đây không phải để cải hóa
tôi theo Đạo của Thầy”. Tôi chỉ mĩm cười, không đáp
lại nhưng chính khi ấy, tôi cảm giác được “tất cả sự
sung sướng” của tôi khi “được một bậc Thầy như đức
Phật”. Cái cảm giác sảng khoái, “nhẹ nhõm”, hay dùng
cho đúng danh từ Phật học hơn là Passaddhi (khinh an) ấy của
ông bạn giáo sư Mỹ, khi cảm thấy mình không bị đe dọa,
bị giáo hoá, cũng là cảm giác chung cho tất cả những ai
được đối thoại với đức Phật khi Ngài còn sống hay khi
trực tiếp hoặc gián tiếp được tiếp nhận giáo lý của
Ngài. Được gặp đức Phật, đối thoại với Ngài, được
đọc những lời Ngài dạy hay chiêm ngưỡng hình bóng giải
thoát của Ngài, chúng ta đều linh cảm khả năng giáo hóa
thần diệu của Ngài. Điểm đặc biệt là chúng ta không bị
đóng vai trò thụ động, chúng ta không cảm thấy bị giáo
hóa, bị chinh phục, vì đức Như Lai chỉ là ngườì chỉ
đường (Tathàgato ak-khataro), chúng ta là người đi trên con
đường ấy. Đức Như Lai chỉ là vị giới thiệu phương
pháp suy tư chín chắn (yo-niso mana-sikaro), chính chúng ta là
người suy tư và quyết định.
Câu
chuyện sau đây chứng tỏ không bao giờ đức Phật gợi cho
chúng ta những tình cảm dao động làm chi phối sự suy tư
chín chắn của chúng ta. Ngài khuyên chúng ta hãy bình tĩnh
sáng suốt, như thật (yathàbhùtam) xác nhận sự việc rồi
có những thái độ thích nghi.
Khi
được các vị Tỳ-kheo hỏi, vì sao ngoại đạo Suppiyo lại
dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, pháp, Tăng, còn Thanh
niên Brahmadatta trái lại dùng vô số phương tiện tán thán
Phật, Pháp và Tăng, đức Phật trả lời nhẹ nhàng nhưng
thật sự vô tư và sáng suốt, Ngài kính trọng “con người”
trong các vị Tỷ kheo, khuyên các vị này nhận xét bình tĩnh,
vô tư, dựa trên những sự kiện xác đáng để bỏ bác hay
tán thành:
“Này
các Tỳ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay
hủy báng Tăng, các Thầy chớ có vì vậy sanh lòng
căm phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Nếu có người
hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các
Thầy công phẫn và phiền muộn, thời các Thầy có thể biết
được lời nói của những kẻ ấy là đúng hay sai lạc chăng?”
“–
Bạch Thế Tôn, không thể được!”
“
Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp
hay hủy báng Tăng các Thầy phải nói rõ những điểm không
đúng sự thật là không đúng sự thật:
Như
thế này, những điểm này không đúng sự thật; như thế
này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng
tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi “.
“Này
các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay
tán thán Tăng, thời các Thầy không nên hoan hỷ, tâm không
nên thích thú. Này các Tỳ-kheo, nếu có người tán thán Ta,
tán thán Pháp hay tán thán Tăng, nếu các Thầy hoan hỷ, thích
thú, thời sẽ có hại cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, nếu
có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng thời
các Thầy hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng
sự thật: “Như thế này, điểm này đúng sự thật, như
thế này điểm này chính xác việc này có giữa chúng tôi,
việc này đã xảy ra giữa chúng tôi” .(Trường Bộ Kinh,
Đại Tạng trang 13)
Khi
sắp nhập Niết-bàn, một lần nữa đức Phật dặn dò các
vị Tỳ -kheo cần phải thận trọng, chớ có vội tin những
lời, dầu được xem là tự đức Phật nói hay từ các vị
Thượng tọa đa văn đa trí nói:
“Này
các Tỳ-kheo, có thể có vị Tỳ-kheo nói: “Này Hiền
giả, tôi tự thân nghe từ miệg Thế Tôn, tự thân lãnh thọ,
như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy
của bậc Đạo Sư”. Này các Tỳ-kheo, các Thầy không nên
tán thán, không nên hủy báng lời nói của vị Tỷ-kheo ấy,
không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu
cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem
đối chiếu với luật. Nếu chúng ta không phù hợp với kinh,
không tương ứng với luật thì các thầy có thể kết luận:
“Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn,
và vị Tỷ-kheo đã thọ giáo sai lầm”.
Và
này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh
với kinh, đem đối chiếu với luật, và nếu chúng phù hợp
với kinh, tương ứng với luật, thời các thầy có thể kết
luận: “Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của
Thế Tôn. Và vị Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chân chánh”.
Chúng
ta phải thận trọng, không hủy báng, không tán thán, học
hỏi từng chữ, từng câu, rồi đem đối chiếu với kinh,
đối chiếu với luật; có phù hợp mới chấp nhận, không
phù hợp thời không chấp nhận. Thái độ suy tư chín chắn,
phối hợp thích nghi, thật là một phương pháp hữu hiệu
và thực tiễn, khi phải đối trị với những phức tạp tuyên
truyền xuyên tạc.
Các
Hoàng tử Kalama phân vân đến hỏi đức Phật:
“Bạch
Thế Tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà-la-môn đến viếng Kesaputta.
Họ chỉ giảng giải và sáng tỏ những lý thuyết của riêng
họ, khinh miệt, lên án và phỉ báng những lý thuyết của
những người khác. Nhưng bạch Thế Tôn, về phần chúng con,
chúng con luôn luôn hoài nghi và hoang mang không biết vị nào
trong số những nhà ẩn sĩ và Bà-la-môn khả kính ấy đã
nói sự thật và vị nào nói sai quấy”
Đức
Phật trả lời, với thái độ suy tư, trầm lặng trong sáng
như hồ nước trong của nhừng tâm hồn sáng suốt:
“Phải
đấy, hỡi những người Kalama, các người hoài nghi, hoang
mang là phải; các người nghi ngờ những điều đáng nghi ngờ.
Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin
vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ
có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân
lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường;
chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin
vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ
nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư
của mình. Này các người Kalama, khi nào các người biết rằng:
“Những việc này là xấu, những việc này là bất thiện,
những việc này bị người có trí chỉ trích, những việc
này nếu tuân theo và thực hiện sẽ mang lại tai hại và xấu
xa”, thì các người hãy từ bỏ chúng... Này các người Kalama,
khi nào các người biết rằng: “Những việc này là tốt,
những việc này là thiện, những việc này được người
có trí tán thán, những việc này nếu tuân theo và thực hành
sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp”, thì các người hãy chấp
nhận chúng”. (Kinh Kalama
trang 6-8)
Chúng
ta thấy rõ, đức Phật bao giờ cũng kính trọng sự suy tư,
nhận xét và quyết định của chúng ta, Ngài không muốn chúng
ta nhắm mắt tuân theo Ngài, vâng theo sự phán xét của Ngài.
Ngài không muốn chúng ta đóng vai trò thụ động, nhắm mắt
tin theo truyền thống, tin đồn hoặc dựa vào uy tín cá nhân
hay của Thầy mình để khỏi phải suy tư, quyết đoán. Ngài
đòi hỏi ở những Phật tử một sự suy tư chín chắn, một
ý thức kinh nghiệm bản thân, rồi mới đánh giá sự việc
là thiện hay ác, tiếp đến mới có thái độ tuân theo hay
từ bỏ. Chúng ta sung sướng vì đức Phật trọng chúng ta,
vì đức Phật tin ở khả năng suy tư chín chắn của chúng
ta, vì chính thái độ rất “người” trong chúng ta có những
tiềm năng nhận xét khá chính xác, khỏi đóng vai trò thụ
động, nô lệ cho ai cả.
Khi
nói đến giáo dục, chúng ta thường liên tưởng đến đào
tạo kiến thức, huấn luyện khả năng chuyên môn cho học
viên. Nếu có đề cập đến tác phong đạo đức, thời xem
vấn đề này như một vấn đề luân lý đạo hạnh, ấn định
bởi truyền thống hay tập tục xã hội. Quan niệm này không
đi ra ngoài mục đích và đường hướng giáo dục đương
thời, nhưng đã bỏ rơi hay không đánh giá đúng mức quan
trọng hai khía cạnh “thái độ” và “phương pháp” của
giáo dục mà theo chúng tôi nghĩ phải đóng một vai trò quan
trọng để xây dựng một nền giáo dục gọi là toàn diện
hay trọn vẹn.
Vấn
đề sở dĩ đặt ra ở đây là vì con người của chúng ta
khi đối mặt với các sự vật bên ngoài hay những khái niệm
bên trong đều có những phản ứng, những thái độ, những
cử chỉ của thân thể, của miệng nói hay của ý thức, những
danh từ mà đạo Phật gọi bằng danh từ chuyên môn là Kàya-kamma
(thân nghiệp), Vacikamma (khẩu nghiệp) và Manokamma (ý nghiệp).
Một người thích uống rượu bia, cảm thấy sung sướng khi
có chai rượu trước mặt mình và có cử chỉ đem chai rượu
về cho mình để uống. Trái lại một người ghét rượu thời
cảm thất khó chịu khi có chai rượu trước mặt và muốn
xua đuổi chai rượu như xua đuổi ruồi, muỗi. Còn nếu không
ghét cũng không thích rượu, thời đối với rượu có cử
chỉ thản nhiên, tự tại.
Tóm
lại, con người của chúng ta đứng trước các đối tượng
bao giờ cũng có một trong ba phản ứng: Một là ưa thích,
đem về cho mình đối tượng mình ưa thích; hai là ghét bỏ,
đẩy xa mình đối tượng ấy; thứ ba là thản nhiên, không
ưa thích cũng không ghét bỏ. Đạo Phật gọi cử chỉ đem
về cho mình là tham (lobha), cử chỉ đẩy xa mình ra là sân
(dosa), và cử chỉ thản nhiên là xả (upekkhà). Định nghĩa
này không bao hàm một ý nghĩa luân lý, đạo đức gì mà chỉ
là một phản ứng của con người trước những đối tượng
sai khác. Đức Phật với cái nhìn tâm lý của Ngài, thấy
con người luôn luôn bị chi phối, bị ảnh hưởng bởi sự
vật bên ngoài, không tự tại, không tự chủ. Và phương pháp
giáo dục ở nơi đây là nhằm huấn luyện con người được
tự chủ, tự tại đối với các đối tượng. Nói một cách
khác, con người phải được giáo dục như thế nào để con
người trở thành một người chủ đối với đối tượng,
chứ không phải là một người nô lệ của đối tượng.
Đức
Phật đi xa hơn, Ngàỉ tìm nguyên nhân của tham và của sân.
Ngài tìm hiểu tại sao con người lại có hai phản ứng trái
ngược đối với đối tượng, và Ngài tìm thấy rằng sở
dĩ có tham vì hiểu lầm có một tự ngã, nên đem về cho mình
cái gì tự ngã ưa thích; sở dĩ có sân, vì hiểu lầm có
một tự ngã, nên hất xa mình ra cái gì tự ngã ghét bỏ.
Sự hiểu lầm ở nơi đây, đạo Phật gọi là si hay moha.Chúng
ta có tham vì có si, chúng ta có sân vì có si, tham luôn luôn
đi đôi với si và sân luôn luôn đi đôi với si chớ tham không
khởi lên một lần với sân. Và giáo dục ở nơi đây nhằm
trừ diệt si hay thay đổi một quan điểm sai lầm bằng một
quan điểm đúng đắn, thay hiểu lầm (vô minh) bằng trí tuệ.
Nói một cách khác, giáo dục theo đạo Phật chú trọng lấy
trí tuệ (Duy tuệ thị nghiệp ) diệt trừ si mê, si mê trừ,
thời gian và sân cũng được diệt trừ luôn. Chỉ cần có
một kiến thức, một quan điểm, một cái nhìn đúng đắn
(giác ngộ), thời mọi hành vi thiện ác, tham sân đều được
diệt trừ (giải thóat). Vấn đề giáo dục không còn là vấn
đề đạo đức, luân lý nữa, mà là vấn đề kiến thức,
vấn đề tri kiến, vấn đề trí tuệ, vấn đề thái độ,
vấn đề phản ứng.
Lời
khuyên sau đây của vua A-dục, trong Bi ký số XII có thể khiến
nhiều người không bằng lòng: “Người ta không nên chỉ
kính trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn
giáo của kẻ khác, mà phải kính trọng tôn giáo kẻ khác
vì lý do này hay lý do khác. Như thế ta có thể làm cho tôn
giáo mình phát triển và giúp đỡ các tôn giáo nữa. Nếu
không, tức là ta đã đào huyệt cho chính tôn giáo của mình
và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào chỉ kính trọng
tín ngưỡng của mình và bài xích những tín ngưỡng khác,
thực ra họ đã làm thế vì sùng tín ngưỡng của riêng mình,
nghĩ rằng: “Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của tôi”. Nhưng
trái lại, khi làm thế họ đã tổn thương tôn giáo mình một
cách trầm trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hài là tốt đẹp:
Mọi người nên lắng nghe và có thiện chí lắng nghe những
lý thuyết mà người khác đề xướng”. (Con Đường Thóat
Khổ W. Rahula – Thích Nữ Trí Hải dịch, trang 20).
Chúng
ta hiểu rằng: Là Phật tử, không phải nghĩa là theo một
tôn giáo tên Phật giáo mới được gọi Phật tử, mà chính
cần có cử chỉ tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng
khác mới là Phật tử. Cử chỉ trầm lặng bình thản trước
sự vô thường của đức Thế Tôn cùng cử chỉ tôn trọng
các tôn giáo khác, các tư tưởng khác với mình là hai thái
độ, hai cử chỉ, biểu hiện chất liệu giải thóat và khoan
dung của đạo Phật. Giáo hóa, giáo dục ở nơi đây chính
giúp chúng ta có một thái độ, có một cử chỉ thích nghi,
hợp lẽ khi chúng ta phải đối diện với những tình trạng
đa diện của xã hội ngày nay.
Có
người sẽ bảo, giáo dục như vậy khiến con người trở
thành cây đá, không tình cảm, không ham muốn, thời đời
còn gì là thú vị nữa. Thật sự vấn đề ở đây không
phải đời thú vị hay không thú vị. Vấn đề chính là nơi
phản ứng con người trước muôn vàn đối tượng, và con
người cư xử, hành động, phản ứng như một người chủ
hay như người nô lệ, chỉ có thế thôi.
Đạo
Phật còn đi xa hơn, đức Phật xem con người là tổng hợp
của hai năng lực mà danh từ chuyên môn gọi là sắc mạng
căn (Rùpajìvitind riya) và Danh mạng căn (Nàmajìvitindriya). Những
động lực làm con người sống, con người lớn và già, những
sức mạnh khiến máu chạy, tim đập, mạch nhảy, phổi thở,
những năng lực khiến tóc dài, xương cứng dần và dài thêm,
những sức mạnh khiến tay chân cử động, khiến con người
có cử chỉ này, có lời nói nọ... ; đạo Phật gọi là Sắc
mạng căn. Những sức mạnh khiến con người cảm thấy vui
buồn, sung sướng hay đau khổ, tham muốn vật này, chán ghét
vật khác, khi suy tư như thế này, khi lo nghĩ như thế kia,
tất cả động lực làm thế giới tình cảm, thế giới trí
thức, thế giới tâm linh họat động, tất cả động lực
sức mạnh ấy gọi là Danh mạng căn. Và con người là sự
tổng hợp của hai sức mạnh, khả năng, năng lực ấy. Hai
năng lực này liên quan mật thiết với nhau, tương quan và
tương trợ lẫn nhau. Những món ăn của chúng ta không những
ảnh hưởng đến thể chất chúng ta mà còn ảnh hưởng đến
thế giới tình cảm, thế giới trí thức của chúng ta. Trái
lại, những điều chúng ta lo nghĩ, những tư tưởng chúng
ta suy tư, những sách vở chúng ta đọc, lòng tham, lòng sân
của ta đều có những phản ứng tương xứng đến thân thể
của chúng ta. Vì con người của chúng ta là sự tổng hợp
của hai năng lực như vậy, nên trong con người của chúng
ta phát ra những quang tuyến, những sức mạnh vô hình ảnh
hưởng đến cảnh vật xung quanh. Có người mới gặp lần
đầu đã trìu mến cảm phục chúng ta. Có người mới thấy,
đã thù ghét chúng ta ngay, không cần phải suy nghĩ đắn đo.
Lời nói của chúng ta, bộ điệu của chúng ta, dáng mặt của
chúng ta, tư tưởng của chúng ta đều phát tiết những sức
mạnh, những ảnh hưởng chi phối người và vật mà ta tiếp
xúc; đạo Phật dùng một danh từ mahesakkà, người có thế
lực và appesakkà, người ít thế lực (Đức Phật và Phật
pháp trang 306); để chỉ cho khả năng chi phối của con người.
Như vậy chúng ta thấy sự tu hành hay nói cho đúng hơn là
sự giáo dục ở nơi đây là làm thế nào để huấn luyện
cho mỗi cá nhân hàm chứa và phát triển những khả năng,
nhưng sức mạnh chi phối tốt đẹp đối với người hay cảnh
vật mà mình tiếp xúc. Ở nơi đây, vấn đề kiến thức
không còn được đặt ra mà chính vấn đề khả năng, vấn
đề vận dụng sức mạnh tâm linh, sức mạnh đạo đức được
đặc biệt chú trọng. Nhưng để tránh những hiểu lầm, chúng
ta cần xác định những sức mạnh này không có hàm nghĩa
luân lý, dù rằng chúng có thể có những tác dụng gọi là
đạo đức.
Như
vậy con người biến thành một trung tâm có những năng lực
hấp dẫn và xua đẩy đối với sự vật và sự vật cũng
có khả năng hấp dẫn và xua đẩy con người, mà danh từ
chuyên môn của đạo Phật gọi là tham (lobha), và sân (dosa),
dù rằng đó không có một tác dụng luân lý. Chúng ta để
hai kim địa bàn gần nhau, đầu kim chỉ Bắc của địa bàn
này tìm đến và dính liền với đầu kim chỉ Nam của địa
bàn kia, trái lại xua đẩy đầu kim chỉ Bắc. Sự hấp dẫn
và xua đuổi này chỉ là một định lý thuận ứng và nghịch
ứng, không có tính cách luân lý. Với định lý này, chúng
ta thử tìm hiểu những hiện tượng đã xảy ra mà chúng ta
thường cho là định mệnh hay may rủi do một sự thường
phạt của một đấng thiên liêng nào.
Chúng
ta thấy có người chỉ chậm bước có một phút mà thoát
chết nạn phi cơ, hay nhờ thình lình cúi xuống mà tránh được
viên đạn bắn phải. Nhiều khi chết sống, trở thành vấn
đề đường tơ kẻ tóc. Viên đạn mà chúng gọi là vô tình
hình như lựa chọn người này tránh né người kia. Quả bom
mà chúng ta gọi là vô tình, hình như lựa chọn chỗ mà rơi,
tìm chỗ mà trúng. Chúng tôi nói hình như, thực sự không
có gì là hình như cả mà chỉ bị sự chi phối của định
lý thuận ứng và nghịch ứng, định lý hấp dẫn và phản
hấp dẫn. Và hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy vấn đề giáo
hóa hay giáo dục ở nơi đây hoàn toàn hướng về đào tạo
cho cá nhân những sức mạnh Sắc mạng căn và Danh mạng căn
như thế nào, để con người trở thành một chủ lực tác
động chi phối hơn là một tha lực thụ động, bị chi phối.
Hào
quang của đức Phật chỉ là sự tinh tụ lại những phản
xạ giác ngộ và thanh tịnh của Sắc mạng căn và Danh mạng
căn của Ngài, không có gì gọi là bí mật hay luân lý cả.
Trở lui về thế giới con người và bước vào địa hạt
thực tế hơn, chúng ta thấy rõ con người hiện tại bị dao
động mãnh liệt trước sự chi phối của chính trị, kinh
tế, xã hội trước sự hấp dẫn của vật dục. Con người
hiện tại sống dao động, hoang mang, lo âu, sợ hãi, nghi ngờ,
bối rối, thiếu hẳn sự bình tĩnh của những con người
không bị dao động, mất hẳn thái độ tự tại của những
tâm hồn tự chủ, vắng bóng hẳn nét thản nhiên của những
tư thái quân bình. Cho nên một nền giáo dục gọi là toàn
diện, ngoài sự đào tạo cho tuổi trẻ những kiến thức
tổng quát, những khả năng chuyên môn, còn phải luyện cho
tuổi trẻ một tâm hồn quân bình, một thái độ tự tại
và một tư thái thanh thản.
Lời
đức Phật dạy thật là giản dị, vì chỉ có người sáng
suốt mới thốt ra những lời giản dị. Nhưng những lời
giản dị ấy lại được ví như tiếng rống con sư tử, làm
tà ma ngoại đao khiếp đảm, làm hung thần ác quỷ run sợ.
Như vậy lời dạy của Ngài hàm chứa cả một sức mạnh
phi thường, một khả năng chi phối mãnh liệt. Chúng ta hãy
tìm hiểu hiệu năng của lời Phật dạy đối với vấn đề
lãnh đạo nguyên tắc lãnh đạo, nhất là vấn đề lãnh đạo
Giáo hội. Vì đây là một vấn đề hết sức quan trọng đã
chi phối bao nhiêu hoạt động của tu sĩ cũng như cư sĩ và
làm một số người phải thắc mắc phân vân.
Thấy
đức Phật già yếu, Đề-bà-đạt-đa từ lâu muốn chiếm
ngôi vị Giáo chủ, đến thưa với đức Phật: “Bạch Thế
Tôn, hãy yên tâm tu Thiền nhập định và giao trách nhiệm
lãnh đạo Giáo hội Tăng già cho tôi, tôi sẽ chịu hoàn toàn
trách nhiệm”. Lời đức Phật trả lời thật dứt khoát
rõ ràng. “Ta còn không giao trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội
cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, huống nữa là cho Thầy,
vừa vô trí, mà nhỏ nhen tâm địa. (Vinaya, II trang 188)”. Chúng ta dễ hiểu vì sao đức Phật không giao cho Đề Bà Đạt
Đa đứng ra lãnh đạo Giáo hội. Nhưng điều làm chúng ta
phân vân thắc mắc là vì sao đức Phật từ chối cả với
hai Ngài Xá Lợi Phất, trí tuệ đệ nhất và ngài Mục Kiền
Liên thần thông đệ nhất. Đoạn kinh sau này, trích trong kinh
MahàParinibbàna (Những Ngày và Những Lời Dạy Cuối Cùng của
Đức Phật trang 47, 48), giúp trả lời sự phân vân của chúng
ta. Ngài A Nan lo sợ đức Phật nhập diệt mà không có lời
trối trăn cho Giáo hội, đức Phật trả lời: “Này Ananda,
chúng Tỳ kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta? Này Ananda, Ta
đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài, vì này
Ananda, đối với các pháp, đức Như Lai không bao giờ là vị
Đạo sư còn nắm tay (mitthiàcarya). Này Ananda, những ai nghĩ
rằng: “Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo hay chúng Tỳ
kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này Ananda, Như Lai
không có nghĩ rằng: “Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo,
hay chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này
Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỳ kheo?”
(trang 100).
Trong
đoạn kinh này, đức Phật đã khiêm tốn từ chối vai trò
lãnh đạo của mình, và không chịu xem chúng Tỳ kheo chịu
sự giáo huấn của mình. Chúng ta chắc chắn đức Phật không
bao giờ có những cử chỉ khiêm tốn hão, những lời nói
đưa đẩy, những lời nói để mà nói. Ngài từ chối sự
lãnh đạo, vì vai trò của Ngài chỉ là một vị chỉ đường:
“Tumhchi Kiccam àtappam”.
“Tathàgoto
akkhàtaro” Dhammapada, số 276, “Các người hãy nỗ lực cố
gắng, đức Như Lai chỉ là vị chỉ đường”.
Lời
khuyên tiếp của đức Phật cho ngài Ananda nêu rõ đường
hướng giáo hóa Tăng, Ni của đức Phật, nếu chúng ta muốn
xem đức Phật là một nhà giáo hóa:
“Vậy
nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình; hãy
tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa gì khác. Dùng Chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ
nương tựa một gì khác”.
“Này
Ananda, những ai, sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một
gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm
chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác; những
vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỳ
kheo của Ta” (trang l01). Và để làm an lòng ngài Anan, và một
lần nữa, cá nhân của mình để đạo pháp lên trên, đức
Phật nhắc nhủ các đệ tử của Ngài những lời dạy, an
ủi cuối cùng: “Này Ananda, nếu trongcác người, có người
nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng
ta không có bậc Đạo sư. Này Ananda, chớ có những tư tưởng
như vậy”. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và
trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ
là Đạo sư của các người”.
Như
vậy, đức Phật có hai thái độ giáo dục hay giáo hóa rất
rõ rệt. Đối với các đệ tử, Ngài không đóng vai trò lãnh
đạo, mà chỉ đóng vai trò người chỉ đường. Các đệ
tử phải tự mình nỗ lực, phải nương tựa nơi chính mình.
Cá nhân lãnh đạo tuy không phải không quan trọng, nhưng cá
nhân lãnh đạo phải nhường bước cho nguyên tắc lãnh đạo,
đường hướng lãnh đạo, và đối với Giáo hội, đường
hướng nguyên tắc lãnh đạo Chánh pháp.
Hai
quan niệm lãnh đạo này hết sức giản dị nhưng hàm chứa
những sức mạnh phi thường, vô cùng mãnh liệt vì làm đảo
lộn những quan niệm lãnh đạo đương thời và mở đường
cho những đường hướng tư tưởng thật là triệt để. Lãnh
đạo, giáo hóa hay giáo dục ở nơi đây, không phải từ trên
áp đặt xuống, không phải từ ngoài vào, mà phải là từ
bên trong phát ra, trách nhiệm nhà lãnh đạo, nhà giáo dục
là khơi dậy, kích thích làm cho sống động và phát triển
những tiềm năng sẵn có trong lòng mỗi người, và hướng
dẫn, hướng thượng những tiềm năng ấy phát triển và nảy
nở hướng đến những mục tiêu tốt đẹp hơn.