ĐẠI CƯƠNGHỌC THUYẾT NHÀ PHẬT Hòa thượng Thích Phổ Tuệ
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
1. Về Giáo
Giáo là Pháp do đức Phậthiện thân nói ra ở thế gian, để giáo hoá cho giới hữu tìnhđời sau. Thời ấy chỉ có lời nói mà chưa có văn tự, cho nên chưa có sách vở. Lấy âm thanh làm thể nói bàn. Dựa vàoâm thanh cao, thấp, ngắn, dài mà thành tên (danh). Gom góp tên lại thành ra câu (cú). Danh cú dựa vào nhau thành văn. Thời Phật, bấy giờ cũng lấy âm thanh làm thể chủ, tất nhiên không có văn tự, người nghe dựa vào lời Phật nói mà tu chứng.
Cho đến khi Phật thuyếtPháp độ người đã xong và diệt độ rồi, chúng đệ tử nhân thời Phật đã đi xa, sợ sau không dựa vào đâu được mới đem giáo pháp mà Phật đã giảng mà họ đã nghe được, ai là người nghe được nhớ nhiều thì đọc truyền khẩu lại, được đại chúngchứng minh, chép thành kinh sách. Đó là lời của Phật di giáo.
Lời Phật di giáo này không giống như những học thuyết, học lý thông thường. Vì những học thuyết thông thường dựa vào thường thức suy xét nửa tối, nửa sáng mà thành, lấy việc đã biết xét việc chưa biết. Giống như khoa học trong thời còn đang nghiên cứu, đó là tri thức mới một tầng kinh nghiệm. Như lúc trước nói “trời tròn đất vuông”, sau mới biết trái đất vốn hình quả cầu. Ở đó, lời nói không xác định, nghĩa theo thời mà biến động.
Giáo pháp của Phật có nguồn gốc không giống với nguồn gốc các học thuyết khác, đó là chí giáo từ trong thánh trílưu thông ra. Vì vậy, đến với giáo pháp của Phật phải dùng sức tin mà lãnh nhận. Điểm này cũng như tin tôn giáo, không có khác. Phật pháp không phải là tôn giáo mà cũng lại là tôn giáo, cho nên muốn giảng Phật Pháp trước hết phải tin là có Phật.
Phật là tiếng gọi tắt, gọi đủ là Phật Đà. Vì nghĩa từ Phật là giác giả, là trỏ vào người đã được giác ngộ một cách cao cả, đúng đắn, chính xác và rộng khắp nhất. Trong cõi này, người đã được chính biến giác cao cả nhất chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện thân thuyết phápđộ người, có giáo pháplưu truyền, để lại cõi đời. Nhưng ở đây lại không giống như các tôn giáo khác vì Ngài nói: Nếu người đời ai thực hành, thực chứng tới vô thượngchính biến giác thì người ấy cũng thành Phật. Vì vậy, người ta cuối cùng quyết bình đẳng.
2. Về Lý
Khi người ta chưa thành Phật mà muốn cầu thành Phật thì trước hết phải tin nhân giáo pháp của Phật. Nhưng tin cũng không phải là tin một cách mù quáng. Bởi vì, người ta nếu tin có lý chân thật của các pháp trong pháp giới, thì phải giác ngộchân lý ấy đến viên mãn, đó là chính giác cao cả nhất.
Phật ở trong chính giác cao cả nhất ấy, không một sát - na nào không phóng ra sự sáng suốthiểu biếthoàn toàn trên, dưới, trong, ngoài. Không phải là trước hiểu biết thế nào mà sau vẫn lại hiểu biết như thế ấy.
Tự giác của Phật đã đến địa vịviên mãn, thì không còn phải học thuyết, học lý, học tập, học tác gì nữa. Cho nên gọi là “vô học”.
Nhưng, Phật thì đã chứng vào cảnh giới giác ngộ như hư không, như gương Đại Viên (tròn lớn) soi khắp bao la, mà tất cả chúng sinh chưa chứng được vào tướng chân thật của vạn hữu trong pháp giới, bởi vì còn mê muội, điên đảo nên sinh ra rất nhiều phiền nãođau khổ.
Phật rất thương xót cho nên phải đặt ra giáo pháp danh, cú, văn, thân để khiến cho chúng sinhgiác ngộ.
Giáo pháp của Phật có hai phương diện:
Thứ nhất, hợp với chân lý, trong nhất niệm của Phật soi rõ khắp lý chân thật của vạn hữu trong pháp giới, luôn luôn hợp nhau, không hề có một mảy maysai lầm. Vì vậy nói các pháp đều hợp chân lý.
Thứ hai, hợp với căn cơ, người nghe pháp có căn khí bậc nào, cơ cảm loại nào thì giải thuyết theo phương tiện ấy.
Hai phương diện tựa hồ như xung đột nhau, bởi vì tâm tríchúng sinh không bằng Phật, tuỳ thuậnchúng sinh thì không hợp lý, nhưng tuỳ cơthuyết pháp là lối khéo léo làm việc giáo hoá của Phật, lần lượt đều khiến thông đạt tới cảnh giới Phật, đều khiến tới cảnh giới Phật. Đó là giáo pháp đặt bày từ trong vô thượngchính biến giác, vô thượnglưu thông ra. Chỉ có loại thi thiết này là phải hệ thuộc cơ cảm mà có. Còn Phật với Phật thì không phải thế.
Giáo pháp được thi thiết lưu thông này, dựa vàovạn phápduy thức mà nói, cũng có hai phương diện:
Thứ nhất, Danh, cú, văn, thân vô lậuthanh tịnh từ trong tâm Phậtchính biến giácvô thượnglưu thông ra. Đó là cơ cảm từ chúng sinh trong tâm Phật mới lưu thông ra được, gọi là giáo lýbản chất hay nguyên chất.
Thứ hai, Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất, người ta không đích thân duyên trực tiếp được, chỉ dùng được tâm hữu lậu làm duyên tăng thượng, ở trong tâm mình sinh ra một loại ảnh tượng (bóng dáng), thế là giáo ảnh tượng. Đẩy giáo ảnh tượng này về với giáo bản chất thì trong Phật giáo được gọi là thánh giáo hay trí giáo. Pháp thường nghìn đời vẫn không biến đổi, khắp bốn bể cũng đều chuẩn cả, không có gì gọi là học cả.
Sở dĩ có sự học là vì ở Pháp lý thứ hai (Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất), về giáo lý có thể bàn được, nhưng phải dùng lời Phật làm duyên tăng thượng. Người nghe pháp đối với giáo pháp được nghe, ngẫm nghĩ, suy xét hiểu được rõ ràng thì có học lý về Phật pháp.
Phàm gọi là Kinh đều là Pháp Phật thuyết ra. Đời sau lại có người dựa vàogiáo pháp của Phật mà bàn giải kỹ lưỡng mở rộng, thì được gọi là Luận. Học lý về Luận đã thành tinh vi, rõ ràng, chính xác, như các luận Đại Tỳ Ba Xa, Du Già Sư Địa, v. v. Xét về căn nguyên, những luận này đều có được từ giáo Pháp của Phật để lại.
3. Về Hành
Giáo Pháp của Phật vốn được xuất ra từ chính biến giácvô thượng. Vì vậy nên người ta muốn biết giáo lý Phật cũng cần phải biết được vô thượngchính biến giác. Nhưng làm thế nào mới chứng được thì lại phải cần phải giảng về phương pháptu hành. Vậy nên việc tu hành là việc thứ ba cần giảng rõ. Trong việc tu hành có 3 tu họctăng thượng đó là Giới. Định, Tuệ. Tu Giới thế nào? Thiền định thế nào? Thế nào để đạt đượcĐại trí tuệ? (Tác giả đã trình bày trong tiểu luận “Phật học là Tuệ học”). Tu hành như thế thì mới có thể được vô thượngchính biến giác, tức là Quả Đại Bồ Đề, chứng nhập và hiểu rõ ràng thật tướng các Pháp trong Pháp giới.
4. Về Quả
Thể loại thứ Tư gọi là quả. Đã được quả rồi thì cũng có thể lấy đấy để khai thị, giác ngộ cho người sau.
Giáo lý “Hành Quả” cũng không phải cách biệt hẳn với nhau. Bởi vì, tư duyquan sát tức là hành, nhân tu hành mà lý càng rõ. Lý giải và tu hành cùng tiến như người đi đường, mặt và đế chân đồng thời cùng phát sinh tác dụng. Vả chăng, tuy ít rõ lý giải, chưa đạt quả vị cứu kính nhưng cũng đã thành hiệu quả. Tuy ít có hiệu quả, mà không cho là tự túc (tự mãn) thì cuối cùngvẫn cóthể đạt tới chính biến giác.
Tư tưởng, trí thức của người thường đều không xa lìaNgã chấp, Pháp chấp, nên họ bảo các loại học lý khôngtránh khỏivọng tình, suy lường, phỏng đoán. Do vậy họ không thể nhận được chân lýrốt ráo.
Muốn cầu chân lý không thể khôngdựa vàoGiáo pháp của Phật và Học lý của Cổ đức để làm căn cứ nghiên cứu.
Như vậy, học lý của Phật mà người tu học có được là nhờ học lý của thánh quảTam thừahữu học, vừa y vào thánh giáo, vừa y vào tự chứng để thành. Hơn nữa là vì học lý nội ngoại điển, phàm mới học đều phải dựa vàovăn tựthánh giáo mà nên.
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu.
Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này.
"Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.