BÀI HỌC TÓM TẮT (Tài liệu học tập của sinh viên Trung luận 中論 hoặc Trung quán luận 中觀論, Trung luận tụng 中論頌, gọi đầy đủ theo tên Phạn văn (mūlamadhyamakakārikā) là Căn bản trung luận tụng 根本中論頌, là một tác phẩm tối quan trọng của Long Thọ, người khai sáng tông phái Trung quán (mādhyamika) tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Dựa trên bản tiếng Phạn hiện còn tồn tại, tên tiếng Phạn của Trung luận là Mūla-madhyamaka-kārikā, do 3 cụm từ tổ hợp thành. Mūla nghĩa là “căn bản”; madhyamaka xuất phát bởi tính từ madhya (trung, trung gian), cộng thêm đuôi ma (tối cao, chí thượng), hình thành nên nghĩa “tối trung” hoặc “chí trung”; kārikā nghĩa là “tụng kệ”, “luận tụng”. Do đó Mūlamadhyamakakārikā có thể được dịch là “Căn bản trung luận tụng”. Theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, sở dĩ Trung luận được gọi là “Căn bản trung luận tụng” vì tất cả những trước tác của Long Thọ sau này như Thập nhị môn luận (dvādaśanikāya-śāstra), Vô uý chú (mūlamādhyamikavṛtti-akutobhayā), v.v… đều dựa trên những lý thuyết căn bản của Trung luận mà triển khai. Nội dung Trung luận là làm sáng tỏ pháp Quán trung đạo cho nên còn gọi là Trung quán luận. Trung có nghĩa là rời khỏi sự điên đảo hí luận khỏi hai cực đoan là không (vô) và có (hữu). Pháp Quán trung đạo này lấy trí tuệ tánh không làm thể, lấy sự quán chiếu nhân duyên, trung đạo, bất nhị, xa lìa vọng chấp hữu-vô làm dụng. Nguồn gốc phép quán này chính là khái niệm Chánh kiến mang nghĩa trung đạo xa lìa chấp có, chấp không mà Đức Phật đã thuyết trong Tạp A Hàm, kinh số 301 Tán-đà Ca-chiên-diên (Kaccayanagotta). Chánh tức là trung, còn kiến tức là quán, chánh kiến tức là trung quán. Các bản Hán dịch cũng có nhiều tên khác nhau. Trong giai đoạn đầu, vào năm 409, Cưu-ma-la-thập dịch vắn tắt là Trung luận (CBETA, T30n1564, 中论, 4 quyển, Long Thọ Bồ Tát tạo, Phạm Chí Thanh Mục thích). Sau này ngài Cát Tạng 吉藏 (549-623), một cao tăng của Tam luận tông, đổi lại là Trung quán luận, cũng có khi ngài gọi là Chánh quán luận trong tác phẩm nổi tiếng của ngài là Tam luận huyền nghĩa. 三論玄義 (T45n1852). Bản Hán dịch của Pháp sư Cưu-ma-la-thập gồm có phần kệ dịch của ngài và lời bình ngắn gọn, cụ thể, bình dị bằng văn xuôi của Luật sư Thanh Mục (Vimalaksa), là vị thầy Bà-la-môn trước kia của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, và được Tăng Duệ, một trong những đệ tử chính của Pháp sư, chịu trách nhiệm xuất bản đầu tiên như trong Lời Tựa của ông cho biết. Ấn Thuận pháp sư căn cứ vào truyền thống Phật giáo Tây Tạng phân các trước tác của Long Thọ thành hai loại. Một là “quyết trạch thậm thâm nghĩa”, lấy phương thức lí luận thâm nhập chư pháp thật tướng, bao gồm Trung luận, Thất thập không tính luận, Lục thập như lí luận, Hồi tránh luận, v.v… Hai là “phân biệt bồ tát quảng đại hành”, bao gồm Đại trí độ luận, Thập trụ bì bà sa luận, Bồ đề tư lương luận, Bảo hành vương chánh luận, Khuyến giới vương tụng, v.v… Do đó, Trung luận chính là một trước tác thuộc loại quyết trạch thậm thâm nghĩa. Tám câu kệ đầu của Trung luận, Long Thọ bồ tát đã công khai rõ ràng mục đích của ngài là “thiện diệt chư hý luận”: Bất sanh diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất. Năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hí luận, ngã kê thủ lễ Phật, chư thuyết trung đệ nhất. Trong phần lời bình, ngài Thanh Mục giải thích rộng hơn như sau: Hỏi: Tại sao tạo luận này? Đáp: Có người nói tất cả mọi vật do trời Đại Tự Tại sinh ra. Có người nói do thần Vi Nữu (Vishnu) sinh ra, có người bảo do hoà hợp sinh ra, có người bảo do thời gian sinh ra, có người nói do bản tánh của thế giới sinh ra, có người nói do “biến hóa” sinh ra, có người nói do tự nhiên sanh ra và có người nói do cực vi sanh ra. Do những chủ trương sai lầm đó, họ rơi vào những cái thấy sai như vạn vật không có nhân duyên hoặc nhân duyên sai lầm, là thường hay đoạn, v.v… Bằng những cách khác nhau, họ giải thích “tôi” và “cái của tôi” mà chẳng biết chánh pháp. Đức Phật, muốn dẹp hết những cái thấy sai như vậy, ban đầu dạy mười hai nhân duyên trong pháp Thanh văn; nhưng vì lợi ích của những người đã tự ứng dụng, những người có đại tâm và những người có khả năng thọ nhận Pháp sâu xa, Phật xiển dương các tướng của nhân duyên trong Pháp Đại thừa, tức là tất cả các pháp chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng đồng cũng chẳng khác...; hoàn toàn là không, chẳng gì có cả. Trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói, “Phật bảo Tu-bồ-đề: ‘Khi Bồ-tát ngồi yên nơi đạo tràng thì thấy mười hai nhân duyên như hư không vô tận.’ Sau khi Phật diệt độ, trong năm trăm năm thứ hai là thời kỳ tượng pháp, căn cơ con người trở nên chậm lụt, họ bị vướng mắc vào tất cả các pháp, tìm kiếm các định tướng nơi mười hai nhân duyên, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, vân vân. Họ chẳng biết ý Phật, chỉ vướng mắc vào chữ và lời. Nghe trong Pháp Đại thừa dạy tánh không, họ không biết lý do các pháp không, vì thế suy nghĩ, nghi ngờ và thấy, ví dụ như, “Nếu tất cả các pháp hoàn toàn là không thì làm sao phân biệt được tội và phước, nghiệp báo vân vân? Nếu thế thì chẳng có tục đế, chẳng có đệ nhất nghĩa đế.” Họ chấp giữ tướng “không” và sinh ra ràng buộc, tham lam, gây nên đủ thứ lỗi lầm vì không. Vì chính những lý do đó mà Bồ-tát Long Thọ viết ra Trung luận. Như vậy, mục đích Long Thọ tạo Trung luận nhằm phá tà kiến thường-đoạn, hữu-vô, v.v…. của Phật giáo bộ phái và ngoại đạo đang thịnh hành vào thời của ngài; đồng thời hộ trì Phật pháp, xiển dương chánh kiến về bất nhị, trung đạo, nhân duyên và tánh không của các pháp. Trung luận được kiết tập trong Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, tập 30, kinh số 1564 (T30n1564), được Cưu-ma-la-thập dịch sang Hán vào năm 409 từ nguyên văn tiếng Phạn do Bồ tát Long Thọ trước tác, lời tựa viết cho Trung luận của Thích Tăng Duệ, và phần sớ giải của Phạm Chí Thanh Mục. Nội dung gồm 27 chương (phẩm), 446 bài tụng, mỗi bài có 4 câu năm chữ. 1. Quán nhân duyên (pratyayaparīkṣā) IV. Hán tạng chú sớ 1. Hán dịch chỉ có một bản của Cưu-ma-la-thập dịch (Trung Luận 中論), 4 quyển, 27 phẩm, in chung với phần chú giải của Thanh Mục Một Số Tác Phẩm của Bồ-tát Long Thọ 1. Trung Luận hay Trung Quán Luận (Mùla-madhyamaka-karikà). Luận (Mahaprajnaparamata-upadesa-sastra). Câu hỏi trắc nghiệm bài 1 (Giới thiệu) Câu 1. tên gọi nào sau đây không phải là tựa đề của Trung luận. A. Trung quán Câu 2. vị tổ đầu tiên đổi tên Trung luận thành Trung quán luận là: A. Cưu-ma-la-thập (344-413) Câu 3. Trung luận do ai sáng tác? A. Đức Phật Câu 4. chọn câu sai. Chữ “Trung” trong Trung luận có nghĩa là: A. trung đạo quán Câu 5. chọn câu sai. Trung luận là bộ luận: A. quyết trạch nghĩa lý thậm thâm Câu 6. Long Thọ được cho là đã chú giải bộ Trung luận của mình bằng bộ luận: A. Vô úy luận Câu 7. Trung luận gồm có bao chiêu chương: A. 4 Câu 8. Long Thọ là người sáng lập ra. A. Bát nhã tông Câu 9. Bộ luận nào sau đây không phải của Long Thọ sáng tác. A. Bách luận Câu 10. học thuyết Trung đạo trong Trung luận: A. xiển dương giáo nghĩa đại thừa BÀI 2: Quán Nhân duyên Tinh yếu của Trung luận hay Trung quán luận, hoặc Trung đạo thực chất là Duyên khởi: Cái gì do duyên mà sanh thì cái ấy rỗng không, không có tự ngã (vô tự tính); nó chỉ là cái tên gọi mà biểu hiện chớ không có hiện hữu như một thực thể (tự ngã); cái ấy nghĩa là Trung đạo (Duyên khởi ≈ Trung đạo). Thế nên ngay trong lời mở đầu bằng bài kệ tán thán Phật, Trung luận thành lập Bát bất phủ nhận 8 phạm trù Hữu ngã biểu trưng cho sự hiện hữu, thời gian, không gian và sự vận hành của các pháp. Phủ nhận 8 phạm trù ngã tính ấy là phủ nhận tất cả ngã tính: tất cả ngã tính (ngã tướng) ấy chỉ ròng là tên gọi mà không thực, bởi sự thật là Trung đạo (hay duyên sinh tính). Bài kệ tán Phật Bất sinh diệc bất diệt 不生亦不滅 Không sinh cũng không diệt Đối diện với các sự vật hiện tượng vốn như như, rỗng không, nhưng trong đầu chúng ta luôn chấp ngã chấp pháp, luôn có khái niệm về sự hiện hữu của cái gọi là “pháp” với không gian, thời gian và sự vận hành của nó, khiến cho cái nhìn của chúng ta về thực tại trở thành méo mó. Vì vậy Bát bất đã giúp chúng ta xóa bỏ sai lầm đó: - Bất sinh diệc bất diệt: là sự quán chiếu trên bình diện hiện hữu của các pháp Một khi các ý niệm về “pháp” như vậy được xóa bỏ thì thật tướng sâu kín, khó thấy khó hiểu đó là “y tánh duyên khởi” (Idapaccayata Paticcasamuppada) của pháp mới được hiển bày, như Đức Phật đã từng tự suy nghĩ sau ngay khi chứng được pháp này dưới cội Bồ đề: “Pháp này do Ta chứng được thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng như vậy thì thật khó mà thấy được định lý Idapacayatà Paticcasamuppàda (Y Tánh Duyên Khởi Pháp)” (Kinh Thánh Cầu - Trung Bộ kinh) Như vậy, Trung luận với phẩm mở đầu đã nói lên hết chủ trương, tinh hoa của tất cả các phẩm còn lại, đó là phá hý luận, giúp người học Phật trở về thấy rõ thật tại y tánh duyên khởi của các pháp như sự giác ngộ của Phật. Chư pháp bất tự sinh 諸法不自生 Các pháp không tự sinh Con người luôn xem xét mỗi khía cạnh của thực tại dựa trên bốn nhận thức sai lầm gọi là tứ cú (catuskotika): có, không, vừa có vừa không, và không có cũng không không. Chẳng hạn nói về sinh thì hoặc là: (1) tự sinh, (2) tha sinh, (3) vừa tự sinh vừa tha sinh (cộng), và (4) không phải tự sinh cũng không phải tha sinh (vô nhân). Long Thọ lần lượt phá từng trường hợp một vì cả 4 trường hợp này đều không đúng thực tại. Do đó các pháp tạm gọi là “vô sinh” sẽ đúng hơn “sinh”. Vô sinh không có nghĩa là không có hiện tượng sinh, mà hiện tượng sinh mặc dù có nhưng vô ngã, rỗng không, không tự tánh, không có “pháp” nào gọi là sinh cả. NHÂN >DUYÊN >QUẢ Nhân đã không có, thì duyên cũng không có và quả cũng vậy. Nói về Duyên sinh ra các pháp thì chỉ có 4 loại: nhân duyên, Sở duyên duyên, Thứ đệ duyên và Tăng thượng duyên, không có cái thứ 5. Nhưng cả 4 loại duyên này cũng không có thực thể, không có tánh riêng. Do đó không nên có ngã chấp, không nên có pháp chấp. “Quả” nếu có tự tánh riêng thì không cần đến nhân và duyên, Ngài Long Thọ đã dựa trên trục thời gian để lý luận không có nhân, duyên và quả. Ví dụ Ví dụ như có một cô gái đi lấy chồng, và cô sinh ra một đứa con. Khi sinh ra đứa con thì cô gái (nhân) đó được gọi là mẹ (duyên), và đứa con đó được gọi là con (quả). Khi cô còn là một cô gái thì ta đâu có thể gọi cô là mẹ được (phi duyên)? Chỉ khi nào cô sinh con thì mới được gọi là mẹ (duyên), còn chưa sinh con thì chưa được gọi là mẹ (phi duyên). Cũng một cái đó mà có khi ta gọi là duyên, có khi gọi là phi duyên. Khi có cái quả (đứa con) sinh ra từ cái duyên (mẹ) thì ta gọi nó là duyên. Vậy nên, nhân, duyên, quả chỉ là những khái niệm dựa trên chấp ngã, chấp pháp, xa rời thực tại như như. Trắc nghiệm Bài 2 Quán nhân duyên (pratyayaparīkṣā) Câu 11. “Bất sinh diệc bất diệt” có nghĩa là: . A. vì không sinh nên không diệt Câu 12. “Bất sinh diệc bất diệt” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp: A. hiện hữu Câu 13. “Bất thường diệc bất đoạn” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp: A. hiện hữu Câu 14. “Bất nhất diệc bất dị” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp: A. hiện hữu Câu 15. “Bất lai diệc bất xuất” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp: A. hiện hữu Câu 16. “Năng thuyết thị nhân duyên; Thiện diệt chư hí luận” nói lên: A. mục đích tạo luận Câu 17. “Tự tánh (svabhava) của các pháp; Không nằm trong các duyên”. Tự tánh trong câu này có nghĩa là: A. cái tự tánh nằm bên ngoài các duyên Câu 18. “Tự tánh đã là không; Tha tánh làm gì có” nghĩa là A. hoàn toàn không có cái gọi là tự tánh, tha tánh Câu 19. Trong 4 duyên, Nhân duyên là: A. một pháp tồn tại độc lập với các duyên Câu 20. Trung quán luận quán nhân-duyên-quả để cho thấy: A. không có nhân-duyên-quả trên đời này BÀI 3: Quán Khứ lai Đi rồi không phải đi Nhược hữu nhị khứ pháp 若有二去法 Nếu có hai loại đi - Để phá quan niệm “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của phái Nhất thiết hữu bộ, Long Thọ phá quan niệm về chấp ngã tức khứ giả (kẻ đi), chấp pháp tức khứ pháp (hành động đi, pháp đi) và chấp có thời gian đi trong hiện tại tức khứ thời (thời gian đi). - Để pháp quan niệm sát na trụ của phái Kinh lượng bộ, phẩm này đưa ra quan niệm “Đang đi cũng chẳng đi”: Lối giải thích trong nguyên văn của luận dùng “kẻ đi” với “pháp đi” rất khó hiểu. Nay dùng máy quay video để thí dụ thì dễ hiểu hơn. Ví như kẻ đi bước 10 bước, máy quay phim quay 300 tấm hình trong 100 giây, khi phóng ảnh ra, coi cũng như lúc đang đi, nhưng xét kỹ trong 300 tấm hình, thì chẳng một tấm hình nào có đi. Như thế thì chứng minh “đang đi” cũng “chẳng đi”. Trắc nghiệm Bài 3: Quán khứ lai Câu 21. Trong phẩm quán khứ lai, ngài Long Thọ luận về: A. kẻ đi Câu 22. Trong lúc đang đi, 3 yếu tố: kẻ đi, hành động đi và thời gian đi A. tồn tại độc lập Câu 23. Luận về 3 yếu tố: kẻ đi, hành động đi và thời gian đi, Trung Luận muốn phá quan niệm nào: A. “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của Nhất thiết hữu bộ Câu 24. Câu “Đang đi cũng chẳng đi”, Trung quán luận muốn phá quan niệm gì: A. “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của Nhất thiết hữu bộ Câu 25. phẩm Quán khứ lai muốn phá quan niệm về: A. hiện hữu TRẮC NGHIỆM BÀI 4: QUÁN TỨ ĐẾ (ĀRYASATYAPARĪKṢĀ) Nếu “khổ” có định tánh (tánh nhất định) Khổ nếu có định tánh Chúng nhân duyên sanh pháp Câu 26: Đứng về phương diện tục đế, vì “Nhất thiết pháp giai không”, nên: A. không có Tứ thánh đế Câu 27: Đứng về phương diện chân đế, vì “Nhất thiết pháp giai không”, nên: A. không có Tứ thánh đế Câu 28: “Khổ đế” không có thật vì: A. không có Khổ đế Câu 29: “Đạo đế” tức “Đạo diệt khổ thánh đế” không có thật vì: A. Khổ không có tánh thật Câu 30: Đứng về mặt đệ nhất nghĩa đế, Tam bảo và Tứ Thánh đế: A. không có Câu 31: Câu “Chúng nhân duyên sanh pháp, Ngã thuyết tức thị không …” đây chính là quan niệm: A. chân như duyên khởi Câu 32: Vì “Chúng nhân duyên sanh pháp” nên Ngài Long Thọ đã lập ra thuyết: A. Trung đạo Câu 33: “Trung đạo” của Ngài Long Thọ dựa trên: A. lý Trung đạo xa lìa dục lạc và khổ hạnh trong Kinh Chuyển pháp luân Câu 34. Một pháp được gọi là pháp có tự tánh thì cần phải có tính chất gì? A. duy nhất Câu 35. Những pháp do tạo tác mà thành lại có 3 tướng sanh, trụ, diệt gọi là pháp gì? A. Pháp vô vi Bài 5: Quán hữu vô (svabhāvaparīkṣā) Trong duyên có tự tánh, Hữu nếu chẳng thể thành Định hữu là chấp thường Bài 6: Quán nhiên khả nhiên (agnīndhanaparīkṣā) Nếu "đốt" là "sở đốt" Đốt là lửa, sở đốt là củi, kẻ tác là người, sở tác là nghiệp. Nếu đốt với sở đốt là một, thì kẻ tác với sở tác cũng phải là một. Như thợ gốm tác bình, thợ gốm chẳng phải bình, bình chẳng phải thợ gốm, tác và sở tác chẳng thể thành một. Nếu nói chẳng thể thành một thì phải khác. Nếu khác thì lìa sở đốt mà có đốt (lìa củi mà có lửa). Nhưng thực tế thì chẳng thể được, nên nói khác cũng không được. Thế thì được biết: "đốt" với "sở đốt" đều chẳng thể thành lập. Bài 7: Quán niết-bàn (nirvāṇaparīkṣā) Nếu các pháp chẳng không Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng tử đều do nhân duyên sanh, nên cứu cánh không. Trong cứu cánh không, tự tánh tất cả pháp đều bất khả đắc. Do đó, các pháp có sở hữu đều ngưng, hý luận đều diệt. Hý luận diệt, nên thông đạt "thực tướng vô tướng" của các pháp. Bài 8: Quán lục tình (cakṣurādīndriyaparīkṣā) Lục tình: Lục thức đối với lục căn, lục trần, sanh khởi tình chấp, nên gọi là lục tình (có cảm tình chấp đó là thực) Nhãn nhĩ và tỷ thiệt Lìa "kiến", chẳng lìa "kiến" Năng sở đều vọng vì không có tự tánh, do đó chẳng có "kẻ năng kiến" và sắc tướng của "sở kiến". Theo đó suy luận thì biết những cảnh trần do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cảm nhận được cũng như thế. Bài 9: Quán ngũ ấm (skandhaparīkṣā) Nếu lìa nơi "sắc nhân" (nhân của sắc tướng là tứ đại đất nước gió lửa) Bài 10: Quán lục chủng (dhātuparīkṣā) Địa Thủy Hỏa Phong tứ đại, thêm Không đại và Kiến đại, cộng chung là lục chủng. Lúc "tướng không" chưa có Nếu trước đã "vô tướng" thì sau cũng phải vô tướng. Nếu có tướng, thì tại sao chẳng có sở tướng (chẳng có tướng sở hữu của hư không). "Sở tướng" chẳng có, thì "tướng" đương nhiên cũng chẳng có (chẳng có tướng mạo của hư không). Địa, thủy, hỏa, phong, kiến, năm thứ "đại" cũng đồng như hư không, chẳng thể thành lập. Bài 11: Quán nhiễm – kẻ nhiễm (rāgaraktaparīkṣā) Nếu lìa nơi pháp nhiễm Lục trần thuộc về pháp nhiễm. Chúng sanh ham thích lục trần thuộc về kẻ nhiễm. Nếu cho rằng lìa pháp nhiễm mà kẻ nhiễm có trước, thì quả thuyết này chẳng thể lập. Nếu chúng sanh chẳng ham thích lục trần, thì chẳng thành kẻ nhiễm. Nếu chẳng có kẻ nhiễm, thì làm sao có pháp nhiễm? Nếu pháp nhiễm với kẻ nhiễm cùng một lúc, thì chẳng có nhân duyên tương đối, tức là chẳng vì kẻ nhiễm mà có pháp nhiễm, cũng chẳng vì pháp nhiễm mà có kẻ nhiễm. Thế thì hai thứ "kẻ nhiễm" và "pháp nhiễm" phải là "thường" (không đoạn). Nếu thế thì chúng sanh vĩnh viễn chẳng có ngày giải thoát. Nhưng sự thực thì đời đời đều có chúng sanh giải thoát. Bài 12: Quán tam tướng (saṃskṛtaparīkṣā) Nếu sanh là hữu vi Sanh, trụ, diệt, ba tướng thuộc về pháp hữu vi. Nếu hợp thì tam pháp trái ngược nhau, chẳng thể cùng ở một lúc, nghĩa là lúc sanh thì chẳng có tướng trụ diệt, lúc trụ thì chẳng có tướng sanh diệt, lúc diệt thì chẳng có tướng sanh trụ. Nếu lìa thì chẳng có "sở tướng", tức là sanh chẳng có tướng "sở sanh", trụ chẳng có tướng "sở trụ", diệt chẳng có tướng "sở diệt". Nếu thuộc về pháp vô vi, thì chẳng có tam tướng. Phần bài thi viết (20 điểm) Hãy trình bày lại thật ngắn gọn phần nội dung chính (lược bớt phần dẫn nhập) bài tiểu luận Trung quán luận mà quý Thầy, Cô đã làm ở nhà. Ghi chú: - Phần trắc nghiệm (câu 1-35) sẽ thi 20 câu = 20 điểm
|