1. Đức Phật Thích Ca: Lịch Sử và Huyền Thoại

21/06/202110:06 SA(Xem: 3959)
1. Đức Phật Thích Ca: Lịch Sử và Huyền Thoại

ỨNG DỤNG LỜI PHẬT DẠY
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
NHÀ XUẤT BẢN ANANDA VIET FOUNDATION 2021

 

1

 

ĐC PHT THÍCH CA

LCH S VÀ HUYN THOI

 

I. DẪN NHẬP

Nhân mùa Lễ Khánh Đản của Đức Thích Ca Mâu Ni, đệ tử chúng ta cùng nhau tìm hiểu tiểu sử của một vĩ nhân đã để lại cho hậu thế một kho tàng văn hóa Phật học vĩ đại gồm 12,601 bài pháp thoại trong suốt 45 năm hoằng hóa của Ngài, mà đã 2,565 năm trôi qua kể từ ngày Đức Phật viên tịch đến nay, nền minh triết đó vẫn còn được dân gian trên thế giới kể cả những người theo đạo Phật và những người không theo đạo Phật nghiên cứu học hỏi.

Trình bày về tiểu sử đức Phật, người Phật tử có hai cái nhìn.

Một là đức Phật huyền thoại được ghi lại đầy đủ trong bộ kinh Phật Tổ Thống Kỷ (Bắc Tông). Bộ kinh này mô tả rất chi tiết về sự kiện đản sanh của Đức Phật, thậm chí còn kể rõ Ngài là một vị Bồ-tát ngự trên cõi Trời, đản sinh xuống làm người.

Cái nhìn thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để lại thì Ngài là một người bình thường như bao nhiêu người khác, có cha mẹ, vợ con, có những ưu tư về cuộc sống đau khổ của con người, nên muốn tìm phương pháp tu tập để thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

Thời gian Thái tử đản sanh và lớn lên trong hoàng cung, nguyên nhân xuất gia hay giai đoạn học đạo với hai vị đạonổi tiếng thời ấy là đạo sĩ Alãra Kãlama và Uddaka Ramãputta, cũng như lúc nhập đoàn với năm anh em Kiều Trần Như tu khổ hạnh, hay tiến trình tu chứng thành đạo cũng không có gì khác biệt giữa vị Phật huyền thoại và vị Phật lịch sử.

Viết bài này, chúng tôi mạn phép lấy tựa đề là “Đức Phật Thích Ca: Lịch Sử Và Huyền Thoại” nhằm giới thiệu sơ lược về lịch sử đản sanh và con đường tu tập đi đến thành đạo của Ngài, chứ không khai triển sâu sắc vào các chi tiết khác, bởi chỉ có mấy ngàn chữ theo quy ước này, thì làm sao có thể diễn đạt được hết cuộc đời của một bậc Giác Ngộ như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni!

II. ĐỨC PHẬT “LỊCH SỬ”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi nhận là một vị Phật lịch sử, vì Ngài là một con người bằng xương, bằng thịt, như bao nhiêu người khác. Ngài đản sanh vào năm 624 trước Tây lịch. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh vào ngày Rằm tháng Tư Âm lịch. Theo Phật Giáo Bắc Tông Đức Phật sanh ngày mồng Tám tháng Tư Âm lịch. Ngài ra đời tại ven rừng ở Lâm-Tỳ-Ni, một địa danh nằm giữa hai tiểu quốc Sakya và Koliya thuở bấy giờ. Đây là khu vực nằm giữa dãy Hy-mã-lạp-sơn và sông Hằng.

624 năm sau, Tây phương mới bắt đầu chọn năm sinh của đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy, tính đến năm nay 2021 thì đức Phật ra đời được 2,645 năm (tuổi). Ngài nhập Niết-bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây lịch. Vậy  thì Ngài đã rời khỏi thế gian này 2,565 năm.

Thế danh của Đức Phật là Siddhãrtha (Sanskrit), Siddhattha (Pãli), họ Gautama/Gotama, thuộc dòng tộc cao quý Thích Ca (Sakya), gốc dân da trắng Árya. Chúng ta biết đến Ngài với cái tên quen thuộc là Sĩ-Đạt-Ta/Tất-Đạt-Đa, họ là Cồ-Đàm. Ngài là Thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ. Phụ hoàng là Tịnh-Phạn Vương-đầu-đà-na (Suddhodana). Mẫu hoàng là Ma-ha-ma-da (Mayadevi) băng hà sau khi hạ sanh Ngài được 7 ngày. Vương phi Ma-ha Ba-xa-ba-đề (Maha Pajapati Gotami) là dì ruột đã trực tiếp nuôi nấng dạy dỗ Thái tử kể từ khi Hoàng hậu Maya băng hà cho đến khi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta trưởng thành.

Năm 16 tuổi, Thái tử thành hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yashodhara) cùng tuổi với Ngài vào năm 608 trước Tây lịch. Năm 29 tuổi, công chúa Da-du-đà-la hạ sanh một tiểu hoàng nam cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, được đức vua Tịnh-Phạn đặt tên cho cháu nội là La-Hầu-La (Rahula). Cũng vào năm này, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta quyết định rời cung điện bắt đầu cuộc sống khất sĩ, du phương cầu đạo để tìm phương thức giải quyết bốn vấn đề lớn là sanh, già, bệnh, chết .

          Chi tiết về cuộc đời, lúc còn là Thái tử, cũng như tiến trình tu chứngthành đạo của Ngài trong 45 năm hoằng pháp được ghi lại trong hai bộ kinh xưa nhất là Nikãya (Pãli) và A-hàm (Sanskrit).

Về lịch sử thì đạo Phật là một học thuyết, là một con đường tu tập để dẫn tới sự khai mở trí huệ tâm linh do đức Phật vốn là một người bình thường như bao người khác, đã tu tập và sáng đạo, đi giáo hóa truyền lại những kinh nghiệm của mình cho người khác.

III. ĐỨC PHẬT “TÔN GIÁO” HAY “HUYỀN THOẠI”

Từ xưa đến nay, muốn thành hình một tôn giáo, ít nhất phải hội đủ một số điều kiện. Đó là phải có một vị Giáo chủ mang một số huyền thoại nào đó khiến cho người ta kính phục tin theo, phải có giáo lý, nghi lễtín đồ của tôn giáo đó.

Khi đức Phật còn tại thế, đạo Phật là một học thuyết, nhằm khai mở trí huệ tâm linh của mọi người. Mục tiêu của đạo Phật là làm sao thoát khổ, giác ngộ, giải thoát. Thời kỳ giáo đoàn nguyên thủy từ lúc đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài viên tịch 100 năm, các thánh đệ tử của Ngài có rất nhiều vị đắc quả A-La-Hán là quả vị cao nhất trong thiền Phật giáo.

 Sau khi đức Điều Ngự viên tịch, theo dòng thời giankhông gian, đạo Phật muốn sống còn phải nhập thếdần dần trở thành một tôn giáo. So sánh với những điều kiện thành hình tôn giáo nêu trên thì đạo Phật có thể xem như là một tôn giáo, vì nó cũng có đủ các tiêu chuẩn như:

-  Về Giáo chủ: Đạo PhậtGiáo chủđức Bổn Sư Thích Ca. Cuộc đời của Ngài cũng có nhiều huyền thoại, chẳng hạn như Ngài là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-tát có tên là Hộ-Minh ngự trên cung trời Đâu Suất, đã tu vô lượng kiếp, chỉ còn một kiếp nữa là thành Phật. Từ cung trời Đâu Suất, Ngài nhìn xuống thế gian tìm cha mẹđạo đức để nhập thai xuống trần tiếp tục tu hành một kiếp cuối cùng và trong kiếp này Ngài đã đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

          - Về Giáo lý: Đức Phậtgiáo lý để giảng dạy cho tín đồ. Số lượng kinh điển chia làm hai: Nikãya (Nam tông) và A-hàm (Bắc tông). Ở Việt Nam, kinh điển Phật học được chuyển sang Việt ngữ, tuy chưa được hoàn toàn đầy đủ, nhưng cũng khá nhiều. Nói chung tổng quát có 4 bộ Nikãya gồm 12,601 bản kinh, chưa kể Tiểu Bộ Kinh. Còn 4 bộ A-hàm gồm 2,086 bản kinh. Tổng cộng, chúng ta thấy đức Phật để lại cho tín đồ 14,687 bài pháp thoại.

          - Về tín đồ: Hiện nay có khoảng hơn 800 triệu tín đồ theo đạo Phật trong số hơn 7 tỷ người trên hành tinh này.

          Trở lại tiểu sử đức Phật tôn giáo hay nói khác hơn là huyền thoại về đức Phật Thích Ca. Như đã nêu trên, Bồ-tát Hộ-Minh lúc bấy giờ ngự trên cung trời Đâu Suất nhìn xuống thế gian tìm gia đình thích hợp để xuống trần. Người mẹ mà Bồ-tát chọn nhập thai là Hoàng hậu Mahã Maya.

          Chuyện kể rằng, Hoàng hậu Maya, vợ vua Tịnh Phạn là một người hiền đức,  đã lớn tuổi rồi mà chưa có con. Một ngày kia, vào buổi trưa, đức Hoàng hậu đang nằm nghỉ ngơi thì rơi vào giấc mộng, đức bà thấy bốn vị thiên thần nâng bốn góc giường bay thẳng lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn. Nơi đây có một con voi trắng 6 ngà từ trên trời bay xuống và chui vào hông phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, cảm thấy trong người mát mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái. Ngay lúc đó, đức bà thọ thai.

          Theo tục lệ Ấn Độ thời bấy giờ, người phụ nữ mang thai phải về quê cha mẹ ruột của mình để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra khỏi tập tục đó . Gần đến ngày khai hoa nở nhụy, trên đường về quê Devadaha, đến vườn Lâm-Tỳ-Ni ở ngay biên giới của hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ mát, vì nơi đây không khí dễ chịu, thoang thoảng hương hoa nhẹ nhàng trong gió. Đoàn tùy tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi vào ven rừng ngắm cảnh, bà nhìn thấy một cây to có nhiều hoa nở rộ rất đẹp mà trong kinh sách ghi là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. Tương truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở trái mùa, đó là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu sẽ có một vị giác ngộ tương lai sắp ra đời.

          Tiếp theo huyền thoại về đức Phật, chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải lên vịn vào cành cây Vô Ưu thì Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bụng mẹ từ bên hông phải. Lúc đó liền có hai vị Phạm thiên xuất hiện đỡ lấy Ngài. Hai vòi nước một ấm một lạnh do hai con rồng từ trên cao phun xuống tắm cho vị Thái tử sơ sanh.

          Tích cũ kể tiếp, tiểu Thái tử vừa lọt lòng mẹ đã bước đi bảy bước, chửng chạc như một thiếu niên, mỗi bước có một đóa hoa sen nở để đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước thứ bảy, Thái tử đưa một cánh tay chỉ ngón trỏ lên trời, một cánh tay chỉ ngón trỏ xuống đất, thốt lên câu nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” rồi sau đó Ngài trở lại đời sống một đứa bé sơ sanh bình thường . Câu nói này về sau tùy theo căn cơ tu tập mà các đệ tử của đức Phật giải thích khác nhau.

          Sau khi Hoàng hậu hạ sanh Thái tử tại vườn Lâm-Tỳ-Ni, đoàn tùy tùng vội vàng quay trở về Ca-tỳ-la-vệ. Năm ngày sau đó, đức vua Tịnh Phạn làm lễ đặt tên con trai là Siddhattha (tiếng Sanskrit) âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta, họ là Gotama, âm tiếng Việt là Cồ Đàm

          Theo phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời nhiều đạo sĩ Bà-La-Môn học rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên và xem tướng cho Thái tử. Có tám vị đạolỗi lạc vào cùng xem tướng cho Thái tử. Bảy vị này đưa lên hai ngón tay và giải thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ trở nên một vị Hoàng đế vĩ đại nhất thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu và đắc quả Phật. Riêng đạo sĩ Kiều Trần Như (Kondanna) thì dứt khoát bảo rằng sau này Thái tử sẽ xuất giathành tựu quả Chánh Đẳng Chánh giác.

          Trước đó, có một vị đạo sĩ tên là A-tư-đà (Asita) là một người thân tín của nhà vua, ẩn tu trên núi Hy-mã-lạp-sơn. Nhân chuyến hạ sơn nghe dân chúng loan truyền Hoàng hậu sanh hoàng nam, nên ông xin được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng Thái tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ xem tướng Thái tử rồi tiên tri rằng về sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại. Nói xong, ông sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lão đạo sĩ đảnh lễ con mình như vậy, đức vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo sĩ, xá chào con mình. Kế đó, đạo sĩ A-tư-đà bỗng dưng cất tiếng cười rồi lại khóc. Đức vua và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn kỳ lạ của đạo sĩ, hỏi tại sao, thì được đạo sĩ A-tư-đà giải thích rằng ông cười vì vui mừng sau này Thái tử sẽ đắc quả Phật. Ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ bỏ thân này và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sanh vào). Do đó, ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu.

          Sau lễ đặt tên Thái tử hai ngày, Hoàng hậu Mahã Maya đột nhiên qua đời, trong kinh ghi đức bà được sanh về cung trời Đao Lợi. Lúc bấy giờ Vương phi Mahã Pajãpati Gotami là em ruột của Hoàng hậu Maya, tình nguyện nuôi dưỡng Thái tử cho đến khi Ngài khôn lớn.

IV. LỄ HẠ ĐIỀN

          Có một sự kiện đặc biệt xảy ra trong thời thơ ấu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự kiện ấy là kinh nghiệm tinh thần của Ngài, là chiếc chìa khoá mở đường sau này cho Ngài tiến đến sự giác ngộ. Câu chuyện kể lại là vào hằng năm, vua Tịnh Phạn đều tổ chức lễ Hạ điền. Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hòa, trước khi mọi người bắt tay vào việc đồng án. Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các loại thần: Nào là thần mưa, thần gió, thần sông, thần biển, thần núi, thần đất, thần lửa, v.v… Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của con người đều do thần linh cai quản. Con người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các đấng thần linh.

          Buổi sáng hôm đó, đức vua cùng quần thần áo mão chỉnh tề ra tận nơi khán đài hành lễ. Các cung nữ đỡ Thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi vào kiệu, lính hầu khiêng kiệu đặt dưới bóng mát của một cội cây hồng táo lớn, cách nơi nghi lễ diễn ra không xa. Mọi người dồn về khán đài hành lễ. Các cung nữ có phận sự trông nom Thái tử cũng hướng mắt về phía hành lễ. Thái tử lúc đó còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không ham thích cảnh nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời kiệu xuống đất, thay vì chạy nhảy vui chơi với các bạn đồng tuổi, Ngài lại ngồi dưới gốc cây hồng táo, tréo hai chân kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, mắt lim dim, định tâm vào hơi thởtình cờ nhập định, đắc Sơ Thiền.

          Đang lúc mọi người bận rộn, vui vẻ với cuộc lễ, các cung nữ bỗng sực nhớ tới Thái tử, vội vã quay về với phận sự, thì thấy Thái tử đang ngồi trầm ngâm thiền định. Lấy làm lạ nhưng không dám quấy rầy, một người đến tâu tự sự lên vua Tịnh Phạn. Đức vua Tịnh Phạn hối hả đến nơi, thấy Thái tử vẫn còn trong tư thế nhập định. Đức vua đến trước mặt Thái tử, chắp tay xá chào con và dịu dàng nói: “Này hỡi con yêu quý, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con”.  Lần thứ nhất vua Tịnh PhạnThái tử trong ngày lễ đặt tên và lần này vua đảnh lễ Thái tử dù Ngài còn rất nhỏ, theo phong tục của người Ấn khi gặp ai đang trong tư thế nhập định là phải đảnh lễ.

V. ĐỜI SỐNG THÁI TỬ SĨ-ĐẠT-TA BỊ BƯNG BÍT

          Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử còn nhỏ mà không ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc thích xung quanh, nên Ngài rất lo lắng, nhất là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ xuất giađắc quả Phật. Trong lòng vua Tịnh Phạn không muốn con mình đi tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện cho Thái tử trở thành người tài giỏi xuất chúng về mọi mặt, để sau này lên ngôi thay Ngài trị vì trăm họ.

          Để đạt được mục đích của mình. Nhà vua lên kế hoạch che đậy, bưng bít không cho Thái tử thấy, biết cuộc sống thế gian vốn có nhiều đau khổ phiền lụy. Bao vây chung quanh Thái tử là cuộc sống vương giả, xa hoa, đàn ca, hát xướng, tràn ngập sự hoan lạc. Khi Thái tử được 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng Công chúa Da-du-đà-la (Yasodharã), một người em cô cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống cùng Công chúa, Thái tử hoàn toàn sống một cuộc đời vui vẻ hạnh phúc, không hay biết gì về nỗi thống khổ của nhân loại ở bên ngoài thành cung điện. Ngài và Công chúa Da-du-đà-la sinh được một con trai, khiến cho vua Tịnh Phạn hết sức vui mừng, Vua đặt tên cháu nội là La-hầu-la (Rãhula).

VI. XUẤT GIA

          Suốt thời gian sống trong cung vàng điện ngọc, được sự chiều chuộng của tất cả mọi người, nhất là vua cha và mẫu hậu cùng Công chúa xinh đẹp Da-du-đà-la luôn để ý chăm sóc, tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần cho Ngài. Một mình Ngài được hưởng thụ mọi thứ vinh hoa trên cõi đời này. Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikãya, phần 1, trg 145) có ghi lời Ngài kể cho đệ tử nghe như sau:

          “ Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhứt xứ từ Kasi chở đến.

          “Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng. Phụ hoàng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một để cho ta ở mùa lạnh, một mùa nóng và một mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa, ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn”.

          Bấy lâu nay, trước mặt Thái tử chỉ là cảnh cung vàng điện ngọc, cung tần mỹ nữ đàn ca, hát xướng, quanh năm suốt tháng, là vợ đẹp, là ngôi báu đang chờ đợi.  Đến một ngày nọ, Thái tử xin phụ hoàng ra ngoài thành thăm dân cho biết sự tình. Vua Tịnh Phạn thấy khó lòng từ chối. Ngài ra lệnh cho dân chúng mọi nhà phải cấp tốc giăng đèn kết hoa, trưng bày cảnh thái bình thịnh vượng. Người người phải lộ nét vui vẻ hạnh phúc, nhất là trên những con đường Thái tử đi qua những người nghèo đói bệnh hoạn không được lảng vảng.

          Dù đức vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống đói nghèo của dân chúng chu đáo như thế nào cũng không qua mắt được Thái tử. Sau ba chuyến du ngoạn ngoài thành, Thái tử đã quan sátnhận thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc, mà đời sống của con người quay cuồng trong vòng khốn khổ, như hình ảnh một người già yếu ớt, tóc bạc, da nhăn, mắt mờ, lưng còng, bước đi run rẩy phải nhờ một cậy gậy chống đỡ. Một người bệnh hoạn, đau đớn rên la ngoài đường trông thật thảm thương. Một xác người chết bị đưa lên giàn hỏa thiêu đốt trước sự khóc lóc sầu não của người thân còn sống. Bên cạnh đó, những người xung quanh tất bật lo kiếm sống mỗi ngày, không hề có chút suy tư tìm cách thoát khỏi vòng hệ lụy sanh, già, bệnh, chết đó!

Trở về cung điện Thái tử trầm ngâm suy tư về những hình ảnh đã gặp. Trong lòng Ngài cảm thấy chán ngán cảnh hưởng thụ sung sướng hiện tại trong hoàng cung. Một ngày nọ Thái tử lại rời hoàng cung phóng ngựa ra khỏi hoàng thành đi về phía làng mạc xa xôi. Trên đường đi, Thái tử gặp một vị đạo sĩ Bà-la-môn nghiêm trang khả kính. Xuống ngựa hỏi thăm, được biết vị này là tu sĩ  hiện sống không nhà không cửa, mục tiêu sống của vị này là tu tập để sớm  giải thoát nỗi khổ sanh già bệnh chết. Lần gặp gỡ vị tu sĩ này là nguyên nhân thúc đẩy Thái tử quyết định rời hoàng cung ra đi tìm chân lý giải thoát cảnh sinh, lão, bệnh, tử. Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikãya, Ariyapariyesana Sutta số 26) có ghi lại sự suy nghĩ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta về vấn đề này như sau:

          “Chính ta phải chịu sinh, già, bệnh, chết, phiền nãoô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê chạy theo những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sinh, lão, bệnh, tử, phiền nãoô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái chưa thành đạt, cái tối thượngtuyệt đối của Niết-bàn”.

          Nói về đời sống tại gia, cũng trong kinh Trung A-Hàm số 36, kể lại rằng: “Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náo của bụi trần ô trược, nhưng đời sống của bậc xuất gia quả thật là cảnh trời minh mông bát ngát! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu được Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng với tất cả sự hoàn hảotrong sạch của nó”.

          Nhận định rõ ràng những thích thú vật chất mà phần đông mọi người tranh giành nhau để chiếm hữu, đều không thể đem lại lợi ích vững bền, chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất cả mùi danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, nên Thái tử dứt khoát rời bỏ cung điện với ngai vàng ngôi vua đứng đầu thiên hạ đang chờ đợi mình, từ giã người vợ dịu dàng, quyền quý xinh đẹp hết mực yêu thương Ngài, và đứa con trai kháu khỉnh dễ thương vừa mới chào đời, để ra đi tìm chân lý tịch tịnh trường cửu. Chấp nhận hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi, không phải Thái tử ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho bản thân mình, mà Ngài ra đi để tìm pháp tu hầu tự cứu mình và cứu hàng hàng lớp lớp chúng sanh đang lặn ngụp trong biển khổ, trong đó có phụ hoàng, mẫu hậu và vợ con của Ngài.

          Từ một Thái tử giàu sang vinh hiển tột bậc. Ngài trở thành một đạo sĩ nghèo nàn, không tiền bạc, không nhà cửa, sống nhờ lòng từ thiện của bá tánh thập phương. Ngài không có một nơi chốn nào nhất định. Hôm nay, ngủ dưới gốc cây cao bóng mát, ngày mai tạm trú trong một hang đá vắng vẻ hoang vu… Thế nào cũng được, chỉ cần có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài trong buổi trưa hè nắng gắt, hay trong đêm khuya gió mưa lạnh lẽo là được rồi. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong mưa gió lạnh lùng như thế ngày này qua ngày khác. Tất cả xiêm y chỉ là những mảnh vải vụn ráp lại vừa đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là một cái bát trì bình khất thực. Vật thực xin của bá tánh mỗi ngày chỉ vừa đủ nuôi thân. Ngài tận dụng thời giờnăng lực trong việc tìm kiếm khám phá chân lý.

VII. TÌM CHÂN LÝ

          Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đã nhiều lần thất bại, suýt mất mạng. Lúc đầu Ngài lần lượt tìm cầu học với hai vị Thầy dạy thiền Yoga nổi tiếng thời đó là đạo sĩ Alãra Kãlama và Uddaka Rãmaputta.

          Học với đạo sĩ Alãra Kãlama, không bao lâu Ngài đắc quả “Vô Sở Hữu Xứ” nghĩa là “Chỗ không có gì”. Đây là trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận “không có gì” chung quanh mình trong lúc tọa thiền cũng như sau khi xả thiền. Trong tiến trình này, tuy tâm không dao động, không rối loạn trước các đối tượng (vì đối tượng không là gì), nhưng vẫn còn tự ngã và ý thức cho nên ngã và pháp đều có mặt. Kết quả không đáp ứng được mục đích thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài từ giã vị Thầy ra đi tìm pháp khác, mặc dù vị Thầy này đã ân cần mời Ngài ở lại để cùng hướng dẫn đồ chúng.

          Ngài ra đi tìm học đạo với vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rãmaputta. Lần này chỉ trong ba tuần ngắn, Ngài đã được vị thầy này ấn chứng cho đã đạt được quả vị cao nhất của hệ thống thiền Yoga là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” . Đây là trạng thái “không tri giác, mà cũng không không tri giác”, nói cách khác là “hoàn toàn không nhận thức điều gì đối với môi trường xung quanh”, khi đó niệm biết rõ ràng không xuất hiện, cho nên thiền giả không biết, mà cũng không không biết, nên chìm đắm trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại định này không đưa đến thượng trí và giác ngộ, bởi tâm ở trong định mà không biết gì cả! Vì thế, dù được vị thầy thứ hai này ấn chứngngỏ ý giao tất cả đồ chúng để Ngài cai quản, hướng dẫn họ tu tập, nhưng Ngài nhã nhặn từ chối. Một lần nữa Ngài từ giã vị thầy thứ hai để ra đi.

          Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như. Cùng với họ, Ngài bắt đầu pháp tu khổ hạnh. Thời đó, các vị tu sĩ quan niệm là phải đì thân thật khốc liệt để cảm giác đau đớn nổi lên đè bẹp những ham muốn dục vọng thì mới đạt được đạo quả. Các tu sĩ thời đó cho rằng đây là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác để đạt Niết-bàn.

          Trong vòng sáu năm (kể cả thời gian tu học với hai vị thầy Yoga), đạo sĩ Cồ Đàm nổi tiếng khắp nơi về pháp tu khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, hạnh con bò, có lúc Ngài tu hành xác khốc liệt như ngủ trên gai nhọn, đứng ngủ một chân, đêm khuya lạnh lẽo trầm mình dưới dòng sông, hay nằm chịu đựng cho tuyết rơi phủ cả thân mình. Có lúc Ngài tu hạnh ở dơ không tắm, không cạo râu, tu hạnh nhịn ăn nhịn uống, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, uống mấy giọt sương, rồi Ngài muốn tuyệt thực không ăn không uống, v.v… Ngài tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ, cho đến ngày kia thân hình tráng kiện của Bồ-tát chỉ còn da bọc bộ xương. Ngài xứng danh là đệ nhất khổ hạnh, được mọi người tôn là Thánh nhân.

VIII. CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO

          Tu khổ hạnh khắc nghiệt như thế mà Bồ-tát cũng không tìm ra được manh mối gì. Tiếc thay, càng đì thân khốc liệt bao nhiêu thì Ngài càng rời xa mục tiêu đi tìm Niết-bàn bấy nhiêu. Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng thái Niết-bàn là trạng thái như thế nào? Ngài chỉ nghĩ đó là trạng thái không phiền não nếu đã tận diệt mọi hình thức ái dục.

          Sau sáu năm dài đày đọa thân thể, tuy thân của Ngài càng lúc càng tiều tụy, hai mắt như hai hố thẳm, da nhăn nheo, tóc lông đụng tới đâu thì rụng tới đó. Thân gầy ốm da bọc xương, đi đứng không vững, nhưng tâm Ngài vẫn cương quyết không thay đổi pháp tu. Cho đến một ngày kia, Ngài té xỉu ở bìa rừng, may nhờ cô bé chăn cừu cứu sống bằng một chén sữa. Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của pháp tu khổ hạnh. Ngài nhận ra thân này là quý. Nếu thân kiệt quệ, mệt mỏi, thì tinh thần cũng kiệt quệ, mệt mỏi, không thể suy nghĩ được điều nào đúng, điều nào sai, nói chi là tìm ra được chân lý thoát khổ? Ngài liền dứt khoát bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan này. Ngài cho rằng lối sống hoan lạc lợi dưỡng thời còn ở trong hoàng cung làm chậm trễ tiến bộ đạo đức, và lối sống khổ hạnh khốc liệt này chỉ có hại cho thân và tâm chứ không đưa đến một ích lợi nào trên con đường tâm linh.

          Bây giờ Ngài chọn con đường độc lập, tức con đường trung đạo, không cực đoan lợi dưỡng cũng không cực đoan khổ hạnh. Ngài nhận ra mình phải biết quý cái thân này, phải nuôi dưỡng nó khỏe mạnh hầu mượn nó để mà tu. Con đường trung đạo lúc bấy giờ là như thế! Nhưng sau khi thành đạo đi giáo hóa, con đường trung đạo trong đạo Phật không có nghĩa là con đường trung dung giữa hai thái cực tu hành. Trung đạo, hiểu theo đúng lời dạy của đức Phậtxa lìa các biên kiến như Ngài dạy bài học về Chánh Kiến. Chánh kiến là cái nhìn, cái hiểu biết đúng. Nó tương phản với biên kiến bị xem là tà kiến. Trung đạo vượt qua sự phân biệt hữu và phi hữu, vượt qua hai cực đoan có và không. Trong kinh Tương Ưng Bộ, chương XV, Kaccàyanagotta (Ca-chiên-diên Thị), Phật dạy tôn giả Tán-đà Ca-chiên-diên rằng: “7) “Tất cả là có”, này Kaccàyana, là một cực đoan. “Tất cả là không có” là cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như Lai thuyết pháp theo Trung đạo”.

IX. THÀNH ĐẠO

          Khi Bồ-tát tuyên bố chấm dứt pháp tu khổ hạnh, năm người bạn đồng tu rời bỏ Ngài ra đi vì cho rằng Ngài đã bỏ cuộc quay về cuộc sống lợi dưỡng. Bồ-tát một mình đi dọc theo bờ sông Ni-liên-thiền hướng về khu rừng cây rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay nơi đó là Bồ-đề-đạo-tràng. Tại nơi đây vắng vẻ, không bóng người qua lại. Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người ta gọi cây đó là cây Bồ-đề. Ngài trải cỏ Kusha  làm tọa cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu không chứng đạo dù thịt nát xương tan, Ngài cũng sẽ không rời khỏi cội cây này.

          Nhớ lại pháp thở khi còn nhỏ, bây giờ thử lại Ngài đạt được kinh nghiệm khi xưa, nếu không nói là tâm mỗi lúc mỗi chìm vào định sâu hơn! Thế là Ngài quyết định chọn pháp này để thiền địnhquán chiếu cho đến khi tìm ra được chân lý cao sâu thâm diệu giải quyết bài toán phức tạp: Thoát ra khỏi sinh, già, bệnh, chết.

          Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đã lần lượt nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiềnTứ thiền. Khi tâm Ngài hoàn toàn định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sai khiến…. Ngài hướng tâm về tuệ giác liên quan đến sự nhớ lại những kiếp quá khứ của chính mình. Tất cả những gì xảy ra từ nhiều kiếp quá khứ hiện ra trong nhận thức của Ngài như cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết đi, tái sanh… hết đời này qua đời khác… Làm con người này, làm con người kia… như thế nào Ngài đều rõ biết! Đây là tuệ giác đầu tiên Ngài chứng ngộ vào lúc canh Một của đêm thành đạo trong kinh ghi là Túc Mạng Minh.

          Phá tan được lớp vô minh, tự mình nhìn ra được vô số kiếp của mình.  Bây giờ Ngài mới hướng tâm về sự hiểu biết hiện tượng sanh, diệt của chúng sanh. Với tuệ nhãn tinh khiếtsiêu phàm, Ngài thấy sự sống và sự chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, v.v… Tất cả đều trải qua sanh rồi diệt, diệt rồi sanh… tùy theo hành vi tạo tác xấu tốt, thiện ác của mỗi người mà thọ sanh luân hồi trong sáu cõi: Trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỹ hay địa ngục. Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn Minh trong canh giữa của đêm thành đạo. Ngài mục kích sự phân tán và sự cấu hợp trở lại của chúng sanh tùy theo nghiệp của họ đã gây ra.

          Tiếp theo, Ngài hướng tâm thanh tịnh về sự hiểu biết chấm dứt các pháp trầm luân, nhận ra lậu hoặcnguyên tố khiến con người khổ đau chịu luân hồi sanh tử. Tiếp theo, Ngài chứng ngộ bốn Chân lý: Khổ đế, Tập đế, Diệt đếĐạo đế. Khi trời hừng sang, Ngài chứng Lậu Tận Minh. Bấy giờ Ngài biết mình đã giải thoáthoàn toàn sạch hết lậu hoặc. Trong kinh Trung Bộ 1, Đại kinh Saccaka, số 37, ghi lại nhận thức của đức Phật như sau: “Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm hạnh đã viên mãn, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.

          Màn vô minh hoàn toàn được giải tỏa và trí huệ của Ngài đã bừng sáng. Đêm tối đã tan, ánh sáng tràn ngập. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35 tuổi. Sau sáu năm dài đằng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng không có sự hướng dẫn từ một năng lực siêu phàm nào. Ngài cô độc một mình, tự nỗ lực chiến đấu với chính mình, tự thắp đuốc mò mẫm đi trong đêm tối. Kết quả đã tận diệt mọi ô nhiễm (lậu hoặc) chấm dứt mọi tiến trình tham áichứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật lịch sử, mà sau mấy ngàn năm, tư liệu Phật sử vẫn còn để lại:

- Cha: Đức vua Tịnh Phạn nước Ca-tỳ-la-vệ (Bắc Ấn Độ).

- Mẹ: Hoàng hậu: Mahãmaya, băng hà sau khi hạ sanh Thái tử 7 ngày.

- Mẹ kế: Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (là dì ruột của Thái tử)

- Ngày sanh: Rằm tháng Tư Âm lịch tại vườn Lâm-Tỳ-Ni, nước Nepal.

- Kết duyên với công chúa Da-du-đà-la năm 16 tuổi.

- Năm 29 tuổi có con trai đầu lòng là La-Hầu-La.

- Xuất gia: Ngày mồng 8 tháng Hai, Âm lịch vào năm 29 tuổi.

- Thành đạo: Ngày mồng 8 tháng 12, năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ.

- Hoằng pháp: 45 năm.

- Nhập Niết-bàn: Ngày Rằm tháng Hai, thọ 80 tuổi, tại Kusinãrã, Ấn Độ.

- Hiện nay, vẫn còn các Thánh tích (tứ động tâm) ghi lại những nơi đức Phật đã đi qua, do các nhà khảo cổ học người Anh tìm thấy như:

- Lâm-Tỳ-Ni là nơi đức Phật đản sanh.

- Bồ-đề-đạo-tràng (Buddha Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya) là nơi đức Phật thành đạo.

- Vườn Lộc Giả, bây giờ là Sarnath, Ấn Độ, là nơi đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, giảng bài kinh Tứ Diệu ĐếVô Ngã Tướng, độ cho năm anh em Kiều Trần Như đắc quả A-La-Hán.

- Kusinãrã, bây giờ gọi là Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn Độ, là nơi đức Phật diệt độ.

 

X. KẾT LUẬN

Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo chủ của tín đồ Phật Giáocõi Ta Bà này. Cuộc đời của Ngài cũng có một huyền thoại rất hy hữu. Ngài để lại một kho tàng giáo lý giá trị. Đạo Phật có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên thế giới có hơn 7 tỷ người, và đạo Phậthệ thống nghi lễ hẳn hoi. Như vậy, đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo, mà hễ tôn giáo thì vị Giáo chủ ấy có nhiều huyền thoại về cuộc đời cho nên chúng ta mới có Đức Phật huyền thoại.

Ngược lại, trong kinh điễn Phật giáo để lại, người ta thấy rằng Ngài không hề nhận mình là Giáo chủ, mà chỉ là người thầy trao truyền những phương pháp tu tập, những kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua cho những người muốn tu tập để thoát khổ giải thoát. Từ đó Ngài được người ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy nhất trên cõi đời này.

Học Phật, chúng ta biết rằng khi đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài đã không nhận mình là thần linh, là thượng đế, nên Ngài không ban phép lành hay cứu rổi cho bất cứ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua sự tự tu, tự chứng của Ngài, cho những ai tin và theo học. Về mặt cộng đồng xã hội, học thuyết đó chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân áibình đẳng. Về mặt tâm lý, Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm tỏa của sự đau khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Niết-bàn.

Đối với giáo lý nhà Phật thì Niết-bàn chính là trạng thái tĩnh lặng, trong sáng, trí tuệ, không vướng mắc với mọi tham ái hay phiền muộn trên cõi đời này. Người nào kinh nghiệm trạng thái Niết-bàn là người đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy Niết-bàn không phải ở đâu xa, mà nó ở ngay trong tâm của người liễu đạo bây giờ và ở đây!

Lời kết: Nhân ngày lễ Phật Đản, chúng ta nghĩ tưởng về vị khai sáng đạo Phật với lòng biết ơn qua hai truyền thống: Lịch sử và huyền thoại, để nhận ra rằng truyền thống nào cũng mang lợi lạc đến cho chúng sanh.              

Nam Mô Đản Sanh Bồ-tát Ma-ha-tát

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

25/5/2021

(Chân Tâm thiền thất , Richmond, Texas)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
15/02/2019(Xem: 9665)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.