II. MẬT GIÁO TÂM YẾU Gồm có các bộ như:
Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Đà ra ni giáo là Mật Viên vậy.
Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói sự
tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô
pháp giới. Sau y ngộ, tu
Phổ Hiền Hạnh Hải, lìa được
sanh tử, chứng được nhập thân
vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt,
cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.
Nay Mật Viên
Thần chú, tất cả
chúng sanh cho đến nhơn vị
Bồ Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô
Pháp Giới,
Phổ Hiền Hạnh Hải. Được lìa
sanh tử,
thành tựu mười thân
vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược. Tuy không biết
phân lượng phép tắc
hoà hợp; chỉ uống thuốc là
tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên
kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là phép
bí mật; chỉ có Phật với
Phật tự biết
với nhau; các vị Thánh không thể
thông đạt. Chỉ
tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên
Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là
Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể
thông hiểu.”
Hiền Thủ Bát nhã sớ nói rằng: “Chú là pháp
bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị”. Chỉ
tụng trì không
cần phải gượng
giải thích. Còn
Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người
Thiên Trúc.
Phiên dịch lại không hiểu,
vì vậy nên không phiên giải!”. Trong
Thiên Thai Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai
pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền
Hiển giáo, không thể tuyên truyền về
mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Đà Ra Ni, nhơn vị
Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà
thọ trì, diệt được
tội chướng,
thành tựu phước đức.”
Hỏi: Vì sao,
Mật chú của chư Phật không thể
giải thích cho người khác hiểu?
Đáp:
Thần chú là
viên mãn giải là
phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên
không giải thích cho người khác rõ được,
mật nghĩa nằm trong đó,
cần phải suy nghĩ. Trong
Pháp Hoa Sao nói rằng: “Về
bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được, cho nên nói là Mật ngôn”.
Bát nhã kinh nói: “Tổng trì như thuốc thần, cũng như
cam lồ của trời trị lành các bịnh
sai lầm, uống thì thường an vui.
Lại trong
Lý Thú kinh,
đức Như Lai có nói năm tạng:
1)
Kinh Tạng: Như sữa bò.
2)
Luật Tạng: Như sữa đặc.
3)
Luận Tạng: Như sữa tươi.
4)
Bát Nhã Tạng: Như sữa chín.
5) Đà Ra Ni Tạng: Như
đề hồ.
(
Đề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các
hữu tình thân tâm an vui. Ở
Tây Thiên Trúc
thường dùng đề hồ để trị các bịnh.)
Đà Ra Ni trong các Kinh, Luật là
tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các
chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng
Niết Bàn, An-Lạc
pháp thân.
Lý Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh Đức Lực Đại,
mật chú công cường,
giải hạnh tuy kém,
giải thoát thì mau.” Các
đại sư như:
Hiền Thủ v.v… chỉ cho
Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Đà Ra Ni là
Viên giáo, vậy không
trái với Hiền Thủ cùng các
đại sư khác sao?
-Đáp:
Viên tông có hai:
1)Hiển viên.
2)Mật viên.
Hiền Thủ chỉ
căn cứ vào Hiển giáo chánh phán
Hoa Nghiêm là Viên. Nay có
Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên,
Mật giáo cũng là
Viên tông.
Hiển Mật đã khác mà các sự không trái.
Y theo Mật
Viên tu luyện cũng chia làm hai:
1)Trì tụng
nghi quỹ.
2)Nghiệm thành
hành tướng.
Trước
hết nói về Trì Tụng
Nghi Quỹ:
Chơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn
y pháp trì tụng, trước hết phải ngồi
Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc
tùy ý ngồi sao cũng được.) Tay kiết Đại
Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất cả
cuồng loạn,
vọng niệm,
tư duy tạp nhiễm.) Thân tam lắng tịnh,
nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM (Trong sách có ghi ra Phạn tự, song không thể đánh máy bằng vi tính được. Nếu
hành giả nào muốn
thực hành, xin tìm sách để
nghiên cứu thêm)
Chữ này biến ra ánh sáng
quang minh, như ngọc
Minh châu, như
mặt trăng rằm tròn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái
kiết ấn:
Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong lòng bàn tay bấm lại đốt
vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi
nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm,
thành tựu tất cả
công đức.) Tay mặt cầm chuỗi ký số, miệng tụng:
Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108 biến.
Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn trì Lam hay là Lãm
Tịnh pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến
tam nghiệp đều được
thanh tịnh;
tất cả tội chướng đều được
tiêu trừ. Lại hay
thành tựu tất cả việc
thù thắng; ở chỗ nào cũng được
thanh tịnh.
Y phục bất tịnh khiến thành
tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh. Nếu dụng
tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là bình
thanh tịnh triệt để. Như một hạt
linh đơn điểm vào sắt thành
vàng ròng.
Chơn ngôn một chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng:
Ra tự sắc tiển Bạch.
Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ không để
trang nghiêm nó, Phạn tự RA điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự.
Như
Minh châu trên
nhục kế,
an trí tại đỉnh đầu;
Chơn ngôn đồng
pháp giới;
vô lượng chúng tội trừ. Tất cả
xúc uế, nên
gia trì chữ này. Nếu thật
ngoại duyên không đầy đủ, không nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho sạch. Nếu người có
ngoại duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y mới
thanh tịnh, lại dùng LAM tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều
thanh tịnh. (Như các
chơn ngôn Nghi quỹ nói.)
Rồi
tiếp tục tụng chú:
Hộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến.
Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM. Nếu
tụng chú này, hay diệt
ngũ nghịch,
thập ác, tất cả
tội nghiệp. Có
công năng trừ tất cả bịnh, tai chướng,
ác mộng, tà mị,
quỷ thần và các việc bất tường.
Thành tựu các việc
thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được
viên mãn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu người
chuyên tâm tụng một biến hay
bảo hộ được chính mình. Tụng hai biến hay
bảo hộ được đồng bạn. Tụng ba biến thường
bảo hộ mọi người trong nhà. Tụng bốn biến
bảo hộ mọi người trong một thành.
Cho đến bảy biến hay
bảo hộ người trong
tứ thiên hạ.
Rộng như
Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói.
Kế đến tụng 108 biến
Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn:
ÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN
MA NI BÁT MINH HỒNG hay
MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG.
Nếu
tụng chú này ngay chỗ có
vô lượng chư Phật,
Bồ Tát,
Thiên Long,
Bát Bộ nhóm hội, đầy đủ
vô lượng tam muội pháp môn. Ai
tụng trì, thì bảy đời
dòng họ đều
được giải thoát; các trùng ở trong bụng sẽ được
Bồ Tát vị. Người đó
hằng ngày được đầy đủ công
đức sáu
pháp Ba la mật. Được
vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự
tiếp xúc xa lìa các
sân độc, sẽ được
Bồ Tát vị.
Giả như: Người trong bốn
thiên hạ, đều
đắc Thất địa
Bồ Tát vị. Các
Bồ Tát đó có bao nhiêu
công đức, sánh với
công đức tụng một biến chú
Lục tự, cả hai đều
bình đẳng không sai khác. Chú này là
Vi diệu bổn tâm của Ngài
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ
Đại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn
Pháp Tạng, cũng bằng
công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu
tạo tượng Như Lai, số như
vi trần, không bằng
công đức việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đã đắc sáu chữ
Đại Minh này, thì họ không còn bị
nhiễm trước tham, sân, si. Nếu đeo
Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài
hữu tình mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc
Bồ Tát vị, không còn thọ các khổ
sanh tử nữa. Khi nói xong
Lục Tự Đại Minh này, có
Thất Thập Thất Cu
Chi Phật đồng thời xuất hiện và
đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết
Lục Tự Đại Minh cùng
Chuẩn Đề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên hậu
kiết ấn Chuẩn Đề tại Tim.
Chuẩn Đề Chơn ngôn cùng Nhứt
tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Đại Luân Chú,
chỉ trì Chuẩn Đề Chơn ngôn cũng được.)
*
CHUẨN ĐỀ PHÁP ẤN Lấy ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn
với nhau vào trong lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực,
chí tâm tụng chú Chuẩn Đề và Đại Luân Nhứt Tự, nếu muốn
triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi
kiết ấn,
tụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của tượng
Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc
quán tâm ký số, hoặc mười niệm ký số. Hoặc
kiết ấn tụng được một nghìn tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc
chỉ tay bên tả
kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi trì số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán trì cũng có kết quả.
Thất Cu
Chi Phật Mẫu
Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni
Chơn ngôn:
Nam Mô Tát Đa Nẫm,
Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm,
Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Phật dạy:
Thần chú này có
công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướng.
Thành tựu tất cả bách
công đức.
Trì chú này dù ở
tại gia hay
xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ
chí tâm trì tụng hay khiến
chúng sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ
vô lượng.
Ca Ma La tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bịnh khác;
nếu không tiêu diệt là
không có lý. Nếu có ai tụng mãn bốn mươi chín ngày,
Chuẩn Đề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có
tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi
báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước trúng tướng cầu quan không
toại ý, nghèo cùng khốn khổ,
bức bách; thường
tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như
Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn,
truyện Đăng Lục có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm
Tam Hành Chú mà được
danh tiếng hơn người”. Nếu cầu
trí tuệ được
đại trí tuệ; cầu
nam nữ được
nam nữ. Phàm có
sở cầu, đều được xứng lòng và
toại ý, giống như
ngọc Như ý; tất cả
tùy tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường khiến cho các
quốc vương, đại thần và
tứ chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều
hoan hỷ. Người
tụng chú này, xuống nước không
chết chìm, nạn lửa không thể đốt.
Độc dược,
oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh:
Phạm vương,
Đế Thích,
Tứ Thiên Vương,
Diêm La,
Thiên Tử v.v… chỉ
tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau
chậm trễ. Hoặc có
sai khiến gì được
như ý muốn.
Thần chú này có
thế lực lớn đối với
Nam Thiệm Bộ Châu. Dời
núi Tu Di; khô nước
Đại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh
hoa quả, huống chi là người
năng y pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được đại
Thần túc, sanh về
cõi trời Đâu Suất. Nếu cầu
trường sanh và các
tiên dược,
chỉ y pháp
tụng chú, sẽ thấy được đức
Quan Thế Âm Bồ Tát,
Kim Cang Thủ Bồ Tát trao cho
thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu ngang bằng
nhật nguyệt, chứng
Bồ Tát vị. Nếu
y pháp tụng mãn một trăm vạn biến, liền được đi
mười phương Tịnh Độ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp
diệu pháp, chứng được quả
Bồ đề.
Nếu muốn
thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các
Chơn ngôn khác,
cần phải rộng tu
cúng dường chỗ
kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhão để thoa khắp nơi
đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để trước
tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước Kính đàn
tùy sức trang nghiêm; các món
cúng dường đầy đủ. Xông
An tức hương, nước
tịnh thủy, nhiên hậu
kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến
Chuẩn Đề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng
đem theo để tùy thân. Mỗi khi muốn
tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để
trước mặt,
kiết ấn tụng chú.
Nếu không thể
tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày
thập trai, đối Kính trì tụng cũng được.
Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong
Mật tạng, Kính đàn này là
yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các
Đàn pháp.
Nếu không có Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn
trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh chư
ác thú, cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành
Đàn pháp, trì tụng là hơn hết. Hoặc
không tưởng được
Đàn pháp chỉ nên
chuyên tâm trì chú. Các ngày
thập trai: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.)
Chú Chuẩn Đề này các Phật và
Bồ Tát đều đồng nói. Độc Bộ
Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ
Chơn ngôn Đàn Pháp,
Chuẩn Đề Phạn bổn Văn thuyết có mười vạn
bài kệ. Ngài
Long Thọ Bồ Tát nói
bài kệ tán thán rằng:
“Chuẩn Đề
Công Đức tụ;
Vắng lặng tâm thường tụng.
Tất cả các
đại nạn,
Không thể
xâm phạm người.
Trên trời và
cõi người,
Thọ phước ngang bằng Phật.
Gặp chây
Như Ý này,
Đắc định, chứng
Bồ đề.
(Rộng như
Chuẩn Đề kinh và
Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói:
Chuẩn Đề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là
Phạn âm bất đồng mà thôi.)
Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt
Tự Tâm Chú
trong đời mạt pháp. Đối với
thời mạt pháp, khi
chánh pháp sắp diệt, chú này có
đại thế lực. Hay giúp
thế gian làm đại
lợi ích, hay
hộ trì Pháp Tạng của
Như Lai, hay
hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác chú trong
thế gian. Đây là đảnh của các
Đức Phật, là tâm của
Văn Thù Bồ Tát, hay ban
thí vô úy cho tất cả
chúng sanh và ban sự
vui sướng cho họ. Phàm có
tu trì sẽ
tùy ý đắc quả, giống như
ngọc Như Ý. Có
công năng làm
mãn nguyện tất cả. Nếu
tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các
ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các
Thiên ma không dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn
ngộn khác sợ không
thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với
Chơn ngôn khác
đồng thời trì tụng,
nhất định sẽ kết quả.
Nếu không thành tựu và
hiệu nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường
trợ lực cho các
Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được. (Rộng như
Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt
Tự Tâm chú kinh nói.)
Từ trước đến giờ
lần lượt trì tụng đến
Chuẩn Đề chú;
nếu không kiết được
ấn chú Chuẩn Đề, thì lấy tay trái
kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì tụng. Hoặc không
theo sau, trước tụng
tịnh pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ trì,
chỉ trì Chuẩn Đề Thần chú, hoặc
căn độn không thể
thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà trì, nên chữ Án là lời
quy kính. Từ chữ Án v.v… là chánh
Thần chú vậy. Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt
kiết ấn Kim Cang, miệng tụng
Hồng Hồng Chơn ngôn cho
liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:
1-Ấn trên trán.
2-Ấn vai phía trước.
3-Ấn vai bên mặt.
4-Ấn tại nơi ngực.
5-Ấn ở yết hầu.
Ấn xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.
Hay trừ các
ma chướng,
thành tựu tất cả thắng sự.
Hoặc trước khi trì tụng,
kiết ấn trước năm chỗ rồi trì tụng. Lại nữa,
tùy theo chỗ trụ xứ, muốn
bài trừ Thần Quỷ, kiết
Kim Cang giới. Chỉ tụng
Chuẩn Đề Chơn ngôn,
gia trì chú trong
hương thủy (nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch trừ
kiết giới. Lại khi chánh trì tụng, căn
cứ theo Cu Chi Đà Ra Ni kinh,
Kim Cang Đảnh kinh,
Ngũ Tự Đà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói, theo
căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ.
1)Du Dà Trì:Chỉ tưởng có chữ
hiện ra trong
tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng
tự tâm mình như một
mặt trăng tròn
vắng lặng,
thanh tịnh, trong ngoài
phân minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong
tâm nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề Ta Bà Ha tự; theo trước xoay về phía bên hữu,
lần lượt hiện khắp theo một vòng tròn (đọc cao giọng xong rồi
trở lại từ đầu)
2)
Xuất nhập tức trì: Nghĩa là trong
hơi thở ra vào, tưởng có
Chơn ngôn Phạn tự.
Hơi thở ra theo chữ ra, hơi
hít vào theo chữ vào. Chữ chữ, sáng rõ như xâu
chuỗi ngọc minh châu, không được
gián đoạn. (Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong tâm như
mặt trăng tròn sáng: Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong miệng mình lưu nhập vào trong miệng đức
Chuẩn Đề Bồ Tát,
xoay quanh bên hữu, an bố trong
tâm nguyệt luân của
Chuẩn Đề Bồ Tát. Nếu khi
hít vào tưởng chữ trong
tâm nguyện luân của Ngài
Chuẩn Đề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tròn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ miệng của
Chuẩn Đề Bồ Tát tuôn ra, lưu nhập vào trong miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong
tâm nguyệt luân. Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.)
3)
Kim Cang Trì: Môi, răng không động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng.
4)Vi Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ
phân minh mà
xưng niệm.
5)Cao Thinh Trì: Khiến kẻ khác
nghe được diệt tội, lại có hai cách trì tụng:
1-
Vô số trì tụng: Nghĩa là không trì chuỗi định số, thường trì luôn không
gián đoạn.
2- Hữu số trì tụng: Nghĩa là lần chuỗi trì tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được
thiếu sót.
Nếu lần chuỗi trì tụng, chỗ thu hoạch
công đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh
Số Châu Công Đức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không
niệm Phật và Đà Ra Ni, người ấy cũng được phước
vô lượng. Và trong
kinh Kim Cang Niệm Châu có
bài kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu tịnh tội
vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn
trọng nghiệp, trì nắm tay sẽ trừ các tội giúp cho
hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Đảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng LAM TỰ
Chơn ngôn gia trì số châu bảy biến, khi
hành trì một
biến thành nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải
trở lại không được
vượt qua mẫu châu). Mỗi ngày
y pháp trì tụng,
cần phải phân
thời hạn định. Nếu như một thời, thì buổi sớm mai. Hai thời thì thêm buổi
hoàng hôn. Nếu trì ba thời thì thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không
cần phải phân thời, lúc nào trì tụng cũng được.)
Nếu hạng
thượng căn trì tụng,
cần phải được
Tam mật tương ưng.
1)
Thân mật:
Kiết ấn.
2)
Ngữ mật:
Tụng chú.
3)
Ý mật: Hoặc tưởng
Chơn ngôn Phạn tự, hoặc duyên nghe theo tiếng trì tụng.
Hoặc tưởng tượng đức
Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc tưởng trong tay của
Bồ Tát cầm các vật như xử, bình, hoa, quả v.v… Cho nên
Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu dùng
Tam mật làm môn
tu hành; không
cần tu trải qua nhiều kiếp số, đủ tu các hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các
Ba la mật rồi. Lại nữa, khi đang trì tụng chưa đủ 108 biến, không được nói chuyện với ai. Còn nếu muốn nói chuyện thì phải tưởng trên lưỡi mình chữ phạm LAM, dù cho nói chuyện cũng không bị
gián đoạn.
Hỏi:
Chỉ trì tụng nhứt đạo
Chơn ngôn sẽ
thành tựu hay phải rộng trì nhiều bổn
Chơn ngôn mới được
thành tựu công đức?
Đáp: Có hai môn:
1)
Tùy căn cơ ưa muốn:
Căn cơ có nhiều sự ưa muốn bất đồng. Hoặc ưa trì 3, 5, 10 đạo
cho đến 100 đạo v.v… Trong đó
tùy căn cơ ưa muốn không đồng, đều được trì tụng.
2)Muốn mau chóng
thành tựu: Muốn cầu tất cả
công đức mau
thành tựu, nên chuyên trì tụng nhứt đạo
Chơn ngôn cho thành, thời tất cả
Chơn ngôn công đức đều
thành tựu.
Cho nên kinh
Văn Thù Nghi Quỹ có nói: Nếu muốn tất cả
công đức thành tựu, không được dùng
Chơn ngôn mà khởi
tư tưởng như trên, tuy có số đạo
Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp trì tụng với
Chuẩn Đề Chơn ngôn.
Hỏi: Đã chuyên tụng một
Thần chú mau được
thành tựu, vì sao lại hay bày vẽ
Chuẩn Đề ngôn cho người trì tụng?
Đáp: 1- Vì
Chuẩn Đề Chơn ngôn bao gồm tất cả các
Chơn ngôn, và bao hàm tất cả các
Thần chú. Các chú không bao hàm được
Chuẩn Đề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông không thể thu nhiếp biển lớn (
Chuẩn Đề tổng hàm các chú sau đây sẽ rõ.)
2- Vì
Chuẩn Đề Đàn pháp người dễ làm
thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, ấy là
Đàn pháp . Không đồng như các chú, phải
kiến lập đàn pháp ,
cần phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê đồ địa, rộng tạo các
Phật tượng, các món
cúng dường đầy đủ mới có thể
thành tựu. (Người có tài vật, rộng tạo các
Phật tượng, các món
cúng dường đầy đủ, nơi trước
tượng Phật,
an trí Kính đàn, đối trước trì tụng lại càng nhiệm mầu.)
Vì
Chuẩn Đề không cần lựa
tính cách nhiễm tịnh để trì tụng, chẳng luận
tại gia,
xuất gia, đã lỡ uống rượu,
ăn thịt, có
vợ con v.v… đều trì tụng được. Không giống các
Thần chú khác
cần yếu phải
trì giới mới hay tụng tập. (Nay vì những kẻ
thế tục đeo mang
vợ con, uống rượu,
ăn thịt, ấy là
thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn
dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi.
Nếu không dùng Đại bất tư nghì chú pháp này
cứu thoát, thì những kẻ như vậy biết ngày nào ra khỏi
sanh tử. Còn những ai,
trai giới thanh tịnh y pháp trì tụng, lại là
thù thắng nhiệm mầu hơn hết. Trong kinh
Chuẩn Đề nói: Huống là
trai giới đầy đủ,
y pháp đầy đủ để trì tụng, không chuyển, không thân vãng đến
Tứ thiền, sẽ được đại
Thần túc ấy.)
Sở dĩ thế nên dạy nhiều về
Chuẩn Đề Chơn ngôn, khiến người trì tụng. Nếu muốn trì các
Chơn ngôn khác,
tùy tâm đều được, đừng định chấp một bên nào vậy. (Tuy chuyên tụng nhị chú, trước hết
cần phải khởi tâm viên tín:
Ngũ bộ Thần chú, đều là
pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin một bộ,
trở thành hủy
báng Phật pháp). Lại nữa,
Chơn ngôn hành giả, mỗi ngày đối trước Kính đàn, như
ban đầu trì tụng; hoặc
chỉ y như
trước tiên, tưởng trên đầu của mình có chữ Phạn LAM tròn sáng như
Minh Châu, nhiên hậu mới trì khóa. Lại căn
cứ theo kinh Đại Thừa Quán Tưởng Mạn Noa La, kinh
Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Qũy cùng với kinh
Tôn Thắng Phật Đảnh
Tu Du Dà pháp cùng nhiều kinh khác đến mấy chục bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh đầu của mình có chữ LAM,
biến thành lửa ba góc; đốt hết thân mình từ đỉnh đầu tới chân; khắp
pháp giới chỉ thấy
thanh tịnh, dù có
ngũ vô gián tội, dụng chữ này đốt thân, cũng đều
trừ diệt không sót. Tiếp đó, nên tưởng chữ Phạn A, sanh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức
vô tướng pháp giới, từ
vô tướng đó sanh
thành thân hành giả.) Lại một chữ ÁM, mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghĩa chữ Ám tức là thể, nước
quang minh của
mười phương chư Phật để rưới lên đỉnh đầu của
Phật tử. Đây là
bí mật quán đảnh trong
pháp môn, nhiên hậu trì tụng. Hoặc tưởng
tự tâm như
mặt trăng tròn sáng,
thanh tịnh,
mặt trăng ấy có một chữ Phạn ÁN)
(Trong Nhơn vị của
đức Như Lai, nhiều năm
tu hành không
đắc đạo Bồ đề, sau
tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền
thành Chánh giác. Chữ Án hàm đủ
vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả
Chơn ngôn. Tất cả
đức Như Lai đều nhờ
quán tưởng chữ này mà được
thành Phật.) Hoặc trong
tâm Nguyệt luân tưởng một chữ A, (Chữ A này là Ty Lô
Phật thân, cũng là
pháp giới, cũng là
Bồ đề tâm, nếu người tưởng niệm thì pháp sinh được
vô lượng công đức.) Hoặc tưởng trong
tâm Nguyệt luân một chữ Hồng (chữ Hồng tổng nhiếp
Kim Cang bộ, tất cả
Chơn ngôn. Là chủ
thân Kim Cang bộ, cũng là ba
giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ
tất cả tội chướng,
thành tựu các
công đức.) Hoặc trên lưỡi tưởng một chữ LAM, hay chữ HỒNG, tưởng xong rồi sẽ
tụng trì. Hoặc tưởng trên cổ mình phát xuất
hoa sen lớn, trên
hoa sen xuất hiện chữ A; lại tưởng chữ A
biến thành mặt trăng tròn; tưởng nơi
mặt trăng đó
biến thành chữ HỒNG, chữ Hồng này biến ra năm chùy
Kim Cang, lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi
Kim Cang. Nhiên hậu trì tụng (Kế đó tay cũng tưởng chữ A, A lại
biến thành Nguyệt luân,
Nguyệt luân biến thành HỒNG tự, chữ Hồng biến ra sắc trắng năm chày
Kim Cang mới gọi là tay
Kim Cang, sau đó kiết tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn
Chuẩn Đề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự
thân phần; nghĩa là tưởng chữ ÁN, an trên đỉnh đầu; chữ Chiếc, an nơi hai con mắt, chữ LỆ, an tại cổ, chữ CHỦ, an nơi tâm. Chữ Lệ, an nơi hai vai chữ CHUẨN, an nơi rún; chữ ĐỀ, an nơi hai bắp về; chữ
Ta Bà, an nơi hai cổ chân và chữ HA, an tại hai bàn chân. Tưởng An bố khắp nơi rồi, nhiên hậu trì tụng.(Kinh
Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn
thành tựu trong pháp
Chuẩn Đề Bồ Tát, trước hết quán
Chuẩn Đề Bồ Tát căn bổn
vi diệu tự luân, trên thân mình mỗi một chữ ở vào một chỗ rõ rệt, thân đời trước ngươi đó có tạo tất cả
tội nghiệp, thì cũng được
trừ diệt. Phàm có
sở cầu,
quyết định thành tựu,
pháp An bố
cửu tự, trong
Kinh tạng có nhiều chỗ nói vậy.)
Quán tưởng chữ Phạn đã có
công đức rộng như trong các kinh Đà Ra Ni có nói: “Trên đây về
quán môn Phạn tự, trong bốn
oai nghi thường
tư duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm trong các kinh, tưởng chữ
Chơn ngôn đều là chữ Phạn chứ không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Đảnh
Luân Vương Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại thần dụng.” Hoặc có người không thể tưởng được chữ Phạn, chỉ nên
chuyên tâm trì tụng cũng đủ tất cả
tam muội. Cho nên
Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà Ra Ni là
Thiền định tạng; trăm nghìn
tam muội thường
hiện tiền.”
Nếu người khẩn thiết trì tụng, hoặc gặp các thứ
ma chướng, hoặc bỗng nhiên
sợ hãi, hoặc lưỡi khó trì tụng, hoặc thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc
sanh nghi các
Thần chú không muốn trì tụng v.v… Nếu
đối trị các điều đó, nên
quán tưởng Phạn tự RA, hoặc quán chữ LAM, hay quán chữ A v.v… Chỉ
tùy theo đấy
quán tưởng một chữ,
cảnh giới kia
tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều
phân biệt, nên quán Phạn tự SÁI, tức Thánh
vô phân biệt. Nếu có
trước tâm nhiều, nên
quán tưởng HÀM tự, tức
nhơn duyên pháp vốn không có vậy. (Trên đây ước nơi một mặt mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy một chữ mà tất cả đều có
công dụng đó, nghĩa là một chữ thật đủ tất cả chữ, là
công dụng của tất cả chư Phật,
Bồ Tát vậy.)
Hỏi: vì sao Phạn tự đều có bất tư nghì thần dụng như vậy?
Đáp: Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là
thân tâm của chư Phật,
Bồ Tát vậy; tức là thể là
ly tướng pháp giới vậy. Lại tức thể là
giáo lý, hạnh và quả ấy vậy,
sở dĩ thế nên có
bất khả tư nghì thần dụng. (Phạn tự: ở
Tây Phương vốn có sẵn trong
pháp nhĩ. Khi
thế giới mới thành,
Phạm Vương truyền nói: Không đồng như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế).
Hỏi: Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có
bất khả tư nghì thần dụng, cớ gì riêng nói chữ trong Chơn ngôn?
Đáp: Nghĩa là chữ trong
Chơn ngôn, là
pháp nhĩ của chư Phật bất tư nghì lực
gia trì vậy.
Pháp tánh như vậy đó, riêng có thần dụng. Như
ngôn ngữ ở đây chỉ là một. Duy chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa không thiêu được, chú thủy không làm chìm, cho nên làm ngữ chú riêng có
công dụng, chẳng phải tất cả
ngôn ngữ khác đều có
công dụng như vậy. Chữ ở
Tây Phương cũng thế …, chữ tuy là một mà làm chữ trong
Chơn ngôn, riêng có thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy.
Hỏi: Trên nói đối đàn,
kiết ấn,
tụng chú v.v… đâu không phải
hữu tướng ư?
Đáp:
Viên Tông vô
chướng ngại pháp giới, trên thể, vốn đủ
vô tận pháp môn.
Thiền tông vô tướng pháp môn chỉ là một trong
vô tận môn vậy. Nay
Mật tông,
Đàn pháp,
thủ ấn,
Chơn ngôn, tức thể lại là vô
chướng ngại pháp giới vậy. (Như
Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong
Thập huyền môn, nương sự hiển
pháp môn, nói
Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh là
Bát nhã vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng:
Trì chú,
kiết ấn, đối đàn là
trệ ngại nơi tướng, đây chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là
ly tướng ngoại cầu nơi
vô tướng.
Tổ sư vì
ngoại đạo mà
kiến giải, chứ không phải ý
Phật giáo. Lại trong
kinh Lăng Nghiêm sớ nói rằng: Trì tụng
Thần chú hay trừ được các ác, hay nhóm tập các thiện. Kẻ
ngu muội không biết ý chỉ đây; thấy người
trì chú thường nổi lên lòng hủy báng, cho đó không phải là kẻ
tu hành. Chưa có một
Đức Phật nào, không
do nơi Thần chú mà được
thành đạo để độ
chúng sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi này.
Hỏi: Trên kia
dẫn chứng các
đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp
bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải của nhơn vị, cớ gì trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô
Phật thân, chữ Hồng là
Tam giải thoát môn v.v…
Đáp:
Cứ theo Hiền Thủ Bát nhã trong kinh sớ và
Thần Biến sớ, các
Mật tạng Đà Ra Ni Kinh Ý thì có hai môn:
1)
Bát Nhã Thuyết Môn: Chú là
mật pháp của chư Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác chẳng
thông hiểu, chỉ nên trì tụng không cần cưỡng thích.
2)Cưỡng Thuyết Môn: Như trong
Chơn ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc
tác pháp, bao trùm cả
không gian và
thời gian,
tự tại giải thoát.
Tóm lại mà nói:
Vô tận pháp môn ở trong một chữ tổng giải nói hết, mới là
chữ nghĩa của Đà Ra Ni. Đem
lời nói này,
giả sử mười phương các
Đức Phật trải qua hằng sa kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong
Chơn ngôn cũng không thể hết được, huống nữa người khác, nói đó còn khó, huống chi tham thọ.
Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc
tác pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là Tỳ Lô
Phật thân, Hồng tự là
Tam giải thoát môn v.v… Tức là cưỡng nói cái nghĩa của một phần thôi. Còn các chỗ khác có
giải thích Chơn ngôn, tự nghĩa,
cú nghĩa, đều là cưỡng thuyết giải
một phần nhỏ nghĩa vậy. (Nếu ở trong một chữ
Chơn ngôn, hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm nghĩa v.v…
giải thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên nói: Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác. Đó là
căn cứ vào Mật giáo bổn tôn
bất khả thuyết môn mà nói: (
Bất khả thuyết môn này là nói đến
quả ly ngôn của
Hiển giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là nói đến
nhân quả của
Hiển giáo Viên tôn)
Hỏi rằng: hoặc có
chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng, hoặc muốn
tăng trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu
Thánh quả … là
chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng hay là có
phương pháp nào khác?
Đáp rằng:
Chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng. Phàm có
sở cầu nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc
sở cầu, mỗi pháp làm riêng khác. Nay
lược bày pháp thức sau đây: Theo trong kinh
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi
Đại Minh Đà Ra Ni kinh,
Thần Biến Sớ và các
Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức
Đàn pháp gọi:
1)
Tức Tai Pháp.
2)
Tăng Ích Pháp.
3)
Kính Ái Pháp.
4)
Hàng Phục Pháp.
5)
Xuất Thế Gian Pháp.
1)
Tức Tai Pháp: (Vì để
trừ ác nghiệp,
trọng tội,
phiền não chướng … Các món
tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức …) Kẻ
hành giả hướng về phương Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng
Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà
an trí Kính đàn. (Cái kính tròn) Lại tưởng một Đàn tròn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ PHẠ, hoặc chữ VÃM
tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự
thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tròn;
hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng được.
Quán tưởng đức
Chuẩn Đề sắc trắng, hiến cúng
hoa quả,
ẩm thực và tự thân
y phục đều là sắc trắng,
đồ hương dùng
bạch đàn,
thiêu hương dùng
trầm thủy, thắp đèn dầu
Tô du; lấy
từ tâm tương ưng.
Lúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là mãn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến ngày mãn hoặc
đoạn thực (không ăn) hoặc ăn
tam bạch thực: nghĩa là sữa, gạo gãy hay cháo. Người không
đủ sức tôn tượng cúng dường đầy đủ
y phục chỉ
vận tâm tưởng cũng được, sau này
cứ theo đây mà biết) Nếu khi
tụng niệm,
lần lượt trì tụng như trước, đến
Chuẩn Đề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà tụng. Diệu
Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề, gia hô tên … và
trừ tai nạn
TA BÀ HA. Nếu tự cầu cho mình, trên chữ
TA BÀ HA xưng danh mình và sự việc
cầu xin. Nếu vì người khác, cũng xưng rõ tên, họ, sự việc v.v…
2)
Tăng Ích Pháp: Vì cầu thêm sự
vinh quang,
tăng trưởng thọ mạng, cầu
phước đức thông minh,
quyến thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa nếp
thành thục, cầu phục tang
bảo châu,
thuốc tiên, năm
thần thông v.v…
Hành giả hướng về
Tây phương; trước tượng
Chuẩn Đề an trí Kính đàn (lại tưởng một hình Đàn vuông, sắc vàng trong Đàn ấy có khắp chữ A, hoặc tưởng chữ ÁM,
Tôn tượng cúng dường đầy đủ. Tự thân của
hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước tượng vẽ một hình đàn vuông cũng được).
Quán tưởng đức
Chuẩn Đề sắc vàng, chỗ hiến cúng
hoa quả ẩm thực và tự thân
y phục … đều là sắc vàng.
Đồ hương dụng,
bạch đàn gia chút uất kim, thiêu
bạch đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè) đem tâm
vui mừng được
tương ưng. Theo tháng ngày mồng 9, khi
mặt trời mới mọc, khởi đầu
hành trì cho đến ngày rằm là mãn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Đến ngày mãn cứ như trước
đoạn thực và
tam bạch thực;
niệm tụng như trước.
Diệu
Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề,
gia hộ tên…
sở cầu như ý,
Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước đã nói)
3)
Kính Ái Pháp: (Vì cầu tất cả
Thánh Hiền gia hộ,
Thiên long Bát bộ hoan hỷ, cầu
thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhã, người nghe
hoan hỷ và cầu tất cả
mọi người ái kính, bạn hữu
tri thức thân cận,
oan gia hoà thuận …)
Hành giả xây mặt về
hướng Tây, ngồi cách
thiền tọa, tượng diện hướng Đông, trước tượng
Chuẩn Đề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt hình Đàn sắc màu đỏ, trong bán nguyệt hình Đàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ hoặc chữ Hàm;
tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự
thân hành giả đều tưởng ở trong bán nguyệt hình đàn ấy.
Hoặc trước tượng chỉ vẽ một hình đàn bán nguyệt cũng được.)
Quán tưởng đức
Chuẩn Đề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa lụa, chỗ hiến cúng
hoa quả,
ẩm thực và tự thân
y phục, thảy đều màu đỏ.
Đồ hương dụng uất kim,
thiêu hương lấy đinh hương, Tô hạp hương hòa mật để thiêu đốt. Thắp đèn dầu trái cây đem
thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày 16 cuối đêm (
hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là mãn, mỗi ngày tắm gội
đoạn thực hiện tụng,
thực hành như pháp trước.
Diệu
Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề linh nhứt thiết nhơn ái kính…tên…Ta
Bà Ha. (Xưng tên họ
tùy theo việc
sở cầu, như trước đã bày.)
4)
Hàng phục pháp: Để
hàng phục tất cả
ác độc,
quỷ thần và ác long thú tổn hoại tất cả
hữu tình và
điều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sanh tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo, hủy
Chơn ngôn, hoặc gây
chướng ngại. Đối với tất cả người ác như vậy, người
trì chú vận
đại từ bi tâm, làm được phép này.
Nếu vì
ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các kinh đã nói,
quyết định phản chiêu
tai họa, phản đắc
suốt đời si ai,
học giả nên biết! (nghĩa là mình oán ghét người nào đó, cầu cho họ bệnh chết hay
tai họa, thì không thành mà
trái lại mình bị mang họa. Chư Phật
Bồ Tát không
cho phép, nếu cưỡng làm
suốt đời bị
ngu si.)
Hành giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư Tọa (Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên hữu. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng
Chuẩn Đề,
an trí Kính đàn. (lại tưởng một cái Đàn
tam giác sắc xanh ở trong
tam giác Đàn, tưởng khắp chữ Ra, hay chữ Lam,
tôn tượng cúng dường đầy đủ và tự thân của
hành giả điều tưởng ở trong cái Đàn
tam giác cũng được.) Chuẩn Để sắc xanh, hay màu đên mặc áo đen xanh tự thân
y phục cũng đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối, hoa không thơm và
Mạn đà la hoa v.v…
ẩm thực, dùng
thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh,
đồ hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu (phân trâu trắng ở núi tuyết bên
Ấn Độ nói ăn toàn cỏ thơm, nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta). Lấy hoa sắc đen và
giới tử Bá mộc làm
đồ hương v.v… Mỗi thứ lấy một ít để nơi Ứ già thủy; đốt
an tức hương. Thắp đèn dầu hạt cải; lấy
phẫn nộ tâm
tương ưng. Từ ngày 24 vào lúc
giờ ngọ hoặc nửa đêm khởi đầu
hành pháp cho đến ngày cuối tháng thì mãn; mỗi ngày tắm gội,
đoạn thực,
niệm tụng pháp,
thực hành như trước.
Diệu
Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề, Hồng Phấn Tra, (Phấn Tra viết chữ Phạn)
(Nếu các người ác
thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy, phát
thiện tâm. Nếu người ấy biết
hối lỗi, tự trách
vĩnh đoạn ác tâm, thì nên vì họ làm phép
Tức Tai,
niệm tụng, người kia bèn khỏi
tai nạn. Trên đây là bốn
pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được
thành công trong bốn pháp này; cần được
dự tu trì
Chuẩn Đề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến. Đã
thực hành rồi, mới làm bốn pháp,
thành tựu được, tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong thời nay hoặc Thích, hoặc Nho vì lợi vì danh mãn năm suốt ngày
xu hướng tham lam, dụng hết
thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi
vô thường đến lại sanh vào xứ
thấp hèn. Sao bằng, vâng
Thánh ngôn chư Phật tụng
bí mật Thần chú, trên trong các
pháp Tăng Ích
lần lượt thực hành, việc
sở cầu quyết định toại tâm; tất cả
nghiệp chướng thảy đều
tiêu diệt;
vô thường có đến thì được sanh
thắng xứ.
Hiện tại,
vị lai, đều được
lợi lạc, há chẳng là điều tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.)
5)
Xuất thế gian đàn pháp: Vì muốn mau đủ hai món
tư lương:
Phước đức và
trí huệ.
Đốn viên mười món
Ba la mật,
siêu việt ba
vô số kiếp khắc kỳ
trong đời này
Thánh quả hiện tiền. Người
hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm
thù thắng,
già lam thanh tịnh. Đem
hết lòng Đại Bi, thường ưa
lợi lạc vô biên hữu tình, đồng với
Chuẩn Đề Vương
Bồ Tát.
Nương nhờ Đại Bi,
nguyện lực,
hộ trợ các Phật,
Bồ Tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một
thời kỳ, dứt
tuyệt không tiếp khách, dứt bặt
lời nói.
Tam Mật tương ưng tâm không gián đoạn; kẻ
hành giả mặt hướng về phương Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là
tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay
tùy ý ngồi đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng
Chuẩn Đề an trí Kính đàn.
(Trên đảnh
hành giả tưởng chữ Lam,
biến thành vòng lửa đỏ đốt hết tự
thân hữu lậu. Lại tưởng trên một
hoa sen lớn có chữ A, sanh thành
vô lậu trí thân, lại tưởng chữ Ám,
quán đảnh rồi. Lại tưởng chữ LAM
biến thành lửa lớn đốt cháy
thế giới hữu vi này đồng như hỏa kiếp, cháy sạch không sót, chỉ có
không tịch. Lại tưởng tượng lập nên Đàn
vô vi. Phí dưới hạ phương khắp tưởng chữ Khiếm: tạp sắc mà làm
Không luân. Nơi trên
Không luân tưởng chữ Hàm, sắc đen,
biến thành Phong luân (gió). Trên
Phong luân tưởng chữ Lam sắc đỏ,
biến thành Hỏa luân (lửa). Trên
hỏa luân tưởng khắp chữ Vãm, sắc trắng
biến thành Thủy luân. Trên
Thủy luân (nước) tưởng khắp chữ A, sắc vàng, biến ra
Kim Cang địa. Trên
Kim Cang địa khắp tưởng
đại Liên hoa. Trên mỗi
hoa sen đều có đức
Chuẩn Đề Bồ Tát,
vô lượng Thánh chúng vi nhiễu (vây quanh) trước mỗi đức
Chuẩn Đề, đều có tự thân của
hành giả (Chính mình mỗi mỗi thân có
hiện ra hoa quả ẩm thực, tràng phan… đầy đủ các món
cúng dường đều đối trước Kính đàn
Chuẩn Đề:
Tam mật tương ưng. Nếu
hành giả không có tượng
Chuẩn Đề và
hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng
quán tưởng này cũng được
thành tựu kiết tường).
Nhứt tâm để tưởng đức
Chuẩn Đề Bồ Tát, đầy đủ
vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong
tâm Nguyệt luân của
Bồ Tát, tưởng có Cửu Thánh Phạn
tự Đàn (9 chữ
chú Chuẩn Đề).
Hành giả tưởng trong
tâm Nguyệt luân của mình cũng có chín chữ Phạn Đàn, còn ở tại thân mình, tưởng khắp 9 chữ Thánh Phạn (
Tâm Nguyệt luân và tự
thân phần tưởng đủ các chữ, như trước đã nói). Các thứ hiến cúng
hoa quả,
ẩm thực, hương, đèn, đuốc, nến, …Nơi trong ba pháp: dứt
tai ương,
tăng ích,
kính ái đã nói rõ sắc vật đều dùng được.
Y phục của
hành giả phải được mới,
trong sạch mới được vào
Đàn pháp (tu).
Tóm lại thì loại áo vàng là tốt nhất.
Hành giả không
cần phải lao hình, khổ nhọc sợ
tâm thần tán loạn; đối với bốn
oai nghi: đi đứng nằm ngồi đều được
Tam mật tu tập. 1)Thân
kiết ấn. 2)Miệng đọc chú. 3)
Tâm duyên Phạn tự. Chỗ thấy, nghe hay biết
chỉ quán chữ A: Nơi nhứt chơn
thanh tịnh pháp giới, thường
tu quán hạnh này.
Lần lượt nghi quỹ trì tụng như đã nói ở trên, đến
Chuẩn Đề Chơn ngôn. Từ đầu
vô số,
vô ký chuyên tinh niệm tụng.
Cần sách thân tâm chớ nên
biếng nhác. Lúc sắp
thành tựu, ắt có khởi lên các thứ
chướng ngại, nên làm phép:
Tức tai,
hàng phục …
Tùy theo căn tánh sai khác của
hành giả, khoảng
thời gian này quyết chứng được
Tam muội hiện tiền. Tức ở trong định thấy có
vô số Phật hội,
nghe được pháp âm vi diệu, chứng được
Thập Địa Bồ Tát vị. (Một là pháp này, chỉ cầu
xuất thế gian, nếu muốn
thành tựu trong pháp này, trước hết
cần phải trì tụng
Chuẩn Đề Chơn ngôn được 500 vạn, 700 vạn, hoặc 1000 vạn biến rồi mới làm pháp này,
quyết định có
linh nghiệm.)
CÁC
HÀNH TƯỚNG THÀNH TỰU LINH NGHIỆM Chuẩn Đề Đà Ra Ni kinh,
Kim Cang Đảnh kinh,
Tô Tất Địa … Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói
Chơn ngôn, người
hành giả dụng công trì tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật,
Bồ Tát,
Thánh tăng,
Thiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên
hư không một cách
tự tại; hoặc
vượt qua biển lớn, hoặc
trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi
sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy
hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng
Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt,
mặt trời,
mặt trăng … tức là cái tướng trạng
tiêu diệt tội vô thỉ.
Hoặc chính đương lúc trì tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp chỗ trong
hư không có các hoa kỳ lạ,
đặc biệt. Hoặc thấy các Phật,
Bồ Tát,
Thánh tăng,
Thiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật
Tịnh độ, hoặc thấy tự mình dạo qua các
Phật quốc và
cúng dường. Hoặc tạm
thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao 1 thước, 2 thước
cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư không có lửa mà
tự nhiên có khói. Hoặc thấy
Phật tượng, phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư Phật,
Bồ Tát.
Hoặc tự
biết thân mình nguy nga,
vòi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc
thân thể trắng nhuận, không sanh rận rệp, hoặc
tham sân si tự nhiên tiêu diệt. Hoặc
tổng trì bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa. Hoặc
trí tuệ đốn sanh,
tự nhiên thông hiểu tất cả
kinh luật luận. Hoặc tất cả
tam muội pháp môn tự nhiên
hiện tiền. Hoặc
phước đức đốn cao,
tứ chúng thảy đều
quy ngưỡng …(Kinh văn trên đây đã nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ
sơ lược tham học thiền lý, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Đây chẳng những là hủy báng
tối thượng thừa giáo, mà cũng là
đắc tội tà kiến,
xả tướng, thủ tánh; lại không biết tướng kia,
bản lai là tánh vậy.
Nếu gặp các việc như trên, chỉ là
phước huệ tăng trưởng, tướng trạng gần
thành tựu; chớ sanh lòng
nghi hoặc, chớ khởi niệm thủ xả.
Nên quán những
cảnh giới đã gặp đó, đều là A tự, hoặc Lam tự, hoặc tưởng đều nh
mộng huyễn hay đều là
pháp giới nhứt tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy
cần phải phát tu, sách tất
tam nghiệp,
gia công trì tụng, không được tuyên nói những cảnh trong
Thần chú để lòe gạt người. Chỉ có người
đồng đạo, không vì
danh lợi kính khen, thì mới được nói sự đó.
Sự
thành tựu có 9 phẩm:
1)
Hạ phẩm có ba:
a)Nếu
hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả
tứ chúng, phàm có
sở cầu, cử ý tùng tâm, tất cả
thiên long thường đến
thăm hỏi; lại hay
hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị …
b)
Trung phẩm thành tựu: Có
công năng sai sử tất cả
thiên long,
bát bộ hay khai mở tất cả những
bảo tàng giấu kín, hoặc cần vào
tu la cung,
long cung liền được vào đó, đi, ở
tùy tâm.
c)
Thượng phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương
hư không bay đi qua lại.
Trên trời dưới đất đều được
tự tại.
Thế gian xuất thế gian chẳng việc gì mà không
đạt đến.
2)
Trung phẩm có ba:
a)
Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ thọ
vô số tuổi,
phước đức trí huệ ba cõi không thể so kịp.
b)
Trung phẩm thành tựu: Liền được
thần thông qua lại các
thế giới, làm
Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp.
c)
Thượng phẩm thành tựu:
Hiện chứng từ
Sơ địa Bồ Tát trở lên.
3)
Thượng phẩm có ba: Nếu
hạ phẩm thành tựu: Được đến đệ Ngũ địa
Bồ Tát trở lên.
b)
Trung phẩm thành tựu: Được đến đệ
Bát địa Bồ Tát trở lên.
c)
Thượng phẩm thành tựu:
Tam mật biến thành Tam thân. Chỉ
trong đời này được
chứng quả Vô thượng Bồ đề. Đây là 9 phẩm
thành tựu của người
trì chú. Nếu cầu thẳng đến
thành Phật chẳng cân cầu
thành tựu ba
hạ phẩm. Còn căn
cứ theo Thần Biến Sớ có năm phẩm
thành tựu:
1) Hiện đến
tín vị.
2) Đến
sơ Địa.
3) Đến tứ Địa.
4) Đến
bát Địa.
5) Đến
thành Phật.
Đó là thuộc về kinh này. Nay thông
y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghĩa là
Chuẩn Đề Chơn ngôn,
bao gồm tất cả các bộ
Thần chú.
Hỏi: Vì sao biết được
Chuẩn Đề gồm các bộ Thần chú?
Đáp: Nghĩa là trong một
tạng kinh,
Thần chú không ngoài 25 bộ.
1)
Phật bộ: Là các chú của Phật.
2)
Liên Hoa bộ: Là các chú của
Bồ Tát.
3)
Kim Cang bộ: là các chú của
Kim Cang thần.
4)
Bảo bộ: Là
các chủ của
chư Thiên.
5)
Yết ma bộ: Là chú của các vị
quỷ thần.
Năm bộ này mỗi bộ
gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay
Chuẩn Đề tổng nhiếp 25 bộ cho nên
Chuẩn Đề kinh nói: Chỉ có 1 bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn
triệu thỉnh 25 bộ
thiên ma … chuyên
tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến. Lại nói rằng:
Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết
Tổng trì tam muội giới. Kinh
đại Giáo vương có nói: Thất Cu Chi
Như Lai,
ba thân khen nói:
Chuẩn Đề Bồ Tát Chơn ngôn năng độ tất cả
hiền Thánh. Nếu người trì tụng, tất cả
sở cầu thảy được
thành tựu; không bao lâu chứng được
Chuẩn Đề đại quả, vì thế nên biết
Chuẩn Đề Chơn ngôn đứng hàng đầu trong
Mật tạng, là mẹ của
Chơn ngôn, là vua của các
Thần chú.
Chuẩn Đề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ
Chơn ngôn, hoặc dùng
hình tượng ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay
Chuẩn Đề Kính đàn tổng nhiếp tất cả các
đàn pháp này vậy. Cho nên
Chuẩn Đề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Đại Mạn Trà La:
Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Đàn. Cho nên biết Kính đàn rất là tối tôn
tối thượng hay diệt tất cả
ma chướng, năng sanh tất cả
công đức; mắt thấy, thân đeo mang đều được
lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Đàn ấy là tập vậy, là chỗ
vô biên Thánh Hiền tập hội. Như
ngọc Phương Châu hứng ánh
mặt trăng, liền có nước phát ra, đem kính (hội tụ) hứng
ánh mặt trời, liền phát sanh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại.
Hổ phách lượm hạt cải. Cái
công dụng thật khó so lường; huống chi là
Đàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít nghe thấy, mê mờ không hiểu
mật giáo, thấy dùng Kính đàn lại sanh hủy báng. Song
ba đời các
đức Như Lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn phát mà
thành Phật đạo, để
hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy
rộng rãi, hãy mau
sửa đổi sự
sai lầm đó.
Mật giáo Tâm yếu đến đây là hết.