2
CÚNG DƯỜNG VÀ TỊNH HÓA
Theo
truyền thống của
Phật pháp,
tu hành tâm thức là một tiến trình
tiệm tiến.
Chúng ta tịnh hóa chính mình bằng cách
thoát khỏi những khuyết điểm lớn nhất của
chúng ta trước tiên. Và
chúng ta phát triển những phẩm tính tốt bằng cách làm lớn mạnh một số ít
chúng ta đã có. Aryadeva,(16)
đệ tử chính của Nagarjuna, nói :
Trước tiên từ bỏ cái xấu,
Rồi
từ bỏ cái ta,
Cuối cùng từ bỏ tư tưởng.
Bậc trí là người
biết điều này.
Đây là
con đường mà một người trí
đảm đương. “Trước tiên
từ bỏ cái xấu.” Để
đạt được toàn trí rốt ráo và có thể làm
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh, cần có
một đời sống của
con người, nó là chỗ dựa
tối cao cho sự
tiến bộ đến
giác ngộ. Để có được
một đời sống làm người, nó là một
tái sanh may mắn,
cần phải tránh những hành động
bất thiện chúng sẽ dẫn đến sự sanh vào
ba cõi thấp của
sanh tử.
“Rồi
từ bỏ cái ta.” Đã bỏ những hành động
tiêu cực,
chúng ta phải bỏ những
nguyên nhân của chúng, là những thức tình
tiêu cực. Cái
đối trị duy nhất với những thứ này là
trí huệ thấu biết sự không thực của sự vật. Theo Nagarjuna và những con cháu
tâm linh của ngài, gốc rễ của những thức tình
tiêu cực là cái
vô minh tin rằng những
hiện tượng là thực. Cái này có nhiều dạng, thô và tế.
Tuy nhiên, để giải tan
ý niệm về
bản thể,
chúng ta trước tiên phải
từ bỏ niềm tin vào sự
hiện hữu của
cá nhân như một
thực thể, hay cái ta. Nhưng không đủ nếu chỉ có một cái hiểu
mơ hồ về
vấn đề này.
Cần phải tinh lọc sự thấu hiểu và
nội quán của
chúng ta, và phải
đạt được trí huệ vi tế ấy nhờ đó
ý niệm về cái ta bị trừ tiệt.
“Cuối cùng
từ bỏ tư tưởng.” Để đạt
giác ngộ,
chúng ta phải trừ bỏ không chỉ những thức tình
tiêu cực và những
nguyên nhân của chúng mà còn là những
tập khí thói quen làm che ám
hiểu biết. Một khi
chúng ta hủy diệt những che chướng này,
chúng ta đạt đến toàn giác.
Con đường dẫn đến cái ấy là
trí huệ thấu hiểu rằng sự vật không có
thực tại,
vô tự tánh.
Qua
thiền định chúng ta có thể
kiến lập vững chắc cái thấy
tánh Không. Cái thấy
phi thường này, thấm đẫm lòng bi và
kết hợp với
sự tích tập
công đức, hủy hoại toàn triệt những
màn che làm tối ám
hiểu biết.
Mục đích của
thiền định như vậy là để
tác động như cái
đối trị với những thức tình
tiêu cực của riêng chúng ta và những dấu vết của chúng và, một cách
gián tiếp, với những che chướng của tất cả những
chúng sanh khác. Một khi
mục tiêu này đã
hoàn thành, mọi
ý niệm, gồm cả
ý niệm về
tánh Không, phải được
từ bỏ.
“Bậc trí là người
biết điều này.” Câu này
ám chỉ những người biết những giai đoạn khác nhau của
con đường và những điểm
chính yếu của
con đường đó và họ
thực hành chúng trong thứ tự
đúng đắn hầu
đạt đến chứng ngộ viên mãn. Bởi thế rất quan trọng cần biết
thực hành thế nào cho
thích hợp và không
thỏa mãn với một
hiểu biết mơ hồ hay phần hạn về
con đường.
Bồ Tát Hạnh cho một sự
giải thích đầy đủ về
toàn bộ con đường. Xin hãy
nghiên cứu nó với
ý định đưa
vô cùng chúng sanh, họ đã từng là
cha mẹ của
chúng ta, đến
giác ngộ.(17)
Nếu
chúng ta muốn giúp đỡ
chúng sanh,
chúng ta phải có khả năng
giải thoát họ khỏi khổ và trừ bỏ
vô minh của họ. Điều này nghĩa là
bản thân chúng ta phải có
chứng ngộ chân thật, và cái này chỉ có thể
thành tựu nhờ
tinh tấn và sự
triển khai quán chiếu trong sáng và định tĩnh của
tâm thức. Đấy là làm thế nào phát triển
Bồ đề tâm tương đối và bắt đầu giúp đỡ
chúng sanh.
Trước khi thọ nhận
thệ nguyện của
Bồ đề tâm,
chúng ta nên nhớ trong tâm cái gì
chúng ta nhắm đến và thế nào
chúng ta cần tiến hành. Bấy giờ
chúng ta cần
đọc tụng Cầu Nguyện Bảy Ngành,(18) với
tư tưởng hướng đến
lý tưởng của
Bồ đề tâm. Cái thứ nhất của Bảy Ngành là
xưng tán :
1. Đến tất cả chư Phật, những bậc Đi Như Thế,
Đến Pháp
thiêng liêng,
vô nhiễm,
tối thượng và
hy hữu,
Và đến những người
thừa kế của Phật, một
đại dương của phẩm tính
tốt lành –
Để nắm giữ được tâm thái quý giá này, con xin
xưng tán và
cúng dường trọn vẹn.
Theo sau là ngành
cúng dường :
2. Con
cúng dường mỗi trái mỗi hoa,
Mỗi loại
tinh chất chữa lành,
Tất cả những đồ
quý báu thế gian cung cấp,
Và tất cả nước
thanh tịnh trong mát ;
3. Mỗi ngọn núi chứa đầy ngọc quý,
Tất cả những khu rừng vắng vẻ thơm hương ;
Những cây cối
cõi trời, nở hoa
rực rỡ,
Và cành nhánh
trĩu nặng trái cây ;
4. Mùi hương thơm của những
cõi trời và người.
Mọi hương trầm, cây
thành tựu điều ước, và cây ra quả ngọc,
Mọi
ngũ cốc lớn lên không cần người trồng,
Và mọi đồ vật lộng lẫy đáng để
cúng dường ;
5. Những hồ và ao trên núi
trang hoàng bằng
hoa sen,
Tiếng hát ngọt ngào của những con
thiên ngaTrông đáng yêu, và mọi sự vật
hoang dã và
tự do,
Suốt khắp những
biên giới vô bờ của bầu trời.
6. Con giữ chúng trong tâm, và làm một
cúng dường hoàn hảoĐến chư Phật
tối cao và những người
thừa kế của các ngài.
Ôi, những đấng
Đại Bi, xin nghĩ đến con với
lòng từ mẫn,
Những vật
thiêng liêng con dâng tặng, xin hãy
chấp nhận những sự
cúng dường này.
Ở đây
chúng ta cúng dường tất cả những thứ gì
chúng ta có cùng với tất cả những thứ khác trong
vũ trụ, những sự vật
sở hữu bởi một người nào và những thứ không thuộc về ai cả. Bấy giờ
chúng ta cúng dường thân thể của chính mình. Dầu
chúng ta có hay không một
thân thể hoàn hảo,
chúng ta cũng dâng cúng nó một cách
thành thật. Đây là một
phương pháp lìa bỏ khỏi những hành động xấu trên mức độ
vật chất.
Tiếp theo chúng ta cúng dường nước tắm hương, áo quần
cõi trời, hương thơm
tinh tế, hương trầm, những bài ca tán thán…
Tất cả những đồ
cúng dường này không chỉ là số lượng mà còn quan trọng là phẩm chất. Phẩm chất
liên quan đến những phẩm vật và cả
ý định theo đó chúng được
cúng dường. Những phẩm vật
cúng dường không phải là những vật có được một cách không
lương thiện.
Ý định của
chúng ta cũng không bị hư hỏng bởi tám mối bận
tâm thế gian : được hay mất, sướng hay khổ, khen hay chê, và vinh hay nhục.
Khi
chúng ta nói đến những đồ
cúng dường không thuộc về ai cả, như là mọi
phong cảnh đẹp trong
thế giới và trong tất cả những
vũ trụ khác chúng không có chủ nhân, thoạt nhìn chúng không có vẻ
liên hệ chút gì với
chúng ta. Có ích gì khi
cúng dường một cách
tâm tưởng cái không phải là của
chúng ta ? Nhưng Abhidharma có nói, “Mọi
hệ thống thế giới là
kết quả của nghiệp.”(19) Và theo
Đi vào Trung Đạo :
Vô số chúng sanh và
vũ trụĐược tạo ra bởi tâm.
Tất cả những
vũ trụ và
chúng sanh là
kết quả của nghiệp.
Vũ trụ mà
chúng ta đang ở và
tri giác về nó mà
chúng ta chia xẻ với nhau là những
kết quả của nghiệp chung.
Cũng thế, những nơi chốn mà
chúng ta sẽ
kinh nghiệm trong những
tái sanh tới sẽ là
hậu quả của nghiệp mà
chúng ta chia xẻ với những
chúng sanh khác sống ở đó. Những hành động của mỗi
chúng ta, người hay loài không phải người, đã góp phần vào
thế giới chúng ta đang sống. Tất cả
chúng ta đều có một
trách nhiệm chung đối với
thế giới của
chúng ta và
liên hệ với mỗi cái trong đó. Đây là
lý do tại sao
chúng ta có thể đem nó để
cúng dường.
Tiếp theo đến ngành
lễ kính.
24. Đến chư Phật
quá khứ,
hiện tại và khắp cả tương lai,
Đến
giáo pháp và
tăng đoàn thiêng liêngVới
thân thể số nhiều như bụi nhỏ
Khắp cả
pháp giới con xin
lễ lạy.
Lễ lạy là cái
đối trị với
kiêu căng và tự phụ. Trước khi những vị thầy bắt đầu giảng dạy, các ngài
lễ lạy cái ngai trên đó các ngài sẽ ngồi. Các ngài làm thế như một sự
bảo vệ với tự phụ. Ở đây
chúng ta phải
phân biệt giữa tự phụ và tự tin. Tự phụ là không đáng ưa, trong khi
chúng ta cần có tự tin và
sức mạnh bên trong đến từ nó.
Quy y đi trước ngành
sám hối.
26.
Cho đến khi
tinh túy của
giác ngộ đạt được,
Con
tiếp tục quy y nơi tất cả chư Phật ;
Cũng thế, con
quy y trong Pháp
Và
toàn thể chư
Bồ tát.
Để làm một
sám hối đích thực,
cần phải làm với bốn
năng lực. Cái thứ nhất là
năng lực của chỗ nương dựa, đó là
quy y Tam Bảo và phát sinh
Bồ đề tâm.
Năng lực thứ hai đòi hỏi sự
hối tiếc sâu xa và
thành thật với mọi hành động xấu
chúng ta đã làm cho tới hôm nay và những thức tình
tiêu cực chúng ta đã
phóng túng.
Năng lực thứ ba là
quyết định không bao giờ phạm lại những hành động xấu ấy nữa, dầu phải trả giá bằng cả cuộc sống
chúng ta. Thứ tư là
năng lực của những cái
đối trị, như là
lễ lạy,
trì chú, và những
thực hành tịnh hóa
đặc biệt.
Khi nghĩ đến những
hậu quả của những hành động xấu,
chúng ta nên làm cho
sự sám hối của
chúng ta sâu xa hơn và mạnh mẽ hơn bằng cách
suy nghĩ đến sự không
tránh khỏi của cái chết và đến sự không
chắc chắn khi nào nó xảy ra. Khi
chúng ta sắp chết, tương lai của
chúng ta sẽ được
định đoạt chỉ bởi những hành động tốt và xấu
chúng ta đã làm.
33. Thần chết thật phản phé không lường !
Dù điều
chúng ta phải làm đã được làm hay chưa,
Chúng ta không thể nán lại. Trong đau yếu hay khi khỏe mạnh,
Chúng ta không thể tin vào mạng sống
chớp nhoáng, lập lòe của
chúng ta.
34.
Chúng ta phải đi khỏi đời này bỏ lại mọi thứ,
Nhưng tôi, do không có
ý thức và
thận trọng,
Vì bạn cũng như vì thù,
Đã tự đem lại biết bao điều xấu ác.
35. Những
kẻ thù của tôi
cuối cùng cũng không còn,
Những người bạn của tôi và chính cả tôi
Rồi sẽ ngừng
hiện hữu.
Và mọi thứ như thế đều có
số mệnh là hủy diệt.
38. “Chính tôi sẽ
thình lình ra đi,”
Những
tư tưởng như thế luôn luôn cách xa tôi,
Và bởi thế, với ghét, tham và
vô minh,
Tôi là
nguyên nhân của nhiều lầm lỗi.
Nếu
chúng ta nghĩ về cái chết theo cách này,
chúng ta sẽ
tự nhiên hối tiếc những hành động
tiêu cực trong
quá khứ của
chúng ta và muốn
sám hối chúng
tức thời,
cảm thấy khó chịu cho đến khi nào
hoàn toàn làm sạch được chúng. Chính với một
cảm giác khẩn cấp như vậy trong
tâm thức mà Shantideva nói :
47. Như thế từ ngày hôm nay trở đi, con xin
quy yVới chư Phật, những bậc
Bảo Vệ của
chúng sanh lưu lạc,
Những bậc làm việc cho điều tốt của mọi loài đang sống,
Những bậc
đại lực giải tan mọi
sợ hãi cho
chúng sanh.
Đức Phật ban cho chúng ta sự
quy y đã chiến thắng bốn thứ ma :
năm ấm, những thức tình
tiêu cực, cái chết và sự
kiêu mạn.(20)
Tuy nhiên chúng ta không chắc nương dựa được vào sự
bảo vệ của ngài
nếu không có
đại bi của ngài. Từ lúc ngài
phát Bồ đề tâm đến khi ngài
đạt đến giác ngộ,
đức Phật không bao giờ ngừng làm việc vì sự
lợi lạc của những người khác,
thuận theo những khả năng
cá nhân và những nguyện vọng của họ. Vì
lý do này ngài được biết như là bậc
Bảo Vệ của
Chúng Sanh. Chính là nơi
đức Phật đại lực,
đại bi này, bậc có thể giải tan mọi
sợ hãi, mà từ nay
chúng ta nương dựa.
Chúng ta cũng
quy y những lời dạy của ngài và
chúng hội Bồ tát thông tỏ những lời dạy này.
Về sự
quy y Phật, Dignaga(21) mở đầu
tác phẩm Khái Lược Luận Lý của ngài như sau :
Ngài đã
trở thành đáng tin cậy và biết làm sao để giúp đỡ
chúng sanh :
Con
đảnh lễ Phật, bậc
Thiện Thệ, bậc
Bảo Vệ.
Chúng ta hiểu
đáng tin cậy là người
thoát khỏi khổ đau,
sợ hãi và biết làm sao
giải thoát cho những người khác. Vị ấy giúp đỡ tất cả
chúng sanh một cách
vô tư, không
thiên vị và với
đại bi,
bảo vệ tất cả khi cần.
Tuy nhiên, ngài không
xuất hiện một cách
tự nhiên và không có
nguyên nhân nào, như một
đấng sáng tạo vĩnh cữu. Ngài không phải từ
vô thủy đã là
đáng tin cậy. Ngài đã
trở thành một chỗ nương dựa
đáng tin cậy như là một kết quả của những
nguyên nhân và
điều kiện xác định, chủ yếu là mong muốn của ngài giúp đỡ những người khác. Khi
bản thân đức Phật còn là một
chúng sanh bình thường, muốn được
hạnh phúc và không khổ đau, ngài hiểu rằng những
cảm giác này được
chia xẻ bởi
mọi người khác, và ngài đã
xúc động bởi lòng
đại bi muốn
giải thoát họ khỏi lo buồn và đem cho họ
hạnh phúc.
Nhưng để giúp đỡ những người khác, chỉ muốn làm thế thì không đủ. Thật vậy, những
tư tưởng vị tha có thể
trở thành một
ám ảnh và làm tăng
lo âu của
chúng ta. Khi những
tư tưởng tốt đẹp và
tích cực được
kết hợp với
trí huệ,
chúng ta biết làm sao để giúp đỡ
chúng sanh có
hiệu quả và có thể thực sự làm thế.
Đức Phật, tràn ngập bởi
tâm bi, thấy
chúng sanh khổ đau như thế nào, và biết rằng
nguyên nhân nỗi khổ của họ là sự
hỗn loạn không
kiểm soát của
tâm thức họ, ngài đã biết làm sao giúp đỡ họ. Ngài đã biết rằng
tâm thức họ không được
kiểm soát,
rốt ráo chỉ vì
vô minh, sự
tin tưởng lầm lẫn vào sự có thực của sự vật. Ngài cũng đã biết làm sao
giải trừ vô minh này bằng
trí huệ về
tánh Không. Vì một
đức Phật là người biết như thế nào giúp đỡ
chúng sanh bằng cách chỉ cho họ điều họ cần làm và điều họ cần tránh, và trên hết, là người phát giác cho họ
trí huệ chứng ngộ tánh Không.
Vì
mục đích này Phật
Thích Ca Mâu Ni dạy
con đường có cấp độ là Bốn
Chân Lý Cao Cả với mười sáu phần phụ của chúng.(22)
Trước tiên ngài nhóm họp quanh mình những người chưa bắt đầu
con đường và làm cho
tâm thức họ
trưởng thành bằng cách phát hiện cho họ
vô thường và khổ, xoay
tư tưởng họ khỏi
sanh tử. Rồi ngài
giải thoát cho những người đã
trưởng thành như vậy bằng cách dạy họ sự không thực của những sự vật, làm cho sự thấu hiểu
tánh Không sanh khởi nơi
tâm thức họ và dẫn dắt họ đến
giải thoát tối hậu.
Chúng ta gọi Phật là
Đạo sư của
chúng ta bởi vì ngài chỉ cho
chúng ta cái gì cần tránh và cái gì cần nắm lấy.
Bản thân ngài đã khai triển
trí huệ tối thượng thấu hiểu
tánh Không đến mức độ mọi
tri giác nhị nguyên đã biến mất, và sự
chứng ngộ của ngài là
viên mãn. Trên nền tảng
kinh nghiệm của chính ngài, ngài có thể xua tan mọi khổ đau cho những người khác và
ban cho họ chỗ nương dựa.
Tuy nhiên, cũng như
trong đời thường
chúng ta không tin người nào
cho đến khi
chúng ta đã kiểm nghiệm điều người ấy nói là
đáng tin cậy và
chân thật, theo cách ấy,
chúng ta cần khảo sát những lời dạy của Phật
cẩn thận trước khi
chấp nhận. Nói chung, những lời dạy này có hai
phạm trù : những cái chỉ cho làm thế nào
đạt được hạnh phúc tạm thời trong các
tái sanh cao và những cái dạy cho
con đường đến
tự do tối hậu của
Phật tánh.
Kinh Viếng Thăm Lankara nói đến năm thừa : thừa của
con người và
chư thiên ; thừa của Brahma (
Phạm thiên) ; thừa của
Thanh Văn ; thừa của
Độc Giác Phật ; và thừa của
Bồ tát.
Hai thừa đầu là chung cho cả
Phật giáo và không phải
Phật giáo.
Ba thừa sau là
đặc biệt của
con đường Phật giáo với những lời dạy của chúng về
tự do tối hậu và
tánh Không, nó là cái
chúng ta thường quy chiếu vào khi
chúng ta nói đến
giáo lý của Phật.
Khi
chúng ta khảo sát một lời dạy
chúng ta cần phân tích những điểm chính. Nếu chúng đứng vững trước sự phân tích và
chứng tỏ là đúng, bấy giờ những
mâu thuẫn bề ngoài trong những
chi tiết nhỏ là quan trọng thứ yếu. Như có nói trong Khảo Luận Về Luận lý :
Nếu điểm chính là
đáng tin cậy,
Cái còn lại là thứ yếu.
Và chính
đức Phật nói :
Hỡi
chư tăng, cũng như khảo sát vàng để biết phẩm chất của nó,
Các ông cần đem lời ta mà khảo nghiệm.
Một người trí
không chấp nhận chúng chỉ vì
kính trọng.
Chớ nhận lấy lời Phật
y theo chữ nghĩa do sự
tôn kính. Hãy khảo sát chúng và
kính trọng chúng chỉ khi các bạn đã thấy
lý do chắc chắn để làm thế.
Dĩ nhiên,
niềm tin thì rất quan trọng cho sự
thực hành tâm linh, nhưng sự sùng mộ
mù quáng vào
đức Phật thì không đủ.
Chúng ta phải có những
lý do vững chắc cho sự
kính trọng những lời dạy của ngài. Trong
Phật giáo, và
đặc biệt trong
giáo lý Đại thừa, sự thẩm xét có
lý luận có tầm quan trọng lớn lao.
Những khảo luận về luận
lý Phật giáo nói về quả và hai
phương diện của nó :
phương diện biểu lộ và
phương diện che đậy. Đối với những người
bình thường chúng ta, quả của
Phật tánh vẫn nằm trong tối. Nếu
chúng ta muốn thấu hiểu nó mà không
lạc đường,
chúng ta phải dùng
con đường hợp
nhất phương tiện và
trí huệ, vì nó đặt nền trên những nguyên lý
vững vàng và phản ánh
bản tánh thực sự của sự vật.
Để
thực hành đúng, dầu
chúng ta theo
con đường nào,
chúng ta phải không bao giờ đi ngược lại
lẽ thường. Trong
Phật giáo có nhiều lời dạy khác nhau cho
chúng sanh với những khuynh hướng và cấp độ lãnh nhận và
thông minh khác nhau. Bởi thế tại sao có những thừa khác nhau của
Thanh Văn,
Độc Giác và
Bồ tát. Cũng vì
lý do đó, bốn trường phái
triết học – Vaibhashika, Sautrantika, Chittamatra (
Duy Thức) và Madhyamika (
Trung Đạo) – và nhiều nhánh của chúng đã
xuất hiện để
đáp ứng với những khả năng
trí lực khác nhau.