10
HỒI HƯỚNGChương cuối này của
Bồ Tát Hạnh là sự
hồi hướng công đức cho
lợi lạc của tất cả
chúng sanh.
1. Bằng tất cả
đức hạnh nào tôi đã
tích lũy ở đây
Từ việc
biên soạn bài ca này,
Sự hướng dẫn này để
đi vào Bồ tát đạoNguyện cho
mọi người bắt đầu
bước lên con đường đi đến
Phật tánh.
2. Nguyện cho những
chúng sanh ở bất cứ nơi đâu
Đang bị
hành hạ bởi những khổ đau của tâm và thân,
Nhờ
công đức này đều có được
Niềm vui và
hạnh phúc vô biên.
3. Ngày nào họ còn
lây lất trong
sanh tử,
Nguyện rằng niềm vui của họ không biết đến sự
suy viVà trong dòng
tương tục không đứt đoạn
Nguyện họ nếm được lạc phúc không gì vượt hơn.
Trong ngày cuối này tôi muốn cám ơn tất cả
cho đến bây giờ đã
tham dự những lời dạy này. Tôi đã muốn đưa ra một bình giảng
chi tiết hơn về chương chín, chương
trí huệ, nhưng đã không đủ
thời gian.
Tuy nhiên, việc ấy đem lại một
lý do chánh đáng để
trở lại nước Pháp, và tôi
quyết định trở lại để
chúng ta có thể dùng một
tuần lễ chỉ
nghiên cứu về chương chín.(44)
Tất cả các bạn ở đây, những người bạn
tâm linh với một mối
quan tâm đích thực những lời dạy của Phật, xin hãy
nghiên cứu và
thực hành càng nhiều càng tốt.
Kiến thức và
hiểu biết căn bản các bạn đã có về
chủ đề tánh Không sẽ làm cho sự
thực hành của các bạn dễ dàng hơn nhiều. Sự
hiểu biết về
tánh Không này sẽ còn mạnh mẽ hơn nếu nó được đặt nền trên sự
thực hành về
vị tha. Vì Shantideva viết
Bồ Tát Hạnh ban đầu như một cẩm nang cho những
hành giả hơn là một khảo luận
lý thuyết,
chúng ta nên làm hết mức để
áp dụng những lời dạy về
tính không ích kỷ này. Sống cho những người khác là quan trọng
bao la đối với tất cả
chúng ta, bất kể
niềm tin tôn giáo nào của
chúng ta.
Tất cả
chúng ta ở đây trên hành tinh này, quả thế, như những người du lịch. Không ai trong
chúng ta có thể sống ở đây
mãi mãi.
Chúng ta sống lâu nhất cũng chỉ một trăm năm. Thế nên khi
chúng ta còn ở đây
chúng ta nên
cố gắng có một
lòng tốt và làm cái gì
tích cực và
ích lợi cho
cuộc đời chúng ta. Hoặc
chúng ta sống chỉ vài năm hay cả
một thế kỷ, thật sự đáng tiếc hay đáng buồn nếu
chúng ta tiêu phí
thời gian đó để làm nặng nề thêm những
vấn đề chúng
tác hại đến những người khác,
thú vật và môi trường. Điều quan trọng nhất là làm một người tốt.
Tôi đã
nhận thấy vài người bạn cũ trong các bạn ở đây, những vị
tăng ni người
Tây phương đã
thực hành và giữ nguyện
xuất gia hơn mười lăm năm, có vị cả hai mươi năm. Các bạn gần như là những những
trưởng lão của
Tăng già ! Tôi đã
nhận thấy từ phong thái và cái nhìn của các bạn rằng khi các bạn nghe những lời dạy các bạn
hoàn toàn tập trung vào
chủ đề. Điều này rất đáng quý, và tôi
hy vọng các bạn sẽ
tiếp tục đến mức các bạn
hoàn thành Bồ đề tâm đích thực và sự
chứng ngộ tánh Không. Điều này là có thể được qua sự
chuyển hóa bên trong. Một ngày nào đó các bạn sẽ thực sự
trở thành những
Bồ tát. Dầu
chướng ngại nào nữa, dầu lâu xa bao nhiêu, chớ có nản chí. Và trong lúc này, tôi muốn
cảm ơn các bạn rất nhiều.
Ở Dordogne đây có những
trung tâm Phật giáo của phái Nyingma và Kagyu, và ở các
nơi khác ở Pháp, có những
trung tâm Gelug và Sakya. Tôi rất vui khi thấy những
truyền thống khác nhau này
giữ gìn một
tinh thần mạnh mẽ
hòa hợp với nhau, không
thành kiến giáo phái. Xin hãy
tiếp tục trau dồi
tinh thần đó.
55. Và bao giờ
hư không vẫn còn
tồn tạiBao giờ vẫn còn dẫu một
chúng sanhNguyện rằng tôi còn
tiếp tục ở lại như thế
Để
giải trừ khổ đau cho tất cả
chúng sanh.
56. Nguyện những
đau đớn và muộn phiền của tất cả
chúng sanh lạc lõng
Đều
chín muồi đầy đủ nơi tôi.
Và nguyện cho
cộng đồng đức hạnh của chư
Bồ tátMãi mãi đem lại
hạnh phúc cho
chúng sanh.
57. Nguyện cho
Giáo Pháp, phương thuốc
duy nhất giải trừ đau khổ,
Ngọn nguồn của tất cả lạc phúc an vui,
Được
nuôi dưỡng,
hộ trì với lòng
tôn trọngVà
trường tồn suốt cả
thời gian bao la !
Nguyện
Bồ đề tâm quý báu nảy sinh
Ở những ai nó chưa được phát sanh.
Và nơi nào nó đã sanh ra, chớ để dừng tắt,
Mà ngày càng lớn rộng khắp nơi nơi.
CHÚ THÍCH
1. Kunu Rinpoche (1885-1977), ngài vốn đến từ
Ấn Độ, học ở
Tây Tạng và
trở thành một trong những vị thầy của Dalai Lama.
2. Patrul Rinpoche (1808-1887) là một vị thầy
nổi bật, gốc từ xứ Kham miền đông
Tây Tạng. Ngài được
xác nhận là một
hóa thân của Shantideva và của Chenrezi,
đức Phật của lòng
Đại Bi. Có lẽ ngài được biết nhiều do cuốn sách của ngài Kunzang lame shelung (được dịch thành Những Lời của vị Thầy
Hoàn Hảo của tôi, sắp xuất bản năm 1994 do ISLT / Harper San Francisco).
3. Shantideva là một
đạo sư Phật giáo thế kỷ thứ tám ở
đại học tu viện Nalanda ở
Ấn Độ. Chính những
nhà sư của Nalanda mà ngài lần đầu dạy cho
Bồ Tát Hạnh.
4.
Tâm Kinh là một
hình thức ngắn gọn nhất của những
Kinh Bát Nhã ba la mật và chứa đựng
tinh túy của những
giáo lý về
tánh Không.
Xưng tán Văn Thù là một
cầu nguyện đến vị Phật của
Trí Huệ, thường được
đọc tụng trước khi
nghiên cứu một bản văn
Phật giáo. Một
mạn đà la, một
biểu tượng tượng trưng cho
vũ trụ, được dâng cúng cho vị thầy khi
cầu thỉnh ban cho những lời dạy.
5. Bánh Xe Pháp là
biểu tượng của sự giảng dạy của
đức Phật. Quay Bánh Xe Pháp
đồng nghĩa với trình bày những lời dạy. Sự
giải thích xa hơn được đưa ra về sau trong chương này.
6. Luật (Vinaya) là phần những lời dạy của
đức Phật đề cập đến hạnh kiểm
đạo đức,
đặc biệt là những
lời nguyện và điều giới cho
tăng ni xuất gia và
cư sĩ Phật giáo.
7. Một dòng phái là một dòng những vị thầy
Phật giáo trao truyền lại cho những người
thừa kế tâm linh của các ngài những lời dạy mà chính các ngài đã nhận được và
thừa kế từ bổn sư của các ngài. Một dòng phái có thể quan hệ với một bản văn
đặc biệt hay một nhóm các
giáo lý. Hầu hết các dòng phái có thể
lần theo dấu vết ngược
trở lại cho đến chính
đức Phật. Dòng phái của Dalai Lama về
Bồ tát hạnh đi từ Shantideva qua một dòng
liên tục các
đạo sư Phật giáo đến Patrul Rinpoche, rồi đến Khenpo Shenga (1871-1927), Kunu Rinpoche, và chính Dalai Lama.
8. Minyak Kunzang Sonam là một
học giả vĩ đại phái Gelug học với Patrul Rinpoche gần hai mươi năm. Bình giảng của ngài về
Bồ Tát Hạnh là bộ
chi tiết nhất có thể có được.
9. Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) là người chịu
trách nhiệm cho sự
phục hưng của
Phật giáo ở
Tây Tạng trong thế kỷ trước. Vị đại lama này là một trong những nhà
sáng lập của
phong trào Rime, hay
phong trào không
bộ phái.
10. Trong
Đại thừa Phật giáo,
từ không có ngã,
vô ngã (
Tây Tạng : bdag med ; Skt : nairatmya)
áp dụng không chỉ cho cái tôi
cá thể mà còn cho tất cả mọi
hiện tượng, ngã trong bối cảnh này nghĩa là
thực thể thực sự hay
bản chất. Một
Bồ tát đã
chứng ngộ vô ngã nơi mình như một
cá nhân và nơi tất cả mọi
hiện tượng khác.
11. Cấp độ thứ nhất : xem
Thuật ngữ, Mười cấp độ
12. Mười
ba la mật gồm
sáu ba la mật (xem
Thuật ngữ) cùng với
phương tiện thiện xảo,
sức mạnh, nguyện vọng và
trí huệ bổn nguyên.
13. Nagarjuna (
Long Thọ, thế kỷ thứ nhất hay thứ hai) là một
đạo sư Ấn Độ chịu
trách nhiệm cho sự
truyền bá những
giáo lý bát nhã ba la mật. Những lời dạy của ngài về
tánh Không hình thành nền tảng cho giáo thuyết Madhyamika, hay
Trung Đạo.
14. Xem
Thuật ngữ, Mười tám
đặc tính của một
cuộc đời làm người
quý báu.
15. Gendun Drupa (1391-1474) là vị đầu tiên trong dòng những
tái sanh sau đó (kể từ
cuộc đời của vị thứ ba) được nhận
danh hiệu Dalai Lama. Như thế ngài là Dalai Lama “thứ nhất.”
16. Aryadeva (thế kỷ thứ hai)
tiếp tục công trình của Nagar-juna và
giải thích thêm những lời dạy của
Trung Đạo.
17. Xem chương tám, trang 139, về một
phương pháp truyền thống khai triển lòng bi và
quan tâm đến những người khác bằng cách nhìn họ như
cha mẹ của mình.
18.
Cầu Nguyện Bảy Ngành là một
thực hành để tịnh hóa chính mình và
tích lũy công đức qua
lễ kính,
cúng dường,
sám hối, vui theo
công đức của những người khác,
thỉnh cầu những lời dạy,
cầu xin chư Phật và những vị thầy khác ở lại trong
thế giới này, và
hồi hướng công đức mình đến
giác ngộ của tất cả
chúng sanh.
19. Abhidharma là phần của những
lời Phật dạy giải thích siêu hình học Phật giáo và những cấp độ trên
con đường đến
Phật tánh.
20. Danh từ Ma thường được dùng trong
Phật giáo để chỉ mọi
chướng ngại cho
tiến bộ tâm linh. Những
chướng ngại như vậy là những
biểu lộ của
tâm thức và nghiệp của
chúng ta. Chúng không nên được nghĩ như là những
chúng sanh thù ngịch
đe dọa chúng ta từ bên ngoài.
21. Dignaga là một
đạo sư Ấn Độ thế kỷ thứ năm hay thứ sáu.
22. Mười sáu phụ phân của Bốn
Chân Lý Cao Cả là (1)
chân lý về khổ : khổ,
vô thường,
tánh Không, và
vô tự tánh ; (2)
chân lý về nguồn gốc của khổ : nguồn gốc của khổ, sự sanh ra, căn cứ thuộc về
nguyên nhân, và những
điều kiện ; (3)
chân lý của sự ngừng dứt : ngừng dứt, làm cho
bình an,
tuyệt hảo, và
từ bỏ ; (4)
chân lý của
con đường :
con đường,
hiểu biết,
thành tựu, và
giải thoát.
23. Tám
đệ tử thân cận là tám vị
Bồ tát : Manjushri, Avalo-kiteshvara, Vajrapani, Akashagarbha, Kshitigarbha, Sarvanivaranavishkambhin, Maitreya, và Samanta-bhadra.
24. Sáu món trang sức là : Nagarjuna, Aryadeva, Asanga, Vasubandhu, Dignaga, và Dharmakirti.
25. Hai vị thầy
tối cao là : Shantideva và Chandragomin.
26. Một ví dụ cho điều này là
nói một lời dối trá nếu làm thế để cứu đời của ai đó.
27.
Ba độc là tham, sân và si (
vô minh).
28.
Sắc thân là
thân hình thể của một vị Phật, trong nó ngài
xuất hiện cho
chúng sanh. Nó
bao gồm báo thân và
hóa thân (xem
Thuật ngữ).
29. Ví dụ,
công đức có được qua
thiền định về
chư thiên (deva) trong cõi
vô sắc giới không thể hủy hoại được bởi
giận dữ khởi lên trong
trạng thái đang làm người.
30. Một
Tịnh Độ là
một thế giới
biểu lộ bởi một vị Phật hay
Bồ tát phù hợp với
công đức của những
chúng sanh. Những
chúng sanh tái sanh trong một
Tịnh Độ có thể
tiến bộ nhanh chóng trên đường đến
Phật tánh.
31. Những
chi tiết về
học thuyết Samkhya có thể
tìm thấy trong T. R. V. Murti, Triết Lý
Trung Đạo của
Phật giáo (London : Allen và Unwin, 1960).
32.
Thoát khỏi một
sanh tử được
giả định là thường còn là một
mâu thuẫn ngay trong
ngôn ngữ.
33. Cõi
vô sở hữu xứ là một trong bốn
thế giới vô sắc, hay cõi
vô sắc, ở chót đỉnh của
vòng sanh tử, được
kinh nghiệm qua
bốn thiền vô sắc mà những
hành giả của
con đường Phạm Thiên (Brahma) được xem là
đạt được. Những
chúng sanh trong những cõi này đã tạm thời nén lặng những thức tình
tiêu cực thô, nhưng
tâm thức của họ còn thấm khắp bởi
vô minh và họ thiếu bất cứ
chứng ngộ nào về
vô ngã. Vì
lý do này, họ không thể
thoát khỏi sanh tử và
tiếp tục sanh lại trong các cõi thấp hơn. Xem
Thuật ngữ,
Ba cõi.
34. Cái thấy,
tri kiến của phái Madhyamika là cái thấy của
Trung Đạo đề xướng bởi Nagarjuna. Nó được
bàn luận khá đầy đủ trong chương 9 của
Bồ Tát Hạnh.
35. Những cái này là bốn cách
tri giác một đối tượng. Xem Anne C. Klein,
Hiểu Biết và
Giải Thoát (Ithaca, N.Y. Snow Lion, 1986), trang 108-110.
36. Năm khuyết điểm ngắt phá
định tâm là lười biếng, quên những lời dạy về
thiền định,
hôn trầm và
phóng dật, thiếu
cố gắng và quá
nỗ lực. Xem Mahamudra, Lobsang P. Lhalungpa dịch (Boston : Shambhala, 1986), trang 21.
37. Ba cái khổ là : (1) Khổ thêm vào khổ là cái mọi
chúng sanh có thể
tri giác như không ưa thích và
đau đớn ; trong
sanh tử, những cái khổ theo nhau trong một
tiếp nối không dứt. Ví dụ, khi người ta đã bị bệnh, người ta không chống nổi cơn bệnh khác, hay sự mất mát tất cả
tài sản theo sau việc căn nhà bị cháy. (2) Khổ của
biến dịch ám chỉ sự kiện mọi
hạnh phúc và
vui thích trong
sanh tử đều phải bị
biến đổi, sớm hay muộn, thành một
trạng thái khổ. Ví dụ, một sự
vui thích về
vị giác được
kinh nghiệm trong một
bữa ăn ngon có thể mở đường cho một khó chịu về
tiêu hóa. (3) Khổ
thấm nhuần khắp được định nghĩa như là cái khổ do từ
sự kiện đơn thuần là có
năm uẩn, hay năm hợp thể. Khi nào người ta còn mang lấy sự
hiện hữu bị
điều kiện hóa trong
sanh tử, thì còn có khổ. Hầu hết những
chúng sanh bình thường không thể
tri giác được cái khổ này một cách
rõ ràng, cũng như người ta khó có thể
cảm thấy một sợi tóc trong lòng bàn tay. Nhưng cũng như một sợi tóc trong con mắt gây ra khó chịu và
đau đớn dữ dội, những
chúng sanh đã
chứng ngộ thì
kinh nghiệm cái khổ
thấm nhuần khắp này rất sắc nét.
Giải thích thêm được
tìm thấy trong Đồ Trang Sức bằng Ngọc của
Giải Thoát của Gampopa dịch bởi H.V. Guenther (Boston : Shambhala, 1986) và trong Những Lời của vị Thầy
Hoàn Hảo của tôi của Patrul Rinpoche (xem chú thích số 2).
38. Năm
con đường và mười cấp bậc : xem
Thuật ngữ.
39. Năm khoa học
chính yếu là
ngôn ngữ, luận lý, thủ công, y khoa và
triết học.
40. Xem
Thuật ngữ, Mười Hai móc xích tương thuộc.
41.
A la hán nghĩa là “người đã hủy diệt những
kẻ thù.” Những
kẻ thù ở đây là những tình thức
tiêu cực, chúng bị
tiêu diệt qua sự
thực hành những
giáo lý của thừa
căn bản, hay
Thanh Văn thừa. Những vị
A la hán hoàn thành giải thoát khỏi những khổ đau của
sanh tử, nhưng vì sự
chứng ngộ về
tánh Không của các vị chưa
hoàn hảo, các vị không thể
từ bỏ những tấm màn
vi tế của sự bám chấp vào
thực tại của
hiện tượng, chúng là những
chướng ngại đối với
toàn giác. Các ngài còn phải
đi vào Đại thừa để tiến đến
mục đích tối thượng là
Phật tánh.
42. Điều này bởi vì
tâm thức phải được
nâng đỡ và làm mạnh bằng kho
công đức khổng lồ để có thể
chứng ngộ tánh Không.
43. Bởi vì
Thanh Văn và
Độc Giác Phật tìm kiếm giải thoát chỉ cho riêng các ngài, các ngài được
xem như gia tộc kém hơn những người thuộc
gia tộc Bồ tát,
cố gắng cho
giác ngộ của tất cả
chúng sanh.
44. Thật vậy, ngài đã dạy chương thứ chín của
Bồ Tát Hạnh cho một
thính chúng rộng rãi vào tháng tám năm 1993 ở Viện Vajrayogini, Lavaur. Một bản dịch của lời bình giải này đang được sửa soạn. Ngài đã đặt lời dạy của ngài căn cứ trên hai bình giải
chi tiết của Khenpo Kun-zang Palden và Minyak Kunzang Sonam (xem chú thích số 8). Hai bình giải này đã được dịch, theo
ý muốn đã được ngài nói ra, dưới nhan đề
Trí Huệ : Hai Bình Giải
Phật giáo, do
hội Dịch Thuật Padmakara (Peyzac-le-Moustier, Pháp : Padmakara, 1993).
(Đối với
độc giả tiếng Việt,
chúng ta có thể xem thêm
chủ đề Trí huệ thấu hiểu
tánh Không này do đức Dalai Lama
giảng giải trong những
tác phẩm do
Thiện Tri Thức đã xuất
bản như Trí Huệ và
Đại Bi, Mật Thừa Tây Tạng…)
Trí Huệ và
Đại Bi, Đức
Đạt Lai Lạt Ma, Việt dịch:
Thiện Tri ThứcMật Thừa
Tây Tạng, Tsongkapa, Đức Dalai Lama và Jeffrey Hopkins
THUẬT NGỮBa cõi, hay
ba thế giới : Trong một số văn cảnh,
sanh tử được chia làm
ba cõi hay
ba thế giới – cõi dục, cõi sắc và cõi
vô sắc. Cõi sắc và cõi
vô sắc chỉ
hiện hữu đối với một số
chúng sanh chư thiên, họ đã
đạt đến những
trạng thái này nhờ bốn định
sắc giới và bốn
định vô sắc giới.
Ba sự
tu hành : Giới, định và huệ.
Báo thân : Thân của sự
thọ hưởng, hay những hình thể vượt khỏi
loài người trong đó chư Phật
biểu lộ chính các ngài.
Báo thân chỉ có thể trực tiếp
tri giác được đối với những
chúng sanh chứng ngộ cao.
Bồ đề tâm : Tâm của
giác ngộ. Đây là một từ
then chốt trong
Đại thừa. Ở mức độ
tương đối, nó là ước muốn
đạt được Phật tánh vì
lợi lạc của tất cả
chúng sanh và sự
thực hành cần thiết để làm điều ấy. Ở mức độ
tuyệt đối, nó là
sự quán thấy trực tiếp vào
bản tánh tối hậu của cái ngã và những
hiện tượng.
Bồ tát : Một người
thực hành trên
con đường đến
Phật tánh,
tu hành lòng bi và
sáu ba la mật, người đã
thệ nguyện đạt đến giác ngộ vì tất cả
chúng sanh. Dịch ngữ
Tây Tạng của từ này có
ý nghĩa “anh hùng của
tâm giác ngộ.”
Bốn
Chân Lý Cao Cả : (1) Khổ :
bản chất của
hiện hữu trong
sanh tử là khổ. (2) Tập (
nguyên nhân) :
nguyên nhân của khổ là những thức tình
tiêu cực hoặc che ám. (3) Diệt : sự dừng dứt của khổ là
Phật tánh. (4) Đạo :
con đường là
phương cách để
đạt được giải thoát.
Đại thừa (Mahayana) : gồm cả hai
Kinh thừa (Sutrayana) và
Mật Chú thừa hay Mật thừa (Mantrayana).
Đi nhiễu : Một
thực hành sùng mộ có
công đức cao, cốt ở
đi theo chiều kim đồng hồ, một cách tập trung và
tỉnh giác, quanh một sự vật
thiêng liêng, như một ngôi chùa, một tháp, núi thiêng, hay căn nhà – và ngay cả
con người – của một
đạo sư tâm linh.
Định tâm (Skt : samatha) : Một
trạng thái trong
thiền định trong đó
tâm thức tập trung
nhất niệm và không
cố gắng vào đối tượng
thiền định.
Độc Giác Phật hay
Bích Chi Phật : Người
đạt đến giác ngộ một mình, không có sự giúp đỡ của một
đạo sư và không trao truyền những lời dạy cho người khác.
Gelug : Một trong bốn
truyền thống chính của
Phật giáo Tây Tạng,
thành lập bởi Tsongkapa (1357-1419).
Hóa thân : Thân
biểu lộ,
phương diện của
đại bi và
phương tiện, nhờ đó một vị Phật có thể được thấy biết bởi những
chúng sanh chưa
giác ngộ. Bởi thế, nó là
phương tiện nhờ nó ngài có thể
liên lạc với họ và cứu giúp họ.
Kadam : Dòng phái của
Phật giáo Tây Tạng thoát thai từ những lời dạy của Atisha (982-1054).
Giáo lý của nó
nhấn mạnh vào kỷ luật
tu viện,
nghiên cứu, và
thực hành lòng bi.
Ảnh hưởng của
truyền thống Kadam thì thấm khắp trong mọi trường phái
Phật giáo Tây Tạng, dù nó
đặc biệt hòa hợp với
giáo lý Gelug, cái này thật ra đôi khi được đề cập đến như là phái Kadam Mới.
Kagyu : Một trong bốn
truyền thống chính của
Phật giáo Tây Tạng,
thành lập bởi Marpa Nhà Dịch giả (1012-1095), thầy của Milarepa.
Kalpa : Kiếp, một chu kỳ dài của
thời gian như được
quan niệm trong
vũ trụ luận truyền thống của
Ấn Độ. Một
đại kiếp, nó tương đương với chu kỳ
thành lập, kéo dài, suy hoại và
vắng mặt của một
hệ thống vũ trụ, gồm tám mươi
tiểu kiếp. Một kiếp
trung gian gồm hai
tiểu kiếp chung nhau, trong cái trước
thọ mạng của
đời sống tăng lên, trong cái sau sự
thọ mạng của
đời sống giảm đi.
Karma (nghiệp) : Từ Sanskrit nghĩa là “hành động”, được hiểu như
luật nhân quả. Theo
giáo lý của Phật, mọi hành động, từ
tư tưởng,
lời nói hay
hành vi, đều là những
hạt giống cuối cùng sẽ sinh ra quả trong trải nghiệm, hoặc đời này hoặc những đời tới. Một hành động
tích cực hay
đức hạnh sẽ kết thành
hạnh phúc, và sự
tội lỗi hay hành động
tiêu cực là
nguyên nhân của khổ về sau.
Kim Cương thừa : Xem Mật thừa.
Kinh (Sutra) : Những lời dạy
đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban cho, được ghi nhớ bởi những
đệ tử của ngài, và sau đó ghi lại.
Kinh thừa (Sutrayana) :
Đại thừa có hai bộ phận :
Kinh thừa là những lời dạy căn cứ trên những kinh và
tuyên thuyết sự
thực hành sáu ba la mật, và Mật thừa, những lời dạy và
thực hành căn cứ trên những bản văn tantra.
Mantra :
Thần chú, một nhóm lời hay âm
kết hợp với những hóa thần
đặc biệt để
thiền định, sự trì tụng nó tạo thành một phần
chính yếu của
thiền định mật giáo.
Mật thừa (hay
Mật Chú thừa) : Thừa của những
mật chú, đôi khi gọi là
Kim Cương thừa (Vajrayana). Bộ những
giáo lý và
thực hành này căn cứ trên những tantra, và dù nó
thực ra là một
phương diện của
Đại thừa, nó đôi khi được
xem như một thừa riêng.
Mười cấp độ (mười địa) : Những giai đoạn trên
con đường giác ngộ. Cấp độ thứ nhất của
Bồ tát đánh dấu sự bắt đầu của
con đường thấy. Cấp độ thứ hai đến thứ mười là những giai đoạn
tiến bộ trong
con đường thiền định.
Mười hai mắt xích của tương thuộc (
duyên sanh) :
Vô minh, những khuynh hướng
thói quen, thức, danh và sắc (hình thể), sáu môi
trường giác quan,
tiếp xúc,
cảm giác, khao khát, bám giữ,
đi vào hiện hữu (
cuộc đời), sanh, già và chết.
Mười tám
đặc tính của
đời người quý giá : Mười tám
đặc tính này
bao gồm tám sự
tự do và mười
đặc ân. Tám sự
tự do gồm
không sinh ra (1) trong những
cõi địa ngục ; (2) như một quỷ đói ; (3) làm một
thú vật ; (4) trong những cõi của
chư thiên ; (5) giữa những người
hoang dã không biết đến những
giáo lý và
thực hành của
Phật pháp ; (6) như người với những
tà kiến, như là những
tà kiến về
hư vô đoạn diệt, về tính
bản chất của cái ngã và những hiện tượng… ; (7) trong
thời gian không có Phật
xuất hiện ; và (8) bị
chướng ngại về
tinh thần (
thể trí biện thông). Mười
đặc ân được chia thành năm cái ở trong và năm cái ở ngoài. Năm
đặc ân ở trong là (1) được sinh làm người ; (2) ở một xứ sở
trung tâm có
Phật pháp được
tuyên thuyết ; (3) có những khả năng (căn)
bình thường và đầy đủ ; (4) là người đã không nhúng mình vào những nghiệp quá nặng ; (5) có
niềm tin vào Pháp. Năm đăïc ân ở ngoài là những
sự kiện (1) một vị Phật đã
xuất hiện trong
thế giới ; (2) ngài có
giảng Pháp ; (3) Lời Dạy của ngài vẫn
tồn tại ; (4) Pháp đó có được
thực hành ; và (5) người ấy được
chấp nhận là một
đệ tử bởi một
đạo sư tâm linh.
Năm
con đường : Những
con đường tích tập, chuẩn bị, thấy,
thiền định và không học nữa. Những
con đường này biểu trưng những giai đoạn
kế tiếp nhau trong
tiến bộ tâm linh hơn là những lối đi khác biệt và
phân biệt đến
giác ngộ. Một
Bồ tát trên
con đường không học nữa đã
đạt đến Phật tánh. Xem thêm Mười cấp độ.
Năm độc : Năm thức tình
tiêu cực chính :
vô minh, tham chấp, giận ghét,
kiêu mạn và
ghen tỵ.
Năm uẩn : Năm hợp thể cấu thành về tâm
sinh lý, nó đặc trưng cho
chúng sanh : hình thể (sắc),
cảm giác (thọ), báo tin (tưởng),
thúc đẩy (hành) và thức.
Như Lai : Một tính ngữ dành cho một vị Phật.
Như Lai tạng :
Phật tánh, tiềm năng của
Phật tánh,
hiện diện trong
tâm thức của mỗi
chúng sanh.
Niết bàn (Nirvana) :
Chuyển ngữ Tây Tạng của từ Sanskrit này nghĩa là “vượt qua khổ đau” và để chỉ những mức độ khác nhau của
giác ngộ đạt được theo
thực hành của
Thanh Văn thừa hay
Bồ tát thừa.
Nyingma :
Truyền thống xưa nhất của bốn
truyền thống chính của
Phật giáo Tây Tạng,
sáng lập bởi Guru Padmasambhava vào thế kỷ thứ tám.
Pháp : Phần
giáo lý khai thị bởi Phật
Thích Ca Mâu Ni và những
vị giác ngộ khác, chỉ ra
con đường đến
giác ngộ. Nó gồm hai
phương diện : Pháp của sự trao truyền, tức là những lời dạy được
ban cho, và Pháp của sự
chứng ngộ, hay những
trạng thái đạt được qua sự
áp dụng những lời dạy.
Pháp thân : Thân
tuyệt đối hay thân
chân lý ; một
phương diện của
tánh Không.
Phật : Người đã trừ bỏ hai tấm
màn che (che chướng của những tình thức
tiêu cực [
phiền não chướng] là
nguyên nhân của khổ đau, và che chướng của
vô minh [
sở tri chướng] làm ngăn ngại
toàn giác) và là người đã
hoàn thiện hai loại
hiểu biết (về
bản chất tuyệt đối và
tương đối của những
hiện tượng).
Quán thấy
sáng tỏ hay thấu suốt (Skt : vipashyana) :
Thiền định phát hiện sự không có
hiện hữu nội tại,
vô tự tánh của
tâm thức và những
hiện tượng.
Quy y :
Nương náu. Một
Phật tử tìm kiếm sự
che chở và hướng dẫn của
Tam Bảo để
tìm ra giải thoát khỏi khổ đau của
sanh tử. Bởi thế
Tam Bảo lập nên sự
quy y Phật giáo, và một
Phật tử có thể định nghĩa như là người nào
quy y Tam Bảo.
Sakya : Một trong bốn
truyền thống chính của
Phật giáo Tây Tạng,
sáng lập bởi Khon Konchok Gyalpo (1034-1102).
Sanh tử (samsara) : Bánh xe, hay vòng tròn của
đời sống.
Trạng thái không
giác ngộ, trong đó
tâm thức bị
nô lệ vào
ba độc tham, sân, si, đi từ một
trạng thái này sang một
trạng thái khác một cách không
kiểm soát được qua một dòng
vô tận những
kinh nghiệm tâm lý chúng đều có
tính chất là khổ.
Sáu ba la mật, hay những
thực hành siêu việt : Sáu
hoạt động rộng lượng,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ chúng tạo
thành thực hành của
con đường Bồ tát. Chúng được gọi là
siêu việt bởi vì, khác với
rộng lượng bình thường…, chúng không bị
nhiễm ô bởi những thức tình
tiêu cực khác.
Sáu cõi : Theo
truyền thống,
kinh nghiệm của
chúng sanh trong
sanh tử được
hệ thống hóa vào sáu
phạm trù tổng quát, là những cõi hay
thế giới, trong đó
tâm thức trú ngụ như là kết quả của những hành
động trước kia, hay nghiệp. Không có cái nào của những
trạng thái này là
thỏa mãn, dù mức độ khổ trong chúng khác biệt nhau.
Ba cõi cao nhất, hay
may mắn, nơi đó khổ đau được nhẹ bớt do những
vui sướng tạm thời, là những
cõi trời của
chư thiên, hay deva ; những cõi của Asura (
A tu la), hay bán thiên ; và
thế giới của
con người.
Ba cõi thấp hơn, trong đó khổ
thống trị nơi mỗi một
kinh nghiệm, là những cõi
thú vật, quỷ đói và
địa ngục.
Tam Bảo : Phật, Pháp (
Giáo lý), và Tăng (
Chúng hội những
đệ tử và
hành giả). Đấy là ba đối tượng của sự
quy y.
Tám mối bận tâm thuộc
thế gian : Được hay mất, sướng hay khổ,
tán dương hay
chỉ trích, và
danh tiếng hay
tiếng xấu. Hầu hết những
con người không theo một
con đường tâm linh đều
tìm kiếm cái được và
cố gắng tránh cái mất, và
lấy bỏ như thế đối với những cặp đối nghịch này.
Thanh Văn thừa hay
Tiểu thừa : Những
hành giả được xem là thuộc về hai
bộ giáo lý khác nhau, hay thừa, theo
bản chất nguyện vọng của họ. Hai bộ đó được biết như là
Tiểu thừa, hay
Căn Bản thừa và
Đại thừa.
Căn Bản thừa chia thành hạnh của những
Thanh Văn, các ngài là
đệ tử của
đức Phật, và hạnh của những vị
tìm kiếm giác ngộ chỉ
dựa vào chính mình, hay
Độc Giác Phật.
Mục đích của
Thanh Văn và
Độc Giác là
Niết Bàn, như là
sự giải thoát rốt ráo khỏi khổ đau của
sanh tử.
Đại thừa là
con đường của những
Bồ tát, hay những người, trong khi
chấp nhận tính
vững chắc và
hiệu quả của thừa kia, ước muốn
giác ngộ viên mãn của
Phật tánh vì
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh. Từ Hinayana,
Tiểu thừa có nghĩa là “Thừa kém hơn,” nhưng điều này không nên hiểu theo một nghĩa chê bai, bởi vì những
giáo lý của nó là
căn bản cho sự
thực hành của cả
Đại thừa. Dalai Lama đã gợi ý danh từ
Thanh Văn thừa để dùng thay vì
Tiểu thừa. Trong
trường hợp này, danh từ ấy được hiểu
bao gồm cả
Độc Giác Phật thừa.
Thức tình
tiêu cực hay
phiền não (Skt : klesha) : Những
yếu tố thuộc
tâm thức ảnh hưởng vào những
tư tưởng và hành động rồi sẽ sinh ra khổ đau. Năm thức tình
tiêu cực chính tức là năm độc.