CHƯƠNG I
NHỮNG CHỈ DẪN TỔNG QUÁT
VỀ PHƯƠNG PHÁP THIỀN ĐỊNH
Trước khi trình bày
phương pháp tu hành thực dụng: “Quán Tưởng
Thiền Định cho tất cả
chúng sinh suốt cõi không gian”, điều
cần yếu là
giải thích một số tâm thuật
căn bản để
thực hành lối
Quán Tưởng này. Bối cảnh tâm thuật này rất quan yếu để
tu hành hầu
thực chứng phép
thiền quán này một cách
thích đáng, hữu hiệu. Những ai
tu học mà không được sự hướng dẫn riêng biệt của bậc
Đạo Sư kinh lịch trong
truyền thống Mật Tông và những người nào chưa có
kinh nghiệm về
thiền định Phật Giáo, đều
cần phải nghiên cứu thật
cẩn thận những kỹ xảo tâm thuật
căn bản này.
Điều cần chú ý ở đây là: Những người có ý tuân phụng
Phật đạo, tốt nhất
cần phải có một vị
Thượng Sư. Vị
Thượng Sư hợp cách là người có rất nhiều
kinh nghiệm phong phú đối với pháp tu của
Phật Giáo. Vị ấy được
truyền thừa một cách không
gián đoạn (vĩnh truyền) từ
Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni, và đươc̣
công nhận trong
Tăng già là những bậc đã
đạt đến trình độ chứng ngộ rất cao mà
trí huệ và
lòng từ bi đều
viên dung vô ngại. Chỉ có bậc
thượng sư như thế mới có thể sách tấn, sữa chữa và là
động cơ thúc đẩy cho sự nổ lực
tu học của đàn hậu tấn. Chỉ có những bậc
đại sư như thế mới chỉ bày cho
chúng ta những
cảnh giới chứng ngộ chân chánh,
mục đích đích thực cho tất cả mọi
nỗ lực của
chúng ta. Chỉ có những bậc
đại sư như thế mới có thể
bảo hộ chúng ta không phạm vào những
sai lầm tội lỗi mà
chúng ta có thể phạm,
đồng thời lãnh đạo,
chỉ dẫn chúng ta một cách đích thực và thích thời nhằm
đạt đến cảnh giới cao hơn. Đối với những người học về
Kim Cang Thừa, vị
Thượng Sư rất là
trọng yếu. Chính sự quan hệ chặt chẽ giữa thầy và trò đã là chất liệu
ràng buộc,
thúc đẩy ta
quyết tâm thực hiện và
đạt đến Phật đạo hoàn mỹ nhất. Vì pháp
tu Quán Âm
Quán Tưởng này trực thuộc vào
Kim Cang Thừa, cho nên,
hành giả cần phải đem hết khả năng để tìm cầu một vị
Thượng Sư chân chính hầu
chỉ dẫn cho sự
tu học và xem tập sách nhỏ này như là một hỗ trợ cho sự huấn thị cao quý của bậc
Thượng Sư. Dù vậy, những ai hiện đang trong
tình trạng không có sự
liên hệ với một bậc
Thượng Sư hợp cách thì
vẫn có thể tận dụng
toàn bộ khả năng và
nỗ lực của chính mình để
tu tập Quán Âm Quán Tưởng và như thế cũng chẳng có gì nguy hiểm cả. Thực sự thì, pháp tu
đặc biệt này cũng đã được lập ra để có
tính cách thích ứng và hữu dụng cho chính kẻ
sơ tâm mới bắt đầu
tu học.
Phương pháp này tuy
bao gồm những
giáo lý tu chứng ở mức độ
tối cao nhất, nhưng cách trình bày ở đây có
tính cách dung hóa khả dĩ giúp đỡ được cho người
sơ học và cho tất cả những bậc có
kinh nghiệm cao, cả hai đều có
thể đạt được
lợi ích. Pháp
tu Quán Âm
Quán Tưởng này, dù là pháp tu của
Mật Tông Phật Giáo, thế nhưng vẫn không mang
tính cách phức tạp nguy hiểm của pháp tu
mật giáo,
đồng thời, vẫn
bao gồm đủ những nguyên lý
tối thượng đưa đến
Giác Ngộ viên mãn.
Giống như tất cả phép
tu Quán Tưởng khác trong
Phật Giáo, phép
tu Quán Âm
Quán Tưởng này đòi hỏi
hành giả cần tu học những tâm thuật kỹ xảo
căn bản về
Chỉ và Quán. Những kỹ xảo này đã được trình bày một cách đầy đủ,
chi tiết trong rất nhiều kinh sách của
Phật Giáo. Những gì được trình bày sau đây chỉ là những yếu điểm có
tính cách cương lãnh mà thôi.
1 – ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN
Mặc dù có thể
thực hiện sự
tu Quán trong tất cả mọi
cảnh huống (
hoàn cảnh); nhưng,
lý tưởng tuyệt vời nhất vẫn là một
đạo tràng thanh tịnh có khả năng
giảm thiểu tối
đa sự quấy nhiễu chung quanh. Nếu được như thế thì đó là
điều kiện tốt nhất cho những người mới bắt đầu
tu học.
Nếu có thể, nên
thiết lập một căn phòng
đặc biệt hay
sử dụng một góc nhở để có thể
bảo đảm sự
thanh tịnh cho công việc
tu Quán hằng ngày. Trong phòng hay trong một góc phòng (khu vực
tu tập) cần nhất là nên tránh xa sự
hoạt động của
thế tục. Phải
bảo trì trọn vẹn sự
thanh khiết. Không nên trần thiết (trưng bày) những phẩm vật
thế tục hoặc những
vật dụng không
liên quan đến sự
tu quán. Trong khu vực này, mình có thể kê một chiếc bục hoặc
bàn thờ để
thờ phụng cúng
tượng Phật hoặc những vật
tượng trưng cho
giáo lý Đức Phật. Theo đó, bên cạnh có thể trần thiết, trưng bày một vài loại như: hoa, hương, nước, đèn cầy, v.v..., trên một bục thấp hơn. Trong
trường hợp này,
nếu có thể có được một
tôn tượng Quán Thế Âm hay một bức ảnh của Ngài thì không gì tốt bằng.
Đặc biệt, nếu thờ một tượng
Quán Âm như đã trình bày trong pháp
tu Quán Âm
Quán Tưởng thì rất quý.
Điều kiện tốt nhất cho sự
tu quán là sắp xếp một
thời giờ đặc biệt và
nhất định cho từng ngày. Rất có nhiều người thích
tu luyện vào mỗi sáng sớm
thanh tịnh trước khi khởi đầu cho những
sinh hoạt trong ngày, vì giờ giấc này là khoảng
thời gian mà tâm và cảnh
thanh tịnh nhất. Giờ
mặt trời lặn (
hoàng hôn) cũng là một trong những giờ giấc rất tốt.
Thời gian có thể
tùy nghi chọn lựa, miễn sao
thích hợp với
chương trình sinh hoạt hằng ngày của mỗi một
cá thể. Nhưng,
nhất định phải có một sự chọn lựa khôn khéo để bắt buộc chính mình phải
tuân theo mỗi ngày nhằm
nuôi dưỡng và tạo thành một
thói quen cố định.
Tính cách quyết định về
thời gian tu tập dài hay ngắn còn
tùy thuộc vào
năng lực và
chương trình bận rộn hay
thư thả của mỗi người.
Tuy nhiên, tốt nhất là nên giữ đúng giờ giấc đã
quy định cho sự
tu tập hằng ngày. Để tránh sự thất bại trong việc
tu hành, lúc mới bắt đầu
tu tập, không nên có
tham vọng quyết định tu thập trong
thời gian quá lâu.
Nếu có thể, nên
tu tập 15 phút mỗi ngày, như thế sẽ
đạt được lợi ích lớn.
Thời gian tu tập có thể kéo dài
tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, sau đó tùy
hoàn cảnh thuận tiện có thể tăng dần
thì giờ lên.
2 – NHỮNG MỤC TU TẬP KHÁC
Pháp
tu Quán Âm
Quán Tưởng này vốn là một pháp tu
hết sức hoàn hảo và
cụ túc; nhưng, trong
thời gian quán tưởng,
thiền định,
hành giả cũng có thể
tu tập thêm những
pháp môn khác mà mìnhh đã
thọ trì. Chẳng hạn
hành giả đang
hành trì pháp môn Lễ Phật, thì cứ
thực hành pháp môn
Lễ Phật trước khi ngồi xuống để
tu Quán. Cũng có thể trước khi
tu Quán Âm
pháp hành giả cũng có thể
thực hành phép
quán tưởng thanh tịnh của
Kim Cang Tát Đỏa cùng lúc mới việc trì tụng Bách
Tự Minh Chú. Việc sắp xếp và thu dụng thêm những
pháp môn khác còn
tùy theo căn cơ và
mục đích của
hành giả; trong
trường hợp này,
hành giả cần nên
tham khảo ý kiến của bậc
bản sư mình.
3 – THẾ NGỒI TRONG LÚC TU QUÁN
Thế ngồi
lý tưởng nhất trong lúc
tu quán là ngồi trên sàn nhà hoặc ngồi trên
tọa cụ,
Kim Cang Tọa (gọi là thế ngồi
kim cương, “vajra” cũng gọi là
Liên Hoa Tọa). Bắp đùi trái ở trong bắp đùi phải ở ngoài, cả hai bàn chân đều nằm ngược nhau trên đùi, nhưng cũng có thể ngồi theo tư thế bán già (bán
Liên Hoa Tọa; thế ngồi như nửa
hoa sen): Bàn chân trái để lên đùi chân phải hay ngược lại; hoặc
đơn giản hơn là: ngồi theo thế hai chân đâu ngược vào nhau, lưng thật thẳng nhưng không quá cứng ngắc. Hai tay có thể xếp một cách
đơn giản tùy tiện trên
lòng bàn chân hay theo
hình thức tham thiền thông lệ, bàn tay phải đặt lên lòng bàn tay trái, hai đầu ngón tay cái cụng nhẹ vào nhau. Đầu phải giữ cho thật ngay thẳng, và, hai mắt khép nhẹ (nửa mở nửa nhắm). Không nên nhìn chú mục vào bất cứ vật gì hay điểm nào (
dĩ nhiên là ngoại trừ vật đang
quán tưởng). Miệng ngậm nhẹ nhưng
thanh thản thoải mái, không
căng thẳng, đầu lưỡi cong lên và chạm nhẹ nướu hàm trên.
4 – TU CHỈ PHÁP
Trong lúc
tu tập quán tưởng, CHỈ là một
yếu tố vô cùng quan trọng. Nói một cách
đơn giản thì: CHỈ (cũng tức là ĐỊNH) chính là sự
giảm thiểu những
tư tưởng vọng niệm, phù động
vẩn vơ, buộc tâm ý ngưng tụ, lắng đọng để tập trung
nhất tâm vào đối tượng
quán chiếu. Kỹ xảo về sự tu CHỈ đã được trình bày một cách sâu sắc trong kinh sách
Phật giáo. Những
kinh nghiệm về sự tu Chỉ sẽ giúp rất nhiều cho pháp
tu Quán Tưởng. Vì thế, những ai
tu học mà chưa thể phát triển
công phu Chỉ Định một cách đầy đủ,
điều kiện tiên quyết và tốt nhất là cần nên luyện tập
Chỉ Định trong một vài tuần trước khi bắt đầu
tu tập về pháp
tu Quán Âm Tưởng này. Việc học về
Chỉ Định rất tốt, nó có khả năng dẫn đến một
điều kiện sức khoẻ khương tiện. Trên
phương diện tâm lý, nó cũng có khả năng đưa đến một
lợi ích đáng kể có thể
nhận thấy được.
Một trong những
phương pháp tu CHỈ
đơn giản là: tập trung sự chú ý vào
hơi thở của chính mình. Sau khi
ngồi thiền trong một tư thế tốt, chỉ
thở ra hít vào trong một nhịp điệu
bình thường,
thoải mái,
thư thả, nhịp nhàng. Không nên cố sức cưỡng chế làm cho
căng thẳng dù chỉ là
mảy may.
Tâm không nghĩ đến bất cứ việc gì khác, chỉ
tiếp tục chú ý
theo dõi hơi thở. Có thể
áp dụng phương pháp Sổ Tức (đếm
hơi thở). Bắt đầu đếm từ một đến mười, sau đó bắt đầu đếm lạ̣i. Thì rất có
lợi ích.
Một
phương pháp tu CHỈ (
năng lực tập trung
tư tưởng)
đơn giản khác là dùng một phẩm vật
đơn giản làm đối tượng. Ví dụ: lấy một mảnh vải nhỏ hình vuông, một đóa hoa giản dị, v.v... chẳng hạn. Hãy đặt vật ấy
trước mặt khoảng chừng năm feet và ngồi trong một tư thế
thiền tọa, tập trung
toàn bộ nhãn lực, chăm chú nhìn vào vật đó; Đừng
để tâm suy nghĩ đến bất cứ vật nào khác. Cũng có thể gom hết
tâm lực tập trung
tư tưởng vào một
ảnh tượng đang ở trong tâm như một điểm nhỏ có màu sắc hoặc tập trung
tư tưởng vào ngay
chính trực thức,
giác tánh rỗng lặng.
Những Pháp tu
đơn giản này chỉ cốt làm cho tâm của
hành giả đạt được sự
tu tập trong anh định,
đồng thời giúp
hành giả tăng tiến phương diện trực giác. Nếu trong
thời gian tu tập những
phương pháp Chỉ (tập trung
tư tưởng) này,
lúc đầu tâm tư bị
tán loạn và phát sanh những
ưu phiền của
thế tục,
vọng tưởng,
ảo giác, v.v... thì
hành giả chỉ cần tri nhận rằng: Những thứ tạp niệm này đều là những thứ
hư ảo do tâm tạo nên. Sau khi tri nhận rằng tất cả
vọng niệm đều do
chính tâm mình tạo ra, thì điều ấy
lập tức đưa tâm
trở về sự quán tưởng.
Có một việc tối cực
trọng yếu mà
hành giả cần phải tuyệt đối chú ý là: trong lúc tu
Chỉ Quán (
thiền định), không nên
chấm dứt một cách bất ngờ đột ngột. Trong quá trình từ
cảnh giới của
định lực thanh tịnh, nên
trở lại,
cảnh giới của
thế tục một cách êm dịu, từ từ,
thoải mái.
Kỹ xảo của sự tu Chỉ (được gọi là shamatha hay dhyana hay thiền) đã được ghi lại một cách
thâm sâu với một số lượng không thể kể xiết trong các kinh sách
Phật Giáo.
Hành giả có
thể tham khảo để
học hỏi thêm những
chi tiết rõ ràng. Hơn nữa, việc
tu hành thực dụng pháp môn Quán Tưởng Quán Âm này, lúc được lặp đi lặp lại nhiều lần,
tự nhiên sự tập trung
tư tưởng của mình (
Định Lực) sẽ khai triển trong bất cứ
trường hợp.
5 – QUÁN TƯỞNG PHÁP
Điểm
căn bản của phép
tu Quán Tưởng là
chuyển hóa cái
thực tại được thể nghiệm về chính
bản thân,
ít nhất là trong
thời gian thiền định.
Dụng ý chính là
hành giả càng tốn nhiều thì gian
tâm thức để
dụng công quán tưởng đến Phật,
Bồ Tát, v.v... bao nhiêu thì
bản chất của
toàn diện tâm cảnh quan kiến của mình được
hanh thông lợi lạc bấy nhiêu.
Ngoài ra nếu có người nào có đầy đủ
năng lực để có thể
quán tưởng toàn thể vũ trụ như là đang
trở thành cảnh giới giác ngộ thì
nhất định người đó sẽ được
tăng trưởng năng lực vĩ đại,
đủ sức chế ngự và làm chủ được những tình cảm, những tri nhận và những
kinh nghiệm trong đời sống.
Tâm thức mình phải có sẵn tín niệm cơ bản rằng: Tự thân của mỗi một
chúng ta có sẵn đầy đủ một
năng lực phi thường có khả năng đặt đến sự
giác ngộ, và do đó có khả năng sống trong
một thế giới
giác ngộ.
Một cách tổng quát thì: phát triển
năng lực của
sự quán tưởng là một việc
tương đối khó khăn, và điều này còn tùy vào
căn khí và
tập khí của mỗi người mà có sự sai khác. Có một ít người đã gặp phải một số
vấn đề nhưng một số khác thì sự khó khăn đã không phải là không ít. Điểm tối
trọng yếu là
hành giả không nên kỳ vọng quá cao trong
thời gian đầu.
Phương pháp quán tưởng là tiến trình
dụng tâm để làm cho những
hình tượng của sự tưởng tượng
biến thành cụ thể chân thật.
Hay nói một cách khác:
Sự Quán Tưởng là tiến trình
cố ý nhìn thấy một
hình ảnh mà mình đang tưởng tượng bằng cách
sử dụng một số
tác dụng tinh thần như
trí nhớ, sự tưởng tưởng và sự tập trung
tư tưởng, mình có thể vận
dụng tâm thức để tạo tác ra
hình ảnh (hay gợi cho
hiện ra hình tượng) trong một
cứ điểm nhất định trong
không gian.
Ban đầu những
hình tượng này rất
mơ hồ,
hư ảo, nhưng sau khi đã luyện tập
phương pháp một cách
thuần thục thì
hành giả sẽ “thấy” những
hình tượng này một cách
rõ ràng như bất cứ
ngoại vật nào dưới nhãn quang của mình.
Có rất nhiều
phương pháp khác nhau để
đạt đến sự tựu
thành sự Quán Tưởng này. Vài bậc
Thượng Sư khuyên là nên bắt đầu thử
quán tưởng một
hình ảnh mơ hồ của
toàn thể cảnh tượng rồi từ từ làm cho nó
sáng tỏ khi mình trở nên
quen thuộc hơn với
hình ảnh và tiến trình
quán tưởng. Cũng có những bậc
Thượng Sư khác dạy là nên bắt đầu bằng những phần nhỏ của
hình tượng, mỗi một bộ phận đều
quán tưởng một cách
minh bạch và từ từ đem chúng ghép lại thành một
hình tượng trọn vẹn (
phương pháp này rất là
ích lợi và
tiện dụng cho việc
quán tưởng phức tạp hơn về chư
Bồ Tát và
chư Thiên).
Phương pháp thứ ba là bắt đầu ngó nhìn thật lâu vào một
hình tượng cho đến khi việc
quán tưởng hình ảnh này trở nên dễ dàng
thực hiện.
Không luận là
sử dụng phương pháp gì, trong
thời kỳ đầu của sự
tu Quán, nếu
sự quán tưởng không được ổn định thì đừng bao giờ nản chí. Những
hành giả sơ cơ thường hay kể lại những
vấn đề vấp phải trong việc
quán tưởng, và những
vấn đề thường gặp là: Không có khả năng để
quán tưởng gì cả;
hình tượng lúc tỏ lúc mờ, và mỗi lần như thế chỉ có thể thấy
hình tượng một cách
phiến diện, cục bộ;
lúng túng không biết phải từ góc cạnh nào để nhìn
hình tượng;
hình tượng cứ vẫn lướt trượt khỏi đầu mình (giống như lúc luyện pháp
Quán Âm Quán Tưởng, tức
quán tưởng Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đỉnh đầu của
hành giả);
hình tượng dường
như tự phát ý riêng và bắt đầu nói cười, giỡn cợt và chơi nghịch những trò đùa khác.
Ngoài ra, còn có những
vấn đề thường gặp trong mọi
lối tu thiền như đau nhức cơ thể,
tâm thần lơ đễnh,
hôn trầm,
trạo cử (
ý tưởng lăng xăng) khát khao,
thèm muốn, những tình cảm xung động phát dậy mãnh liệt mà không
thích ứng dung hợp.
Để
giải quyết hàng bao nhiêu
vấn đề trên, chỉ có cách
trả lời duy nhất là: Không cần
để ý biết tới, bận tâm đến những
vấn đề đó nữa. Cứ
tiếp tục giữ
sự quán tưởng. Tất cả những nỗi khó khăn trên phải được coi như là những trò bịp bợm của cái
bản ngã, cái
bản ngã muốn
chạy trốn, tránh né sự
quan sát thâm cận,
chạy trốn, tránh né sự hủy diệt của chính
bản ngã, được
thành tựu từ
sự thiền định
quán tưởng Phật Giáo. Cái làm cho
vấn đề trở nên quan trọng chỉ là cách làm cho
vấn đề trở nên thực hơn mà thôi.
Hay nói một cách khác: cái việc quan-trọng-hóa bất cứ một
vấn đề nào cũng đều làm cho
vấn đề ấy trở nên có thực hơn bao giờ cả, nghĩa là
vấn đề càng trở nên
rắc rối hơn nữa
Do đó, mình không nên
để ý nhiều đến những
vấn đề hay những khó khăn. Hãy cứ
tiếp tục dồn hết
nỗ lực của mình vào trong việc
quán tưởng,
thiền định như thường lệ.
Nguyên tắc này cũng
áp dụng cho bất cứ
kinh nghiệm đặc biệt nào khác mà mình
trải qua lúc
quán tưởng tham thiền, và, cũng
áp dụng cho cả việc không có
kinh nghiệm đặc biệt nào như vậy.
Xin
cảnh cáo hành giả là: Trong lúc
thiền định, đừng bao giờ để bị kích động bởi những gì mà
hành giả có
cảm giác như là một dấu hiệu của sự
thành công như:
cảm giác thú vị khinh an (nhẹ nhàng) có
cảm xúc ấm áp, thấy ánh sáng, v.v... Khi Định mỗi lúc một sâu dần, những tình huống này có thể sẽ
xuất hiện, nhưng, chúng không có gì vĩ đại quan trọng cả, vì thế, không cần suy cầu và cũng không cần
chạy trốn chúng. Khi thấy những
huyễn cảnh ảo tượng khác, cũng cần có
thái độ trên. Đôi khi có thể thấy những
cảnh tượng khủng bố kỳ dị khác thường,
cần phải nhìn rõ
bản chất không thật hư huyễn của chúng. Hãy để chúng tự biến đi, còn
nếu không có những
cảnh giới ấy
hiện ra, thì không nên có
cảm giác thất vọng hoặc nản chí mà phải luôn luôn
tâm niệm rằng:
Mục đích duy nhất của
sự Quán Tưởng là để phát triển
Trí Huệ và
Tâm Từ Bi của
chúng ta. Nếu đúng
như pháp mà
tu tập có thể thấy được
rõ ràng những
hình tượng, hoặc tự mình có thể
ghi nhận một cách
rõ ràng rằng:
Tâm Từ Bi của
chúng mình đang được phát triển hơn thêm đôi chút trong mọi
sinh hoạt thường nhật của
đời sống thì đó cũng đủ để biết rằng những điều này chính là
thành quả thực thụ của
phương pháp tu hành này.
Sau cùng, cũng nên
ghi nhận thêm rằng,
quán tưởng và thấy được những
hình tượng được
mô tả như
hình tượng Quán Âm có thể là một cái gì
xa lạ và khó khăn đối với những ai đã không từng
quen thuộc với những
hình tượng thông thường của
Phật Giáo. Vì thế,
lúc đầu có thể xem
sự quán tưởng như là một loại luyện tập có thể giúp ích cho
tâm lực trở thành khoáng đại và làm
tăng trưởng sức chú ý,
gia tăng sự tập trung
tư tưởng. Nhưng, điều quan trọng hơn nữa: hình thể và những thuộc
tính sắc tướng của
Quán Thế Âm phải được hiểu như là đã được
cố ý thiết lập ra hầu
sử dụng những
biểu tượng hữu hiệu và truyền cảm nhất, khả dĩ trao truyền, ban phát
sự thể hiện
lòng Từ Bi và
Trí Huệ. Những
biểu tượng này đã được
giải thích rõ ràng hơn nơi chương ba. Khi mà sự
quen thuộc thiết thân hơn với
hình tượng và văn mạch
sắc tướng của
Quán Thế Âm được
tăng trưởng phát huy
sâu rộng hơn thì những thành viên của phần lớn những nền
văn hóa nhân loại có thể có khả năng thuận dụng để
liên hệ gia hưởng
thỏa đáng hơn với những
biểu tượng cổ kính mãnh liệt này.
6 – LÀM THẾ NÀO TRÌ CHÚ LÚC
SỬ DỤNG TRÀNG HẠT
Chú là sự biểu hiện bằng
âm thanh về
tâm cảnh Giác Ngộ của
ý thức. Phần lớn Chú ngữ là Phạn văn, ngắn gọn,
đơn giản nhưng giàu
năng lực tượng trưng.
Tuy nhiên, Chú cũng có một
ý nghĩa trên
phương diện văn tự và cũng có thể dịch ra chữ Việt. Nhưng,
công dụng cơ bản của Chú la ̀do
xuyên qua âm thanh của
văn tự mà hướng
hành giả biểu đạt bao nhiêu thứ
tâm cảnh đặc thù của chính
ý thức. Vì thế, Chú ngữ
cần phải được
tụng niệm một cách
thường xuyên liên tục, càng nhiều càng tốt.
Đặc biệt là phải đem hết
tâm lực chuyên chú vào
âm thanh của Chú và
chuyên chú vào
trí huệ tương ứng được
tượng trưng ở đó. Lúc
trì Chú, theo
truyền thống, rất có nhiều người
sử dụng cách lần chuỗi để ghi nhớ (tính đếm) nhưng điều này không
tuyệt đối cần thiết.
Phật Giáo thường dùng chuỗi có 108 hạt,
cộng thêm đầu mỗi
chuỗi hạt (hạt lớn giống như bầu hồ lô).
Mục đích lần chuỗi 108 hạt này chỉ là để ghi nhớ,
đặc biệt nó rất hữu dụng khi có người muốn
hoàn tất số lượng
trì Chú trong một
thời gian nhất định. Khi lần xong
trọn vẹn một tràng
chuỗi hạt thì chỉ tính có 100 lần Chú thôi (
cộng thêm 8 đều chuỗi để phòng hờ trong
trường hợp có một vài Chú khi
tụng niệm không được
chân thành, tha thiết hoặc không tập trung đầy
đủ sức chú ý).
Đồng thời 108 hạt cũng còn được
ghi nhận như là một con số (số mục) có được sự kiết lợi (
tốt đẹp và
lợi lạc).
Trong lúc
trì Chú,
tràng hạt được lần bởi ngón tay cái và trỏ; một đôi khi trong những
phương pháp tu tập cao cấp hơn, những ngón tay khác cũng đã được
sử dụng. Có thể
sử dụng tay phải hoặc tay trái nếu
cảm thấy tay nào
thuận tiện nhất với mình. Mỗi lần trì xong một Chú, lần một
hạt chuỗi. Để bắt đầu cho tiến trình lần chuỗi,
trước tiên, nên bắt đầu bằng
hạt chuỗi kế cạnh hạt Đầu hạt của tràng chuỗi. Khi lầng xong hãy dừng lại. Đừng tính tiếp đầu chuỗi mà phải lần ngược lại và cứ thế
tiếp tục đã được
chỉ dẫn.
Có thể
sử dụng bất cứ
tràng hạt được chế tạo bằng bất cứ
vật liệu nào.
Tràng hạt làm bằng hạt
bồ đề được chế tạo tại
Ấn Độ đã đặt biệt được
mọi người ưa thích.
Tràng hạt bằng gỗ
đàn hương cũng là loại
tràng hạt mà hầu hết
Phật tử ưa thích. Trong những pháp tu
đặc biệt, có người đã
sử dụng những
tràng hạt được
đặc biệt chế bằng những chất liệu như ngà voi,
san hô,
pha lê, thạch anh, hoặc xương, v.v...
Sử dụng tràng hạt (
phương pháp lần chuỗi) cũng có thể trợ giúp
hành giả tập trung được
tâm lực nơi Chú ngữ và
quán tưởng.
Vì vậy,
cần phải tôn trọng và
giữ gìn tràng hạt cẩn thận. Mỗi
hạt chuỗi có thể được
xem như là vật
tượng trưng cho một vị
Bồ Tát mà
hành giả đang
quán tưởng đến.
Đồng thời, xem sợi dây dùng để xâu chuỗi là
tượng trưng cho
ý thức của Bậc
Bồ Tát, tức
Bồ Đề Tâm.
7 – CÁCH SỬ DỤNG CHÍNH VĂN CỦA BẢN TU PHÁP
Những gì được thấy trong Chương Hai vốn đã được
phiên dịch từ bản gốc (chính) bằng tiếng
Tây Tạng được soạn ra bởi Ngài Tangtong Gyalbo: “Quán Tưởng
Thiền Định cho tất cả
chúng sanh ở khắp cõi không gian” [những chữ hoặc những đoạn trong ngoặc là do dịch giả thêm vào
để ý nghĩa của câu văn được sáng sủa thêm
dễ hiểu hơn].
Nguyên văn trong chính bản trình bày
rõ ràng chính xác về những gì
cần phải quán tưởng và phải được thể nghiệm trong lúc mình
quán tưởng. Phải tụng một cách
hết sức chậm rãi qua từng đoạn [ngoại trừ những đoạn
chú giải được đóng ngoặc]. Lúc đọc, có thể đọc lớn tiếng hoặc
đọc thầm thầm cho chính mình, đồng lúc, từng
bước một, phải
tác quán tưởng theo mỗi lần đọc. Khi mỗi đoạn đươc̣
hoàn tất có thể tạm nghỉ trong chốc lát rồi
tiếp tục ôn lại trong
tâm thức những gì mình đã
quán tưởng từ đầu
cho đến đó. Trong một đoạn như thế,
thời gian bỏ ra (
sử dụng) nhiều hay ít (dài hay ngắn) là
hoàn toàn tùy thuộc vào nhu yếu và sở vọng của mỗi người.
Trong khi
trì Chú, phải dốc hết
toàn bộ quá trình
quán tưởng mà mình có thể có, vào trong
tâm thức mình.
Hành giả cũng phải đem
hết sức chú ý tập trung vào
âm thanh của Chú ngữ và
cố gắng nỗ lực thể hội
thần thông lực của Chú (
oai lực của Chú). Đại Bộ phận của
thời gian tu Quán Tưởng (
toàn thể thời gian tu Quán) sẽ được dùng vào việc
trì Chú và cùng với
sự Quán Tưởng
Vô Tướng.
Sau khi
trì Chú nên
hoàn thành sự trì tụng và
tu pháp thiền định theo chính văn ở đây.
Xin chú ý: Số chữ trong những dấu ngoặc là do sự thêm vào của dịch giả để
thuận tiện cho việc phân thành chương tiết của pháp tu. Số chữ mà các đoạn đã nêu lên những số
tương ứng được dùng để
giải thích chi tiết cho mỗi đoạn trong chương ba.