CHƯƠNG III GIẢI THÍCH
Những tư liệu hàm chứa trong chương này đều đã được
căn cứ vào truyền thống Tây Tạng chú sớ về
Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp và đã được một số các bậc
Thượng Sư hướng dẫn trực tiếp bằng
khẩu truyền cho dịch giả.
1 – QUY Y (Trở về nương tựa)
Trong chương đầu tiên này, Pháp tu đã được
diễn đạt về hai động cơ thiết cốt có
tính cách sống còn chủ yếu nhất để
tu học Phật Pháp là Thọ
Quy Y và
Phát Bồ Đề Tâm.
Hai linh niệm này luôn luôn
nhất định phải được
thể hiện trước bất
cứ sự hành trì nào trong
Phật giáo và thực sự đó là điều bắt buộc không thể thiếu được trên tiến trình
tu học Phật Pháp của họ.
THỌ QUY Y
(Ba hàng văn đầu của chính văn
tu Pháp) đã
chính thức đưa ra như là một tiền đề xác định nơi
quy y (
trở về nương tựa)
tối hậu và
đồng thời cũng là
lý tưởng tối cao của
hành giả. Đó là PHẬT, PHÁP và TĂNG. Nói khác hơn,
hành giả quyết định lấy Phật, Pháp. Tăng như là điểm quy hướng cơ bản
tối hậu của sự xác chứng
cho đến khi chính mình
chứng thành Phật quả. Lúc thọ
Quy Y,
hành giả cần ghi nhớ rằng:
Đức Phật là một bậc đã thật sự chứng được
quả vị Chánh Giác một cách
hoàn toàn viên mãn và Ngài đích thực là một khải thị
tối cao là linh cảm, là nguồn
cảm hứng vô tận đối với
toàn thể Phật Giáo đồ. Pháp là những áo nghĩa, triết lý và
phương tiện tối cao, tối hảo mà
đại biểu là
Kinh Tạng do
Đức Phật giảng dạy, và Tăng là những đoàn thể
thánh chúng, nói cách khác, Tăng là danh xưng chung để chỉ cho tất cả những
thánh nhân quí phái cao thượng, có
một đời sống
thanh khiết,
thánh thiện đã và đang nỗ lự́c
tinh tấn phát triển
trí huệ hầu
thành tựu Phật Tánh. Như thế, Phật, Pháp, Tăng là ngôi tối
tôn kính đối với
toàn thể Phật tử.
Trong lúc trì tụng Kệ
Tam Quy Y,
hành giả cần phải quán tưởng rằng: bao quanh mình
gồm có cha mẹ, bạn bè, oán cừu
cho đến tất cả
chúng sanh, và tất cả đều ngồi chung môt chỗ và đồng thọ
Quy Y.
Trong khoảng không trung ở trước tất cả
chúng sanh là Phật, là chư vị
Bồ Tát, những quyển Kinh
tượng trưng cho Pháp, và đoàn thể
Tăng già.
Quán tưởng sự có mặt của Chư Phật và
Thánh chúng sẽ làm tăng
sức mạnh cho
thệ nguyện lực quy y của
hành giả.
Thông thường, khi
thọ Pháp Quy Y lần đầu, tất cả đều
hiện diện (
thực hiện)
trước mặt vị
Thượng Sư và lễ thọ
Quy Y này là mốc
đánh dấu cho sự chánh thức tiến vào
Phật đạo. Sau đó, việc lặp lại
nghi thức đọc tụng Tam Quy Y Văn, nhất là trước khi
quán tưởng thiền định là cốt giúp cho
hành giả ghi nhớ mãi chủ hướng
tối thượng và
lý tưởng tối cao của mình.
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
(tức ba hàng chữ thứ hai của đoạn thứ nhất) là kết quả tất nhiên của sự thọ
Tam Quy Y và
đồng thời còn là cái chủ trương tối
trọng yếu trong
Phật pháp. Đoạn văn này
nhấn mạnh: Cái mà
hành giả đem hết nổ lực để mong cầu
giác ngộ chính là cái nhu yếu muốn
lợi ích tất cả
chúng sanh (hay: Tất cả sự
nỗ lực của
hành giả để
đạt đến sự
giác ngộ là vì sự
lợi ích của tất cả
chúng sanh).
Nỗ lực này
bao gồm tất cả
phương tiện tu học của
Phật giáo như:
Bố thí, cứu giúp người (
độ sanh),
tụng kinh,
tu tập thiền định, v.v...
Hành giả nên
thực hành những
phương tiện này với một
nhận thức minh mẫn rằng: Tất cả mọi
nỗ lực đều nhắm vào
mục tiêu tối hậu là
chứng thành Phật quả để
độ thoát chúng sanh, như thế (tức) có thể cấu thành một
nguyện lực cường đại có đủ
năng lực thẩm thậu khả dĩ
biến đổi,
chuyển hóa tất cả mọi sự
kế tiếp.
Mục đích của sự
phát Bồ Đề Tâm này là nhằm tránh những
sai lầm to lớn mà
hành giả có thể vấp phải, đó là:
Nỗ lực tu tập chỉ vì
mục đích tư lợi.
Vì thế, trước khi mở đầu pháp tu
thật tế này,
hành giả cần để ra một vài phút
quán tưởng để nhìn thấy mọi sự
thống khổ mà
vô lượng chúng sanh đang thọ nhận trong lúc
luân hồi sanh tử trong
thế gian. Trong
Phật giáo,
chúng sanh được phân làm sáu loại: Thiên,
A Tu La, Nhân,
Súc Sanh,
Ngạ Quỷ và
Địa Ngục Chúng Sanh (
chúng sanh trong
địa ngục). Phải
thừa nhận rằng mỗi một loại
chúng sanh đều tự có một
lãnh vực sinh tồn của chính chúng, nhưng, nhìn từ một
quan điểm khác thì, tất cả sáu loại hình thái
sinh tồn đó đều có thể
tồn tại ngay trong
nhân loại (kinh gọi là
Nhân thú hay
Nhân đạo).
Trời (Thiên):Là một loại ở trong
thiên đường vật chất, nhưng
sinh hoạt tâm linh của họ phát triển rất ít. Sinh mạng của họ sẽ
chấm dứt, và lúc mà họ phát hiện cái nhược điểm đó của chính mình thì họ sẽ bị khủng hoảng đến sửng sờ và
đau khổ đến cùng tột.
A Tu La:
Là một loại
chúng sanh thuộc
cảnh giới mà tánh khí
nóng nảy, tật đố, ưa
tranh chấp, có thể
tranh đấu liên lỉ
suốt đời và lại thiếu hẳn cơ hội để
suy gẫm về những
vấn đề (
phương diện)
tâm linh.
Loài Súc Sanh:
Là loài tánh tình
ngu độn,
đau đớn, và thiếu hẳn
trí năng sáng suốt.
Đời sống của chúng là một chuỗi
cắn xé, giành giật để
sinh tồn. Chúng cũng thường
bị bắt buộc làm
nô lệ cho những
chúng sanh khác
Ngạ Quỷ:
Là một
cảnh giới (loài) luôn bị
đau khổ bởi sự khát khao
thèm muốn dục vọng cực độ mà họ không bao giờ có thể
thỏa mãn. Vì lòng
keo kiệt,
bủn xỉn của chính họ mà không lúc nào họ không suy tìm
thức ăn, áo mặc và
vật dụng; dẫu thế, họ chỉ có thể tìm được một mẩu vụng nhỏ bé hoặc một mảnh giẻ rách mà thôi.
Chúng sanh trong Địa Ngục:
Thì
hoàn toàn bị sự nô dịch hóa bởi lòng
căm thù,
oán hận của chính họ, vì thế mà họ phải nhận không biết là bao nhiêu sự
cực hình tra tấn và
đau khổ một cách vô hạn.
Loài Người:
Tuy họ cũng có thể có đầy đủ một số mức độ của tất cả những
vấn đề đó, nhưng, họ dường như có
vừa đủ mức độ trộn lẫn cả khổ đau và
thông minh để có khả năng
vượt qua sự giao tranh
sinh tử và phát triển đôi chút khôn ngoan. Vì thế,
loài người là một loại
chúng sanh duy nhất khả dĩ có thể
tu tập và phát triển
Phật đạo.
Suy xét thật kỹ thì, số sinh vật được làm người thì không đươc̣ nhiều như những loại sinh vật khác, do đó, phải biết rằng được làm thân người là cả một điều
may mắn,
hy hữu. Nhưng, dù đã được làm thân người (
nhân thú) cũng không sao
tránh khỏi những
vấn đề chủ yếu như: Bệnh tật,
vô minh,
cầu bất đắc khổ (mong muốn
cầu xin mà không được
thỏa mãn là một thứ KHỔ) và sự chết, v.v...
Mặc dù
chúng ta có thể
nhận thấy được sự
đau khổ ở mặt
phiến diện nhưng, không phải bất cứ ai trong
chúng ta cũng có thể thể nghiệm được mức độ xung kích
cực độ của khổ đau nơi chính
bản thân mình. Dù vậy, nếu
suy nghĩ (thật
cẩn trọng) về
tính cách bao quát lan tràn của sự khổ đau
đang tồn tại, nó sẽ kích phát được
tâm từ bi của
con người và
đồng thời có thể khiến họ hưng khởi
thệ nguyện vĩ đại để
cứu độ tất cả sự
đau khổ của
chúng sanh.
Chúng ta cần thể hội một cách toàn triệt
trọng yếu tánh về sự phát triển
cần thiết của
trí tuệ để ra tay
cứu độ một cách hữu hiệu tất cả
chúng sanh, để tạo thành một thay đổi thật sự và
toàn diện cho cả TÂM lẫn CẢNH của tất cả
chúng sanh. Sự tri nhận một cách đầy đủ về nhu
cầu khẩn yếu của việc đạt tới
trí tuệ và
từ bi có thể làm
tăng cường sự mong muốn và
quyết tâm của
hành giả trong việc
tu tập (
pháp môn này), đồng lúc,
sử dụng một cơ hội quý giá để
thực hành Phật Pháp như là một
nhân thể thông minh lành mạnh, khang kiện.
2 – HIỆN TÁC GIAI ĐOẠN
(hay GIAI ĐOẠN HIỆN TƯỚNG)
Hiện tại, hành già đã được
chính thức bắt đầu tiến vào
phương pháp tu tập, giai đoạn này gọi là giai đoạn
hiện tướng bởi vì nó trình bày từng
bước một cái quá trình
xuất hiện của
hình ảnh mà mình
quán tưởng về
Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lúc bắt đầu, trước hết,
một lần nữa
hành giả phải
quán tưởng trong
hư không đầy dẫy
vô lượng chúng sanh.
Vô lượng chúng sanh này ngập tràn
toàn thể vũ trụ.
Hành giả tưởng tượng chúng đang ngồi trong một diện tích rộng lớn và tự khởi lên
tịnh tọa và
tu tập thiền định
cùng lúc với
hành giả.
Hành giả quán thấy trên đảnh đầu của mình và của cả
chúng sanh đều
hiện lên một đóa sen trắng tám cánh. Rễ của
hoa sen này sanh trong đầu của những
chúng sanh và mọc nhú lên từ nơi thiên đảnh huyệt (gọi là đầu đảnh môn xứ
Bà La Môn) của đầu nổi lên (mọc nhú lên). Lủng lẳng bình hành trên đầu cánh hoa là một
Nguyệt Luân (vầng trăng) màu trắng
tương tự như một
tọa cụ dùng để
ngồi thiền nhưng rấ bằng phẳng.
Trên những
nguyệt luân (vầng trăng) này
đột nhiên xuất hiện chủng tử HRÌH (đọc âm đồng vận như chữ free trong anh ngữ. Âm H
đại biểu cho lúc âm tiết đã
chấm dứt có một khí âm đoản xúc). Âm tiết của chữ này là sở tại
tinh túy của
Từ Bi và
Trí Tuệ của chư Phật. Lúc
quán tưởng chữ này, có thể
sử dụng bất cứ loại
văn tự nào cũng được, ví dụ: chữ Phạn thì: ;
Tây Tạng thì: ; hoặc phiên âm theo Anh ngữ thì là HRÌH. Có thể
quán tưởng chữ này trong một chiều cao một vài inches (phân Anh), đứng ở trên
nguyệt luân, mặt hướng về phía trước, màu nó thật khiết bạch và rất
quang minh rực rỡ ba động với ánh sáng,
tiếp nhận tinh lực linh hoạt nhở bởi
tinh chất Đại Bi mãnh liệt. Ánh sáng đó
rung động miên viễ́n và chiếu soi
toàn thể vũ trụ.
Sau đó chữ HRÌH này lại tự
động chuyển biến thành Hình Tượng hay
Pháp Tượng của
Bồ Tát Quán Thế Âm.
Đức
Quán Thế Âm có một màu da
quang minh rực rỡ và khiết bạch giống như màu sắc của một vầng thu nguyệt. Thánh thể của Ngài phóng chiếu
rực rỡ và trải ra năm màu
quang huy chói lọi của móng cầu vòng như trắng, xanh da trời, vàng, đỏ và xanh diệp (năm màu này là năm màu
đại biểu để cấu thành năm thứ
nguyên tố của
thế giới). Ánh sáng đó chiếu rọi
toàn thể vũ trụ. Gương mặt đức
Bồ Tát đang cười
hàm tiếu (vi tiếu) và hai mắt đều
hiển lộ chan chứa từ bi, đang
xót thương xem xét tất cả
chúng sanh trong
thế gian. Ngài có bốn cánh tay – Hai cánh tay
chấp trước ngực trong vị thế
kỳ đảo,
cầu kinh, khấn nguyện (namaskara).
Trạng thái này
thể hiện cho lòng chí kính đối với
vô lượng chư Phật. Tay phải vòng ngoài, cầm một
hoa sen tuyệt mỹ (
tượng trưng của
Bồ Tát), và tay trái vòng ngoài thì cầm một
chuỗi hạt pha lê (mala)
tượng trưng cho lòng
Đại Bi không ngừng nghỉ.
Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát ăn mặc theo
truyền thống thêu dệt bằng oanh lạc, tơ lụa và chân báu. Những thứ này
bao gồm cả khăn choàng, xiêm y,
áo choàng, v.v... Tất cả đều được chế tạo bởi nhữngloại tơ lụa và
châu báu hảo hạng tối thượng;
ngoài ra, Ngài còn trang sức thêm những loại nữ trang như: Xoan vòng, bông tai, kiềng đeo cổ, nhẫn, đai, xuyến. Ngài còn vận một tấm da nai bên vai trái để
tượng trưng cho
lòng từ bi của Ngài đối với tất cả
chúng sinh. Tóc của Ngài được bệnh thành những nhánh búi tóc nhỏ quấn vòng quanh đầu và tạo thành một cái đỉnh, phần tóc còn lại thì được xỏa xuống
tự nhiên. Ngài đội một bảo quan (chiếc mão làm bằng
châu báu), phía trước mão, ở trên có gắn một tượng nhỏ mày đỏ của
đức Phật A Di Đà. Phật
A Di Đà là bậc
thượng sư của
Quán Thế Âm Bồ Tát và là bậc
chí tôn trong chư Phật từ
liên hoa phóng sanh mà
Quán Âm Bồ Tát thuộc một trong phổ hệ này. Hầu hết trên bảo quang của những
tôn tượng Quán Âm, đều có một tượng nhỏ Phật
A Di Đà để
biểu thị lòng
tôn sùng chí kính đối với Phật
A Di Đà, một vị Phật
vô cùng trọng yếu.
Quán Âm Bồ Tát ngồi trong tư thế
Kim Cang tọa (Vajrasana), hai chân giao xếp vào nhau, bàn chân hữu gác trên đùi chân trái và ngược lại bàn chân trái gác trên đùi chân hữu. Ngài ngồi đâu lưng với vầng
nguyệt luân màu trắng. Vầng trăng đang ở đằng sau Ngài, sự
thanh lương,
quang huy,
rực rỡ của vầng trăng này
tượng trưng cho
tâm từ bi dùng để khắc phục sự
thống khổ,
nhiệt não (
nóng bức) của
tham ái.
Những lời
tối hậu của tiết này là hướng dẫn, chỉ dạy cho
hành giả phải
nhận định một cách
minh bạch rằng đức
Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đầu của
hành giả không chỉ là một huyễn tượng được sanh ra từ
sự quán tưởng mà chính là đức
Quán Âm đích thật.
Hành giả cần phải quán tưởng rằng:
Bồ Tát này là tất cả sự
tinh anh của
trí tuệ của chư Phật (tức đối tượng quy đích thực của
hành giả).
Hình tượng được
quán tưởng như thế thì, tức khắc
trở thành Phật Tánh tối cao, đầy đủ những oai lực không gì
so sánh nổi và có thể
thị hiện sự
cảm ứng linh hiện trực tiếp với
hành giả.
3 – CẦU NGUYỆN ĐỨC QUÁN ÂM
Những hàng văn
kế tiếp sau đây là loại văn
cầu đảo có tính
truyền thống để
xưng tụng đức
Quán Âm mà trong đó
tổng kết lại
tính cách đại phẩm đức
trọng yếu của
Quán Thế Âm Bồ Tát.
Viên Mãn Phật
tức chỉ đức Phật A D Đà.
Một mặt,
hành giả phải khắc nhớ trong tâm tất cả những
quán tưởng đã
thực hiện từ trước, mặt khác, phải đọc trong nhiều lần (biến) lời Kệ
kỳ đảo (
cầu nguyện) này. Kệ văn tụng này biểu đạt cách
căn bản lòng
tôn kính và sự sùng ngưỡng của một
tâm cảnh hết sức cao xa sâu thẳm đối với bậc
Bồ Tát; loại
tâm cảnh này khác hẳn và nghịch phản với cái tâm hồ̃n loạn dẫy đầy
tham dục của tất cả
chúng sanh đang trôi lăn trong
luân hồi trong
sanh tử. Vì thế,
hành giả nên khẩn thiết
thỉnh cầu Bồ Tát ban cho sự
che chở và
gia bị.
4 – BIẾN HÓA VÀ TRÌ CHÚ
Đoạn văn ở trước đã tường thuật sự khẩn cầu và nguyện thiết, cả hai đều
biểu thị:
Hành giả đã chuẩn bị
thành thục và đã
đạt đến giai đoạn sẵn sàng ban phát, thi thiết,
thực hiện tâm Từ Bi. Vì thế, trong tâm
Bồ Tát tự nhiên sanh khởi niệm đầu
cứu khổ tất cả
chúng sanh đang
trầm luân trong bể khổ
sanh tử. Ánh sáng bắt đầu được phóng ra từ
thân thể thế giới. Ánh sáng này có thể
quét sạch tất cả những
trạng huống (
tình trạng,
vấn đề)
hỗn loạn, sự
thống khổ hư huyễn của
thế gian được tạo thành bởi
vô minh lầm lỗi nơi
chúng ta.
Hành giả tưởng tượng
toàn thể ngoại cảnh (
thế giới vật lý) đều được ánh sáng
quang minh chiếu soi. Ngay lúc đó tất cả những việc chung quanh
hành giả biến thành những phẩm vật
vô cùng mỹ lệ và
hết sức ý nghĩa. Nói cách khác, tất cả đều
trở thành những trang sức phẩm
trang nghiêm của
cõi Tịnh Độ
Cực Lạc (là chỗ ở của Phật
A Di Đà và
Quán Âm, và những bậc
Bồ Tát thiện tri thức) thí như căn phòng mà
hành giả đang ngồi đang
biến thành cung điện
thủy tinh, một
cảnh giới thích ứng cho bậc
giác giả.
Đồng thời, tất cả
chúng sanh ở
thế gian được
chuyển hóa bởi luồng
quang minh. Và dạng thức
giác ngộ nhất của họ được
trở thành một
thành tựu viên mãn,
cứu cánh.
Thân họ
biến thành giống như thân của
Quán Âm. Bất cứ những gì họ nói đều
biến thành Lục Tự Chơn Ngôn của
Quán Âm. Và bất cứ những gì họ đang
suy nghĩ cũng đều là sự hoạt dụng tự phát của
Bồ Đề Tâm.
Hiển nhiên,
bản thân của
hành giả cũng được
chuyển hóa y hệt như vậy.
Một cách
dễ hiểu hơn, tất cả những
hiện tượng trong
vũ trụ đều
chuyển biến thành những hình thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi
cảnh giới của một bậc
thánh giả. Ánh sáng (
hào quang) của
Bồ Tát đã tẩy sạch tận gốc
vọng tâm của
chúng ta và làm cho tất cả những
đối lập tánh
nhị nguyên của
thế gian bị
tiêu hủy một cách
toàn diện. Tất cả những âm thinh,
sắc tướng và
tư tưởng đều
biến thành vô phân biệt để cùng
trở thành bất khả phân với
Không Tánh.
Lúc
tâm cảnh đã
đạt đến một cảnh khiết tịnh như thế,
hành giả liền đã có thể bắt đầu tuyên hô
Thần Chú. Số biến của Chú trì tụng càng nhiều càng tốt, nhưng
tối thiểu cũng
cần phải có 100 biến. Trong khi tuyên hô trì tụng
Thần Chú,
đặc biệt hành giả cần phải giữ gìn toàn thể sự quán tưởng như vừa
diễn tả.
Lục Tự Chơn Ngôn Án Ma Ni Bát Di Hồng (OM MANI PADME HÙM) này được coi là chứa đựng sự tập trung của tất cả
năng lực thiêng liêng phát từ lòng
Đại Bi và sự Đại
Diệu Dụng của
Quán Âm Bồ Tát. Nói theo
nghĩa đen thì chữ ÁN
bao gồm 5 loại
hình tượng và
trí tuệ của Phật;
MA NI có nghĩa là
Bảo Châu; BÁT DI có nghĩa là
Liên Hoa; hợp hai
ý nghĩa này
với nhau có nghĩa là Ngài là bậc Thủ Trì
Liên Hoa và
Bảo Châu, và đây cũng đích thị là
biệt hiệu khác của
Quán Âm. HỒNG: có
công năng bảo hộ lục đạo chúng sanh. Như vậy, theo
truyền thống,
ý nghĩa của Luc̣ Tự
Chơn Ngôn này là: “Hỡi bậc
Đạo Sư của
Ngũ Phật Thân và
Ngũ Trí Như Lai, bậc Thủ Trì
Liên Hoa và
Bảo Châu, xin Ngài
hoan hỷ gia hộ cho
lục đạo chúng sanh vượt qua các
thống khổ.”
(Xin chú ý, thường thì
chơn ngôn này được dịch là: vạn tuế
Bảo Châu trong
Liên Hoa: đây là một chuyển dịch
sai lầm)
Cũng có người cho rằng
Lục Tự Chân Ngôn tương đương với
lục thú và
tương ứng với lục sắc,
lục dục,
lục trí, lục Phật. Có nhiều sự
giải thích khác nhau về Chú này nhưng không
cần thiết để phải nghĩ đến tất cả
ý nghĩa ấy trong lúc trì tụng.
Sức mạnh đơn thuần cố hữu của chỉ nội
âm thanh của
Lục Tự này sẽ
tự nhiên truyền đạt Trí Huệ và
Từ Bi của
Quán Thế Âm Bồ Tát cho
hành giả, và từ đó, qua
hành giả, nó
truyền đạt đến tất cả
chúng sanh.
(Chú thích: OM đọc giống như chữ OM trong chữ Việt, MANI đọc như MANI; còn chữ PADME có thể đọc là PADME hay đọc theo
Tây Tạng là PÊ MÊ, còn chữ HUM thì đọc lơ lớ giữa HUM và HUNG trong chữ Việt)
5 – GIAI ĐOẠN HOÀN THÀNH
Sau khi đã
hoàn tất giai đoạn tuyên trì
thần Chú, thì
toàn bộ quán tưởng đều đã tan biến để hòa nhập vào
Không Tánh. Như thế,
hành giả đã được chỉ dạy cách
thể hiện Chân Tánh khế hợp theo nguyên
lý cao lớn nhất của
Phật Đạo. Chính phần
Thiền Quán này, kết quả của việc
quán tưởng từ đầu đến đây,
thực ra đã không khác gì với những sự
tham thiền khác như sự
tham thiền trong
Thiền Tông hoặc Minh Kiến (Vipashyana).
Có thể
giải thích rằng: Vì mình hiện đang có được
Trí Huệ Giác Ngộ của
Quán Thế Âm Bồ Tát, nên mình tế nhận được
Không Tính của tất cả mọi sự trong
vũ trụ, kể cả
Không Tính của việc
quán tưởng.
Tâm thức, do đó,
trở thành hoạt dụng
tự nhiên trở lại với
tự tính, tức linh túy của chính sự
Giác Ngộ. Tất cả mọi kiến trúc
nhị nguyên của
Tâm Thức đã được siêu
vượt qua hẳn. Bất kỳ là
thọ giả,
tác giả hay
sở tác nghiệp sẽ đều bị đánh mất
ý nghĩa. Không có một sự vật gì để nắm bắt đeo níu (
chấp thủ), và ngay cả
cảnh địa của sự khoái lạc cũng chẳng có gì để có
thể tham trước đeo níu. Ngược lại,
hành giả thoát giải
buông bỏ theo
tự tánh, và
tự tánh đây là
chân tánh nguyên uyên.
Hành giả nên trụ lại trong
cảnh giới tự
giải thoát này càng lâu càng tốt bởi, nó vốn là phần tối
trọng yếu trong pháp tu.
6 – TU XONG ĐỨNG DẬY (XUẤT ĐỊNH)
Lúc
xuất định (ra khỏi cảnh Định) thì mình
trực nhận rằng tất cả mọi sự đều thuộc về
đạo trường mạn đà la của
Quán Thế Âm Bồ Tát. Mình
nhận thấy rằng tất cả
chúng sanh và tất cả
hình tướng đều là tự thân của
chính Quán Âm. Tất cả
âm thanh đều được
lãnh hội như là
Lục Tự Chơn Ngôn. Tất cả
tư tưởng đều được tri nhận như là
thành phần thuộc về
Từ Bi và
Trí Huệ của
Quán Thế Âm.
Xuất phát từ sự
cảm ứng được sanh ra bởi kết quả
tu chứng của
sự quán tưởng,
hành giả nhìn thấy
thực tế một cách cao quý sâu thẳm và mới lạ. Ông ta nhìn tất cả sự vật bằng một cái nhìn thuần tịnh,
sáng suốt và
như thật.
Như thế, bằng mọi cách có thể, càng nhiều càng tốt,
hành giả nên đem
cảnh giới giác ngộ đã
đạt được trong lúc
quán tưởng hòa nhập vào sự
sinh hoạt hằng ngày. Điều này có nghĩa là
hành giả cần phải tránh xa (phủ nhận)
tư tưởng nhị nguyên và lòng
tham trước níu những đối tượng
vật chất. Ngược lại,
hành giả cần
bồi dưỡng tâm Từ Bi đối với tất cả
chúng sanh. Phải xem họ như bạn lành để ra tay giúp đỡ,
tế độ. Đồng lúc, luôn luôn ghi nhớ rằng: tất cả mọi
hiện tượng đều chỉ là hư huyễn.
7 – HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Bất cứ
pháp môn nào trong
Phật giáo, theo
truyền thống, khi
hoàn tất việc
tu tập,
nhất định phải bày tỏ lời
hồi hướng này để
biểu thị một điều rằntg: tất cả những côngt đức nào mình gặt hái được trong lúc
tu tập đều cần được mang ra
cống hiến,
chia xẻ cho tất cả
chúng sanh. Hệt như khi bắt đầu
tu tập,
hành giả đã phải xác định một cách khẳng quyết rằng:
hành giả tu tập Phật pháp không phải vì mục địch nhằm
tư lợi bản thân mà chính là vì sự
lợi lạc của tất cả
chúng sanh.
Hành giả thệ quyết sẽ
nhất định thành
Bồ Tát như
Bồ Tát Quán Âm để
cứu độ tất cả
chúng sanh và làm cho mỗi một
chúng sanh đều
đạt được tâm thức giác ngộ.
Sau hết, cũng nên có những lời
thích đáng về sự
tu tập lòng Từ Bi
trong đời sống
hằng ngày: Phần đông, những hành nhơn
sớm muộn gì cũng phát giác và
liễu ngộ được rằng: những
phương pháp tối ư
thông minh và
vô cùng hữu hiệu để
độ người đã không phải là những
phương pháp dễ dàng.
Mục đích của
Bồ Tát Hạnh là
vĩnh viễn giúp đỡ tất cả
chúng sanh đều
chứng thành chánh giác. Nhưng
nếu có thể tri nhận
phương pháp tốt nhất để
đạt đến mục đích tối cao thì nó đòi hỏi rất nhiều
trí tuệ và
phương tiện, và rất có nhiều
lỗi lầm có thể dễ dàng vấp phải đối với những kẻ
sơ học. Ví dụ: Đương nhiên,
tuyệt đối không ai trong
chúng ta lại muốn
hợp lực với
kẻ cướp để
phạm tội. Một cách tổng quát:
Tuyệt đối không thể vì
Từ Bi mà cổ súy, khích lệ người khác
nỗ lực làm cái công việc
lợi kỷ (lợi mình) hoặc giúp đỡ họ
tăng trưởng bản ngã và khiến họ kẹt vướng hơn nữa vào những sự
biến động xung đột của tình cảm rối rắm.
Vì thế, người
sơ học nên
đặc biệt chú trọng đến
thái độ nội tâm mà định thời
tu tập. Và, đây là một điều
hết sức trọng yếu:
Hành giả không nên có quá nhiều
tham vọng,
hoài bảo lớn và cũng không thể
lãng mạn tự cho mình là một
Cứu Thế Đại Giáo Chủ, làm
Vô Thượng Sư cho tất cả
mọi người. Dù
ý nguyện trong
nội tâm của
hành giả thực ra là phát triển tự thân để
thành đạt lý tưởng sâu thẳm cao cả này, nhưng trong
thời gian đầu, thượng sách là chỉ nên thay đổi chút đỉnh cung cách lề lối
xử sự bên ngoài. Một cách
đơn giản,
hành giả chỉ cần
trở thành một người có lòng
ưu ái thân thiết hơn, thông thường hơn và đừng quên
lòng nhân từ của mình đối với cả loài
thú vật. Nên tránh hẳn sự giết hại (
sát sinh) dù đó là một côn trùng nhỏ, hay một con gián. Như thế,
dần dần hành giả có thể
trở thành một người có thể làm chủ và
chế ngự được những
cảm xúc tình tự và những
vấn đề (
phức tạp khó khăn) của chính mình.
Ngã chấp dần dần sẽ
giảm khinh và, đối với những nhu yếu, tình huống của người khác cũng sẽ được mình tri nhận,
thông cảm cách
rõ ràng sáng suốt hơn.