Regular Practice of Tara Called the Source of All Activities (Green Tara)
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH THIỀN QUÁN QUAN ÂM,
Suối Nguồn Của Vạn Pháp (Lục-Ngọc-Quang Quan-Âm)
Do Đại sư Khenchen Konchog Gyaltshen biên soạn, và cùng với Michael G. Essex
chuyển từ Tạng-ngữ sang Anh-ngữ tại thiền viện Ratna Shri (1993)
Tâm-Bảo-Đàn chuyển từ Anh-ngữ sang Việt-ngữ lời giới thiệu, phần 2 & 4
để cúng dường bổn sư Garchen Triptul Rinpoche (2004)
Chơn-Pháp Nguyễn Hữu Hiệu chuyển Việt-ngữ phần 3 & 5 (2002)
Drikung Mahayana Center
1. Lời Giới Thiệu Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát (Sanskrit: Avalokiteshvara; Tạng ngữ: Chenrezig)[1] chính là
hiện thân của
lòng từ bi vô lượng của
đức Phật A-Di-Đà (Sanskrit: Amitabha), và đức mẹ Quan-Âm Bồ-tát (Sanskrit: Tara)[2] chính là
hiện thân của
trí tuệ vô lượng của đức Quán-Thế-Âm. Đức Quán-Thế-Âm (Avalokiteshvara/Chenrezig) đã
vun trồng một trí dũng không gì ngăn ngại được, cốt đem lại
lợi lạc cho tất cả
chúng sinh cho đến tận ngày cõi ta-bà (Sanskrit: samsara) tuyệt dứt. Từ vô thỉ vô chung, ngài đã độ cho
hằng hà sa số chúng sinh đạt đến Niết-bàn.
Tuy thế, số
chúng sinh trôi dạt trong biển trâm luân vẫn không
thuyên giảm. Một ngày kia, ngài
kiệt sức và nhỏ lệ khóc. Những giọt nước mắt của ngài đã dâng trào từ niềm
thống cảm thương xót chúng sinh phải hứng chịu xiết bao
đau khổ.
Hai đức Quan-Âm (Tara) và Bhrikuti đã đản sanh ra từ chính hai giọt lệ của đức Quán-Thế-Âm Avalokiteshvara! Ủức mẹ Quan-Âm (Tara) đã nói vớI đức Quán-Thế-Âm rằng, ‘Tôi xin
che chở cho những kẻ sống trong
sợ hãi và
đau khổ nơi cõi ta-bà. Xin đừng lo ngại, tôi nguyện xin
che chở họ.’ Nương vào
lờI nguyện đó, đức mẹ Quan-Âm đã luôn
sát cánh đức Quán-Thế-Âm
cứu khổ cứu nạn, đem lại
lợI lạc cho tất cả
chúng sinh.
Đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na (Sanskrit: Vairochana) đã từng soạn ra ‘Hai Muơi Mốt Đoản Thi
Tán Dương Quan-Âm,’ và đã truyền dạy rất nhiều bộ pháp Mật-điển (Tantric) về Tara Quan-Âm . Đức mẹ Quan-Âm (Tara) đã
hoá hiện dưới vô vàn
hình tướng, với rất nhiều khuôn mặt và cánh tay khác nhau[3[ . Acharya Ashvagosh đã từng nói, ‘ứng thân của Quan-Âm đã nhập thể bằng nhiều cách, dưới nhiều hình dạng, khi thì là một vị Bà-la-môn (Sanskrit: Brahma), thần Vishnu, thần Shiva, mang hình dạng hung nộ lẫn hình dạng
an bình, rồi khi thì là Uma Deva, khi là Mamaki, Tara, Pantari,
đức Phật Lotsani, và còn nhiều nhiều nữa. Mọi nhập thể
hoá hiện của ngài đều
tùy thuộc vào
căn cơ của
chúng sinh. Ngài là chỗ dựa cho
ứng thân của tất cả các vị nữ Pháp-trì
tâm linh. Tại xứ Ấn, ngài đã nhập thể làm hoàng hậu Mayadevi, là mẹ của
đức Phật Thích-ca-mâu-ni, hoặc nhập thể làm Gelongma Pelmo và công-nương Mandarawa. Tại xứ Tây-Tạng, ngài nhập thể làm thánh- nữ (Tạng ngữ: dakini) Yeshe Tsogyal, Machig Lobdron, Achi Chokyi Drolma, cũng như đã từng nhập thể
trở thành rất nhiều
ni sư trụ trì của
tu viện Drikung Terdon. Chỉ cần lắng nghe tên gọi của ngài với
tâm chí thành là ta cũng sẽ
thoát khỏi tám (8) hoặc mười sáu (16) hiểm nguy,
sợ hãi [4]
trong đời. Thiền-quán theo
phương pháp Quan-Âm (Tara) và
nhất tâm tụng đọc
minh chú Quan-Âm (Tara) sẽ giúp
tiêu trừ được hết thảy
chướng ngại. Ta sẽ được đản sanh nơi
Tây Phương Cực Lạc (Tạng ngữ: Dewachen) là
cảnh giới trang nghiêm tịnh độ của
đức Phật A-Di-Đà.’
2. Phương Pháp Thiền Quán & Trì Chú Quan-Âm
(Lục-Ngọc-Quang Quan-Âm)
Khai kinh:
OM SWASTI
Hiện thân của tất cả các pháp-sự của chư Phật
Chánh Đẳng Chánh Giác, người mẹ hiền
tuyệt vời của chư Phật trong
ba đời, niềm
hy vọng tối cao của
chúng sinh trong
thời mạt pháp.
Con xin nuơng tựa nơi đức Quan-Âm tôn quý. Xin cho con
đạt được những
thành tựu thế gian và
xuất thế gian.
[Ở nơi
thanh tịnh thuận cho việc
tu tập, trước linh ảnh hoặc
tôn tượng của đức Quan-Âm, hãy
trang nghiêm hành lễ cúng dường. Ngồi trong một tư thế
thoải mái với tâm
buông xả.
Duy trì tâm nơi ‘bốn pháp chuyển tâm’ [5]
căn bản,
quy y nơi
Phật Pháp Tăng và
phát khởi tâm Bồ-đề. Sau đó, bắt đầu
thực tập pháp
quán tưởng tam thân của vị Pháp-trì
tâm linh Quan-Âm (deity yoga)].
Cho đến khi con
đạt được Chánh Đẳng Chánh Giác, con và tất cả xin nương tựa nơi chư vị
thánh tăng,
hiện thân của Tam-Bảo. Con xin
phát khởi hai Bồ-Đề-tâm [6], nguyện
che chở hộ trì cho tất cả
chúng sinh thoát khỏi mọi
sợ hãi trong cõi
luân hồi (lập lại
lời nguyện 3 lần).
OM SHUNYATA JANA BAZRA SVABHAVA ATMA KOHAM (tụng
minh chú 1 lần)
Quán tưởng:
Vạn pháp, kể cả tâm bám chấp, hoà tan vào [
trạng thái] Không rỗng lặng. Từ [
trạng thái] Không rỗng lặng đó
hoá hiện ra
muôn vàn sự
che chở bao dung. Ở giữa, là một toà sen[7] . Trên toà sen là
chủng tự TAM ( ) màu xanh lục, chính là
chân tánh của
tâm thức con.
[Từ
chủng tự TAM], ánh sáng phóng toả rạng ngời, tịnh hoá hết mọi chướng duyên của
chúng sinh. Ánh sáng đó phóng
tỏa ra cúng dường muôn chư Phật và
trở lại về [nơi
chủng tự TAM]. Con
trở thành đức Quan-Âm (Tara) với một khuôn mặt và hai cánh tay trong tư thế bắt ấn ‘ban truyền’ (giving mudra), [tay trái] cầm một đoá sen, hai chân xếp lại trong tư thế bán-già,
toàn thân mang màu xanh lục pha sắc xanh biển,
oai nghi và trẻ trung tươi thắm, khoác y bằng lụa, mang nhiều
bảo vật trang sức , và phóng toả ánh sáng rạng ngời
biến thành Báo-thân Phật (Sanskrit: Sambhogakaya). Từ ba
chủng tự [OM màu trắng, AH màu đỏ, HUNG màu xanh biển] ở ba nơi [trán, cổ họng và tâm điểm[8] ], ánh sáng
rực rỡ phóng tỏa khắp
mườI phương,
nhiếp thụ tất cả
trí tuệ,
từ bi và
pháp sự của muôn chư Phật, rồi [ánh sáng ấy]
trở về hoà tan vào chính con. Con
trở thành hiện thân của chư
Như Lai đã tựu thành trong
ba đời.
Minh chú cúng dường (tụng 1 lần từ đầu đến cuối):
OM ARYATARE SA-PARI WARA ARGAM PRATITSA SVAHA (nước rửa mặt)
OM ARYATARE SA-PARI WARA PADYAM PRATITSA SVAHA (nước rửa chân)
OM ARYATARE SA-PARI WARA PUSHAM PRATITSA SVAHA (
hoa thơm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA DHUPAM PRATITSA SVAHA (
trầm hương)
OM ARYATARE SA-PARI WARA ALOKAM PRATITSA SVAHA (đèn bơ)
OM ARYATARE SA-PARI WARA GHANDHE PRATITSA SVAHA (
nước thơm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA NAIWITE PRATITSA SVAHA (
thực phẩm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA SHAPTA PRATITSA SVAHA (nhã nhạc)
Tán dương:
Chư vị trong các
cõi Trời và A-tu-la
Cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Quan-Âm,
Ngài đã
thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác thoát khỏi mọi
chướng ngại,
Con xin
đảnh lễ và
tán dương Mẹ hiền Quan-Âm.
Quán tưởng trước khi trì tụng
minh chú:
Ở giữa tâm điểm [9] của con là một
tòa sen. Trên toà sen là
chủng tự TAM có câu
minh chú (Om Tare Tuttare Ture Svaha)
xoay quanh [theo chiều kim đồng hồ], phóng toả ánh sáng rạng ngời đến muôn chư Phật,
nhiếp thụ tất cả ân điển của Phật rồi ánh sáng ấy thu
trở về hoà tan trong con, khai mở tánh hợp nhất của Sắc - Không (appearance and emptiness), bởi đó là
chân tánh của
vô lượng phẩm hạnh của muôn chư Phật.
Một lần nữa, từ câu
minh chú (Om Tare Tuttare Ture Svaha), vô vàn
tia sáng chiếu toả rạng ngời,
chuyển hoá hết tất cả mọi
hiện tượng trong trời đất thành
cảnh giới Tịnh-Độ, tất cả mọi
chúng sinh đều
biến thành Quan-Âm, người người đều trì tụng
minh chú Quan-Âm.
OM TARE TUTTARE TURE SVAHA (trì tụng
minh chú càng nhiều lần càng tốt)
Minh chú cúng dường (lần 2):
OM ARYATARE SA-PARI WARA ARGAM PRATITSA SVAHA (nước rửa mặt)
OM ARYATARE SA-PARI WARA PADYAM PRATITSA SVAHA (nước rửa chân)
OM ARYATARE SA-PARI WARA PUSHAM PRATITSA SVAHA (
hoa thơm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA DHUPAM PRATITSA SVAHA (nhang thơm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA ALOKAM PRATITSA SVAHA (đèn bơ)
OM ARYATARE SA-PARI WARA GHANDHE PRATITSA SVAHA (
nước thơm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA NAIWITE PRATITSA SVAHA (
thực phẩm)
OM ARYATARE SA-PARI WARA SHAPTA PRATITSA SVAHA (nhã nhạc)
Tán dương (lần 2):
Chư vị trong các
cõi Trời và A-tu-la
Cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Quan-Âm,
Ngài đã
thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác thoát khỏi mọi
chướng ngại,
Con xin
đảnh lễ và
tán dương Mẹ hiền Quan-Âm.
Kết thúc:
Vạn pháp, tất cả mọi
hiện tượng bên ngoài và bên trong con,
biến thành ánh sáng và tan hoà vào trong con. Con cũng tan vào Pháp-Giới
chân như (Sanskrit: Dharmadhatu), rỗng không và
thuần khiết, vào ánh tịnh quang (Sanskrit: Dharmata) của Pháp-giớI -- niềm
hỷ lạc viên mãn. Tất cả an trụ trong Đại-Thủ-Ấn (Sanskrit: Mahamudra)-- không là gì khác ngoài
bản tâm chân tịnh .
Hãy
an trú trong
trạng thái chân tịnh của tâm .[10]
Hồi hướng:
Nương vào
công đức này, cũng như
công đức đã tạo trong cõi
luân hồi và
Niết Bàn, và nương nơi
bản tâm tự khởI, xin cho tất cả
chúng sinh đã từng như những bà mẹ của con[11] , vô vàn
như không gian
vô biên,
thành tựu tuớng hảo của Quan-Âm tôn quý, loại dứt được tâm
phân biệt,
thoát khỏi ngũ độc [12], an trụ trong
đại trí huệ viên mãn.
3. Hồi hướng nguyện
(trích Kinh
Nhật Tụng Tông Phái Drikung Kagyu do Chơn-Pháp Nguyễn Hữu Hiệu chuyển từ Anh ngữ sang Việt ngữ)
Hồi hướng nguyện:
Dorje Chang, Tilopa, Naropa,
Marpa, Milarepa, Pháp-vương Gampopa,
Phagmodrupa và Pháp-vương Drikungpa,
Xin
ban cho chúng con ơn phúc tột đỉnh
tốt lành cuả chư Lạt-ma dòng Kagyu.
Do hạnh đó, xin cho con
thành tựu toàn tri Nhờ chiến thắng được mọi
kẻ thù -- sự
điên đảo hoài nghi.
Xin cho tất cả những ai đang
trầm luân trên sóng sinh, lão, bệnh, tử
Vượt qua được biển cả
luân hồi khổ ải.
Bồ-đề tâm vương -- tâm
tối thượng, tâm
vô cùng trân quý,
Nơi tâm ấy chưa sinh, xin cho tâm ấy nẩy sinh,
Nơi tâm đã sinh, cho cho tâm ấy đừng bao giờ
thoái chuyển,
Mà
vĩnh viễn mỗi ngày một vươn lên, vươn lên cao hơn.
Con nguyện cầu cho chư Lạt-ma được khang ninh,
Con nguyện cầu cho chư Lạt-ma được
thọ trường,
Con nguyện cầu cho Pháp-sự của Thầy trải rộng,
lan xa,
Con nguyện cầu cho con chẳng phải
xa cách Người.
Như đức Văn-Thù, đấng chiến thắng, đã tựu thành
tối thượng,
Và như đức Phổ-Hiền [cũng đã tựu thành như thế],
Con xin theo chân của các ngài,
Và xin
hồi hướng hết thẩy
công đức cho muôn
chúng sinh.
Nhờ ân điển của
đức Phật, đấng đã tựu thành
tam thân,
Nhờ ân điển của
chân đế diệu Pháp bất biến như thị,
Nhờ ân điển của Tăng-bảo bất khả phân ly,
Xin cho
công đức mà con được
dự phần đơm hoa kết trái.
Kinh thường tụng tên ‘Dakorma’:
Nhờ bởi
công đức mà chính con và tất cả
chúng sinh Đã
tích lũy trong
ba đời trong cõi
luân hồi và cả ở
Niết Bàn,
Và cũng nhờ bởi
thiện căn vốn bẩm sinh,
Xin cho con và tất cả
chúng sinh đốn ngộ Bồ-Đề
tối thượng,
viên mãn, toàn bích và trân quý.
Nguyện cầu cho
giáo huấn của đức Drikungpa, Ratnashri,
Đấng
toàn giác, bậc thầy của
pháp duyên sinh,
Tiếp tục tăng trưởng qua
công lao nghiên cứu,
thực hành, chiêm niệm và
thiền định Cho đến khi cõi
luân hồi cáo chung.
4. Khẩn nguyện Mẹ hiền Quan-Âm, bảy chư vị Hộ-thần
Một lần nọ, khi đã
thành tựu quả vị Phật, Pháp-Vương Jigten Sumgon thấy bảy vị Quan-Âm
thị hiện trong khi ngài đang lưu lại ở một hang động tên Echung. Khi ấy, ngài liền soạn bài khẩn nguyện dướI đây. Bài nguyện này
chan chứa vô vàn
vô lượng ân điển.
Trong Pháp-Giới
vô sanh,
Có đức mẹ Quan-Âm tôn quý ngự trị
Ngài ban
hạnh phúc an lạc cho tất cả
chúng sinh Con xin ngài
che chở hộ trì con
thoát khỏi mọi
sợ hãi.
Vì không
hiểu rõ chính
sắc thân này là Pháp-thân,
Tâm ta bị bao phủ bởi bao
phiền não Chúng sinh muôn loài -- những bà mẹ của ta[13], đang lang thang khắp nẻo
luân hồi Xin đức mẹ Quan-Âm Tôn-Quý hãy
che chở họ.
Khi
ý nghĩa của
Đạo Pháp chưa nở hoa
trọn vẹn trong tim ta,
Ta bị
lôi cuốn theo
ý nghĩa, lời lẽ tầm thường của
thế gian Có kẻ bị lừa dối
tin theo giáo điều Xin đức Quan-Âm Toàn-Bích hãy
che chở họ.
Chứng ngộ được
bản tâm thật là điều rất khó
Có kẻ tuy
chứng ngộ được nhưng lại không biết
thực hành Để cho tâm họ lao xao
chạy theo những vọng động
thế gian Xin đức Quan-Âm Hồi-Nhớ hãy
che chở họ.
Trí tuệ vô phân biệt chính là
bản tâm tự khởi
Nhiều kẻ vì
thói quen bám chấp
đối đãi Bị
trói buộc, không thể nào khác
Xin đức Quan-Âm Bình-Đẳng-Trí hãy
che chở họ.
Cho dù có kẻ
an trú trong tịch tịch Không (Sanskrit: Shunyata)
Nhưng họ không
thấu triệt được
pháp duyên sinh của
định luật nhân quả Họ bị mê mờ không hiểu được đâu là
điểm tựa cho
tri giác Xin đức Quan-Âm Toàn-Giác hãy
che chở họ.
Tự tánh của
không gian là
vô biên Tựu chung tất cả chẳng có gì khác hơn điều này
Cho dù như thế, biết bao
hành giả và Phật-tử không thấu hiểu như vậy
Xin đức Phật-mẫu Toàn-Bích hãy
che chở họ.
5. Kinh hồi hướng của đức Jigten Sumgon
(Rick Finney cùng đại-sư Khenpo Konchog Gyaltshen
chuyển từ Tạng-ngữ sang Anh-ngữ)
(trích Kinh
Nhật Tụng Tông Phái Drikung Kagyu do Chơn-Pháp Nguyễn Hữu Hiệu chuyển từ Anh ngữ sang Việt ngữ)
Kính bạch bổn sư và chư Lạt-ma
quang vinh,
thiêng liêng, khả kính và tôn quý thuộc bổn tông,
Kính
bạch thánh hội chư Hộ-thần, thánh hộI chư Phật, chư Bồ-tát,
du-già sư, nữ
du-già sư, nữ không-hành ở
thập phương thế giới,
Xin hãy lắng
nghe lời nguyện của con!
Nhờ
uy lực của
thiện căn rộng lớn,
Xin cho con làm
lợi lạc chúng sinh bằng thân, khẩu, ý.
Xin cho những
phiền não do tham, sân, si,
kiêu mạn và ganh tị đừng khởI lên trong tâm con.
Xin cho những
ý tưởng về
danh vọng,
địa vị,
của cải, nhục vinh, và những
ưu tư về
đờI sống này đừng khởi lên dù chỉ trong giây lát.
Xin cho suối tâm con
chan chứa yêu thương,
từ bi và tâm Bồ-đề,
Và, nhờ đó, xin cho con
trở thành một
đạo sư Với
đức độ ngang bằng
không gian vô biên.
Xin cho con
đạt được Đại-Thủ-Ấn
tối thượng ngay
trong đời này.
Xin cho những khổ đau dằn vặt đừng khởi lên ngay cả trong giây phút con
lâm chung.
Xin cho con không phải kinh qua một cái chết
phi thời.
Xin cho con được chết một cái chết
hân hoan,
hỷ lạc trong
linh quang bừng sáng của Chân-tâm
Và trong Pháp-tính rạng ngời cùng khắp.
Xin cho con,dù có thế nào, cũng
thành tựu Đại-Thủ-Ấn
tối thượng vào giây phút
lâm chung hay trong thân Trung-Ấm.
______________________________________
Theo lời khẩn cầu
liên tiếp của nhiều
hành giả, quyển cẩm nang hướng dẫn
pháp môn thiền quán và trì tụng Quan-Âm này đã được
đại sư Khenpo Konchog Gyaltshen Rinpoche
biên soạn vào năm 2120 theo Đại-Vương Tạng-lịch, Rabjung 17, là năm Hải Điểu, vào ngày 28 tháng Giêng (tức ngày 20 tháng ba Dương-lịch). Một số bài
hồi hướng nguyện cũng đuợc thêm vào cho phần
thực hành thêm
phong phú. Nguyện đem
công đức này
hồi hướng cho tất cả mọi
chúng sinh, sơ căn thì
thoát khỏi mọi tai hoạ nhiễu nhương và sau hết thảy, xin cho tất cả
thành tựu đạo quả vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sarva Mangalam.
Tâm-Bảo-Đàn chuyển từ Anh-ngữ sang Việt-ngữ để
cúng dường bổn-sư Garchen Triptul Rinpoche tôn quý,
Hoá Thân đời thứ tám,
hiện thân của
lòng từ bi vô lượng của Quan-Âm. Nguyện cho tất cả
chúng sinh đều đón nhận được tình thuơng
bao la tựa
không gian vô biên đó.
Hoàn tất ngày 21 tháng 2, 2004 Duơng- lịch,
nhân dịp Nguyên-Đán năm Mộc-Thân Tạng-lịch, tại Maryland, Hoa Kỳ. Bản tiếng Việt do
trung tâm Drikung Mahayana Center ấn tống.
Chú Thích [1] Avalokiteshvara (Sanskrit) hay Chenrezig (Tạng-ngữ) chính là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát, hay Quán Tự Tại Bồ-tát, hay Quan Âm Đại Sĩ, thông thường được mô tả hoặc thị hiện dưới dạng ‘nam’ như trong chú Đại Bi hay trong Bát Nhã Tâm Kinh, v.v...
[2] Tara (Sanskrit) hay Dokma (Tạng-ngữ) hường được mô tả hoặc thị hiện dưới dạng ‘nữ’’, chính là Mẹ hiền Quan Âm, hay Nam Hải Quan Âm, hay Quan Âm Thị Kính. Người Việt xưa nay khi nghĩ tưởng đến Quan Âm thường hình dung ra một vị Bồ-tát hay vị Phật trong dạng ‘nữ’’, mặc y trắng, một tay cầm nhánh liễu, một tay cầm bình nước am lồ. Đôi khi, đối với người Việt còn có sự lẫn lộn giữa Quan Thế Âm (dạng ‘nam’) với Quan Âm (dạng ‘nữ’) nhưng tựu chung, cả hai đều là hiện thân của lòng từ bi của đức Phật A-Di Đà và xuất phát từ tên gốc tiếng Phạn Avalokiteshvara.
[3] Theo kinh điển, đức Quan-Âm (Tara) đã nhập thể hoá hiện dưới 21 hình dạng khác nhau, tượng trưng cho 21 đức tính khác nhau, cốt để độ cho tất cả chúng sinh tùy vào căn cơ của họ. Theo Mật-tông, co’ ba pháp môn thiền quán chính yếu liên hệ tới đức Quan Âm là Lục-Ngọc-Quang Quan Âm (Green Tara), Bạch-Ngọc-Quang Quan Âm (White Tara) vá Hồng-Ngọc-Quang Âm (Red Tara): màu sắc náy chính lá ánh sáng hào quang tỏa ra từ báo thân
của đức Quan Âm, tượng trưng cho những đức tính khác nhau.
[4] Tám hiểm nguy, sợ hãi đó là: sư tử (kiêu mạn), voi dại (ảo tưởng), lửa cháy (sân hận), rắn rít (ganh tị), kẻ trộm (tà kiến), cùm sắt (tham lam), lụt lộI (tham đắm), quỷ sứ (hoài nghi). Hiểm nguy ở đây không chỉ là sự nguy hiểm tầm thuờng như khi ta gặp rắn độc thì sợ rắn độc cắn chết, nhưng còn mang ý nghĩa hiểm nguy vì đây là gốc rễ của phiền não, trói buộc ta vào vòng luân hồi vô tận.
[5] Bốn pháp chuyển tâm căn bản là kinh nghiệm quán chiếu về (1) thân nguời hiếm quý, (2) vô thường, (3) nghiệp quả và (4) khổ não
[6] Hai Bồ-Đề-tâm ở đây ý nói (1) tâm Bồ-Đề lúc còn sơ, trong vòng đối đãi nhị nguyên (relative Bodhicitta), và (2) tâm Bồ-Đề viên mãn tối thắngkhi đã đạt được giác ngộ (absolute Bodhicitta).
[7] Bản Anh-ngữ dịch là một đoá sen (lotus) và một tòa trăng (moon disk), nhưng tựu chung đây chính là một toà sen.
[8] Tâm điểm ở đây nằm ngay chính giữa đuờng kinh luân xa vi tế, ngang tầm với trái tim.
[9] Xem chú thích trên.
[10] Hành giả ngồi thiền, giữ tâm trong sáng, thời gian thiền định dài ngắn tùy hành giả quyết định.
[11]Ý nói tất cả chúng sinh từ vô thỉ vô chung đã từng là những bà mẹ của ta trong nhiều đời kiếp, giúp ta phát khởi tâm Bồ-Đề trọn vẹn.
[12] Ngũ độc chính là tâm tham, sân, si, kiêu mạn và ganh tị.
[13] Ý nói tất cả chúng sinh từ vô thỉ vô chung đã từng là những bà mẹ của ta trong nhiều đời kiếp, giúp ta phát khởi tâm Bồ-Đề trọn vẹn.