THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN
CỦA MỘT HÀNH GIẢ KIM CƯƠNG THỪA
H.H. Kunzig Sharmapa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
Truyền thống Kim Cương thừa (Vajrayana) là một
con đường nhanh chóng để
đạt được giải thoát.
Kim Cương (vajra)
tượng trưng cho
năng lực có nghĩa là
Kim Cương thừa rất hữu hiệu. Nhiều người có
nhận thức sai lầm về
Kim Cương thừa, cho rằng nó không khác gì việc
áp dụng lời nguyền
thần bí hay
năng lực tâm linh. Trong
thực tế, “YANA” là một cuộc
tìm kiếm sự giải thoát của tâm và sự
thực hành huyền thuật và
năng lực tâm linh sẽ không đưa ta tới
sự giải thoát. Nếu
chúng ta thực hành Kim Cương thừa với
quan niệm sai lầm này thì
nhất định là ta tích
tập nghiệp rất xấu. Quả thực trong
Kim Cương thừa có rất nhiều tantra trì tụng
thần chú, nhưng
chắc chắn là những tantra này không có
tính chất huyền bí hay
tâm linh.
Chúng ta phải
hiểu rõ tính chất độc nhất vô nhị này của
truyền thống Kim Cương thừa.
Tiêu chuẩn đầu tiên trong việc
thực hành Kim Cương thừa là phải bắt đầu với
Tiểu thừa (Hinayana).
Tiểu thừa bao gồm những
giáo lý căn bản của
Đức Phật và những
giáo lý này không được nhắc lại trong
Đại thừa (Mahayana) hay
Kim Cương thừa. Do đó, những
hành giả Đại thừa và
Kim Cương thừa phải bắt đầu từ những
giáo lý căn bản của
Tiểu thừa.
Những giáo lý căn bản của Đức Phật là gì?
Những
giáo lý căn bản nhất là
sự thiền định và vinaya hay
giới luật và những
hành giả của
Đại thừa hay
Kim Cương thừa phải học tập những
giáo lý này qua
Tiểu thừa.
Thực hành thiền định có hai cấp độ và cấp độ đầu tiên là
thiền định “samatha.” Nhờ
tu tập nó tâm ta được tĩnh lặng,
an bình và
kiên cố. Trong các
giáo lý Tiểu thừa,
Đức Phật chú trọng rất nhiều vào sự
thực hành và những kỹ thuật của
thiền định samatha. Những
hành giả Đại thừa hay
Kim Cương thừa nên
đạt được nền tảng như thế.
Vinaya là
giới luật bản thân.
Tóm lại, cần tự chế không làm mười
ác hạnh. Mười
ác hạnh này
bao gồm mọi
ác nghiệp phát sinh từ việc
chấp ngã. Đối nghịch với mười
ác hạnh và mười
thiện hạnh. Những
thiện hạnh này là gốc rễ của những
công đức của riêng ta. Tôi không
thảo luận chi tiết về chúng ở đây và những ai không
hiểu rõ về mười
thiện hạnh có
thể tham khảo
Kinh điển.
Đồng thời ta phải hiểu rằng
thân người khó được và rất
quý báu. Thân người
quý báu này là một khí cụ để
đạt được giải thoát nhưng nó rất dễ bị
tổn thương và chỉ
tồn tại một
thời gian ngắn ngủi. Trong
thế giới này có rất nhiều mối hiểm nguy có thể dễ dàng
tiêu diệt những thân người như thế.
Chúng ta không biết chút gì về
nghiệp lực của ta và
chúng ta còn sống bao lâu nữa.
Lý do của việc tái sinh trong luân hồi sinh tử là sự chấp ngã.
Mọi
cảm xúc phát khởi từ sự
chấp ngã sẽ không
tốt lành và với sự
chấp ngã như thế, không có cách nào để
thực hành các
thiện hạnh. Tất cả những
hoạt động thuộc về nghiệp sẽ không
đạo đức và mỗi một trong những
nguyên nhân ác nghiệp này sẽ
đưa tới sự
tái sinh trong những cõi thấp trong mười ngàn đời. Nếu bạn có thể suy niệm về
sự kiện này thì bạn sẽ có thể
nhận ra rằng thân người thì
quý báu biết bao. Trong
vô số lần
tái sinh, cơ may để được
tái sinh trong
cõi người là một phần mười triệu. Vì thế, giờ đây bạn đang
sở hữu thân người
quý báu, xin đừng
phí phạm nó. Bạn phải
sử dụng thân người
quý báu này để
thực hành.
Trừ phi bạn đã
giác ngộ nếu không thì không có cách nào để
hoàn toàn được giải thoát.
Điều được nói ở trên là
yêu cầu đầu tiên của
thực hành căn bản.
Kế tiếp, để là một
hành giả Kim Cương thừa thì
yêu cầu thứ hai là phải được trang bị
lòng bi mẫn vĩ đại. Điều đó có nghĩa là để
thực hành Kim Cương thừa, ta phải là một
Bồ Tát.
Bồ Tát có nghĩa là một người có
Bồ Đề tâm và
lòng bi mẫn.
Bồ Đề tâm là
hạt giống của
Phật Quả và một
Bồ Tát phải có
Bồ Đề tâm và
Lòng Bi mẫn đối với tất cả
chúng sinh mà không có chút
vị kỷ nào.
Một khi bạn đã phát triển
Bồ Đề tâm, bất kỳ
công đức nào được
thực hiện cũng sẽ được
chuyển hóa thật vô hạn và có thể
đưa tới sự giải thoát và
Phật Quả.
Trái lại, nếu bạn không phát triển
Bồ Đề tâm, mọi
công đức đã
thực hiện sẽ bị
giới hạn. Chỉ có những
công đức được
thực hiện với
Bồ Đề tâm mới có thể
bảo đảm sự
Giác ngộ và
Phật Quả.
Ngoài việc
thực hành con đường Bồ Tát, những
hành giả Kim cương thừa cũng
sử dụng một vài
phương tiện thiện xảo trong sự
thực hành của họ, chẳng hạn như
sự quán tưởng các Bổn Tôn, v.v..
Trong
truyền thống Kim Cương thừa, Kalacakra được nói là
thực hành Kim Cương thừa cao cấp nhất. Kalacakra có một
ý nghĩa sâu xa và những
tính chất của Bổn Tôn Kalacakra cũng rất
đặc biệt. Ngài có nhiều mặt, nhiều tay chân và những
đặc tính này
tượng trưng cho nhiều
ý nghĩa của
thực hành. Một ví dụ khác là Đức Chenrezig (
Quán Thế Âm) bốn tay có
thân sắc trắng
tượng trưng cho sự thuần tịnh và
lòng bi mẫn,
hoa sen và chuỗi
pha lê cầm trong tay
tượng trưng cho
lòng bi mẫn và
trí tuệ, và những vật trang sức được đeo trên thân
tượng trưng cho những phẩm tính khác nhau của sự
chứng ngộ.
Bổn Tôn hay yidam có thể
hiển lộ trong
Báo Thân hay
Hóa Thân. Những sự
hiển lộ này
xuất phát từ
giác tánh nguyên sơ, là
Pháp Thân. Chẳng hạn như Đức Chenrezig được
nhận thức là sự
hiển lộ trong một
Báo Thân hay
Hóa Thân thì
tùy thuộc vào mức độ
thực hành và
năng lực của
hành giả.
Khi bạn đang
thực hành yidam, đừng nghĩ rằng bạn đang mời thỉnh Bổn Tôn tới với bạn. Ví dụ như trong
thực hành Chenrezig, không phải là Đức Chenrezig sẽ thực sự
xuất hiện trước mặt bạn. Một vài người cho rằng
thực hành Bổn Tôn là để mời thỉnh Bổn Tôn đi tới hay
đi vào thân thể của họ. Đây là những
quan niệm sai lầm. Hơn nữa, để
quét sạch sự
chấp ngã,
chúng ta phải
chú tâm vào điều khác bên cạnh
tam độc, đó là ta phải
quán tưởng một
chủng tự. Ví dụ như
chủng tự “HRIH” chứa đựng sự
ban phước của
thiền định Chenrezig, nó có thể
biến thành hình ảnh Đức Chenrezig. Giờ đây với
thân thể bình thường của ta
chúng ta quán tưởng chủng tự này và nhờ nó,
chúng ta biến thành Đức Chenrezig.
Thực hành này sẽ
quét sạch những niệm tưởng và những khuynh hướng
quen thuộc của ta. Từ điều này ta sẽ hiểu rằng
thực hành Bổn Tôn mang lại rất nhiều
lợi lạc.
-
Trước tiên, nó
bao gồm thiền định samatha (tĩnh lặng) bởi bạn phải
thực hành rất nhiều
sự quán tưởng.
- Thứ hai,
thực hành yidam có thể
quét sạch nghiệp xấu và những khuynh hướng
quen thuộc.
- Thứ ba, ta có
thể đạt được
trạng thái Pháp Thân hay
Báo Thân.
Tâm chú Om Mani Pad Me Hung của Đức Chenrezig
Thần chú này
xuất hiện từ
thiền định của Đức Chenrezig và việc trì tụng nó có thể giúp
chúng ta tăng trưởng sự tập trung và
giải trừ nghiệp xấu của ngữ.
Cũng thế,
sự quán tưởng Bổn Tôn thì không ở trong một
thân tướng thô nặng.
Bản tánh của ngài là
tánh Không,
Pháp Thân và sự
hiển lộ của ngài là
Báo Thân.
Sự quán tưởng chủng tực “HRIH” là để quét sạch những khuynh hướng quen thuộc của ta.
Thông thường, khi
chúng sinh được
tái sinh trong
cõi người,
trước tiên tâm thức sẽ bám vào một
thân thể và sau đó
đi vào thai tạng.
Dĩ nhiên là với kỹ thuật
hiện tại người ta không thể
khám phá ý niệm tâm thức đi vào thai tạng. Điều
chúng ta có thể
nhận ra chỉ là tiến trình
tiệm tiến của sự phát triển.
Ý niệm tâm thức được tạo nên bởi sự
tham luyến và dính mắc và những điều này rất khó
quét sạch. Ta cần có sự
chuyển hóa tự nhiên của tâm. Vì thế, ta
quán tưởng tâm ta và tan
biến thành “HRIH”, nó sẽ
chuyển hóa các
thân tướng chúng sinh thành những
thân tướng của Đức Chenrezig.
Ý niệm yidam tan thành ánh sáng
đi vào tánh Không có thể
chuyển hóa khuynh hướng
quen thuộc của sự chết. Thông thường khi
chúng sinh chết, họ phải
đi vào giai đoạn bardo. Nhờ sự
thực hành và
quán tưởng này ta có thể
quét sạch khuynh hướng ấy và
đi vào trạng thái Pháp Thân.
Đây là những
thực hành của
Kim Cương thừa nhưng điều tối quan trọng là chúng đòi hỏi
sự thiền định như một
căn bản. Những
phương pháp thiền định hầu như được
tìm thấy trong những
Kinh điển bí truyền. Nếu bạn đang
thực hành Kim Cương thừa và thiếu
căn bản này thì dù bạn
thực hành Pháp môn nào nó cũng sẽ dẫn tới
sai lầm. Bạn sẽ không thể
quán tưởng trạng thái trống không của một yidam và bạn sẽ
quán tưởng thân tướng yidam như một thân thô nặng. Khi bạn tụng
thần chú, bạn sẽ phủ nhận cốt tủy của nó. Vì thế, không có
căn bản của những
giáo lý bí truyền thì mọi
thực hành làm việc không có
mục đích.
Để là một
hành giả Kim Cương thừa,
chúng ta cần có một sự
hiểu biết thấu đáo
thực hành của nó và cũng
hoàn thành những giới nguyện
Bồ Tát.
Kim Cương thừa không nên được giảng dạy
công khai cho những người không thọ
Bồ Tát giới bởi đó là những
giáo lý của các
Bồ Tát. Do đó chỉ có những
Bồ Tát là
phù hợp với việc
thực hành.
Tuy nhiên,
thực hành của Đức Chenrezig
bao gồm lòng
đại bi một cách
phi thường và có thể được giảng dạy
công khai./.
H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche
Nguyên tác: “The Correct Attitude of a Vajrayana Practionner”
By H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche
http://www.kagyu-asia.com/t_correct.html
Bản dịch Việt ngữ của
Thanh Liên