THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP HAI
H.T Thích Thanh Từ
Tu Viện Chơn Không 1971
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
ĐỜI THỨ MƯỜI SAU LỤC TỔ
52. Thiền sư Kỉnh Huyền ở núi Đại Dương.
53. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương.
54. Thiền sư Qui Tỉnh ở viện Quảng Giáo Diệp Huyện.
55. Thiền sư Trí Tung ở Tam Giao viện Thừa Thiên.
56. Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu, Minh Châu.
57. Thiền sư Hiểu Thông ở Động Sơn.
58. Thiền sư Tự Bảo ở Động Sơn.
59. Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai.
60. Thiền sư Huệ Minh ở chùa Báo Ân.
61. Thiền sư Pháp Đăng hiệu Thái Khâm ở viện Thanh Lương.
62. Thiền sư Thanh Tủng ở Linh Ẩn Hàn Châu.
52. THIỀN SƯ KỈNH HUYỀN
Ở núi Đại Dương -(943 - 1027)
Sư mười chín tuổi làm Đại tăng nghe kinh Viên Giác, trong hội này không ai bì kịp Sư. Sau đó, Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán.
Sư hỏi:- Thế nào là đạo tràng vô tướng?
Lương Sơn chỉ Bồ-tát Quan Âm, nói:- Cái này là do Ngô Xứ Sĩ vẽ.
Sư suy nghĩ để tiến ngữ. Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.
Lương Sơn hỏi:- Sao không nói lấy một câu?
Sư thưa:- Nói thì chẳng từ, sợ e trên giấy mực.
Lương Sơn cười, bảo:- Lời này vẫn còn ghi trên bia.
Sư dâng kệ rằng:
Ngã tích sơ cơ học đạo mê
Vạn thủy thiên sơn mích kiến tri
Minh kiêm biện cổ chung nan hội
Trực thuyết vô tâm chuyển cánh nghi.
Mong Sư điểm xuất Tần thời cảnh
Chiếu kiến phụ mẫu vị sanh thì
Như kim giác liễu hà sở đắc
Dạ phóng ô kê đới tuyết phi.
Dịch:
Con xưa học đạo cứ sai lầm
Muôn núi ngàn sông kiếm thấy nghe
Luận cổ bàn kim càng khó hội
Nói thẳng vô tâm lại sanh nghi.
Nhờ Thầy chỉ rõ thời Tần kính
Soi thấy cha mẹ lúc chưa sanh
Hiện nay giác ngộ đâu còn đắc
Đêm thả gà đen trong tuyết bay.
Lương Sơn bảo:- Có thể làm hưng thạnh tông Tào Động.
*
Sau, Sư đến trụ tại núi Đại Dương khai đường giáo hóa.
Có vị Tăng hỏi:
- Tòng tâm bát ngát, trống pháp ầm ầm, nhằm trên tông thừa nói bày thế nào?
Sư đáp:- Y không có tin tức, đâu cho phù hợp.
- Hôm nay tông thừa đã nhờ Thầy chỉ dạy, chưa biết pháp từ ai, nối pháp người nào?
- Lương Sơn chỉ thẳng thời Tần kính, trước ngọn Trường Khánh một ngôi ngời.
- Thế nào là cảnh Đại Dương?
- Hạc côi vượn lão kêu hang dội, tùng gầy trúc lạnh tỏa khói xanh.
- Thế nào là người trong cảnh?
- Làm gì? làm gì?
- Thế nào là gia phong Đại Dương?
- Bình đầy nghiêng chẳng đổ, khắp nơi chẳng người đói.
*
Sư thượng đường dạy chúng:
- Chư Thiền đức! phải rõ câu bình thường vô sanh, câu diệu huyền vô tư, câu thể minh vô tận. Câu thứ nhất thông một đường. Câu thứ hai không chủ khách. Câu thứ ba gồm kèm. Câu thứ nhất nói được là sư tử phùng mang. Câu thứ hai nói được là sư tử nhảy lồng. Câu thứ ba nói được là sư tử ngồi xổm. Buông ra thì khắp giáp mười phương, nắm lại thì một lúc ngồi dứt. Chính khi ấy làm sao thông được tin tức? Nếu chẳng thông được tin tức thì, đến triều dâng Sở vương xem.
Tăng hỏi:- Thế nào là câu bình thường vô sanh?
Sư đáp:- Mây trắng che núi xanh, núi xanh đảnh chẳng bày.
- Thế nào là câu diệu huyền vô tư?
- Bảo điện không người chẳng đứng hầu. Không trồng ngô đồng khỏi phụng đậu.
- Thế nào là câu thể minh vô tận?
- Khi tay chỉ không trời đất chuyển, xoay đường ngựa đá khỏi lồng tơ.
- Thế nào là sư tử phùng mang?
- Trọn không ý ngó lại, đâu chịu rơi bình thường.
- Thế nào là sư tử nhảy lồng?
- Xoay đi quanh lại thảy về cha, đại dụng dấy lên thể chẳng thiếu.
- Thế nào là sư tử ngồi xổm?
- Vượt bẳn máy lại qua, xưa nay không đổi khác.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là câu Đại Dương thấu pháp thân?
Sư đáp:
- Đáy biển đại dương bụi hồng dấy, trên đảnh Tu-di nước chảy ngang.
*
Sư tinh thần kỳ lạ, từ bé đến lớn chỉ ngày ăn một bữa; ở tại núi Đại Dương năm mươi (50) năm mà chân không ra khỏi ranh giới, hông không dính chiếu.
Nhà Tống niên hiệu Thiên Thành năm thứ năm (1027), ngày mười sáu tháng bảy, Sư từ chúng. Ba ngày sau, Sư viết bài kệ gởi Thị lang Vương Thự, lược rằng:
Ngô niên bát thập ngũ
Tu nhân chí ư thử
Vấn ngã qui hà xứ
Đảnh tướng chung nan đổ.
Ta tuổi tám mươi lăm
Tu nhân đến thế ấy
Hỏi ta đi về đâu
Tướng đảnh trọn khó thấy.
Sư dừng bút liền tịch.
*
53. THIỀN SƯ THIỆN CHIÊU
Ở Phần Dương - (947 - 1024)
Sư họ Du quê ở Thái Nguyên. Thuở bé, Sư bẩm tánh thâm trầm, ít chịu trang sức, có trí tuệ lớn, tất cả văn tự không do thầy dạy mà tự thông hiểu. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời, sống trong cảnh cô quả, Sư phát tâm xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư quảy gói du phương. Đến nơi nào, Sư dừng lại thời gian ngắn, không thích ngắm sơn ngoạn cảnh, chỉ vì mở sáng mắt đạo mà thôi. Sư đã tham vấn qua bảy mươi mốt vị tôn đức, rốt sau mới đến Thủ Sơn Thiền sư Niệm.
Thủ Sơn lên tòa. Sư ra hỏi:- Bá Trượng cuốn chiếu, ý chỉ thế nào?
Thủ Sơn đáp:- Áo rồng vừa phất toàn thể hiện.
Sư hỏi:- Ý Thầy thế nào?
Thủ Sơn đáp:- Chỗ tượng vương đi bặt dấu chồn.
Qua câu nói này, Sư đại ngộ liền đảnh lễ, rồi thưa:
- Muôn xưa đầm biếc nguyệt trong không, ba phen gạn lọc mới được biết (vạn cổ bích đàm không giới nguyệt, tái tam lao lộc thủy ưng tri). Sư dừng lại đây hầu hạ thời gian rất lâu.
*
Sau, Sư từ tạ Thủ Sơn ra đi, đến khoảng Hành Tương Thái thú Trường Sa là Trương Mậu Tông dùng đủ cách cố thỉnh được Sư ở lại. Song, Sư vẫn một bề từ chối, ban đêm lén trốn đi. Đến Tương Miện, Thái thú Lưu Công Xướng tám phen thỉnh trụ trì Động Sơn, Sư lặng lẽ chẳng đáp.
Niên hiệu Thuần Hóa năm thứ tư (993) Thủ Sơn đã viên tịch, Tăng và cư sĩ ở Tây Hà họp lại hơn ngàn người đồng tâm cử Sa-môn Khế Thông đến thỉnh Sư trụ trì viện Thái Tử chùa Thái Bình ở Phần Dương. Sư đóng cửa nằm yên không tiếp, Khế Thông xô cửa vào thưa:
- Phật pháp là việc lớn, lui ở yên một chỗ là giữ tiết nhỏ. Hòa thượng Phong Huyệt sợ ứng với lời sấm ký lo tông chỉ diệt mất, may còn có Tiên sư nối nắm. Nay Tiên sư đã tịch, Thầy là người có khả năng gánh vác đại pháp của Như Lai, mà cam nằm ngủ yên sao? Sư hoảng sợ, đứng dậy nắm tay Khế Thông bảo:
- Nếu không phải Thầy, tôi làm gì được nghe lời này. Chỉnh trang hành lý, tôi cùng đi vậy.
Đến nơi, Sư ở yên đến ba mươi năm không ra khỏi cổng ngoài. Thời nhân kính mộ không dám gọi tên, đồng kêu là Phần Dương.
*
Sư thượng đường:
- Dưới cửa Phần Dương có con sư tử Tây Hà ngồi xổm tại cửa. Có người đến nó liền cắn chết. Vậy có phương tiện gì vào được cửa Phần Dương, thấy được người Phần Dương. Nếu thấy được người Phần Dương kham cùng Phật, Tổ làm thầy, chẳng thấy được người Phần Dương trọn là kẻ chết đứng. Hiện nay có người vào được chăng? Cần vui vẻ vào, khỏi phải cô phụ bình sanh. Nếu không phải là khách Long Môn, tối kỵ sẽ bị điểm trán. Cái gì là khách Long Môn một loạt chỉ ra.
Sư đưa gậy lên, nói: lui mau! lui mau! trân trọng.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là câu tiếp sơ cơ?
Sư đáp:- Ngươi là Tăng đi hành khước.
- Thế nào là câu biện nạp tăng (Thiền sinh)?
- Phương Tây mặt trời mọc giờ mẹo.
- Thế nào là câu chánh lệnh hành?
- Ngàn dặm đem đến trình mặt xưa.
- Thế nào là câu lập càn khôn?
- Bắc câu-lô châu hạt gạo dài, người ăn không sân không hỉ.
Sư lại nói:
- Chỉ đem bốn chuyển ngữ này nghiệm nạp tăng (Thiền sinh) trong thiên hạ, vừa thấy ngươi đi đến liền nghiệm được rồi.
*
Sư thượng đường:
- Phàm một câu nói phải đủ ba huyền môn, một huyền môn phải đủ ba yếu. Cái gì là câu ba huyền ba yếu? Khéo hội là tốt, mỗi người tự suy nghĩ, lại được ổn đáng hay chưa? Cổ đức xưa đi hành khước nghe một nhân duyên mà chưa liễu ngộ, thì ăn uống không biết ngon, nằm ngủ chẳng yên, gấp rút giải quyết chớ cho là việc nhỏ. Vì vậy mà Đại Giác lão nhân vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời. Xét ra các ngài từ trước đến nay đi hành khước, chẳng phải vì du sơn ngoạn thủy, xem những vẻ đẹp của châu phủ, thọ dụng manh áo chén cơm, đều vì tâm thánh chưa thông. Do đó, mà ruổi rong hành khước, quyết trạch chỗ sâu kín truyền bá phô trương, rộng hỏi các bậc tiên tri (đã liễu ngộ) gần gũi những vị cao đức. Bởi vì muốn tiếp nối ngọn đèn Phật tâm, kế thừa chư Tổ làm rạng rỡ hạt giống thánh để tiếp dẫn kẻ hậu la, tự lợi và lợi tha vậy.
Hiện nay có người thương lượng chăng? Có thì bước ra cùng toàn thể thương lượng.
Có vị Tăng ra hỏi:- Thế nào là chỗ gắng sức của con?
Sư đáp:- Gia Châu đánh voi lớn.
- Thế nào là chỗ chuyển thân của con?
- Thiểm phủ tấm trâu sắt.
- Thế nào là chỗ thân thiết của con?
- Tây Hà đùa sư tử.
Sư lại nói:
- Nếu người hội được ba câu này là đã biện được ba huyền, lại còn ba yếu ngữ cần phải tiến lấy, không thể rảnh rang, cùng đại chúng tụng ra:
Tam huyền tam yếu sự nan phân
Đắc ý vong ngôn đạo dị thân
Nhất cú minh minh cai vạn tượng
Trùng dương cửu nhật cúc hoa tân.
Dịch:
Ba huyền ba yếu việc khó phân
Được ý quên lời đạo dễ gần
Một câu rành rõ gồm vạn tượng
Trùng dương ngày chín cúc hoa tươi.
*
Vì ở Tịnh Phần quá lạnh nên Sư cho bãi giờ tham vấn ban đêm. Có vị Tăng lạ chống gậy đi đến bảo Sư rằng: ?Trong hội có sáu vị Đại sĩ, tại sao không nói pháp?? Nói xong Tăng ấy đi mất, Sư mật ký một bài tụng:
Hồ tăng kim tích quang
Vị pháp đáo Phần Dương
Lục nhân thành đại khí
Khuyến thỉnh vị phu dương.
Dịch:
Tăng hồ cầm gậy vàng
Vì pháp đến Phần Dương
Sáu người thành pháp khí
Nhắc thỉnh vì tuyên dương.
*
Sư thượng đường:
- Phàm một câu nói phải đủ ba huyền môn, mỗi huyền môn phải đủ ba yếu. Có chiếu có dụng, hoặc trước chiếu sau dụng, hoặc trước dụng sau chiếu, hoặc chiếu dụng đồng thời hoặc chiếu dụng chẳng đồng thời. Trước chiếu sau dụng, vẫn cần cùng ngươi thương lượng. Trước dụng sau chiếu, ngươi phải là cá nhân mới được. Chiếu dụng đồng thời ngươi làm sao ngang nhau? Chiếu dụng chẳng đồng thời, ngươi làm sao dồn lại?
*
Tăng hỏi:- Thế nào là nguồn đại đạo?
Sư đáp:- Đào đất tìm trời.
- Sao được như vậy?
- Chẳng biết u huyền.
- Thế nào là khách trong khách?
- Chấp tay trước am hỏi Thế Tôn.
- Thế nào là khách trong chủ?
- Đối diện không bạn bè.
- Thế nào chủ trong khách?
- Hàng mây ngang trên biển, tuốt kiếm quậy Long Môn.
- Thế nào là chủ trong chủ?
- Ba đầu sáu tay giở trời đất, nổi giận Na Tra đập chuông vua.
*
Sư thượng đường:
- Phần Dương có ba quyết,
Nạp tăng khó biện biệt.
Lại nghĩ hỏi thế nào?
Cây gậy trên đầu bổ.
Khi ấy có vị Tăng ra hỏi:- Thế nào là ba quyết?
Sư liền đập. Tăng ấy lễ bái.
Sư bảo:- Cùng ngươi một lúc tụng ra:
Đệ nhất quyết:
Tiếp dẫn vô thời tiết,
Xảo ngôn bất năng thuyên
Vân đính thanh thiên nguyệt.
Đệ nhị quyết:
Thơ quang biện hiền triết
Vấn đáp lợi sanh tâm
Bạt khước nhãn trung tiết.
Đệ tam quyết:
Tây quốc Hồ nhân thuyết
Tế thủy quá Tân La
Bắc địa dụng tấn thiết.
Dịch
Thứ nhất quyết:
Tiếp dẫn không thời tiết,
Lời khéo không thể bày
Mây che trời trong nguyệt.
Thứ hai quyết:
Phóng quang biện hiền triết
Hỏi đáp tâm lợi sanh
Nhổ ra đinh trong mắt.
Thứ ba quyết:
Cõi tây người Hồ thuyết
Sông Tế sang Triều Tiên
Đất Bắc dùng sắt thép.
Sư lại hỏi:
- Lại có người hội chăng? Hội được hãy ra báo tin tức, cần biết xa gần. Chớ ghi ngôn ghi ngữ thế ấy, thì hiện đời có gì lợi ích. Đứng lâu, trân trọng.
*
Tăng hỏi:
- Người chân chánh tu hành chẳng thấy lỗi thế gian, chưa biết chẳng thấy lỗi gì?
Sư đáp:
- Tuyết chôn đêm trăng sâu ba thước, trên đất thuyền đi muôn dặm trình.
- Hòa thượng là tâm hạnh gì?
- Lại là tâm hạnh của ngươi.
- Thế nào là gia phong của Hòa thượng?
- Ba huyền mở đạo chánh, một câu phá tà tông.
- Thế nào là kế sống của Hòa thượng?
- Bình thường tay chẳng nắm, cúng dường Tăng ngũ hồ.
- Chưa biết ăn cái gì?
- Cơm thiên hòa đà chưa thịnh soạn. Một vị canh ngon no liền thôi.
Sư thượng đường:
- Người thuyết pháp phải đủ mười trí Đồng chân. Nếu chẳng đủ mười trí đồng chân thì tà chánh chẳng rành, Tăng tục khó phân, không thể vì trời người làm mắt sáng để quyết đoán phải quấy. Như chim bay trong hư không mà gãy cánh, như bắn tên mà dây cung đứt. Vì dây cung đứt nên bắn không trúng đích. Vì cánh gãy nên chim không thể bay trong không. Dây cung chắc, đôi cánh cứng thì đích và hư không đều đạt được. Thế nào là mười trí đồng chân, sẽ cùng các Thượng tọa nêu ra: một đồng nhất chất, hai đồng đại sự, ba tổng đồng tham, bốn đồng chân trí, năm đồng biến phổ, sáu đồng cụ túc, bảy đồng đắc thất, tám đồng sanh sát, chín đồng âm hẩu, mười đồng đắc nhập.
Cùng người nào đồng đắc nhập? Cùng ai đồng âm hẩu? Thế nào là đồng sanh sát? Những vật gì đồng đắc thất? Cái gì đồng cụ túc? Là cái gì đồng biến phổ? Người nào đồng chân trí? Ai hay tổng đồng tham? Cái gì đồng đại sự? Vật gì đồng nhất chất? Có người nào điểm ra được chăng? Điểm ra được thì chẳng tiếc lòng từ bi. Điểm ra chẳng được thì chưa có con mắt của kẻ tham học. Cần phải biện lấy. Cốt biết thị phi, mặt mày thấy còn chẳng được. Đứng lâu, trân trọng.
*
Phủ Long-Đức Y Lý Hầu cùng Sư có tình quen xưa, thỉnh Sư trụ trì chùa Thừa Thiên, sai sứ đi ba lần mà Sư vẫn không đến. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi một phen nữa. Sứ giả đến thưa: ?Quyết thỉnh Thầy đồng đi, nếu Thầy không đi tôi liều chết mà thôi.? Sư cười bảo: ?Bởi nghiệp già bệnh không thể xuống núi, giả sử đi phải có trước sau, tại sao quyết đồng?? Sứ thưa: ?Thầy chịu thì trước sau, tùy lựa chọn.?
Sư bảo chúng sửa soạn hành lý xong, Sư gọi chúng lại bảo: ?Lão tăng đi có người nào theo được?? Có vị Tăng ra thưa: ?Con theo được.? Sư hỏi: ?Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?? Tăng thưa: ?Năm mươi dặm.? Sư bảo: ?Ngươi theo ta chẳng được.? Lại có vị ra thưa: ?Con theo được.? Sư hỏi: ?Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?? Tăng thưa: ?Bảy mươi dặm.? Sư bảo: ?Ngươi theo ta cũng chẳng được.? Thị giả ra thưa: ?Con theo được, chỉ Hòa thượng đến đâu thì con đến đó.? Sư bảo: ?Ngươi theo Lão tăng được.?
Nói xong, Sư bảo sứ giả: ?Ta đi trước nghe!? Sư dừng lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo, Sư thọ bảy mươi tám tuổi.
*
54. THIỀN SƯ QUI TỈNH
Ở viện Quảng Giáo Diệp Huyện
Sư họ Cổ quê ở Ký Châu. Khi sắp thành niên, Sư đến viện Bảo Thọ ở Dịch Châu xuất gia và thọ giới cụ túc. Đi du phương, Sư đến tham vấn Thủ Sơn.
Một hôm, Thủ Sơn đưa cái lược tre lên hỏi:
- Gọi là lược tre thì xúc chạm, chẳng gọi lược tre thì trái mất, gọi là cái gì?
Sư chụp cái lược, ném xuống đất, nói:- Là cái gì?
Thủ Sơn bảo:- Mù.
Sư nhân lời này hoát nhiên đốn ngộ.
*
Sư khai đường, có vị Tăng hỏi:
- Tổ Tổ tương truyền truyền Tổ ấn, nay Thầy được pháp nối người nào?
Sư đáp:- Cõi trong thiên tử, bờ ngoài tướng quân.
- Như biển một giọt nhờ Thầy chỉ, hướng thượng tông thừa việc thế nào?
- Trước điện Cao Tổ dằn cơn giận, nên biết muôn dặm bặt khói mù.
*
Sư thượng đường:
- Tông sư huyết mạch hoặc phàm hoặc thánh, Long Thọ Mã Minh, thiên đường địa ngục, vạc dầu sôi lò than đỏ, ngưu đầu ngục tốt, sum la vạn tượng, nhật nguyệt tinh thần, phương khác cõi này, hữu tình vô tình.
Sư lấy tay vẽ một lằn, nói: Đều vào tông này. Trong tông này cũng hay giết người, cũng hay tha người. Giết người phải được đao giết người; tha người phải được câu tha người. Cái gì là đao giết người, câu tha người? Ai nói được bước ra đối chúng nói xem? Nếu nói không được là cô phụ bình sanh. Trân trọng.
*
Sư cùng một vị Tăng đi đường, nhân thấy thây người chết, Tăng hỏi: ?Xe ở đây mà trâu ở đâu?? Sư đáp: ?Ngươi đã bước chân đi.? Tăng thưa: ?Trâu cũng không mà đi cái gì?? Sư bảo: ?Ngươi đã không trâu, tại sao đạp nát gót chân?? Tăng thưa: ?Thế ấy là chính từ Diệp Huyện đến.? Sư bảo: ?Chớ chạy loạn.?
*
Sư thượng đường giây lâu nói:
- Thiền sinh hành khước cần phải để tâm, tham học phải đủ con mắt tham học, kiến địa phải được câu kiến địa, mới có phần tương thân, không bị các cảnh làm lầm, cũng chẳng rơi vào đường ác. Cứu kính xong xuôi thế nào? Có khi câu đến mà ý chẳng đến, quên duyên cảnh trước phân biệt việc bóng dáng. Có khi ý đến mà câu chẳng đến, như mù rờ voi mỗi người có lối nói khác. Có ý câu đều đến, đập nát cõi hư không ánh sáng soi mười phương. Có khi ý câu đều chẳng đến người mù chạy ngang bỗng nhiên rơi xuống hầm.
*
Có vị Tăng thưa hỏi về cây bá của Triệu Châu. Sư bảo: ?Ta chẳng tiếc nói với ngươi, mà ngươi có tin không?? Tăng thưa: ?Lời nói của Hòa thượng quí trọng, con đâu dám chẳng tin.? Sư bảo: ?Ngươi lại nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng?? Vị Tăng ấy hoát nhiên, bất giác thốt ra tiếng: ?Chao!? Sư hỏi: ?Ngươi thấy đạo lý gì?? Vị Tăng làm bài tụng đáp:
Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá càn khôn
Đương hạ tâm tức.
Giọt mưa trước thềm
Rành rẽ rõ ràng
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt.
Sư vui vẻ.
*
Sư bệnh sắp tịch, vị Tăng khám bệnh đến, hỏi: ?Hòa thượng tứ đại vốn không, bệnh từ chỗ nào đến?? Sư đáp: ?Từ chỗ Xà-lê hỏi đến.? Tăng thưa: ?Khi con chẳng hỏi thì sao?? Sư đáp: ?Xuôi tay nằm dài trong hư không.? Tăng thốt: ?Chao!? Sư liền tịch.
*
55. THIỀN SƯ TRÍ TUNG
Ở Tam Giao viện Thừa Thiên cũng gọi Đường Minh
Sư quê ở Phạm Dương, đến tham vấn Thủ Sơn.
Sư hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thủ Sơn đáp:- Bên thành Sở Vương sông Nhữ chảy về đông.
Sư nhân đây có tỉnh, khế hợp ý Phật, bèn làm bài kệ tam huyền:
Tu dụng trực tu dụng
Tâm ý mạc định động
Tam tuế sư tử hẩu
Thập phương một hồ chủng.
Cần dùng thẳng cần dùng
Tâm ý chớ định động,
Ba tuổi sư tử rống
Mười phương tuyệt giống chồn.
*
Ngã hữu chân như tánh
Như đồng mạc lý ẩn
Đả phá lục môn quan
Hiển xuất Tỳ-lô ấn.
Ta có tánh chân như
In tuồng ẩn trong màng,
Đập bể cửa lục môn
Ấn Tỳ-lô bày hiện.
*
Chân cốt kim cang thể khả khoa
Lục trần nhất phất vĩnh vô già
Khoách lạc thế giới không vi thể
Thể thượng vô vi chân đáo gia.
Thân thể kim cang có thể bày
Sáu trần một quét mãi không che,
Rỗng rang thế giới không làm thể
Trên thể vô vi thật đến nhà.
Thủ Sơn nghe xong, mời uống trà, hỏi:
- Ba bài tụng này phải ngươi làm ra chăng?
Sư thưa:- Phải.
- Hoặc khi có người bảo ngươi hiện ba mươi hai tướng thì sao?
- Con không phải là hồ tinh.
- Tiếc lấy lông mày.
- Hòa thượng rụng nhiều ít?
Thủ Sơn cầm cây lược tre đập trên đầu bảo:
- Kẻ này về sau làm loạn đây này.
*
Sư từ tạ Thủ Sơn, Thủ Sơn lấy cây gậy trao cho Sư. Sư nhận lấy, làm bài kệ:
Hòa thượng trú trượng
Chiếu phá long tượng,
Lâm Tế gia phong
Lạc tại ngã chưởng.
Cây gậy Hòa thượng
Soi phá long tượng,
Gia phong Lâm Tế
Rơi trong tay con.
Thủ Sơn bảo:- Chớ làm liên lụy nhau.
Sư đánh Thủ Sơn một tọa cụ.
Thủ Sơn bảo:- Quả nhiên liên lụy.
Sư thưa:- Hôm nay lôi được ông già.
Thủ Sơn nói:- Lại in tuồng được tiện nghi, lại in tuồng mất tiện nghi.
*
Sau, Sư trụ trì viện Thừa Thiên, khai đường dạy chúng:
- Văn-thù trượng kiếm, ngũ đài hoành hành. Đường Minh một lối, chặn đứt yêu ma. Chư Phật ba đời, chưa xuất giáo thừa. Đáy lưới cá lội, long môn khó qua. Thả câu bốn biển, chỉ câu rồng dữ. Cách ngoài nói huyền, vì cầu tri thức. Nếu là nêu cao tông chỉ, cần phải đập nát Tu-di. Nếu là nói Phật nói Tổ, nước biển liền phải khô kiệt. Khi xoay bảo kiếm hào quang muôn dặm, vạch cho các ngươi một con đường thông suốt nói thoại. Bóp nghẹt cổ họng, các ngươi chỗ nào ra hơi.
*
Tăng hỏi:
- Kẻ độn căn ưa pháp nhỏ, không tự tin làm Phật, sau khi làm Phật thế nào?
Sư đáp:- Trong nước bắt kỳ lân.
- Thế ấy ắt lên cao tòa?
- Cỡi trâu lên trời tam thập tam.
*
Sư thượng đường:
- Ấm mát lạnh nóng, mặc áo ăn cơm tự chẳng kém thiếu, chạy lăng xăng tìm cái gì? Chỉ vì các ngươi chẳng chịu thừa đương (đảm nhận). Hiện nay lại có người thừa đương chăng? Có thì chẳng được cô phụ sơn hà đại địa. Trân trọng!
*
Tăng hỏi:- Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?
Sư đáp:- Về nhà có đường không người đến.
- Thế nào là đọat cảnh chẳng đoạt nhân?
- Ngầm truyền lệnh thiên tử, bộ hành đi trăm trình.
- Thế nào nhân cảnh cả hai đều đoạt?
- Ễnh ương không đầu chân chỉ trời.
- Thế nào nhân cảnh cả hai đều chẳng đoạt?
- Cạnh nam Tấn từ (đền thờ nhà Tấn) bờ liễu dài.
*
Trịnh Công Bộ vào viện thấy pháp tòa liền hỏi: ?Đây là tòa của người nào?? Sư đáp: ?Của Lão tăng.? Công Bộ nói: ?Nhà mình đâu dám.? Sư bảo: ?Công Bộ chớ ép người lành làm giặc.? Công Bộ nói: ?Cái thật.? Sư bảo: ?Chả dám.? Sư bèn nắm tay dẫn vào phương trượng. Công Bộ nói: ?Thất này từng hiện tám pháp chưa từng có khó được, Trưởng lão lại có hay chưa?? Sư lấy tay áo phất qua mặt Công Bộ. Công Bộ nói: ?Thế ấy thì ngày nay được mát mẻ.? Sư bảo: ?Hãy cùng người sau làm mô phạm.?
Uống trà nói chuyện, Công Bộ nói: ?Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương thích xem bài kệ của tôi lắm.? Sư bảo: ?Xin cho xem.? Công Bộ đọc:
Huỳnh chỉ hưu giá nhãn
Thanh vân tự hữu âm?
Mạc tương nhàn học giải
Mai một Tổ sư tâm.
Giấy vàng thôi che mắt
Mây xanh tự mát rồi
Chớ đem trò học hiểu
Chôn mất tâm Tổ sư.
Sư bảo: ?Công Bộ xâu kết được phương tiện kia.? Công Bộ nói: ?Đây là giặc.? Sư bảo: ?Lại chẳng tái khám.?
*
Sư thượng đường:- Nhắc lại bài kệ của Pháp Nhãn:
Kiến sơn bất thị sơn
Kiến thủy hà tằng biệt
Sơn hà dữ đại địa
Đô thị nhất nguyệt luân.
Thấy núi chẳng phải núi
Xem nước nào khác gì
Núi sông cùng cõi đất
Trọn là một vầng trăng.
Cả thảy Pháp Nhãn chưa thấy khỏi nhà Niết-bàn. Tam Giao (chỉ Sư) thì chẳng vậy, thấy núi sông cùng cõi đất, chùy đao mỗi tự dùng. Trân trọng.
*
56. THIỀN SƯ TRÙNG HIỂN
Ở Tuyết Đậu Minh Châu - (985 - 1058)
Sư họ Lý ở phủ Toại Ninh theo Thượng nhân Nhơn Săn ở viện Phổ An xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư dạo qua các nơi giảng kinh luận, nghiên cứu giáo lý tột cùng. Sư thưa hỏi lanh lẹ, biện luận thông suốt, các nơi đều nhận là pháp khí (món đồ chứa đạo pháp). Bước sang tham vấn Thiền tông, ban đầu Sư đến Trí Môn chùa Thiền sư Quang Tộ trụ trì.
Sư hỏi Trí Môn: ?Chẳng khởi một niệm, tại sao có lỗi?? Trí Môn gọi Sư lại gần. Trí Môn cầm phất tử nhằm vào miệng Sư đánh. Sư toan mở miệng, Trí Môn lại đánh. Sư hoát nhiên khai ngộ. Sư ở lại đây năm năm, nhận tột chỗ u huyền, mới đi tham vấn khắp nơi.
*
Sư đến Thiền sư Thông ở Động Sơn, Thông hỏi: ?Con trâu của Qui Sơn là ý thế nào?? Sư đáp: ?Làm tiêu bảng cho người sau.? Thông toan nói, Sư lấy tọa cụ phủi một cái rồi đi. Thông gọi: ?Hãy đến đây Thượng tọa!? Sư nói: ?Chưa đến nhà tham thiền.?
*
Đến Đại Long, Sư làm tri khách. Một hôm, Sư hỏi: ?Nói đó nín đó chẳng phải, chẳng nói chẳng nín lại sai, thảy phải thảy chẳng phải, nắm lấy đại dụng hiện tiền thời nhân biết có, chưa biết Đại Long thế nào?? Đại Long đáp: ?Ngươi có kiến giải như thế.? Sư nói: ?Ông già này ngói bể băng tiêu.? Đại Long nói: ?Tha ngươi ba mươi gậy.? Sư lễ bái, trở lại chỗ chúng. Đại Long lại gọi: ?Tăng vừa hỏi thoại đến đây!? Sư bèn bước ra. Đại Long hỏi: ?Lão tăng tại sao lại ngói bể băng tiêu?? Sư thưa: ?Càng thấy bại khuyết.? Đại Long đổi sắc, nói: ?Không chịu được! không chịu được!?
*
Sư lúc đầu trụ tại Thúy Phong, sau dời về Tuyết Đậu. Ngày khai đường, Sư đến trước pháp tòa nhìn xem đại chúng nói:
- Nếu luận bổn phận thấy nhau, chẳng cần lên pháp tòa cao.
Sư bèn lấy tay vẽ một lằn, nói:
- Quí vị nhìn theo ngón tay Sơn tăng, vô lượng cõi nước chư Phật đồng thời hiện tiền, mỗi vị nên nhìn xem cho kỹ nếu là bờ mé chưa biết, chẳng khỏi mắc lầy dính nước.
Sư bèn lên tòa. Thượng thủ bạch chùy xong. Có vị Tăng mới bước ra, Sư nắm đứng lại, bảo:
- Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai ủy thác tại ngày hôm nay. Buông đi thì ngói gạch sanh quang, nắm đứng thì chân kim mất sắc. Quyền bính ở trong tay, giết tha tại lúc này. Ai có tạo tác thì cùng nhau chứng cứ?
Có vị Tăng bước ra hỏi:
- Xa lìa Tổ tịch Thúy Phong, đến đạo tràng Tuyết Đậu, chưa biết là một là hai?
Sư đáp:- Ngựa không ngàn dặm dối đuổi gió.
- Thế ấy mây tan nhà trắng?
- Đầu rồng đuôi rắn.
Vị Tăng khác hỏi:
- Đức Sơn, Lâm Tế gậy hét đã bày, Hòa thượng vì người thế nào?
Sư đáp:- Nhảy ra một nước (nước cờ).
Tăng suy nghĩ. Sư liền hét. Tăng thưa:
- Chưa biết chỉ thế ấy hay riêng còn có?
Sư đáp:- Bắn cọp giả, luống nhọc mỏi cánh.
- Thổi ốc pháp đánh trống pháp quan quân đến hội, thế nào là phải?
- Gió mát đến chưa thôi.
- Thế ấy ắt được ngộ nơi Thầy?
- Một lời đã nói bốn ngựa khó theo.
Tăng lễ bái. Sư bảo: ?Nhảy qua một nước (nước cờ).?
Sư xem khắp đại chúng bảo:
- Trời người khắp nhóm họp, phát minh cái việc gì? Đâu thể lầm lẫn phân chủ khách đuổi theo vấn đáp là đúng tông thừa. Môn phong quảng đại oai đức tự tại, sáng vượt xưa nay, nắm đứng càn khôn, ngàn thánh chỉ nơi ?tự biết?, năm thừa đâu thể kiến lập. Sở dĩ trước lời ngộ ý chỉ vẫn lầm mối ngoái xem, qua lời nói ngộ được tông môn còn bị lầm hiện bày của tình thức.
Quí vị cần biết tướng chân thật chăng? Chỉ là về trước không đeo dính, về sau bặt thân mình, tự nhiên tường quang hiện tiền, mỗi mỗi vách đứng ngàn nhẫn (một nhẫn hai thước tây). Lại biện minh được hay không? Chưa biện thì biện lấy, chưa minh thì minh lấy. Đã biện minh được, hay cắt đứt dòng sanh tử, đồng ở ngôi Phật Tổ, diệu viên siêu ngộ chính ở khi này, kham đền cái ơn chẳng đền, dùng giúp giáo hóa pháp vô vi.
Tăng hỏi:- Thế nào là cổi áo ngự bào mặc y nhơ xấu?
Sư đáp:- Duỗi tay chẳng duỗi tay.
- Xin Thầy phương tiện.
- Mắt trái móc gân, mắt mặt bươi thịt.
*
Sư thượng đường:
- Đại chúng! Trước cùng xướng đáp, cũng cần cái ấy mới được. Nếu chưa có con mắt chạy trên nước, đi trên đao, chẳng nhọc gì phải đề ra. Do đó nên nói, như đống lửa lớn, gần chạm thấy thì đốt cháy cửa mặt, cũng như cầm cây bảo kiếm Thái A thủ thế, đi ngang qua trước liền tan thân mất mạng.
Sư lại nói: Thủ thế Thái A nhà Tổ lạnh, ngàn dặm cần nên dứt vạn đoan, chớ chờ điện lạnh ngang đầu xẹt.
Sư lại bảo: Xem! Xem! Liền xuống tòa.
*
Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là Duy-ma một phen làm thinh?
Sư đáp:- Hàn Sơn hỏi Thập Đắc.
- Thế ấy là vào cửa bất nhị?
Sư: Hư!
Sư lại bảo:
Duy-ma đại sĩ khứ hà tùng
Thiên cổ linh nhân vọng mạc cùng
Bất nhị pháp môn hưu cánh vấn
Dạ lai minh nguyệt thướng cô phong.
Dịch:
Đại sĩ Duy-ma đi không nơi
Ngàn xưa lắm kẻ trông vời vời,
Pháp môn bất nhị thôi chớ hỏi
Đêm về trăng sáng trên đảnh đồi.
Sư thượng đường nói:
Xuân sơn điệp loạn thanh
Xuân thủy dạng hư bích
Liêu liêu thiên địa gian
Độc lập vọng hà cực.
Núi xuân chồng chất xanh
Nước xanh lóng lánh biếc
Thênh thang bầu trời không
Đứng riêng trông nào tột.
*
Sư thượng đường:
- Chỗ ruộng đất ẩn mật Phật Tổ còn chẳng dám gần, vì sao giở chân chẳng lên? Thần thông du hí quỉ thần không thể lường, vì sao để chân xuống chẳng được? Thẳng cho mười chữ tung hoành sáng đánh ba ngàn chiều đánh tám trăm.
*
Thị giả của Bảo Hoa đến tham vấn Sư. Sư hỏi Bảo Hoa có bao nhiêu chúng. Thị giả thưa: Chẳng nhọc Hòa thượng như thế. Sư bảo: Ta hỏi rành rẽ, ngươi nhảy chạy làm gì? Thị giả thưa: Cũng chẳng được bỏ qua. Sư bảo: Thật là sư tử con. Uống trà xong, Sư nắm đứng thị giả, hỏi: Vừa rồi tại sao vô lễ? Thị giả suy nghĩ, Sư cho một tát tai, bảo: Đi về thuật rõ lại cho Bảo Hoa.
*
Sư làm bài tụng Đạo Quí Như Ngu:
Vũ quá hàn vân hiểu bán khai
Sổ phong như họa bích thôi ngôi
Không Sanh bất giải nham trung tọa
Mặc đắc thiên hoa động địa lai.
Dịch:
Mưa qua mây lạnh trời rạng đông
Dãy núi sắp bày cao ngất xanh
Không Sanh chẳng hiểu ngồi trong núi
Lặng lẽ bao giờ thiên hoa rơi.
[Không Sanh: chỉ cho ngài Tu-bồ-đề.}
*
Lại có bài tụng Danh Thật Vô Đương:
Ngọc chuyển châu hồi Phật Tổ ngôn
Tinh thông du thị ô tâm điền
Lão Lư chỉ giải trường xuân mễ
Hà đắc phong lưu vạn cổ truyền?
Dịch:
Chuyển ngọc xoay châu Phật Tổ bàn
Tinh thông vốn lại nhớp tâm điền
Ông Lư chỉ giỏi nghề giã gạo
Sao được danh truyền mãi muôn đời?
[Ông Lư: Đức Lục Tổ khi mới đến Huỳnh Mai vẫn còn là người cư sĩ, nên gọi Ngài là Lư hành giả. Ngài chuyên giã gạo đến ngộ đạo. Vì họ thế tục của Ngài là Lư nên gọi là Ông Lư.]
Một hôm Sư dạo núi nhìn xem bốn phía, bảo thị giả: ngày nào lại đến ở đây.
Thị giả cầu xin kệ di chúc. Sư bảo: bình sanh chỉ lo nói quá nhiều.
Hôm sau, Sư đem giày dép y hậu chia cho đồ chúng, nói: ngày bảy tháng bảy lại thấy nhau.
Đúng ngày mùng bảy tháng bảy, Sư tắm gội xong, nằm đầu xây về phía bắc an nhiên thị tịch. Nhằm năm Hoàng Hựu thứ tư (1058) nhà Tống, Sư thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi tuổi hạ. Vua sắc thụy là Minh Giác Đại sư.
57. THIỀN SƯ HIỂU THÔNG
Ở Động Sơn - (? - 1030)
Sư họ Đỗ quê ở Thiều Châu. Trong thời gian du phương, Sư ở Vân Cư làm hương đăng, thấy Tăng nói: đại thánh ở Thất Châu gần đây xuất hiện ở Dương Châu. Có vị Tăng lập câu hỏi đem hỏi Sư: Đã là đại thánh ở Thất Châu, vì sao lại đến Dương Châu xuất hiện? Sư đáp: Quân tử mến của lấy đó làm đạo.
*
Sư thượng đường nói:
*
Sư thượng đường:
*
Sư thượng đường:
*
Sư tự tay trồng cả muôn cây tùng ở trên ngọn núi phía đông. Trong khi trồng cây, Sư thường tụng kinh Kim Cang Bát-nhã. Người trong núi nhân đó đặt tên núi này là Kim Cang Phương Thực Tùng.
*
Ngày mùng tám tháng sáu niên Thiên Thánh thứ tám (1030), Sư có chút bệnh, triệu tập hết Tăng tục, nói: Pháp tịch này giao cho Tự Bảo trụ trì, Sư liền lên tòa nói bài kệ Thấu Pháp Thân.
*
58. THIỀN SƯ TỰ BẢO
Ở Động Sơn
Sư sanh trong nhà con hát nên không có họ, tánh tình liêm khiết cẩn thận kính trọng Phật thừa, xuất gia tại chùa Giáp Thạch. Làm Tăng, Sư tu theo hạnh đầu-đà ăn cơm hẩm mặc y vá. Đến tham vấn Thiền sư Giới ở Ngũ Tổ, Sư phát minh tâm địa tiếng tăm vang lừng. Ở hội Ngũ Tổ Sư làm chủ tự.
*
Sau, Sư dạo các tòng lâm đến Động Sơn. Thiền sư Hiểu Thông trụ trì nơi đây cũng quí trọng Sư. Sau khi Hiểu Thông tịch, di chúc thỉnh Sư trụ trì.
*
Sư dạy chúng:
*
Sau, Sư dời đến trụ tại núi Qui Tông.
*
Sư lại dời về trụ ở Vân Cư.
*
Sư có làm bài Chân Tán Tổ Sư Đạt-ma:
*
59. QUỐC SƯ ĐỨC THIỀU
Ở núi Thiên Thai - (881 - 972)
Sư quê ở Long Tuyền, Xử Châu, cha họ Trần, mẹ họ Diệp. Mẹ Sư nằm mộng thấy một luồng sáng chạm vào thân, nhân đó biết có thai. Đến khi Sư ra đời có nhiều điềm lạ.
*
Khoảng niên hiệu Khai Bình (907-910) nhà Lương, Sư cất bước du phương. Trước đến núi Đầu Tử, Sư ra mắt Thiền sư Đại Đồng, đó là buổi phát tâm ban đầu.
*
Kế, Sư tham vấn Hòa thượng Tuần ở Long Nha. Sư hỏi: Bậc tôn hùng hùng vì sao gần chẳng được? Long Nha đáp: Như lửa với lửa. Sư hỏi: Chợt gặp nước đến thì sao? Long Nha bảo: Ngươi chẳng hội. Sư lại hỏi: Trời chẳng che đất chẳng chở, lý này thế nào? Long Nha đáp: Nên như thế. Sư không lãnh hội được, lại cầu xin chỉ dạy. Long Nha bảo: Đạo giả! ngươi về sau tự hội.
*
Sư đến tham vấn Sơ Sơn. Sư hỏi: Trăm vòng ngàn lớp là cảnh giới gì?
*
Sư do đi khắp các tùng lâm nên mỏi mệt lười thưa hỏi. Ở trong hội Pháp Nhãn, Sư chỉ theo chúng mà thôi.
*
Sư dạo núi Thiên Thai xem những di tích của Thiền sư Trí Khải dường như chỗ mình ở cũ. Sư lại đồng họ với Trí Khải. Thời nhân gọi Hậu thân Trí Khải.
*
Sư thượng đường nói:
*
Sư dời trụ tại chùa Bát-nhã mở hội thuyết pháp. Hội đầu, Sư dạy chúng:
*
Hội thứ tư, Sư thượng đường dạy chúng:
*
Hội thứ sáu, Sư thượng đường dạy chúng:
*
Đến niên hiệu Khai Bảo thứ tư (972), ngày hai mươi tám tháng sáu, Sư có chút bệnh, họp chúng từ biệt xong, ngồi kiết già thị tịch. Sư tịch tại Liên Hoa Phong thọ tám mươi hai tuổi, được sáu mươi lăm tuổi hạ.
*
60. THIỀN SƯ HUỆ MINH
Ở chùa Báo Ân
Sư họ Trương, xuất gia lúc còn bé, tinh chuyên tam học, có chí tìm hiểu huyền chỉ. Sư du phương qua các nước Mân, Việt trải các thiền hội, mà chưa khế hợp bản tâm. Sau cùng, Sư đến Lâm Xuyên yết kiến Pháp Nhãn được thầy trò đạo hiệp.
*
Về sau, Sư trở về Ngân Thủy cất am trên núi Đại Mai. Một hôm có hai Thiền khách đến.
*
Sư dời về Thiên Thai cất am trên núi Bạch Sa. Có Thượng tọa Minh Nhan là người học rộng nhớ giỏi đến lý luận với Sư về Tông thừa.
*
Khoảng niên hiệu Càn Hựu nhà Hán (948), Trung Hiến Vương thỉnh Sư vào cung hỏi pháp, mời ở viện Tư Sùng. Vua cho mời các bậc Thiền đức và các danh sĩ trong thành đến cùng Sư bàn đạo lý.
*
Sư nhắc lời Minh trên tháp của Tuyết Phong:
*
Sư thượng đường bảo chúng:
*
61. THIỀN SƯ PHÁP ĐĂNG - Hiệu Thái Khâm
Ở viện Thanh Lương - (? - 974)
Sư người Ngụy phủ, có trí thông minh lạ thường, biện tài vô ngại. Trong hội Pháp Nhãn, toàn chúng đều ngưỡng mộ, đồng nói: ?người sáng suốt mẫu mực?.
*
Ban đầu, Sư nhận thỉnh trụ viện Song Lâm tại núi U Cốc Hồng Châu. Sư thượng đường chưa bước lên tòa liền nói:
*
Sư lại đến trụ viện Long Quang ở Kim Lăng.
*
Sau cùng, Sư trụ đại đạo tràng Thanh Lương ở Kim Lăng.
*
62. THIỀN SƯ THANH TỦNG
Ở Linh Ẩn Hàn Châu
Sư quê ở Thanh huyện Phước Châu. Ban đầu, Sư đến tham vấn Pháp Nhãn. Một hôm Pháp Nhãn chỉ những giọt mưa bảo: giọt giọt rơi trong con mắt của Thượng tọa. Lúc này nghe nói vẫn chưa ngộ. Sau, nhân đọc kinh Hoa Nghiêm, Sư liền cảm ngộ. Sư đến trình với Pháp Nhãn, Pháp Nhãn ấn chứng.
*
Sư về cất am trên núi Tứ Minh ở Minh Châu. Tiến đạt sứ Tiền Ức kính Sư làm thầy. Trung Hiến Vương thỉnh Sư khai pháp hai nơi Lâm An. Sau, Sư trụ ở chùa Linh Ẩn ở thự hiệu Liễu Ngộ Thiền sư.
*
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là Ma-ha Bát-nhã?
Phi thủ phi xả
Nhược nhân bất hội
Phong hàn tuyết hạ.
Chẳng thủ chẳng xả
Nếu người chẳng hội
Gió lạnh tuyết rơi.