Ý NGHĨA ĐẠI GIỚI ĐÀNCAM LỘ - GIÁC NGỘ Ban kiến đàn Đại Giới ĐànCam Lộ - Giác Ngộ
Trong Phật giáo có rất nhiều lễ hội, nhưng lễ hội quan trọng nhất vẫn là lễ hộiĐại Giới Đàn(còn gọi là pháp hội). Bởi vì pháp hộiĐại Giới Đàn là ngày hội lễ tổ chức tuyển người làm Phật. Trong giới đàn có một hội trường để cho các vị Giới Sưtruyền giới cho các vị Giới Tử, nơi ấy có bảng hiệu “Tuyển Phật Trường”.
Trong nội viện của Tuyển Phật Trường, còn có một nơi chốn thiêng liêng khác, mà nếu không phải là giới sư, giới tử, người hộ đàn (đã kiết giới) thì không được vào, đó là giới đài. Ngày xưa giới đài thường trang hoàng thiết trí ở ngoài trời, tựa như đàn Nam Giao ở Huế, nhưng thời nay không tổ chức ngoài trời nữa mà tổ chức bên trong nội viện của Chùa. Nơi giới đài có tấm bảng với hai đại tự Thanh Giới, thường là viết bằng chữ Hán, mà phải là người đạo cao đức trọng, giới thểthanh tịnh mới viết hai chữ này.
Trong Phật giáoĐức Phật luôn nhắc nhở đệ tử mình thực hiện hạnh bố thí, bố thí có ba cách:
1. Bố thí tiền bạc, vật chất.
2. Bố thí những lời dạy dỗ, răn nhắc, can ngăn(Giới) của Đức Phật, qua thuyết giảng, in ấn kinh sách, đĩa CD với nội dung Phật giáo……
3. Bố thí những lời an ủi, động viên, và đưa ra giải pháp chữa trị cho người đang lâm vào tình trạngtuyệt vọng, bế tắc, bất đắc chí, trầm cảm, tổn thương tâm lý…..
Trong ba cách bố thí mà Đức Phật chỉ dạy, chúng ta vẫn thấy được bố thí Giới là quan trọng nhất. Bởi vì Giới luật là thọ mạng của Phật Pháp, Giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất.
Bởi vậy người muốn bố thí giới thì phải giữ giới, phải có phạm hạnh. Cho nên những giới đàn nghiêm túc đều đi tìm các vị giới sư, giữ giớithanh tịnh để trao truyền giới cho các giới tử. Người truyền giới có giới thểthanh tịnh, có năng lượngtu tập thì mới truyền trao được. Người thọ nhận có hết lòng trân quý tịnh giới, có khát ngưỡng như người đang đi trong sa mạc nóng thiêu quằn quại, tìm thấy được giọt nước, giọt nước đó cũng có thể gọi là giọt cam lồ. Người truyền trao, kẻ thọ nhận giao cảm với nhau qua sinh mệnh sống còn của đạo pháp. Ngay giây phút linh thiêngmầu nhiệm đó của sự truyền giới đúng pháp, người thọ giới (giới tử) được đắc giới.
Khi đắc giới rồi người thọ giới, luôn giữ giới như giữ con ngươi trong tròng mắt của mình, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng nghĩ đến giới, luôn có chánh niệm, coi giới là Thầy của mình.Có giữ giới là có chánh niệm, có chánh niệm là có giác ngộ. Giữ giới là truyền đăng, là vận chuyển bánh xe giáo pháp xoay chuyển mãi trong không, thời gian. Giới tửthọ giới trong các giới đàn tổ chức ở ba miền đất nước mà giữ giới, thì Phật giáo Việt Nam không còn nêu lên vấn nạncải đạo nữa. Bởi vì Tăng đoàn là chỗ dựa vững chải an lạc nhất, lấy thanh giới nuôi dưỡnghuệ mạng của mình, và sinh mệnh của Đạo Pháp. Chính từ những người con Phật gìn giữtịnh giới mà Phật giáo Việt Nam sẽ còn mãi mãi với dân tộc Việt Nam.
Ý nghĩagiới đàn[1]
Giới đàn: Nơi để cử hànhnghi thứctruyền giới và thuyết giới. Đàn là khoảnh đất được đắp hơi cao hơn mặt đất trong giới trường.
Giới đàn vốn không cần xây cất nhà cửa, chỉ cần kiết giới, làm dấu ở bất cứ chổ trống nào là được, nhưng để đề phòng gió mưa, lúc hành pháp sự có thể kiết giớithụ giới trong chùa. Ấn Độthời xưa thường tác phápngoài trời mà không lập đàn riêng.
Theo Thích Thị Yếu Lãm, thượng, bồ -tát Lâu- chí xin Đức Phật được xây một giới đàn ở phía Đông Nam ngaoij viên tịnh xáKì Viên để truyền giới cho Tì- Kheo. Về hình thứcgiới đàn, căn cứ vàogiới đàn chùa Na- lan- đà ở Ấn Độ được miêu tả trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, thượng của ngài Nghĩa Tịnh thì giới đàn này “Vuông vức mỗi bề hơn 3m”, chung quanh được xây một bức tường gạch, cao khoảng 0,60m, chỗ ngồi trong tường cao khoảng 0,15m.
Tương truyền giới đàn có sớm nhất ở Trung Quốc là giới đàn do ngài Đàm- ca- ca laxây dựng ở Lạc Dương từ năm 249 đến 256. Từ đời Tấn, Tống về sau, ở phương Nam lập rất nhiều giới đàn, nhưng hình thức các giới đàn không còn khảo cứu được.
Đến năm 667, đời Đường, luật sưĐạo Tuyên lập giới đàn tại chùa Tịnh Nghiệp ở vùng ngoại ô Trường An, đàn này chiều cao 2,7m, gồm 3 tầng: Tầng dưới dài 9m, cao 0,9m; Tầng giữa dài 7m, cao 1,2m; Tầng trên vuông vức 2,1m, cao 0,6m. Mỗi tầng chung quanh đều có khắc các hình tượngSư tử thần vương. Về sau ngài Đạo Tuyên chọn “Giới Đàn Đồ Kinh” để trình bày tỉ mỉ về nguồn gốc, tên gọi, hình dáng của giới đàn. Từ đó giới đàn có hình thứcnhất định.
Năm 765 vua Đại Tông ban sắc lệnh lập giới đànPhương Đẳng ở chùa Đại Hưng Thiện, lại ban sắc cho Tăng, Ni ở kinh thành mỗi bên lập 10 vị Đại đứclâm đàn, tức là Tam sư thất chứng. Giới đànPhương Đẳng là giới đànĐại thừa, đàn pháp tuy y cứ vào các bộ luật, nhưng người thụ giới phải phát tâm bồ- đề rộng lớn, đó là điểm đặc biệt nhất so với giới đànTiểu thừa.
Năm 754, hòa thượngGiám Chân người Trung Quốc đến Nhật Bảnxây dựngGiới Đàn trước điện Đại Phật của chùa Đông Đại. Đây là giới đàn đầu tiên ở Nhật Bản. Hình thứcgiới đàn này căn cứ theo bộ “Giới Đàn Đồ Kinh” của ngài Đạo Tuyên.
Theo: Tứ Phần LuậtHành Sự Sao Tư Trì Kí, thượng 2, phần1; Phật Tổ Thống Kí 36, 39; Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải 18; Đại Tống Tăng Sử Lược, hạ; Thích Thị Kê Cổ Lược 3, 4; Đạo TuyênLuật SưCảm Thông Lục
Ý nghĩaCam Lộ[2] A. Cam Lộ:
· S: Amrta.
· P: Amata.
· Hâ: A-mật-lí-đa, A-mật-lật-đa.
· Hd: Bất tử, Bất tử dịch, Thiên tửu.
Sương ngọt, dụ cho giáo lí của Phật giúp nuôi lớn thân tâmchúng sinh.
Mật giáo gọi nước quán đảnhbất nhị của hai bộ chân ngôn là cam lộbất tử.
Duy-ma Kinh Chú 7 ( Đại 38, 395 thượng) ghi: “Ngài La-thập nói: chư thiên đem các vị thuốc quí lên núi báu ở giữa biển để luyện thành cam lộ, người ăn vào được thành tiên, gọi là thuốc bất tử (…). Ngài Đạo Sinh nói: Thức ăn của trời là cam lộ, ăn vào được sống lâu, nên có tên là thức ăn bất tử”.
Kinh Vô Lượng Thọ, thượng, phần đầu (Đại 12, 271 thượng) ghi: “Nước 8 tính chất, trong suốt đầy tràn, sạch sẽ thơm tho, vị như cam lộ”.
Theo: Kim Quang Minh Kinh Văn Cú 5; Đại Nhật Kinh Sớ 13; Đại Nhật Kinh Sớ Diễn Áo Sao 11; Huyền Ứng Âm Nghĩa 22.
B. Cam Lộ
Một trong 3 danh hiệu (Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Cam Lộ) của Phật A-di-đà. Mật giáo gọi Phật A-di-đà là Cam Lộ Vương.
Ý nghĩa của từ Giác Ngộ:
Để nhớ đến hành trạngtu hành cũng như sự nghiệpmột đời hoằng hóa của các vị Tổ Sư, cao tăngthạc đứcPhật giáo, nên nơi nào tổ chức được Đại Giới Đàn đều lấy tên vị Tổ Sư hoặc Cao Tăng ở địa phương đó mà đặt tên cho Giới Đàn.
Theo truyền thống của thiền mônBan Trị SựPhật giáo Gia Lai, cũng như Ban Kiến Đàn đã lấy Pháp hiệu của một Hòa Thượng đã viên tịch trong thời cận đại đặt tên cho Giới Đàn.
Giới Đàn đầu tiên tổ chức tại Gia Lai năm 2010, đặt tên là Giới ĐànCam Lộ, và lần này 2015 được đặt thêm là Cam Lộ - Giác Ngộ. Và nếu nhân duyên đầy đủ, 5 năm sau Ban Trị SựPhật giáo Gia Lai tổ chức Giới Đàn lần thứ 3, vẫn giữ tên Cam Lộ đi kèm với Pháp hiệu của một vị Hòa ThượngCao Tăng khác.
Từ Cam Lộchúng ta đã hiểu rõ qua định nghĩa của “ Từ Điển Phật Học Huệ Quang” ở trên.
Ngài quê quán tỉnh Bình Định, họ Nguyễn tên Hộ, bẩm tính thông minh, tướng hoan hỷ, sớm có ý chíxuất trần, năm14 tuổi xuất gia tôn Hòa ThượngTường Quang chùa Phước Sơn, huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định làm Thầy, được Thầy ban choPháp Danh Thị Hớn.
Năm 19 tuổi, được Thầy cho thọ giớiSa Di tại giới đàn Tổ Đình Thiên Đức, Tuy Phước, Bình Định do Hòa Thượng Thích Huệ Chiếu làm Đường đầu.
Biết được Ngài là bậc pháp khíĐại Thừa, Hòa Thượng Bổn Sư cho Ngài y chỉtu học với Hòa Thượng Huệ Chiếu(Tổ Đình Thiên Phước, xã Phước Hưng, Tuy Phước, Bình Định) Ngài được Hòa Thượng Huệ Chiếu tiếp nhận và ban choPháp danh là Nguyên Uyên, tự Chí Đạt hiệu Giác Ngộ.
Năm 28 tuổi ngài thọ Cụ Túc Giới tại Đại Giới Đàn tổ đình Thiên Bình, (xã Nhơn Phong,huyện An Nhơn tỉnh Bình Định).Giới đàn này do Hòa Thượng Thích Huệ Chiếu (tổ đình ThậpTháp)làm Đường đầu, Hòa Thượng Thích Phúc Hộ làm Yết Ma A Xà Lê, Hòa ThượngThích Tâm Đạt viện chủ tổ đình Thiên Bình làm Giáo thọ,
Trong thời kỳhành đạo Ngài đã đảm nhiệm những chức vụ:
Năm 1953, ngài được Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Bình Định lúc bấy giờ đề cử chức vụ Chánh thư kýPhật giáo cứu quốc xã Phước Hưng.
Năm 1954, trụ trì chùa Thiên Trúc, thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định.
Năm 1957, ngài giao chùa cho TT Thích Quảng Cố trông nom, ngài lên đường ra Huế , tham gia các lớp nghiên cứuPhật học tại Phật học đường Báo Quốc.
Năm 1961, ngài trở về chùa Thiên Trúctiếp tục sứ mệnh tiếp tăng độ chúng, và tham gia công tác phật sự tại tỉnh hội Phật giáo tỉnh Bình Định.
Năm 1964, ngài được bổ nhiệmtrú trì chùa Pháp Lâm ở Đà Nẵng, hướng dẫn phật tửtu tập .
Năm 1966, Ban đại diệnPhật giáo tỉnh Bình Định mời ngài về tổ đình Long Khánh để tham gia công tác giáo dục, đào tạo tăng tài, kiêm chức vụ đặc ủy văn hóaPhật giáo tỉnh Bình Định.
Ngài làm giám luật Phật học việnNguyên Thiều, huyện Tuy Phước.
Năm 1970, Ngài được mời làm Giám luật Phật học việnPhước Huệ(Tổ đình Thập Tháp-Bình Định).
Năm 1972, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN có quyết định cử Ngài nhận lãnh trách nhiệmhoằng pháp cao nguyên, bổ nhiệm Ngài về trụ trì chùa Bửu Thắng (tỉnh hội Phật giáo Pleiku)
Ngày 08-03-1974, Ngài chính thức nhận chức vụ trú trì chùa Bửu Thắng. Từ đây Ngài bắt tay vào việc chỉnh đốnquy củthiền môn, tiếp tăng độ chúng, hướng dẫn quần chúngPhật tửtu học.
Sau 1975, tỉnh Pleiku sáp nhập với tỉnh KonTum thành Gia Lai - Kon Tum. Địa giớimở rộng, hoạt độngPhật giáo đòi hỏi nhiều sự hy sinh, dấn thân phụng sự, Ngài là bậc cao tăngtrụ trì chùa Tỉnh hội, nên trách nhiệmPhật sự của ngài đối với Giáo hội và quần chúngPhật tử lại càng lớn lao hơn.
Tại Đại Hội toàn quốc nhiệm kỳ V (2002-2007), Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng. Và được suy tôn vào Hội đồngChứng minh T.Ư GHPGVN.
Năm 2006, nhận thấy tuổi cao sức yếu, Ngài phó chúc cho Thượng TọaThích Tâm Tường thay thế Ngài nhận chức vụ trú trì chùa Bửu Thắng. Ban trị sự và Tăng NiPhật tử Gia Lai, nhất tâm suy tôn Ngài lên ngôi vị viện chủ chùa Bửu Thắng để tiếp tục làm bóng mát Bồ đề, chỗ nương tựa cho hàng tứ chúngPhật tử.
Theo quy luậtvô thường, ngày 14 tháng 10 năm Canh Dần (nhằm ngày 19/11 năm 2010), tại chùa Bửu Thắng, TP.Pleiku, ngài đã thâu thần thị tịch, trong lời kinh tiếng kệ, của bốn chúngđệ tử, với niềm kính tiếc vô biên. Ngài trụ thế 86 năm, 59 hạ lạp.
Ngài là một bậc tòng lâmthạch trụ của Phật giáo, đã lèo lái đưa con thuyền Phật giáo Gia Lai qua những giai đoạn khó khăn nhất.
Ngài luôn tổ chức trường hạ hằng năm cho Tăng NiPhật tử Gia Lai an cưtu tập, để giữ gìn mạng mạch Phật pháp, và luôn luôn ủng hộ các chùa trong và ngoài tỉnh xây dựng bằng tinh thần cũng như vật chất, và Ngài có một câu nói rất nổi tiếng:
Tôi muốn các chùa ở vùng sâu vùng xa, xây mới, trùng tu trước, chùa Tỉnh hội nơi tôi đang trụ trìtrùng tu sau. Bởi vì nếu tôi trùng tu trước, tôi kêu gọi các giới Phật tử sẽ hưởng ứng đông đảo, đóng góp nhiều, do vậy khi các chùa vùng sâu vùng xa kêu gọi đóng góp trùng tuxây dựng sẽ gặp khó khăn. Các giới Phật tử và các nhà hảo tâm hiến cúng ít lại, do vậy các công trìnhtrùng tuxây dựng chùa ở vùng sâu vùng xa khó hoàn thành. Chính vì lý do đó cho nên tôi chưa có ý địnhtrùng tu chùa Tỉnh hội.
HT. Thích Giác Ngộ - Gia Lai
trích trong “Những lời dạy của các Cao TăngPhật giáo Việt Nam”
Để cho Đại giới đàn được mở ra, và thành tựuviên mãn, Ban kiến đàn Đại giới đànCam Lộ - Giác Ngộ chúng con thành tâmđảnh lễmười phương chư Phậthộ trì, liệt vịTổ Sưgia hộ, tri ânchư tôn giáo phẩm Hội đồngChứng minh, Hội đồng Trị sự trung ương GHPGVN. Chư tônHòa Thượng trong Hội đồng thập sư. Chư tônHòa Thượng, Thượng Tọa trong Ban chứng minh, BTS Phật giáo Gia Lai, tứ vị dẫn thỉnh, nhị vị giám đàn…
Các vị lãnh đạo chính quyền các cấp, cùng tất cả chư tônđức Tăng Ni, đàn natín thíủng hộcông quả tài vật cho giới đàn, ở trong và ngoài tỉnh . Và nhất là Thượng tọa ThíchTâm Mãn, trụ trì chùa Minh Thành. Ni trưởngThích nữHạnh Nguyện chùa Bửu Sơn, cùng tăng chúng, ni chúng của hai chùa đã hết lòngyểm trợ, cung phụngtrợ duyên cho giới đànCam Lộ - Giác Ngộ.
Nguyện đem công đức mở ra Pháp hộiĐại Giới Đàn này cầu nguyện cho thế giới hòa bình chúng sinhan lạc.
Khể thủ.
Ban kiến đàn Đại Giới ĐànCam Lộ - Giác Ngộ
Dẫn chiếu:
[1] Từ điển Phật họcHuệ Quang (Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM năm 2010).
Mục Giới Đàn, trang 1712 - 1713.
[2] Từ điển Phật họcHuệ Quang (Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM năm 2010).
Một số hình ảnhCổ Phậtkhất thực và Tấn đàn truyền Bồ Tát giới
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ
việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với
thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ
thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới.
Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.