LỄ TƯỞNG NIỆM 50 NĂM PHÁP NẠN (1963-2013)
BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC
VÀ TĂNG TÍN ĐỒ VỊ PHÁP VONG THÂN
TIỂU SỬ BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC
Hòa thượng Thích
Quảng Đức,
Pháp danh Thị
Thủy,
Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng
Hội
Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, thuộc miền Trung
Việt Nam, trong một
gia
đình có bảy
anh chị em,
thân phụ là cụ Lâm Hữu Ứng và
mẫu thân là cụ bà Nguyễn
thị Nương.
Năm lên bảy, Hòa thượng xuất gia tu học với Hoà thượng Thích Hoằng Thâm, vừa là
Thầy bổn sư, vừa là cậu ruột. Ngài được Hòa thượng Hoằng Thâm nhận làm con
chính thức, nên lấy tên là Nguyễn văn Khiết.
Năm mười lăm tuổi Hòa thượng thọ giới Sa Di. Năm hai mươi tuổi thọ Tỳ Kheo giới.
Thọ giới xong Hòa thượng vào một ngọn
núi ở Ninh Hòa phát nguyện tịnh tu ba năm, bặt dứt với mọi liên lạc với thế giới
bên ngoài (về sau ngài đã trở lại ngọn núi này để thành lập một ngôi chùa lấy
hiệu là Thiên Lộc). Sau khóa tu ba năm, ngài rời núi để bắt đầu công cuộc hoằng
dương Phật Pháp, nhưng hai năm đầu, Hòa Thượng đã thực hiện pháp hạnh đầu đà, một
mình với chiếc bình bát khất thực đó đây để gieo duyên lành với chúng sanh. Sau
hai năm mãn nguyện, ngài trở lại nhập thất tại Chùa Sắc Tứ Thiên Ân tại Ninh
Hòa, gần thành phố Nha Trang.
Năm 1932, Hội An Nam Phật Học ra đời, đại
lão Hòa Thượng Hải Đức đến tận nơi ngài đang nhập thất thăm hỏi và mời ngài về
làm chứng minh Đạo sư cho Chi Hội Phật Giáo Ninh Hòa trong ba năm. Sau đó, ngài nhận nhiệm vụ kiểm Tăng trong tỉnh Khánh
Hòa.
Trong thời gian hoằng Pháp tại các tỉnh miền Trung, Hòa thượng Quảng Đức đã kiến
tạo hoặc trùng tu tất cả là 14 (mười bốn) ngôi Chùa.
Năm 1934, rời Khánh Hòa vào miền Nam để
tiếp tục sứ mạng bảo vệ và phát triển Chánh Pháp, Hòa Thượng đã đi khắp các tỉnh
miền Nam để giáo hóa, Hòa Thượng cũng từng đến Campuchia hai năm để học hỏi và
nghiên cứu kinh diển theo truyền thống Theravada.
Cũng như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, ngài đã khai sơn và
trùng tu 17 (mười bảy) ngôi chùa.
Như vậy, ngài đã có công
xây dựng hoặc
trùng tu tất cả 31 (ba mươi mốt) ngôi
chùa. Ngôi chùa
cuối cùng, nơi ngài
trụ trì là Chùa
Quan Thế Âm, số 68 Nguyễn
Huệ, quận Phú Nhuận, Gia Định (nay
con đường này đã đổi thành chính tên của
ngài là Thích
Quảng Đức).
Tưởng cũng nên nhắc lại, ngài đã từng giữ chức vụ Phó Trị sự và Trưởng Ban
Nghi
Lễ của
Giáo Hội Tăng Già Nam Việt trong một
thời gian khá lâu. Trước đó, theo
theo lời
thỉnh cầu của
Ban Trị Sự, ngài có lúc đã nhận
nhiệm vụ trụ trì Chùa
Phước Hòa, trụ sở đầu tiên của Hội
Phật Học Nam Việt. Khi trụ sở này đời về
chùa
Xá Lợi, ngài
xin thôi việc để có đủ
thời gian an tâm tu niệm.
Ngày 20 tháng tư nhuần năm Quý Mão, nhằm ngày 11/6/1963, trong một cuộc diễn
hành của gần 1000
Tăng Ni để
tranh đấu cho chính sách ''
Bình Đẳng Tôn Giáo''.
Hòa Thượng Quảng Đức đã
nhận ra được
Chính Pháp là ngọn đuốc thần
soi sáng thế
nhân, còn thân
ngũ uẩn chỉ là giả tạm. Ngài bèn
quyết định thực hành nguyện ước
là
tự thiêu thân để
cúng dường Phật Pháp và cũng làm để làm
động cơ thúc đẩy
Chính phủ
giải quyết gấp rút 5 nguyện vọng của
Phật giáo và giải tỏa cho 3 ngôi
chùa ở Huế đang bị vây khốn.
Chính vì thâm nguyện ấy cho nên ngài đã
yêu cầu tẩm xăng ướt mấy lớp
Cà Sa, rồi
ngồi kiết già ở giữa ngã tư Phan Đinh Phùng và Lê
Văn Duyệt. Ngài đã
tự
tay châm ngọn lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân mình, ngài vẫn
an nhiên chấp
tay tịnh tọa, gương mặt
không lộ vẻ
sợ hãi,
lo âu. Gần mười lăm phút sau, lửa
tàn và ngài đã
ngã xuống, trên tay vẫn còn quyết ấn
Cam lồ.
Và đây là
lời nói cuối cùng của ngài trước khi
giác linh theo ngọn khói về cùng
với Phật:
''
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, Tôi
trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái, từ
bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước
nhà muôn thuở''.
'' Tôi tha thiết kêu gọi chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết
nhất trí, hy sinh để bảo tồn Phật giáo''.
Dù ngài đã thị tịch, nhưng hình ảnh của
ngài vẫn khắc sâu in đậm vào lòng của người con Phật. Cái chết vô cùng cao quý
của ngài đã gây xúc động mạnh trong mọi giới, là một gương sáng cho toàn thể Phật
giáo đồ trên khắp thế giới.