Đức Thế Tônthành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóachúng sanh.
- Điểm Đến Chí Thiện
Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất giatừ bỏgia đình, sống đời sốngthoát lygia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đườngvô thượngtối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
Như vậy, điểm cùng đích mà khi xuất giaThế Tôn hướng tới là điểm chí thiện. Cùng đích của chí thiện là Diệt đế tức là Niết-bàn hay tịch tịnh tuyệt đối. Vì sao? Vì
nó là đời sống không còn bị sanh, già, bệnh, chết chi phối. Cùng đích của chí thiện là vô sanh, bất diệt, nơi không còn bất cứ một bóng dáng nào của tham dục và ngã tưởng.
- Đường Lớn Mở Ra
Thế Tôn đã đi đến cùng đích của chí thiện bằng con đường nào? Bằng con đườngThánh đạo tám chi.
Do
đi trên cao đường nầy, Thế Tôn đã vượt ra khỏi hai cực đoan là khổ hạnhép xác và buông lung trong các dục. Sống với đời sốngép xáckhổ hạnh, khiến con người có cái nhìn lãnh cảm với cuộc đời và hờ hững với những gì đang hiện hữu; và sống với tâm buông lung trong các dục, khiến cho con người quá nhiệt tình với các nhu cầu của lòng tham, nên bị mù quáng và chết điếng bởi nó.
Nên, Thánh đạo tám chi, con đường vượt ra khỏi hai cực đoan ấy, để đi đến cùng đích của chí thiện và Thế Tôn đã đi
đến cùng đích ấy bằng con đường nầy.
Vì vậy, đức Thế Tôn nói: “Nầy các Tỳ-kheo! Quý vị tu tập, cần phảitừ bỏ hai cực đoan ấy. Tôi sẽ nói cho quý vị biết về con đường Trung đạo, quý vị phải hết lòng nghe, ghi nhớ và nỗ lực thực hành!
Thế nào là con đường Trung đạo? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Con đường đủ tám yếu tố như vậy, gọi là Trung đạo. Đây là con đường đi tới an lạc, trí tuệ,giác ngộ và Niết-bàn”. [2]
Như vậy, Thế Tônthành đạo là do Ngài đã tự mình đi trên con đường nầy và con đường lớn đã mở ra, dẫn Ngài đến chỗ an lạc
chí thiện, trí tuệ minh triệt, giác ngộ tối thượng và Niết-bàn tuyệt đối.
- Đoạn Trừ Lậu Hoặc Và Chứng Tam Minh
Thế
Tôn đoạn trừ các lậu hoặc bằng con đường nào? Bằng con đườngthiền quán
với sự có mặt của Chánh tư duy, sau khi đã đi qua hỷ lạc, do các loạithiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền đem lại, Ngài dừng lại ở nơi Tứ thiền, với tâm thuần tịnh, không còn các bóng dáng của khổ thọ, lạc thọ,
ưu thọ, hỷ thọ và niệm tưởng, và bấy giờ Ngài đi vàothiền quán, lấy “lão tử” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “sanh”; lấy “sanh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hữu”; lấy “hữu” làm đối tượng tư duy để thấy rõ
“thủ”; lấy “thủ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “ái’; lấy “ái” làm đối
tượng tư duy để thấy rõ “thọ”; lấy “thọ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “xúc”; lấy “xúc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “lục nhập”; lấy “lục
nhập” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “danh sắc”; lấy “danh sắc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “thức”; lấy “thức” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hành”; lấy “hành” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh”; lấy “vô minh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh” diệt, thì “hành”
diệt; “hành” diệt, thì “thức” diệt; “thức” diệt, thì “danh sắc” diệt; “danh sắc” diệt, thì “lục nhập” diệt; “lục nhập” diệt, thì “xúc” diệt; “xúc” diệt, thì “thọ” diệt; “thọ” diệt, thì “ái” diệt; “ái” diệt, thì “thủ” diệt; “thủ” diệt, thì “hữu” diệt; “hữu” diệt, thì “sanh” diệt; “sanh” diệt, thì “lão tử” diệt.
Sau khi đã tư duy và thấy rõ như vậy, Ngài liền thấy và biết một cách như thật rằng, chính “ái, thủ và hữu” là tác nhân và tác duyên hiện tại để “sanh lão tử” có mặt; và “vô minh, hành” là tác nhân, tác duyên quá khứ để cho “thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ” có mặt, và toàn bộ “khổ uẩn” đời nầy và đời sau có mặt, nên Ngài đã dùng năng lực của Giới, Định và Tuệ hay các yếu tốtrợ đạo và chánh đạo, để chặt đứt “ái, thủ và hữu”; chặt đứt “vô minh và hành”, khiến các lậu hoặc đều dứt sạch; và bằng tuệ giác, Ngài đã soi chiếu vào tự thân, thấy rõ nhân duyên của mình, từ một kiếp, hai kiếp cho đếnvô lượng kiếp, trong quá khứ với tên như vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy, với quốc độ như vậy, với hành nghiệp như vậy...
với sự thấy rõ như vậy,gọi là Túc mạng minh. Ngài đã chứng minh nầy, cuối canh một của đêm Thành đạo.
Tiếp tụcthiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi chiếu nhân duyên và nghiệp quả của chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp quả của những loài chúng sanh sinh ra từ sự
ẩm ước; từ trứng; từ thai; và từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như vậy, gọi là Thiên nhãn minh. Ngài chứng minh nầy vào cuối canh hai của đêm Thành đạo.
Ngài vừa chứng Thiên nhãn minh, thì ngay lúc ấy, sấm sét nổ tung vang trời, mưa bắt đầu tuôn xuống xối xả. Nhưng Ngài vẫn điềm nhiến
bất động, dẫn tâm hướng đến Lậu tận trí và biết đúng như thật: đây là khổ; đây là tập khởi của khổ; đây là sự vắng mặt của khổ; và đây là con đườngchấm dứt sự khổ.
Sau khi đã có Chánh kiến như vậy rồi, Ngài lại tiếp tụcquán chiếu để thấy rõ:
“Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những kiến thứcmê lầm. Đây là những mê lầm do vô minh.
Đây
là nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm. Đây là nguyên nhân của những kiến thứcmê lầm. Đây là nguyên nhân của sự mê lầm do vô minh.
Đây
là sự vắng mặt của những nguyên nhânmê lầm. Đây là vắng mặtnguyên nhân của những kiến thứcmê lầm. Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhânsinh khởivô minh.
Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những ước muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những kiến thứcmê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những mê lầm do vô minh”.
Bằng con đườngthiền quán, soi rọi tâm thức như thế, Ngài đã loại trừ hết thảy dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ngài tự biết mình đã
giải thoáthoàn toàn, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ lậu hoặc nào và
tự tuyên bố:
“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn tái sanh nữa”.
Với
Chánh kiến đối với các lậu hoặc ở nơi tự tâm như vậy, gọi là Lậu tận minh. Ngài đã chứng được minh nầy, vào cuối canh ba của đêm Thành đạo.
Cùng
ngay lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên của hết thảy mọi ngôn ngữ và âm thanh, nên Ngài đã chứng Thiên nhĩ thông. Tiếp tụcthiền quán, Ngài chứng được Tha tâm thông, biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh. Và ngay sau đó, Ngài chứng luôn Thần túc thông, không còn bất cứ một chướng ngại nào đối với bước chân đi của Ngài.
Chướng ngại đã qua, nắng ấm đã lên, Ngài nhìn muôn vật mỉm cười và tự nhủ:
“Cửa vô sanhbất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành”. Bấy giờ là vào ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, lúc Ngài 35 tuổi.[3]
- Thành Đạo Và Hoằng Pháp
Sau
khi đức Thế Tôn, đoạn sạch hết thảy lậu hoặc, chứng đắcTam minh và thành tựuLục thông, Ngài thành bậc Như Lai, A-la-hán, bậc Vô thượng giác với đầy đủ mười phẩm tính giác ngộ.
Ngài nói: “Này các Tỳ kheo! Trong toàn thểthế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúngSa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy được gọi là Như Lai”.[4]
Và ở trong kinh Mật Hoàn, đức Thế Tôn đã khẳng định sự thuyết pháp của Ngài cho những người chất vấn rằng: “Ngài thuyết pháp không phải để tranh luận với một ai giữa đời”.[5] Và Tôn giả Mahakaccana đã nói cho các hiền giả về sự thuyết pháp của Thế Tôn rằng: “Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thànhChánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, NhưLai”. [6]
Sau khi thành đạo, với cái biết như vậy, với cái thấy như vậy, với Chánh pháp như vậy... sau nhiều tuần lễ yên lặng quán chiếu, Ngài đã thương đời, thương chúng sanhchìm đắm trong vô minhkhổ hảisinh tử, nên Ngài đã đến vuờn Nai để chuyến vận Pháp luân, kêu gọi năm anh em Kiều Trần Như, nên từ bỏ hai cực đoan: một là ép xáckhổ hạnh; hai là buông lung trong các dục; và hãy thực hànhTrung đạo là Bát chánh đạo. Sau đó Ngài chuyển
vận pháp luânTứ Thánh Đế ba lần gồm: thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển với đầy đủ mười hai hành tướng cho năm anh em Kiều Trần Như. Từ đó Phật, Pháp, Tăng có mặt một cách đầy đủ cả sự và lý ở trong thế gian. Phật là đấng Thế Tôn, Pháp là Bát Thánh đạo, trục quay của Tứ Thánh Đế và Tăng đoàn có mặt đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như, được thiết lập trên nền tảng Thánh đạo với bản thế thanh tịnh và hòa hợp.
Bấy
giờ, Tăng đoàn của Thế Tôn càng ngày càng lớn mạnh, chánh pháp càng lúc
càng được tuyên dươngrộng rãi, rạng ngời khắp xứ Ấn độ bấy giờ.
Đối
với sự nghiệphoằng pháp, đức Thế Tôn dạy: “Như Lai hay đệ tửNhư Laithuyết pháp để bạt trừ tất cả nỗ lựcthiên kiến, tùy miên về mọi chấp trướckiến xứ, sự an tịnh của mọi hành động, sự vứt bỏ mọi chấp trước, sự diệt trừkhát ái, để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”.[7]
Như
vậy, sau khi thành đạo, đối với con đườnghoằng pháp, Ngài nói: “Ngài thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[8]
Nói một cách khác, vì thương chúng sanh thọ khổ mà Phật có mặt ở trong thế gian và thuyết pháp, giáo hóa đem lại Chánh kiến và sự an ổn cho cõi đời. Trong sự giáo hóa và thuyết pháp của Ngài đã có sự thống nhất và xuyên suốt một mục đíchduy nhất như Ngài nói: “Chư Tỳ kheo! Xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”.[9]
Với lý tưởnghoằng pháp để
diệt khổ cho chúng sanh, Thế Tôn sau khi thành đạo, Ngài đã lên đường chuyển vận bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai và thành lậpTăng đoàn, để cùng Ngài hoằng pháp, đem những điều tốt đẹp, cao quý do Ngài đã giác ngộtruyền bá cho nhân loại khắp cả muôn nơi.
Giáo lý do Ngài giảng dạy không hề có sự tranh hơn thua với ai, mà chỉ nhắm thẳng tới sự diệt tận khổ đau cho con người, nếu con người biết chấp nhận pháp, nương tựa pháp và hành trì theo pháp, thì nhất định ngay trong đời
sống nầy khổ đau sẽ bị diệt tận.
Ở trong các kinh điển, đức Phật
đã dạy rằng: “Những ai đến với Ngài không phải để nói hay để tranh cãi mà đến để thấy và chứng ngộ”.
Tăng đoàn có mặt giữa cuộc đời và đi khắp thế gian, cũng chỉ vì mục đích ấy, chứ không vì bất cứ mục đích nào khác. Nghĩa là không tranh giành hơn thua với ai, với đoàn thể nào, mà chỉvì lợi ích và an lạc cho đa số; vì lòng thương đối với cuộc đời, mà thuyết phápgiáo hóachúng sinh, khiến cho chúng sanh không bị tham dục, sân hận và si mêám hại, như đức Phật nói ở trong kinh Đại bổn:
“Này
các Tỳ kheo! Hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng với đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ.
Này
các Tỳ kheo! Hãy thuyết giảngChánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sốngphạm hạnhhoàn toànthanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng Chánh pháp sẽ bị nguy hại”.[10]
- Kỷ Nguyên Mới
Như
vậy, ta thấy ngày Thành đạo của đức Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên của Chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo nên.
Tâm cũng vô thường như bất cứ
những sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của của nó được thay đổi. Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giớicon người là Bát Thánh Đạo. Thực hànhBát Thánh Đạo, do đức Phậtcông bố
tại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, thì những khổ đau của thế giớicon người sẽ bị diệt tận.
Nên, ngày Thành đạo của Thế Tôn đã mở ra cho nhân
loại, một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của Chánh kiến, Chánh tư duy,...
từ bậc Giác ngộhoàn toàn. Và một niềm tin mới, một niềm tin mọi khổ đau của con người có thể diệt tận và hạnh phúc, an lạc của con người có thể có mặt ngay trong đời sống này.
Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn lại mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên từ bỏ mọi huyền đàm, suy tưởng, và phải biết đối diện với cái thực tếtrước
mắt, là khổ và diệt khổ, bằng con đường thực nghiệm, đoạn tận phiền não
ở nội tâm, chứ không phải bằng con đườngnô lệthần linh qua việc tế tự, lễ nghi để cầu xin ban ân sủng hay tìm cầu chạy bươn theo hướng trục
vật.
Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của ý thứctự giác và tự nguyện. Tự giác và tự nguyện học đạo, tự giác và tự nguyện tầm đạo, tự giác và tự nguyện ứng dụng đạo, tự giác và tự nguyện chứng đạo, tự giác và tự nguyện hoằng đạo, để đem lại sự an bình và tốt đẹp cho cuộc đời.
Chính
ý thứctự giác, tự nguyện ấy là khởi điểm cho mọi nền tảng hạnh phúc và
văn minh của nhân loại. Con người không thể nào có hạnh phúc, khi bị người khác sai sử. Nếu bị người khác sai sử làm vua, làm tổng thống, làm
người xuất giacho đến ngay cả bị sai sử làm hòa thượng đi nữa, vẫn bị khổ đau như thường. Nó khổ đau, vì những việc làm ấy không có gốc rễ từ ý
thức tự nguyện và tự giác. Và xã hộiloài người không thể nào có văn minh, tiến bộ, nếu trong những lãnh vựcsinh hoạt của chúng, thiếu ý thứctự giác và tự nguyện này.
Vì vậy, ngày Thành đạo của đức Thế
Tôn là ngày mở ra một kỷ nguyên mới, về đời sốngý thứctự giác và tự nguyện để làm lực đẩy xã hộiloài ngườiđi lên.
Và ngày Thành đạo
của đức Thế Tôn là ngày không những mở đầu cho sự có mặt của trí tuệ toàn hảo của bậc Đại Giác Ngộ, mà còn là ngày khởi đầu hạnh nguyệnđại bi và trách nhiệmgiáo hóa của Ngài đối với muôn loài như Ngài đã nói:
“Ngài
thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế
gian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[11]
Với trách nhiệm ấy, không đến với Ngài từ bất cứ quyền uy nào, mà từ ý thức tự nguyện, tự giác với đầy đủ hai chất liệu của đại trí và đại bi, khiến cho ngày thành đạo của Ngài đối với nhân loại là một nhu cầu khẩn thiết và trở thànhbất tửtrong lịch sửvăn minh củathế giới con người.
Lịch
sử ấy chỉ có nghĩa đích thực, khi nào những người đệ tử của Ngài, có đời sống biết nương tựa Pháp, học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, sống với đời sống như vậy, thì không có đời sống nào cao quý hơn; biết cúng dường Phật bằng học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sựcúng dường nào cao hơn; biết thiết lậpđạo tràng để học Pháp, hành theo pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sựthiết lập nào cao hơn; biết thương yêu và phụng sựcuộc đời bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sựthương yêu và phụng sự nào cao hơn;và biết làm lễ kỷ niệm ngày
thành đạo của đức Thế Tôn, bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ lễ kỷ niệm nào có ý nghĩa cao hơn nữa cả.
Vì vậy, là đệ tửThế Tôn, chúng ta phải tu họctinh cần, để thấy Pháp và chứng ngộ Pháp, khiến mọi không gian đều là không gian của đạo, và khiến cho mọi thời gian đều là thời gian thực nghiệm đạo và chứng đạo, như Thế Tôn đã chứng và đã thành.
Đó là ý nghĩa hướng về và kỷ niệm ngày Thế Tônthành đạo của những hàng đệ tử Phật chúng ta.
CHÚ THÍCH [1] Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr 163, ĐHVH 1973. [2] Phật ThuyếtTam chuyển pháp luân kinh, số 110, Đại Chính 2. [3]
Tham khảoKinh Thánh Cầu, Kinh Nhất ThiếtLậu Hoặc, Trung bộ I, ĐHVH, 1973. Phẩm Phật Đà, Tương Ưng Bộ II, ĐTKVN, 1993. Phật Bản Hạnh Tập Kinh
31, 32, Đại Chính 3. [4] Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Tiểu Bộ I, Tu Thư PHVH 1982. [5] Kinh Mật Hoàn, Trung Bộ I, tr109A, ĐHVH 1973 [6] Kinh đã dẫn như trên tr 111A. [7] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 136B, ĐHVH, 1973. [8] Kinh đã dẫn, tr 140A. [9] Kinh đã dẫn, tr 140. [10] Kinh Đại Bổn, Trường Bộ III, tr 45, ĐHVH, 1972. [11] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 140A, ĐHVH, 1973.
Sinh hoạt trong lãnh vực truyền thông tại Quận Cam bao lâu nay, tôi chưa bao giờ tham dự một buổi ra mắt kinh sách Phật Giáo mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam như buổi ra mắt bộ Thanh Văn Tạng của Đại Tạng Kinh Việt Nam tại Nhà Hàng Brodard Chateau, Thành phố Garden Grove, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 19 tháng 3 năm 2023.
Được tin không vui, Ni sư Thích Nữ Hạnh Đoan đang lâm trọng bệnh ở giây phút cuối đời. Ni sư đã có công dịch thuật nhiều sách Phật học, đặc biệt là bộ sách 7 tập Báo Ứng Hiện Đời khuyên người tin sâu nhân quả hướng về Phật Pháp và ước nguyện cuối đời là muốn độ hết chúng sinh thoát khổ. Thư Viện Hoa Sen đã chuyển tải thông điệp của Ni sư qua việc phổ biến các sách của Ni sư và nay xin được long trọng bố cáo đến toàn thể quý độc giả bài viết cuối cùng của Ni Sư. Ước mong quý độc giả đồng cùng với các thành viên ban biên tập Thư Viện Ha Sen dành chút giây hướng về Ni sư và cầu nguyện cho Ni sư thân tâm được an lạc khi chưa thuận thế vô thường và khi thuận thế vô thường thanh thản về cõi Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu hành rồi trở lại cõi Ta Bà cứu độ chúng sinh.
Gần đây trên các báo chí Hoa Kỳ và trên cộng đồng mạng có đề cập đến nhiều về từ ngữ WOKE và có nhiều độc giả hỏi về ý nghĩa của từ này. Chúng tôi cũng không biết rõ về ý nghĩa và xuất xứ của từ này, nên có cuộc trò chuyện với AI (trí thông minh nhân tạo) như sau:
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.