Bên Thầy: Nhớ Về Những Kỷ Niệm Bên Hòa Thượng Thích Thanh Từ

28/07/20153:13 SA(Xem: 30727)
Bên Thầy: Nhớ Về Những Kỷ Niệm Bên Hòa Thượng Thích Thanh Từ

BÊN THẦY:
NHỚ VỀ NHỮNG KỶ NIỆM BÊN HÒA THƯỢNG THÍCH THANH TỪ
Nguyễn Mạnh Hùng

thich thanh tuTôi rất thích bức tâm thư pháp mà thầy Chính Trung tặng cho tôi. Bức đó thầy Chính Trung viết tên tôi – chữ Hùng. Các nét chữ được dùng hình ảnh mà nhìn vào là ta nhận ra ngay – 2 nét dọc của chữ H là 2 thanh côn. Các nét còn lại là kiếm, đao,… toàn hung khí nguy hiểm. Tuy nhiên phía bên dưới thầy ghi “Nhẫn giả vô địch; Dĩ hòa vi phương”. Tôi luôn lấy bức tâm thư pháp này để soi cho mình. Rằng người hùng không phải là bằng chức vụ, tiền bạc, bằng cấp, quyền lực,… Người hùng thực sự là sự mềm mỏng, nhẫn nhịn, nhu hòa. Rằng cần dùng đức hạnh, dùng tình yêu thương để lãnh đạo cơ quan, để hướng dẫn gia đình mình, để dạy các học trò. Và tôi luôn nhắc mình như vậy. Mỗi sớm mai.

Tôi may mắn có những người thầy lớn, được nhiều bậc thầy lớn trực tiếp chỉ dạy, hướng dẫn tu tập. Một trong những vị thầy cao quý đó là Hòa thượng Thích Thanh Từ. Thầy tôi rất khác biệt ở ĐẠO HẠNH lớn lao của Ngài mà tôi không thể nói thành lời, không thể viết ra được. Tất cả chỉ là cảm nhận. Đúng như trong ỹ nghĩa của cụm từ “tâm truyền tâm”.

Tôi may mắn được diện kiến Hòa thượng từ những năm trước 2.000. Khi đó thầy còn khỏe. Nếu những ai đã từng được Hòa thượng trực tiếp hướng dẫn cách ngồi thiên thì mới hiểu Thầy ân cần, chu đáo, nhẹ nhàng đến nhường nào. Tôi thì không thể và không bao giờ có thể quên được giọng nói nhẹ nhàng và ấm áp, gần gũi và nhiều năng lượng, mượt mà và nhiều yêu thương như từ Thầy.

Tôi nghe Hòa thượng Thích Thanh Từ thuyết pháp nhiều lần. kể cả trực tiếp lẫn trên băng video. Tôi luôn nghĩ rằng Thầy thuyết pháp không giỏi như một số thầy khác nhưng tâm của Thầy lớn vô cùng. Tâm lớn đó toát hết ra mỗi lời nói, từng cử chỉ, mỗi bước đi. Đạo hạnh của Hòa thượng mới là cái mà chúng ta học theo, nương theo.

Mỗi lần có cơ hội đi Đà Lạt là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Hòa thượng nơi thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. Chỉ cần bên Thầy vài phút thôi là tôi thấy như mình được nạp rất nhiều năng lượng. Có lần tôi thấy mệt, thế là nhấc máy gọi cho thầy Thái Trung, thị giả của Hòa thượng để hỏi xem Hòa thượng đang ở đâu. Thế rồi tôi mua vé may bay từ Hà Nội bay vào. Đơn giản chỉ cần ngồi cạnh Thầy ít phút thôi là tôi thấy mình khỏe lại. Bình annăng lượng tỏa ra từ Thầy nhiều lắm, rất nhiều.

Tuần trước một học trò và là đồng nghiệp của tôi, em Bích Liên – Giám đốc văn phòng Thái Hà Books TP HCM bay ra Hà Nội công tác. Tôi tranh thủ và dùng trọn 1 ngày lái xe chở em và mấy bạn khác lên Yên Tử, thăm và chiêm bái  chùa Đồng. Tôi muốn em và các trò nhớ về Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tôi trực tiếp làm hướng dẫn viên du lịch cho các trò. Buổi chiều tôi dẫn các em về thăm thiền viện Trúc lâm Yên Tử. Bữa đi đó rất ấn tượng, ai cũng thích. Hình như các trò trưởng thành nhiều và nhận được rất nhiều trong quãng thời gian chưa đầy 16 tiếng.

Phải nói thật rằng chỉ cần ngồi tại thiền viện Trúc Lâm, dù ở bất cứ ơi nào: Thường Chiếu, Tây Thiên Bạch Mã, … tôi đều như thấy có bóng Hòa Thượng Thích Thanh Từ ở đó. Tôi luôn tìm thấy ở những nơi này sự bình an đến kỳ lạ. Thiền đường luôn rất rộng mà không bày chi chít các loại tượng như các ngôi chùa ngoài miền Bắc khác. Tất cả chỉ là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Hai bên là tượng của 2 ngài Văn Thù Sư Lợi cầm kiếm trí tuệ cưỡi sư tửPhổ Hiền Bồ tát cưỡi voi trắng 6 ngà. Tất cả rất rất đơn giản nhưng thật ấm cúng và nhiều năng lượng. Tôi luôn dành ít nhất vài chục phút ngồi tĩnh tọa nơi đây. Và dĩ nhiên các học trò hay bạn bè đi theo cũng luôn làm cùng tôi.

Thầy tôi – Hòa thượng Thích Thanh Từ có công rất lớn khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ra. Hôm vừa rồi đi Yên Tử, mấy thầy trò chúng tôi dừng chân rất lâu nơi vườn Tháp để đảnh lễ Phật Hoàng, để đi nhiễu quanh tháp Ngài. Tôi tranh thủ nói chuyện với các trò về lịch sử thiền phái Trúc Lâm để các em biết rõ hơn. Khi về đến thiền viện Trúc Lâm, sau khi được quý thầy tặng sách của Hòa thượng Thanh Từ, em Vũ Hữu Tiến hỏi tôi:” Thế ai là tổ thức 4 ạ”. Tôi mỉm cười hỏi em ”Thế theo em, thì là ai”. Hữu Tiến nói “Hòa thượng Thích Thanh Từ, đúng không thầy”. Tôi gật đầu và khen trò mình giỏi.

Tự nhiên tôi nghĩ đến chuyến viếng thăm Hòa thượng năm nào. Khi đó Hòa thượng Thích Thanh Từ đã yếu rồi. Hình như quãng năm 2008 – 2009 thì phải. Tuy nhiên Thầy vẫn ngồi bên tôi và hỏi chuyện. Thầy vẫn dặn tôi nhớ ngồi thiền mỗi ngày. Thầy vẫn kiên nhẫn trả lời những câu hỏi thuộc loại trẻ con, rất sơ cơ của tôi. Từ Thầy tóat lên một đạo hạnh lớn lắm. Tôi luôn nghĩ, đạo hạnh này có thể cảm hóa được cả tướng cướp nữa là khác. Thế rồi Thầy dặn tôi ở lại ăn cơm và nhớ đi thăm cảnh thiền viện. Tôi may mắn rằng lần nào đến nơi đây cũng được Thầy ưu ái cho dạo chơi trong nội viện và ngồi chơi nơi cốc của Thầy.

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến câu chuyện thời đức Phật. Khí đó các học trò của đức Phật tu trong rừng sâu giữ giới rất tốt, rất đoàn kết, rất tinh tấn đến mức các vị chư thiên cũng cảm kích. Câu chuyện nhắc tôi rằng đức hạnh là quan trọng vô cùng, là loại vũ khí lợi hại nhất, là tài sản lớn nhất. Những người xuất gia thường có loại tài sản này, hoặc lớn hoặc nhỏ. Nhưng tôi thấy hiếm ai có được đức hạnhtình thương như Thầy Thích Thanh Từ. Điều này không chỉ tôi nói ra, không chỉ tôi nhận thấy mà rất rất nhiều người khác nữa đấy ạ.

Hiện nay, trong lúc không ít ngôi chùa và các quý sư lo đi cúng – tức làm việc không phải của người xuất gia, thì các thiền viện thuộc dòng Trúc Lâm của Hòa thượng Thích Thanh Từ rất chú tâm vào tu tập và hành thiền. Ngay lúc chúng tôi có mặt tại thiền viện Trúc Lâm Yên Tử bữa trước cũng thấy các Phật tử đến tu học. Rồi cách đây 1 tháng tôi có đến thăm thầy Thích Trúc Thái Phước nơi Trúc Lâm Đại Giác tại thị trấn sa Pa, nơi thiền viện đang được xây dựng mà khóa tu dành cho các bạn thanh niên vẫn đang diễn ra. Thật là quý hóa biết nhường nào.

Lần gần đây nhất tôi được đảnh lễ Hòa thượng Thích Thanh Từ là tết năm ngoái tại thiền viện Thường Chiếu. Hòa thượng đã yếu nhưng vẫn tiếp chúng tôi. Tôi chỉ ngồi dưới chân Ngài ít phút mà thấy hạnh phúc vô cùng. Tôi đến đây cũng chỉ đơn giản muốn chúc tết Thầy và để được nương vào bóng Thầy, để được thầy nhắc nhở (không cần lời) cho việc hành thiền của tôi được đều đặntinh tấn, để tôi không nhụt chí mỗi khi chướng ngại tràn về.

Sáng nay tôi tọa thiền rồi đi thiền hành. Tôi gửi bình an đến một vài học trò. Tôi không quên gửi lời nguyện cầu đến chư Phật và vũ trụ nguyện mong cho Thầy tôi  - Hòa thượng Thích Thanh Từ đươc khỏe. Tôi cần nhất là thầy khỏe, thầy được ở trên cõi ta bà này. Để tôi và hàng vạn người con Phật đươc nương bóng Thầy. Không biết vậy thì tôi có ích kỷ quá không.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Thanh Từ, con biết ơn Thầy nhiều lắm. Con nguyện học theo đạo hạnh của Thầy.

TS Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty sách Thái Hà  

Vài Nét Về Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).

Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo  đạo  Cao  đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hòa thượng húy Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng Thanh Bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hy sinh vì chồng vì con.

Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trầnđặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ

Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hòa thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ:

Non đảnh là nơi thú lắm ai,
Đó cảnh nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai!

Có thể nói rằng chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây. 

Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm “ Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ.” Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng.

Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước  nguyện  của  Người  đã được thành tựu. Từ đây Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển.

Năm 1949 -1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật Học Đường Phật Quang.  Đến năm 1951, Hòa thượng bắt đầu học lên Trung đẳng.

Một khuya nọ, nhân đọc Kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A Nan nhận ra bản tâm chân thật của chính mình qua tánh thấy, tánh nghe, bất giác Hòa thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật Pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm?

Cũng trong năm nầy chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa Di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng Đàn đầu.

Năm 1953 Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳngtại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng Đàn đầu.

Từ năm 1954 -1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật Học Đường Nam Việt. Những vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quí Ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông, ...   

Như vậy là ngót mười năm Hòa thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hòa thượng bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng Pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần.

Năm 1960 -1964, Hòa thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo:

  • Phó Vụ Trưởng Phật Học Vụ.
  • Vụ Trưởng Phật Học Vụ.
  • Giáo sư kiêm Quản viện Phật Học Viện Huệ Nghiêm.
  • Giảng sư Viện Đại Học Vạn Hạnh và các Phật Học Đường Dược Sư, Từ Nghiêm,...

Sau lễ mãn khóa Cao Trung Chuyên Khoa tại Huệ NghiêmDược Sư, Hòa thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ânbáo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hòa thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hòa thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm.

Hòa thượng đã thật sự giã từ Phật Học Viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt màitứ chúng. Nhưng hai tiếng "Tăng Ni" vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên "Thầy Trò" ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

Tháng 04 năm 1966, Hòa thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một thiền Tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.

Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hòa thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: " Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

Tháng 07 năm 1968, Hòa thượng liễu đạtsắc không, thấu suốt thật tướng Bát Nhã. Từ con mắt Bát Nhã trông qua tạng Kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng khám phá từ công phu thiền định của Người.

Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuônchảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng Thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hòa thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau nầy Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.

Hòa thượng đã từng nói: “Tôi là kẻ nợ của Tăng NiPhật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau.” Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hànhtiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: “Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu.”

Hòa Thượng hiện là Viện Chủ Thiền Viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (Đà Lạt - Việt Nam), Hội Trưởng Hội Thiền Học Việt Nam, Chủ Tịch kiêm Hội Trưởng Hội Thiền Học Quang Chiếu và là Trụ Trì Thiền Viện Quang Chiếu.

Các thiền viện sau đây chính thức được Hòa thượng thành lập, làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành:

  • Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
  • Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974.
  • Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975.
  • Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979.
  • Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980.
  • Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980.
  • Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987.
  • Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt - Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993.
  • Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
  • Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, Sài Gòn.
  • Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Mỹ, thành lập năm 2000.
  • Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Mỹ, thành lập năm 2001.
  • Thiền viện Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002.
  • Thiền viện Bồ Đề, Boston, Mỹ, thành lập năm 2002.
  • Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Mỹ, thành lập năm 2002.
  • Thiền viện Tiêu Dao, Úc.
  • Ngoài ra, còn có Thiền Thất Ngọc Chiếu, Garden Grove, CA, Mỹ. Thiền Thất Thường Lạc - Pháp. Thiền Trang Hỷ Xả - Úc
  • Hòa thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật QuangPhước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.

Hòa thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hòa thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng NiPhật tử.

Hòa thượng đã đi du hoáthăm viếng các nước:

  • Cam-pu-chia (1956)
  • Ấn Độ, Tích LanNhật Bản (1965)
  • Trung Quốc (1993)
  • Pháp (1994 - 2002)
  • Thụy Sĩ (1994)
  • Indonesia (1996).
  • Canada (1994 - 2002)
  • Hoa Kỳ (1994 - 2000 - 2001 - 2002)
  • Úc châu (1996 - 2002).

(Nguồn: Thích Tâm Hạnh-Thiền Viện Trúc Lâm)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
09/11/2014(Xem: 10865)
23/08/2018(Xem: 6681)
12/05/2013(Xem: 29417)
08/08/2018(Xem: 7701)
13/02/2019(Xem: 5955)
04/04/2013(Xem: 18959)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.