Công đức giữ giới

06/01/20153:38 SA(Xem: 7050)
Công đức giữ giới

CÔNG ĐỨC GIỮ GIỚI
Quảng Tánh
          

blankTrong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luậtvai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.

Giới luật nói chung (trừ giới Bồ-tát) được Thế Tôn thiết lập thông qua những biến động trong đời sống Tăng đoàn, mang tính “tùy phạm, tùy chế”. Trong giai đoạn đầu, Tăng đoàn toàn là những bậc Thánh vô lậu nên Thế Tôn không chế giới. Về sau người xuất gia ngày càng nhiều và có những phiền não, uế tạp, trở ngại phát sinh trong đại chúng phàm tăng nên Thế Tôn căn cứ vào những trường hợp cụ thểban hành giới luật.

Giới luậttác dụng hỗ trợ người tu hành hoàn thiện nhân cách và thánh cách, giúp cho đại chúng hòa hợpan ổn, khiến Chánh pháp được tồn tại lâu dài nên giữ giới có mười sự công đức.

Một thời Phật ở tại Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có mười sự công đức, Như Lai vì các Tỳ-kheo nói cấm giới. Thế nào là mười? Là thừa sự Thánh chúng; hòa hợp thuận thảo với nhau; an ổn Thánh chúng; hàng phục người ác; khiến các Tỳ-kheo biết tàm, quý, không bị não loạn; người không tin khiến lập lòng tin; người đã tin khiến tăng thêm bội phần; ở trong hiện pháp được dứt sạch hữu lậu, cũng khiến cho các lậu đời sau thảy đều trừ sạch; khiến Chánh pháp trụ đời lâu dài; thường suy nghĩ phải có cách gì để Chánh pháp tồn tại lâu dài.

Này các Tỳ-kheo! Đó là mười pháp công đức, Như Lai vì các Tỳ-kheo nói cấm giới. Cho nên, Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thành tựu cấm giới đừng để cho mất. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Kết cấm, 
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.274)

Rõ ràng, trong bất cứ đoàn thể nào, muốn vững mạnh và an ổn cũng đều cần có nội quy, có kỷ luật. Nội quy càng chặt chẽ, tính kỷ luật càng cao thì đoàn thể ấy càng vững mạnh. Tứ chúng đệ tử Phật cũng vậy, cần được sống trong giới luật, được giới luật che chởbảo hộ thì mới điều phục được phiền não, thăng hoa tâm linh và khiến cho Chánh pháp trụ đời lâu dài.

Hầu hết người phàm chúng ta, vì vô minhdục vọng sai khiến nên buông lung, phóng dật tạo ra nhiều điều tội lỗi. Những tranh chấpbất hòa gây chia rẽ, phiền não tham dục hữu lậu trong tự thân ngày càng nhiều, không chuyển hóa được người ác cải tà quy chánh, khiến người khác mất lòng tin vào Tam bảo v.v… đều do chúng ta không giữ giới mà sanh ra.

Vì thế nên “Giới luật còn là Phật pháp còn” hay “Sau khi Ta diệt độ, hãy lấy Giới luật làm thầy” đã nói lên tầm quan trọng của giới luật. Thế Tôn thiết lập giới luật vì mười pháp công đức, hàng đệ tử tuân thủ giới luật để được mười sự công đức. Chúng ta đã nguyện đi theo con đường giải thoát của Thế Tôn thì cần nương tựa vào giới luật để hoàn thiện tự thân, xây dựng Tăng đoàn vững mạnh, giúp người và cứu đời, khiến Chánh pháp ngày càng xương minh, trụ thế lâu dài





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/06/2022(Xem: 19079)
27/08/2017(Xem: 14105)
17/11/2015(Xem: 9074)
21/10/2015(Xem: 8041)
18/09/2015(Xem: 11274)
09/09/2015(Xem: 12608)
04/08/2015(Xem: 8541)
20/07/2015(Xem: 9328)
29/06/2015(Xem: 12317)
15/06/2015(Xem: 9338)
07/06/2015(Xem: 10445)
13/05/2015(Xem: 21532)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :