TRÍ HUỆTÁNH KHÔNG VÀ LÒNG SÙNG TÍN Nguyễn Thế Đăng
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thể và xúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhậptánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhậptánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.
Trong bài viết ngắn này, chúng tachỉ trích dẫn vài đoạn ngắn trong Kinh Đại Bát-nhã để thấy phần nào lòng sùng tín của một người tu hànhtrí huệtánh Không.
1..Với bậc thiện tri thức chỉ dạy
“Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành việc thân cận thiện tri thức như thế nào?
Đức Phậttrả lời: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thấy các thiện hữu tri thức khuyên dạy chúng sanh, khiến họ tu tậpNhất thiết trí trí, bèn gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi, thưa hỏi, lãnh thọchánh pháp, ngày đêm thừa phụng, không có lòng mỏi mệt. Đấy là Đại Bồ-tát tu hành việc thân cận thiện hữu tri thức” (Phẩm Biện Đại thừa, hội thứ 1).
Chính lòng sùng tín đối với Bát-nhã mà các thiện tri thức là đại diện, đã mở tâm hành giả, làm rơi rụng bớt những phiền nãochấp ngã che chướng khiến tâm ấy có thể tiếp nhận, lãnh thọ và ngộ nhập Bát-nhã. Lòng sùng tín là sự chuẩn bị, khai quang đất tâm để cho thiện tri thức khai thị trí huệ Bát-nhã. Lòng sùng tín khiến tâm hành giả không còn cong vạy, mà thẳng tắp như thiền địnhnhất tâm. Kinh Duy Ma Cậtnói: “Tâm thẳng (trực tâm) là đạo tràng”.
Người ta không thể đạt đến tánh Không khi không có lòng sùng mộ tin tưởng vào tánh Không vì tánh Không chính là giải thoátgiác ngộ. Mà cánh cửa đưa vào tánh Không là thiện tri thức, vị ít nhất đã thấy trực tiếp tánh Không. Thế nên sùng tín đối với thiện tri thức tức là sùng tín Bát-nhã, trí huệ soi thấy tánh Không.
Nói về sự nhiệt thành cầu trí huệtánh Không, có câu chuyện Thiền như sau:
Có vị Tăng tên là Thần Quang đến với Sơ tổ Bồ-đề- đạt-ma. Đêm ấy tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng ngoài chắp tay chờ đợi. Tổ quay lại hỏi: Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu điều gì?
Thần Quang thưa: Cúi mong Hòa thượngtừ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.
Tổ nói: Diệu đạovô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, làm được những việc khó làm, nhẫn được những việc khó nhẫn, còn không thể đến thay. Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà muốn cầu phápchân thừa ư?
Thần Quang bèn chặt cánh tay trái để trước ngài. Tổ nói: Chư Phật lúc ban đầucầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi muốn cầu điều gì?
– Pháp ấn của chư Phật con có thể nghe được chăng?
– Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.
– Tâm con chưa an, xin thầy chỉ dạy pháp an tâm.
– Người muốn an tâm, vậy đem tâm ra đây, ta an cho. Thần Quangđứng yên một hồi, nói:
– Con tìm tâm mãi mà rốt chẳng thể được.
– Như vậy là ta đã an tâm cho người rồi đó.
Thần Quang do đây được ngộ thấy bản tâmtánh Không của mình. Tổ bèn đổi tên Thần Quang thành Huệ Khả.
2.. Với kinh điển và Tam bảo
Để đến với Bát-nhã, người ta cần có nhiều phước đức, đã từng trồng nhiều thiện căn, đã phát tâm Bồ-đề và không lìa bỏ tâm Bồ-đề. Bởi vì nếu ít phước đức, hành giả sẽ gặp nhiều chướng nạn và khó gặp những duyên lành để đến với Bát-nhã.
“Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, có nhiều sự khởi lên làm chướng nạn chống trái, khiến kẻ ít phước chẳng thành tựu. Bát-nhã ba-la-mật-đa như ngọc lưu lyquý báu, ở châu Nam Thiệm-bộ có nhiều chướng nạn, người ít phước cầu chẳng thể được” (Phẩm Ma sự, hội thứ 1).
“Các Bồ-tát phát tâm cầu Giác ngộvô thượng, tinh cầntu hành, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Đức Phật, ở chỗ các ngài phát thệ nguyệnsâu rộng. Căn lành thuần thục, được vô lượnghạnh lànhnhiếp thọ, nên đối với Bát-nhã sâu xa như thế có thể tin hiểu được” (Phẩm Đạt trí, hội thứ 1).
“Những thiện nam tử, thiện nữ nhân đã từng ở chỗ các Đức Phật gần gũi cúng dường, phát thệ nguyệnsâu rộng, trồng các thiện căn, tâm ý thông sáng, được các thiện tri thứcnhiếp thọ, nên đối với Bát-nhã ba- la-mật-đa khó thấy khó biết chẳng phải chỗ suy nghĩ kiếm tìm, vượt khỏi chỗ suy nghĩ kiếm tìm, vi diệuvắng lặngtối thượng đệ nhất này, cũng có thể tin nhận thọ trì được” (Phẩm Thọ giáo, hội thứ 1).
Vị Bồ-tát trí huệ đệ nhất là ngài Văn-thù. Trí huệ của ngài là trí huệ Bát-nhã. Hình tượng của ngài là tư thế ngồi, tay phải cầm gươm báu trí huệ, bên trái là các quyển kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trí huệ của bậc trí huệ đệ nhất chính là Bát-nhã tánh Không.
Thế nên Kinh Đại Bát-nhã nói trí huệ Bát-nhã là “mẹ của chư Phật”, và sự biết ơntrả ơn của Phật chính là với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
“Tu-bồ-đề phải biết, Bát-nhã ba-la-mật-đasâu xa là mẹ của chư Phật, Bát-nhã ba-la-mật-đa thường chỉ bày thật tướng của thế gian. Vậy nên Như Laiy pháp mà trụ, trong tất cả thời cung kínhcúng dường, tôn trọngca ngợi, nhiếp thọhộ trì không dứt hở. Thế nên trong tất cả thế gian không ai biết ơntrả ơn hơn Phật vậy” (Phẩm Phật mẫu, hội thứ 1).
Đối với chư Phật là như thế, thì đối với người tu hành Bát-nhã sự sùng tín phải như thế này:
“Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, với Bát-nhã ba-la-mật-đa đây chuyên tâm lắng nghe, thọ trìđọc tụng, tinh cầntu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì chúng sanh tuyên nói giảng giải. Hoặc lại biên chép, trang hoàng, cung kính, cúng dường, tôn trọngca ngợi. Lại dùng các phẩm vật cao quý, tràng hoa, hương xoa, hương bột, chuỗi hạt, lụa là, phan lọng bảo tràng, các ngọc quý hiếm, đèn sáng kỹ nhạc mà cúng dường thì sanh phước vô lượngvô biên, chẳng thể nghĩ bàn.
Vì Bát-nhã ba-la-mật-đathành tựu tất cả các bậc Thánh từ Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát cho đến Phật.
Kiều Thi Ca! Nếu kinh điểnBát-nhã ba-la-mật-đasâu xa đây truyền bá trong cõi người, thì thế gian này Tam bảoquyết định không ẩn mất. Nếu kinh điển này hiện hữu trong cõi người, thì thế gianthường có mười thiện nghiệp” (PhẩmPhước sanh, hội thứ 2).
Nhờ Bát-nhã mà người ta có phước đứcthiện căn, nhờ Bát-nhã mà người ta có trí huệ và đại bi, nhờ Bát- nhã mà người ta tự giác, nhờ Bát-nhã mà người ta giác tha, nhờ Bát-nhã mà người ta có mười thiện nghiệp để làm người, nhờBát-nhã mà người ta có Tam bảo.
Sự lợi lạc của Bát-nhã không thể kể hết, dù chỉ một tiếp xúc nhỏ như “để lọt vào tai”:
“Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc các thiên tử và thiên nữ, được Bát-nhã ba-la-mật- đa một phen lọt vào tai, vì sức thiện căn nên quyết địnhdần dần chứng được Giác ngộvô thượng. Tùy sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa mười thiện nghiệp” (Phẩm Công đức, hội thứ 2).
Chỗ thiết đặt kinh Bát-nhã được chư Thiên vương, chư thiên long thường đến chiêm ngưỡng, đi vòng quanh vui mừnghộ niệm:
“Bấy giờ Đức Phật bảo Trời Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Các thiện nam tửthiện nữ nhân này hoặc thấy chỗ đặt để kinhBát-nhã ba-la-mật-đasâu xa như thế có ánh sáng lạ, hoặc có mùi thơm khác thường, hoặc có tiếng thiên nhạc, phải biết lúc ấy có các chư thiên long… đi đến chỗ ấy để xem người kia làm lễ, đọc tụngBát-nhã được biên chép, cúng dườngcung kính, tôn trọngca ngợi, chắp tay đi quanh vui mừng hộ niệm” (Phẩm So lường công đức, hội thứ 1).
3.. Được ủng hộ và hộ niệm
Người thực hànhBát-nhã và khuyến khích người khác thực hànhBát-nhã thì được chư Phật hộ niệm:
“Đức Phật nói: Xá-lợi-tử! Chính do thần lực Phật và chư Phật mười phương khiến các ác ma kia chẳng thể làm hại các Bồ-tát biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đasâu xa.
Xá-lợi-tử! Chư Phật Thế Tôn đều chung hộ niệm các Bồ-tát tu hànhBát-nhã ba-la-mật-đa, khiến làm được nghiệp lànhtốt đẹp, tất cả các ác ma chẳng thể làm hại ngăn chướng” (Phẩm Công đức khó nghe, hội thứ 1).
“Trời Đế Thích thưa với Đức Phật rằng: Chư thiênchúng tôi thường theo hộ vệ các thiện nam tửthiện nữ nhân này, chẳng để cho tất cả người, loài chẳng phải người và các thứ ác duyên làm não hại” (Phẩm Chư thiên đến, hội thứ 2).
Bồ-tát thực hànhBát-nhã được bốn Đạithiên vương và các thiện thầnủng hộ:
“Đức Phật nói: Lại nữa, Đế Thích! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân với Bát-nhã ba-la-mật-đanày chuyên tâm lắng nghe, thọ trìđọc tụng, tinh cầntu học, như lý suy nghĩ, biên chép giải nói, khiến rộng phổ biến, Bồ-tát này thường được bốn Đạithiên vươngthế giớitam thiênđại thiên và thiên Đế Thích, chư Đại Phạm thiên vương cõi Kham Nhẫn, trời Cực Quang Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng Quả, trời Tịnh Cư… và các thiện thần đều ủng hộ, chẳng cho tai họa xâm hại, chỗ cầu không gì chẳng đầy đủ. Chư Phật hiện tại ở mười phươngthế giới cũng thường hộ niệm Bồ-tát như vậy, khiến pháp xấu ác diệt, pháp tốt thiện tăng trưởng” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).
Chư thiên, long… đối với Bồ-tát tu Bát-nhã xem như Phật: “Bấy giờ trong chúng hộitrời Đế Thích, các vị trời Dục giới, Phạm thiên vương, các vị trời Sắc giới và Y-xá-na thiên, các thiên nữ đồng ba phen cất cao tiếng rằng: Hay thay, hay thay! Tôn giả Tu-bồ-đề thừa thần lực Phật, Phật là chỗ nương, khéo vì chúng tôi trời, người thế gianphân biệt khai thị Chánh pháp nhiệm mầu là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nếu có Bồ-tát với Bát-nhã ba-la-mật-đa đây có thể như thuyết mà hành chẳng bỏ lìa, chúng tôi đối với vị ấy cung kínhphụng sự như với Phật” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).
Tại sao tất cả trời người đều cung kínhủng hộ người tu Bát-nhã như vậy? Bởi vì:
“Nếu có người thọ trìđọc tụng, tinh cầntu học, tôn trọngca ngợiBát-nhã ba-la-mật-đanhư thế, tức là khiến cho mắt Phật và hạt giốngPhật bảo chẳng diệt, mắt Pháp và hạt giốngPháp bảo chẳng diệt, mắt Tăng và hạt giốngTăng bảo chẳng diệt” (Phẩm So lường công đức, hội thứ 1).
Thế nên, kinh nói Bát-nhã là đại thần chú, là chú vương. Công năng của thần chú ấy về mặt xuất thế gian là giải thoát, đến bờ bên kia, như thần chú trong Bát- nhã Tâm kinhchúng ta thường tụng. Về mặt thế gian, thần chúBát-nhã còn có công hiệu là giải trừ những ách nạn, tai ương, nguy hiểm của cuộc sống thế gian.
“Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tửthiện nữ nhân chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đanhư thế thườngchuyên tâm lắng nghe, cung kínhcúng dường, tôn trọng ngợi ca, thọ trìđọc tụng, đúng như lý suy nghĩ, tinh cầntu học, biên chép giảng nói, khiến phổ biến rộng, đối với các người ấy, tất cả thuốc độc, trùng độc, quỷ mị, trù ếm, chú thuật đều chẳng thể hại, nước chẳng thể chìm, lửa chẳng thể cháy, dao gậy, ác thú, oán tặc, ác thần, các tà ma chẳng thể làm thương hại. Vì sao thế? Kiều Thi Ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Bát-nhã ba-la-mật-đanhư thế là chú vương rất cao rất diệu không gì sánh kịp, đủ đại oai lực dẹp trừ tất cả mà tất cả chẳng thể làm gì được.
Các người ấy tinh cầntu học chú vương như thế thì mình chẳng bị hại, người chẳng bị hại, cả hai đều chẳng bị hại. Bởi tại sao? Vì các người ấy học Bát-nhã ba-la-mật-đathấu rõ mình người đều bất khả đắc. Vì địa thủy hỏa phong không thức giới đều vô sở đắc nên mình chẳng bị hại, người chẳng bị hại, cả hai đều chẳng bị hại” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).
Trí huệtánh Không là cái thiêng liêngrốt ráo:
“Bát-nhã là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là vô đẳng, là vô đẳng đẳng” (PhẩmCa ngợiBát nhã, hội thứ 1).
Thế nên trí huệ Bát-nhã thiêng liêng hóa mọi thứ liên quan đến mình, và nói rộng ra, thiêng liêng hóa tất cả các pháp, vì tất cả các pháp đều là tánh Không vậy. (TC. Văn HóaPhật Giáo)
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN
Một đồng.. giữa lúc nguy nan
Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình..
Bão giông tan tác quê mình..
Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia....
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Một hình chụp văn bản lan truyền qua mạng xã hội hôm 12 Tháng Tám được cho là thư thông báo rời bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (giáo hội quốc doanh) của Thượng Tọa Thích Minh Đạo, trụ trì tu viện Minh Đạo ở thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.