III. HIỂN MẬT SONG BIỆN
(Giải rõ hai
pháp Hiển giáo và
Mật giáo)
Nếu nương theo
Hiển Mật hai tông
tu tập, đó là bực
thượng căn, nghĩa là tâm tạo
pháp giới,
đế võng và các thứ quán, miệng tụng
Chuẩn đề lục tự, các
Thần chú, đây có 2 hạng người;
1 - Người đã tu lâu,
Hiển Mật đều tu.
2 - Người mới
tu tập, trước tu
Hiển giáo Phổ Hiền quán, rồi mới
Tam mật gia trì; hoặc dùng
Tam mật rồi, vậy sau mới
tu quán hai thứ đều được.
Tôi dù tài mọn, tâm còn
Hiển Mật song tu cho nên Nhơn Vương
Bát Nhã Đà Ra Ni Thích và Nhơn Vương
Nghi Quỹ đều cho rằng: “Nếu không tu
Tam mật môn, không y
Phổ Hiền hạnh nguyện mà được
thành Phật là điều không có lý!” Lại
kinh Hoa Nghiêm Tự Luân Nghi Quỹ nói rằng: “Muốn đốn nhập
Nhứt thừa, phải
tu tập quán Tỳ
Lô Giá Na Pháp thân; trước nên
phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại lấy
Tam Mật gia trì thân tâm, thời hay
ngộ nhập được biển
đại trí huệ của đưc
Văn Thù Sư Lợi; là biết bậc
thượng căn cần yếu Hiển Mật song tu. Bậc
trung căn tùy lòng ưa muốn; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được. Nhưng Hiển viên
Hoa Nghiêm các Phật đều khen ngợi,
Bồ Tát đều
tuân hành.
Tây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí,
Thượng Hiền đều quy tâm; là
đạo giáo rộng hành, nhiều người thấy nghe, chẳng nhờ sự
tán dương. Mật viên
Thần chú là đnh của chư Phật, là tâm của
Bồ Tát.
Công năng rộng lớn,
lợi lạc vô biên; vì thời lưu ít biết, nay lược thuật cũng phân làm hai:
A - Thuật
Mật chú công đức sâu rộng.
B - Hỏi đáp
Mật chú Pháp khí hơn kém.
A. TRƯỚC HẾT TRÌNH BÀY
MẬT CHÚ CÔNG ĐỨC SÂU RỘNG.
Lược y
Thánh giáo chia ra có mười môn. Rộng lớn thì
vô lượng (vì nhiều người không biết
Mật giáo là
thù thắng thâm sâu cho nên đem mười môn để khen ngợi. Dùng
cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật cũng chẳng phải bậc Thông nhơn;
kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một Pháp mà thôi
bị ma ám ảnh; khuyên trì các kẻ hậu học. Hoặc Hiển, hoặc Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng.
Thực hành thì giữ lấy một môn; tin thì
cần phải viên thông vô ngại. Chớ đồng với kẻ mù
rờ voi,
đệ tử rửa chân! Tôi từng có
bài kệ rằng:
Đại thán thân tuyên
ngũ giáo văn.
Thiên môn vạn hộ nhập thiên nhơn.
Biển quán thọ nhứt phi như giả.
Tận thị
Phật gia bất liễu nhơn.
Nghĩa:
Đại Thánh nhân tuyên năm
thời giáo.
Muôn đường nghìn nẻo vào chơn đạo.
Khắp xem thọ một pháp mà thôi
Đều là người không rõ nhà Phật.
Lại nữa
Chuẩn Đề đã tổng nhiếp 25 bộ; tức biết mười môn sau đây đều nói
công đức của
Chuẩn Đề Đà Ra Ni vậy.
1)
Hộ trì Quốc vương An-Lạc nhơn dân môn.
2) Năng
diệt tội chướng,
viễn ly quỷ thần môn.
3) Trừ
thân tâm bịnh,
tăng trưởng phước huệ môn.
4) Phàm
sở cầu sự giai bất tư nghì môn.
5)
Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh môn.
6) Là chư
Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện môn.
7)
Tứ chúng dị tu
Kim Cang thủ hộ môn.
8) Linh phàm đồng
Phật Như Lai,
quy mạng môn.
9) Cụ tự
tha lực hiện thành Bồ đề môn.
10)
Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học môn.
1-Đầu tiên là
hộ trì Quốc vương An-Lạc
nhân dân: Nghĩa là
Bí Mật Tạng Đà Ra Ni kinh đều nói rằng: “Đà Ra Ni năng
hộ trì quốc vương,
an lành nhân dân”. Cho nên
Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: “Trong tất cả
quốc độ, nơi nào có Đà Ra Ni
lưu hành khiến nhơn vương thường được
ủng hộ,
thế lực tự tại; cũng hay
ủng hộ sự chánh hóa của
quốc vương. Có những kẻ như Vương tử, Phi hậu, Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng thảy đều được
ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có
nội ngoại oán địch mưu kế
gian trá, tật dịch, cơn cẩn, nắng hạn, lụt lội,
ác thú,
độc long, tất cả việc bất tường như vậy thảy đều đoạn dứt. Lại khiến tiền tài, lúa thóc, phong nhiêu, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái vinh thạnh,
nhân dân an vui”.
Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: Đà Ra Ni
lưu hành chỗ nào, hay
ủng hộ các
Quốc vương, Vương tử, Phi hậu,
Công chúa, trăm quan, Phụ tướng, khiến cho các
tai nạn tiêu diệt,
sở nguyện viên thành,
thiên thần gia hộ; không khiến
ma quỷ đến nhiễu não và trong nước lại được mười thứ
quả báo tốt:
1) Trong nước không có tha bịnh,
oán tặc xâm nhiễu.
2) Trong nước không có
tinh tú biến quái mà khởi lên
tai nạn.
3) Trong nước không có
ác quỷ thần hành các tật dịch,
thiện thần hộ vệ, vạn dân an vui.
4) Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá các nạn.
5) Trong nước không có kẻ
oan gia rình tìm được.
6) Trong nước người không bị các ma
bức bách.
7) Trong nước người không có các
hoạnh tử.
8) Trong nước các món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt v.v…
9) Trong nước thiện long, mưa gió
thuận thời, không có nắng hạn, bão lụt.
10) Trong nước người không bị các
thú dữ như: cọp, beo, sói các
ác thú làm
tổn hại.
Lại
Thất Phật kinh chú nói: Đà Ra Ni, nếu như nhựt nguyệt đi không đều, có thể khiến đi ngay lại. Luá gạo
mất mùa, năng khiến được mùa. Đại thần mưu phản,
ác tâm tự diệt. Tật dịch binh đao, thảy đều
tiêu tán. Lại rằng: Các Nhơn vương muốn được hiện đời an vui, lìa các
hoạn nạn. Các vị
Quốc vương kia nên cần tâm
đọc tụng Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên hậu phi, thể nữ và các vương tử … cần tâm
tu tập. Lại
Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà Ra Ni kinh nói: Vì sao thiên nói hộ nơi quốc vương? Nghĩa là quốc chủ an vui thì vạn dân mới an vui,
vì vậy nên nói hộ nơi quốc chủ.
Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát kinh nói rằng: Đà Ra Ni năng trừ tất cả
hữu tình, tai hoạ, tật dịch, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều,
tinh tú thất độ. Cũng hay làm
tăng trưởng phước đức, cõi nước giàu mạnh,
nhân dân an vui,
quốc vương,
nam nữ đều được
trường thọ. Trong kinh
Tô Bà Hô Đồng tử nói: Ly ngoài
Chơn ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho
chúng sanh được. Rộng như các Đà Ra Ni kinh nói: Xưa có Liêu quốc,
Thiên Hậu Hoàng Đế,
chánh pháp truyền khắp,
Phật huệ lưu thông,
kiên trì Mật chú đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy kho; ngôi báu
vững bền,
nhân dân an vui
lâu dài, chính nhờ sự
linh nghiệm của Đà Ra Ni.
2-Năng
diệt tội chướng,
viễn ly quỷ thần.
Kinh
Bồ đề Trường
Trang Nghiêm Đà Ra Ni,
kinh Tối Thắng
Tổng Trì, kinh Lầu các Đà Ra Ni … Hơn hai mươi
bản kinh đều nói viết, chép Đà Ra
Ni để trong
tượng Phật, tháp, trong bảo xử, hoặc viết trên
tràng phan, trên
điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách, bảng mộc. Có
chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ đến hoặc trong bóng ngã qua, hoặc những
bụi trần trên chữ
Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên
tràng phan, nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ
chúng sanh. Hoặc chép lên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt … các tiếng trên vật ấy phát ra,
nghe được tiếng ấy Trên đây đã nói: Các
chúng sanh dù bị tội
ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật cho rằng không
sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận.
Đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân
tụng trì đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội
ngũ nghịch vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp
thập ác là cự khiên, vừa nghe liền bay mất. Trong
Tùy Cầu Tụng có nói rằng:
Dầu phạm
Ba La thập ác tội,
Sát
A La Hán và tôn thân.
Ngũ nghịch căn bổn thất
vô giá,
Ưng niệm tùy tiếng liền
tiêu diệt.
Chơn ngôn Thánh lực công
vô lượng Nên con
xưng tán chẳng nghĩ bàn.
Lại
Mạt Pháp Trung Nhứt Tự chú, hết thảy Đà Ra Ni kinh nói: “Người
trì chú nơi bốn
phương hướng,
trong vòng 500 dặm, các ác tinh diệu,
quỷ thần, thiên ma… hết thảy chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát
thiện tâm thủ hộ thì không đi. Nếu kẻ nào
cố ý làm
chướng ngại mà ở lại phá, liền bị chư
hộ pháp đập bể đầu ra trăm miếng,
thân tâm dập nát. Nhờ thế nên
hành giả không bị các
ma chướng và được đến
Bồ đề.
Hỏi: Có người nói sự
trì chú hay gây ra
ma chướng, nay sao lại nói năng lìa được ma chướng?
Đáp: Đây là lời bàn nói của xóm làng, chứ trong
Thánh giáo chẳng có văn này.
Nay Mật bộ các kinh đều nói: Đà Ra Ni năng lìa
ma chướng, nơi đây chớ nên
luận bàn. Như
Hiển giáo trong
kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng
tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các
ma chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến
trừ ác ma. Kinh kia nói rằng:
“Nếu chẳng thuận chú ta,
Não loạn người
thuyết pháp Đầu bị phá bảy phần,
Như nhánh cây A lê.”
Lại
Thích Ma Ha Diễn Luận: “Dạy người
tọa thiền cần phải tụng chú để trừ ma.
Lại trong
Chỉ Quán nói: “Nếu các
ma chướng làm
não loạn sự
tọa thiền,
hành giả nên tụng
Đại Thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong
kinh giáo. Nếu khi xuất thiền, cũng nên
tụng chú.”
Trong
kinh Kim Quang Minh: Hàng
Thập Địa Bồ Tát còn lấy
Thần chú để
hộ trì, huống gì
phàm phu ư? Cho nên
kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu không
trì chú mà ngồi
đạo tràng, khiến
thân tâm kia
xa lìa các
ma sự lẽ đó không bao giờ đúng.
Lại nói: “Đời
mạt thế chúng sanh, muốn tu
tam muội sợ đồng
tà ma, nên phải khuyến khích trì
Thần chú của Ta (Phật). Nếu chưa năng tụng chép nơi
thiền đường hay đeo trên thân mình, thì tất cả các
ma chướng không dám động đến”. Các văn như vậy,
Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người đời vị
quỷ thần não hại. Kẻ
trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào
ma quỷ dám làm hại ư?
3)Trừ bịnh thân, tâm,
tăng trưởng phước huệ:
Kinh Thánh
Lục Tự Đà Ra Ni, kinh
Phổ Hiền Đà Ra Ni,
Văn Thù Nhứt Tự Chú ...hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đà Ra Ni, năng trừ được các món
thân tâm bịnh khổ. Nói
thân bịnh ấy nghĩa là tất cả các thứ bịnh: nhiệt bịnh, lãnh bịnh, phong bịnh, ngược bịnh, nhãn bịnh, nhĩ bịnh, tỷ bịnh, thiệt bịnh, khẩu bịnh, xỉ bịnh, thần bịnh, hầu bịnh, diện bịnh, đầu bịnh, kỉnh bịnh, hung bịnh, hiếp bịnh, phúc bịnh, thủ bịnh, bối bịnh, yêu bịnh, tất bịnh, cước bịnh, tị bịnh, lỵ bịnh, đàm bịnh, khí bịnh, lâm bịnh, đinh bịnh, thủng bịnh, ban bịnh, tiểu bịnh, dượng bịnh, sang bịnh, cuồng bịnh, điên giản bịnh, quỷ mị bịnh… chỉ nêu ra các bịnh
trọng yếu. Hoặc
bốn đại làm các thứ bịnh; hoặc
ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc
quỷ thần làm ra các bịnh; hoặc những bịnh do
túc nghiệp gây ra. Những bịnh như vậy, lấy
Thần chú bất tư nghì lực có thể trừ lành. Cho nên kinh
Trì Cú Thần chú, kinh
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni đều nói rằng: Đà Ra Ni năng khiến cây khô
trở lại sanh hoa trái huống chi là các bịnh
hữu tình mà không trừ được sao!
Hỏi:
Chơn ngôn hành giả chấp nhận việc
gia trì quỷ thần để trị lành bịnh kẻ khác phải không?
Đáp: Kinh Diệu Tý
Đồng Tử, kinh
Tô Tất Địa … đều nói rằng: Nếu cầu
thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng
Chơn ngôn gia trì quỷ thần cấm các trùng rắn để lành bịnh người khác. Làm việc đó thì hay ngăn ngại việc lớn, kẻ học nên
y lời Phật,
coi chừng dè dặt. Nếu thật lòng
đại bi sâu rộng, ôm lòng
Bồ Tát thì không
ngăn cản việc đó. Cho nên kinh
Quyến Sách nói: Trừ
quỷ thần bịnh (bịnh tà) phải tu
ba nghiệp thanh tịnh, đủ
từ bi tâm; chư vị
Bồ Tát mới hay làm việc đó.
Lại tất cả tham, sân, si bịnh tự
tiêu diệt; cho nên kinh
Bạch Tán Cái Đà Ra Ni nói: “Nếu có
túc tập tham tâm không được
trừ diệt, thì phải một lòng tụng
Thần chú của Ta (Phật). Như cô
Ma Đăng Già đã cùng ông
A Nan nhiều kiếp
ân ái, đem chú lực của Ta, làm cho
ái tâm vĩnh đoạn,
trở thành A la hán.”Còn như cô
dâm nữ kia chẳng có tâm
tu hành, khi
Thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc
vô học, huống gì
bản tâm cầu đạo Bồ đề đấy ư! Lại kinh
Đại Bi nói: “Chí tâm
xưng niệm Đà Ra Ni, lửa
dâm dục diệt,
tà tâm loại trừ”. Lại
Như Ý Luân và tất cả các kinh Đà Ra Ni nói: “Chơn
ngôn hành nhơn hiện năng
tăng trưởng tất cả
phước huệ. Phàm lời đã nói ra, người đều tin thọ, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ý tùng tâm. Năng khiếu
trong vòng 500
do tuần, người, trời,
quỷ thần đều đến
quy ngưỡng. Lại
tự nhiên thông hiểu tất cả: Kinh, Luật, Luận và các sách vở của
thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì, mỗi ngày nhớ đến hàng nghìn bài tụng”. Cho nên kinh
Đại Phật Đảnh nói rằng: “Nếu đọc hoặc tụng Đà Ra Ni ấy, dù các
chúng sanh này, tự thân của mình không làm
phước nghiệp.
Mười phương Như Lai đã có
công đức, tất phải
ban cho người này.
Lại nói: Nếu trì
Thần chú, không
sanh nghi hối, mà kẻ
thiện nam đó, do các bậc
cha mẹ sanh ra mà
tâm không được thông, thì
mười phương chư Phật đều
nói dối. Lại nói rằng: “Chưa
tinh tấn, khiến được
tinh tấn.
Vô trí huệ, sẽ được
trí huệ … Như chất thuốc dược nhỉ ở
thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ
tăng trưởng tinh thần, huống nữa
Thần chú lại
không sinh trí huệ! Lại kinh
Bất Không Quyến Sách Thần chú Tâm nói rằng: Nếu có
tứ chúng thọ trì trai giới.
Chuyên tâm trì tụng
Thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời
chắc chắn giữ được hai mươi món lợi
thù thắng. Hai mươi món lợi đó là:
1. Thân không bị bịnh tật, được
an ổn khoái lạc.
2. Do
nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng trị mau lành.
3.
Thân thể mềm mại,
da thịt sạch sẽ trắng đẹp, mặt mày sáng sủa.
4. Được
mọi người thương kính.
5. Mật độ các căn. (tai, mắt…)
6. Được nhiều
tiền của quý báu,
tùy ý thọ dụng.
7. Đã có tài bải, vương, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn.
8.
Sự nghiệp làm ra đều
thành tựu tốt.
9. Đã có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt
thiêu hủy.
10. Nếu có lúa thóc
tai họa xâm phạm, nên tụng
Thần chú gia trì nơi tro, hoặc nước
trải qua 7 biến rồi đem rưới vào ruộng khắp 8 phương đã
kiết giới, trên dưới, bấy giờ các tai hoạnh liền được
diệt trừ.
11. Không bị những sự
bạo ác của
quỷ thần,
la sát đến hớp hoạt
tinh khí.
12. Tất cả
hữu tình nghe thấy
hoan hỷ,
an lạc thường
tôn trọng, không
nhàm chán.
13. Không hề sợ sệt tất cả oán cừu.
14. Dù có oán cừu cũng mau
tiêu diệt.
15. Người và các kẻ
phi nhơn không thể xâm hại.
16.
Yếm mị,
trù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính vào thân.
17.
Phiền não , triền cấu không
thể hiện hành.
18. Đao độc, nước lửa không thể làm
thương hại.
19.
Chư Thiên,
thiện thần thường theo
hộ vệ.
20.
Đời đời không xa rời
từ bi hỷ xả.
Và trong kinh Thập Nhứt Diện
Quán Thế Âm Thần chú có nói: Nếu có các
tịnh tín,
thiện nam,
tín nữ thường trì tụng
Thần chú;
hiện thân sẽ thu được mười món
thắng lợi; mười món đó là:
1. Thân thường vô bịnh.
2. Thường được
mười phương chư Phật nhiếp thọ.
3. Tài bảo, y thực,
thọ dụng vô tận.
4.
Năng hàng phục kẻ
oán địch mà không lo sợ.
5. Khiến các bậc tôn quý
cung kính, tin lời.
6. Cổ độ, quỷ mị, không thể trúng thương.
7. Tất cả dao, gậy không thể làm
tổn hại.
1. Nước không thể
nhận chìm.
2. Lửa không đốt được.
3.
Lâm chung không bị
hoạnh tử.
4-Phàm
sở cầu sự, gia bất tư nghì: (Phàm
sở cầu việc gì đều không thể nghĩ bàn)
Kinh
Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh
Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ cùng các kinh Nhứt Tự Đảnh Luân … hơn mười bổn kinh đều nói
Chơn ngôn hạnh nhơn, khi cầu
thành tựu thì dùng bốn thứ vật:
1. Cung tên, rựa búa, câu, luân (bánh xe
pháp luân) xử, cảnh (cái kính) hoặc
sổ châu,
bình bát,
ca sa, tất cả các
vật dụng của
chư Tăng.
2. Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác.
3. Lấy đất trên bờ sông hòa làm bùn dẻo rồi nắn hình
sư tử, voi, ngựa, trâu tức loài đi chạy. Hoặc gà, ngỗng, chim, công, sí điểu … là loài bay cùng các hình thú khác.
4. Hoặc đắp vẽ,
điêu khắc tất cả
hình tượng Phật,
Bồ Tát,
Minh Vương; tùy lòng ưa muốn phân ra làm một việc,
y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn;
như pháp tụng chú, khi thấy được
ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm hoạc xoa thân hoặc cỡi lên cùng
trợ bạn tri thức bay lên
hư không. Hoặc có người thấy
thành tựu, hay thấy các người khác được
thành tựu; tất cả đều được bay lên
hư không, dạo chơi khắp
thế giới,
cúng dường chư Phật,
Bồ Tát, đều
thọ mạng một kiếp, chứng được
Sơ địa,
Bách pháp minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, dùng
y như trước sẽ được làm vua ở
cõi Tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi.
Nếu khi hơi nóng phát ra được tất cả nhơn, thiên
kính ái;
sở cầu như ý; đây là tướng
thành tựu của ba phẩm: thượng, trung, hạ.
(Nếu có lửa sáng phát ra, đó là
thượng phẩm; khói phát ra là
trung phẩm, hơi nóng phát ra là
hạ phẩm). Lại nói rằng: Nếu
hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường đền
ủng hộ; các chúng
Bát bộ thường
cung kính.
Dùng tất cả
Thần chú đều được
tối thắng,
linh nghiệm. Nếu tướng khói
hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không
chướng nạn,
sở cầu toại tâm. Nếu khí nóng
hiện ra: Được tất cả người và
quỷ thần đồng
tâm kính ái.
Tây phương có một người được
thành tựu thượng phẩm, dẫn 500 người bay lên
hư không. Như tại đây (nước Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà chó đến liếm trong vạc đều bay lên
hư không. Cho nên
mọi người nói rằng: Hoài Nam
thành đạo, chó sủa trong mây; Vương Kiều đắc Tiên, Kiếm bay lên trời. Dược lực còn vậy, huống chi
Thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư!
Thần Biến Sớ nói: Nguời tay cầm Tiên phương, chưa từng hòa hiệp uống dùng; lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên
hư không lại cho là
hư dối, toàn là chuyện
không tưởng. Lại
Đại Giáo vương các kinh Đà Ra Ni nói : Hoặc khiến người tìm
long nữ làm vợ, hàng
dược xoa làm tôi tớ, cầm quyến tác vào
tu la cung; chú vào
tử thi khiến khai mở những
của báu dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói tìm đến tài bảo … trong
Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên
Tiên Đức nói: “Ngoài
Tam thừa ra, riêng có
pháp trì minh đó.”
Hỏi rằng: Bổn ý của chư Phật là khiến đoạn tham, sân tất cả, cớ sao khiến người khởi lòng tham cầu
thế sự vậy.
Đáp: Chư Phật có
phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa là có những
chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo
Bồ đề; vả lại tùy lòng ưa muốn, khiến
trì chú cầu. Do sức
Thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được toại lòng; tất cả
tội nghiệp được
tiêu diệt,
tự nhiên siêu phàm nhập Thánh. Như đứa trẻ con có bịnh, không chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi vú mẹ; trẻ nít kia nút vào không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được
bịnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác
Tâm Chú có nói: Nếu có
chúng sanh dù đem dua mị để cầu phú
danh lợi, nếu được nghe chú này, các
chúng sanh đó
đời đời kiếp kiếp thành tựu được hưởng phức tụ
trí huệ.
Thần biến sớ nói
cảnh giới Chơn ngôn.
Thập địa Bồ Tát còn cho chẳng phải
cảnh giới của các Ngài; huống là người trong cõi
sinh tử ư! (Có người nói rằng: Đà Ra Ni phần nhiều khiến người có chỗ hy cầu, trở ngược lại gây
tổn hại chúng sanh; đây là ly ngoại cầu, lấy vô cầu giống như
đoạn kiến ngoại đạo. Nay
Phật giáo nói: Trọn ngày cầu đó mà không thấy tướng cầu, là chơn vô cầu, chẳng đồng cây, đá, toàn là không ly cầu vậy. Cho nên
Quán Âm Sao nói rằng:
Tuy nhiên niệm niệm cầu, mà không có tướng năng cầu và
sở cầu. Huống chi các Phật
Đại từ,
Đại bi đâu có
cố ý làm
tổn hại chúng sanh.)
5-Lợi lạc
hữu tình cứu thoát u linh:
Đại Bảo Lầu Các kinh,
Đại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú … hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có
chúng sanh được thấy thân người
trì chú, hoặc nghe
âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ thì được tận
diệt tội thập ác,
ngũ nghịch,
đời sau được sanh vào các nước Phật. Lại người
trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài
hữu tình cũng diệt tất cả tội,
đời sau sanh các nước Phật. Những người
trì chú khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào
hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn đi những gì kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung
tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng
thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi
tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả
sự kiện trên
ảnh hưởng đến các
chúng sinh như sau: mọi
tội lỗi đều
tiêu diệt,
đời sau được sanh về
cõi Tịnh độ của chư Phật,
hóa sanh trong
hoa sen. Như
thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị
tổn thương; còn có
công lực khó lường huống nữa là
Thần chú không thể nghĩ bàn ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đà Ra Ni mà sanh hủy báng, cũng vẫn được
lợi ích. Như người có
ác tâm đi vào trong rừng long não,
chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm, đạp, làm cho gãy, ngã tất cả, chính
thân thể kẻ
phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong
Phật Đảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó nghĩ bàn, Đà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh
Vô Cấu Tịnh Quang, kinh
Bất Không Quyến Tác, kinh
Phật Đảnh Tôn Thắng, kinh
Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều
ác nghiệp, khi chết đọa
tam đồ;
Chơn ngôn hành giả liền xưng
tên tuổi, tộc họ của
vong linh rồi
chuyên tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được
ác thú và sanh nơi
thiên thượng.
Lại lấy
Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc
hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các
cõi Tịnh độ của chư Phật.
Ngoài ra các y vật,
thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người
trì chú chói vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Đà Ra Ni rồi đặt trên
hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi
thiên cung. Cho nên bực
Tiên triết nói rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo
thiên cung; rải đất, rưới nước, thức lìa ác thú”.
Hỏi: Vong nhơn tạo nghiệp đã thành, bị đọa trong
tam đồ vì sao
Chơn ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn, hoặc
chú nguyện vào cát đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong đó chuyển khỏi đường ác khổ, còn được
vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm lòng
hoài nghi, mà chính các vị
xuất gia cũng khó tin.
Đáp: Kẻ trí lấy
thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra
thí dụ này: “Như cấm chủ của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ, còn hay biến hữu độc thành ra hết độc; huống chi là
Thần chú của
đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui đấy ư!” Lại như sách
Liệt Tử có nói: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm, chính nhằm
mùa xuân mà gảy dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến, cây cỏ thành trái. (Dây Thương âm Kim, thuộc
mùa thu, khúc Nam là khúc tháng tám, nhờ dây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái) Chánh
mùa thu mà gảy giây Giác, đánh khúc
Giáp Chung có gió mát
trở lại, cây cỏ phát sum xuê. (Giác,
âm Mộc, nói thuộc
mùa xuân, khúc
Giáp Chung thuộc tháng hai, sinh ra được Xuân khí, cây cỏ đơm hoa). Đương
mùa hạ mà gảy dây vũ để đánh khúc
Hoàng Chung, sương tuyết rơi xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thủy, thuộc về
mùa đông, khúc
Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại).
Mùa đông mà gảy dây chủy, đánh khúc
Nhuy Tân mặt trời chiếu sáng
rực rỡ, băng cứng
tiêu tan (Chủy âm Hỏa thuộc mùa hạn, khúc
Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng cứng
bị tiêu tan). Đây là cái thuật khảy đàn của
thế gian còn biến
mùa thu làm xuân,
mùa đông làm hạ; huống nữa
Thần chú của
đức Như Lai, không thể nghĩ bàn. Và
Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không
biến cải con đường ác khổ để được an vui nước Phật sao !!!
Ngài
Trang Tử nói: Ngoài Lục hiệp, Thánh nhơn xét đến nhưng không
luận bàn.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Lượng trí
công đức đầy đủ của
Thập địa Bồ Tát, thì
Cửu địa Bồ Tát không hay biết, huống nữa
đức Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ có
bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy
vọng tình của
phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm sao biết được sự
sâu rộng ở biển Đông; chỉ nên
tin chắc đó. Kinh
Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần chú nói: Nếu có người
trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được
thành tựu; chỉ
cần phải thâm tín không được
sanh nghi. Người
trì chú đã có
công năng lợi lạc hữu tình,
cứu thoát u linh. Như kinh
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói: Người nào
trì chú sẽ không bị mười lăm món ác tử:
1) Không khiến người kia bị chết vì
đói khát, khốn khổ.
2) Không bị chết vì côt trói, đánh đập.
3) Không
bị oan gia, cừu đối mà chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết vì cọp beo làm hại.
6) Không bị chết vì rắn rít độc cắn.
7) Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết vì trúng
độc dược.
9) Không bị trùng
độc hại chết.
10) Không bị
cuồng loạn,
thất niệm mà chết.
11) Không bị chết vì núi cây, bờ gộp sập đè.
12) Không bị người ác
yếm mị mà chết.
13) Không chết vì tà thần,
ác quỷ rình hại.
14) Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại mà chết.
Lại kinh
Bất Không Quyến
Thần Chú Tâm nói: Người
tụng chú lúc
lâm chung được tám món lợi
thù thắng:
1) Khi
mạng chung, thấy
Quán Tự Tại Bồ Tát hiện tướng Tỳ Kheo đến
trước mặt an ủi.
2)
Mạng chung được
an ổn, không bị các sự
thống khổ.
3) Lúc sắp
mạng chung, mắt không trợn lớn, miệng không hả méo, tay buông
thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân nhơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất.
4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhớ
chánh niệm, ý không
loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được
vô tận biện.
7) Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các
cõi Tịnh độ chư Phật.
8) Thường cùng
thiện hữu không xa rời nhau.
Kinh Thập Nhứt Diện
Quán Thế Âm Thần chú nói: Người
tụng chú được bốn món
công đức:
1) Khi
lâm chung được thấy chư Phật.
2)
Mạng chung không bị đọa vào chốn
ác thú.
3) Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh về cõi
Cực Lạc thế giới.
6)Chư
Phật mẫu giáo hạnh bổn nguyện: Nghĩa là tất cả chư Phật đều từ Đà Ra Ni sanh ra. Kinh Lầu các nói:
Chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành
chủng tử Phật,
nếu không Chơn ngôn thì không
thành chánh giác. Tất cả
Tam Tạng giáo điển đều do Đà Ra Ni phát xuất cho nên trong
kinh Tối Thượng
Đại Thừa Bảo Vương nói có bốn thừa:
1) Thinh Văn thừa
2)
Duyên Giác thừa.
3)
Phương Quảng Đại thừa.
4)
Tối Thượng Kim Cang thừa. Đó là Đà Ra Ni tạng vậy. Tất cả pháp đều từ
Kim Cang lưu xuất.
Thần Biến Sao nói: Nghìn dòng, muôn
phát khởi từ núi Tích Thạch,
Côn Lôn. Mươì hai phần kinh phát xuất
từ Tạng Tổng trì bí Mật; lại muôn hạnh cũng do Đà Ra Ni mà ra. Nghĩa là trong
Chơn ngôn, mỗi mỗi một chữ toàn là
Vô tướng pháp giới. Muôn hạnh đều
từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh
Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói rằng: Chữ ÁN tức
vô tướng pháp giới mà ra.
Thần Biến Sớ nói:
Vô tướng pháp giới toàn là
Chơn ngôn,
Chơn ngôn toàn là
vô tướng pháp giới; vả lại
Chơn ngôn cũng gọi là
Tam tạng. Có
trì chú ấy đều là
Tam tạng. Nghĩa là trong
Chơn ngôn mỗi mỗi một chữ đều gm đủ cả Giới, Định, Huệ; đủ muôn hạnh không ra ngoài
Lục độ,
Lục độ không ly
Tam học. Đã nói
Chơn ngôn gọi
Tam tạng tức biết
Chơn ngôn bao gồm muôn hạnh.
Chơn ngôn là Tổng hạnh, các
pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn.
Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đà Ra Ni là
Thiền Định Tạng trăm nghìn
tam muội thường
hiện tiền. Nay lại nói:
Chơn ngôn tổng hành
Tam tạng, tức biết
Chơn ngôn tổng chứa đủ tất cả môn
thiền định. Cớ gì Thiền giả ngày nay không cho
trì chú ư?
Đáp: Trong các truyện ký
Thiên Trúc và Trung Hoa,
xưa nay các thiền đức đêù vâng làm các điều thiện, huông gì
Thần chú là
vô tướng định môn
tâm ấn của Phật ư!
Trong
Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: Khai
vô tướng môn
viên tịch tông,
tự tự quán chiếu Kim Cang định. Lại nói: “Du Già diệu chỉ
truyền tâm ấn;
Ma Ha diễn hạnh
tổng trì môn”. Như
Long Thọ Bồ Tát trong
Truyền Đăng Lục ở
Tây Thiên Thiền tông Tổ thứ 14, chép lược ra
kinh Tạng Trì Minh, hoằng dương
Thần chú Chuẩn Đề. Ngài
Nhất Hạnh thiền sư là Thánh nhơn trong
xứ Trung Hoa còn tán thuật
thần biến Chơn ngôn; Ngài
Trí Giả được
túc mạng thông, rộng bày
nghi quỹ Thần chú. Khế Phù
thiền sư có người hỏi
Tối Thượng thừa pháp, Ngài liền dạy tụng
Mật ngôn; xưa các
thiền sư đâu không cho
trì chú ư?
Lại như Thiền tôn đã noí: Tất cả các pháp đều là
chơn như. Trì tụng
Chơn ngôn đâu không phải là chơn như? Nay có
thiền sư hoặc
giảng sư thấy hoằng truyền
Mật chú, sợ
mất lợi của mình, tâm sinh tật đố. Vậy xin quý vị
hiện tại cũng như
vị lai đề phòng ác báo. Cho nên trong kinh
Phật Đảnh Vô Cấu Quang Minh Đà Ra Ni có nói: xưa có ông
Vô Cấu Bà la môn vì người tuyên nói
bí mật Thần chú.
Có ông
Quang Minh trưởng giả, trước kia có nhiều người
quy ngưỡng, sợ mất cái lợi của mình mà sanh
ác tâm,
ác tâm hưng khởi, ông liền mắc bịnh lác hủi, thọ
đại khổ não.
Cho đến khi chết đọa trong
vô gián đại địa ngục chịu khổ một kiếp;
trở lại đọa vào
địa ngục một kiếp nữa mới được sinh làm người mà không có hai con mắt. Vì nhờ
duyên lực kiếp trước,
trở lại gặp
Vô Cấu Bà la môn đang làm bực
Tỳ Kheo tuyên nói
Mật chú, vừa nghe liền sinh
vui mừng rồi nhờ chú lực kia, lúc chết sinh
cõi trời … Như trên đã nói: Hủy báng tuy có
lợi ích nhưng sự
lợi ích đó xa vời lắm và hủy báng đều có tội như ông
trưởng giả Quang Minh kia vậy. Bởi vì
Mật chú là
tâm ấn của chư Phật có
vô lượng Minh vương,
chư Thiên,
Long thần thảy đến
hộ trì nên khiến người hủy báng hiện đời đa phần mắc bịnh lác hủi, xin mong kẻ thời lưu
cần phải dè dặt.
7)
Tứ chúng dị tu
Kim Cang thủ hộ: Tất cả
tứ chúng chỉ cần hiểu
lời nói, đi, đứng, nằm, ngồi trong bốn
oai nghi được dễ dàng tụng tập. Lại chỉ miệng tụng được gọi chơn hạnh. Năng
trừ phiền não,
an lạc pháp thân không nhờ
thông suốt giáo điển, như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ bịnh, thân an không
cần phải rộng hiểu sách thuốc. Cho nên kinh
Bát Nhã nói:
Tổng trì cũng như diệu dược, cũng như Thiên
cam lồ, năng trị lành các bịnh, uống thứ đó thường an vui.
Phật Đảnh Đà Ra Ni sớ nói:
Trai giới không bẩm thọ mà được đầy đủ;
quả chứng không xa mà có thể được: Tiêu hết nạn, đạt
lợi ích. Tự
tu hành lại
hóa độ các người khác, bởi nhơn của người, bởi quả của người, không có cái gì mà không do điều này mà hiện rõ sự việc được. Lại Mạn Trà La Sớ nói: Ai niệm
Thần chú của
đức Như Lai,
tâm tâm ám hợp tâm của
Như Lai; đọc
Mật ngôn của
Bồ Tát, nguyện nguyện
phù hợp nguyện của
Bồ Tát;
sanh tử nào không
lánh xa,
Niết Bàn nào mà không
chứng đắc. Nếu y các tôn khác
tu hành,
cần yếu phải biết rộng
giáo lý của Phật, tỏ ngộ được
Chơn tâm, nhiên hậu
tu hành mới là
chánh hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải
chánh hạnh.
Như người bịnh ở đời,
cần yếu phải biết rộng sách thuốc,
hiểu rõ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó được trong muôn một vậy. Nên biết
Thần chú hạnh môn tóm lược
công đức thâm sâu; khắp dẫn bảy chúng mau đến
Bồ đề, rất là
yếu đạo. Cho nên Ngài
Nghĩa Tịnh Tam Tạng nói rằng: Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần,
phương pháp lợi sanh chỉ cần thần giúp đỡ.
Hỏi: Nếu
y theo Hiển giáo sanh
lòng tin, nương theo
lòng tin phát sanh sự
hiểu biết. Nương sự
hiểu biết phát khởi hạnh
tu hành,
tu hành thành
đắc quả. Nay
Mật tông Thần chú không cần sanh
hiểu biết, chỉ cần tụng liền được
đạo quả. Đã vượt
quy tắc thông thường, khó mà sanh lòng tin?
Đáp: Như người bịnh trong
thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc
thần diệu mà uống, liền được
thân tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bịnh thân an? Thuốc đời còn vậy, huống chi
Thần chú không thể nghĩ bàn của
đức Như Lai và
giáo lý của
đức Như Lai không thể lấy một lý mà suy. Đã nói Hiển, Mật có khác không thể lấy một mặt mà giải.
Khởi Tín Sao nói: Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ chẳng phải kẻ trí. Chỉ nên tin mà
tu trì sẽ mau
đắc đạo quả. Nếu chẳng sanh
lòng tin, thì luống
uổng công chẳng ích gì. Kinh
Đại Bi Tâm nói:
Tụng trì Thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả
toại nguyện. Chỉ trừ đối với
Thần chú sanh lòng nghi.
Lại nói rằng: Nếu có
sanh nghi không tin đó là trong trăm
vạn kiếp thường ở chỗ
ác đạo, không
nghe được Tam-Bảo. Lại các kinh đã nói: Kẻ
hành giả đối với
Chơn ngôn trong bốn
oai nghi, có
vô lượng thiên long bát bộ chúng,
Kim Cang thiện thần thường theo
gia hộ. Cho nên kinh
Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói
tụng trì Đà Ra Ni là
Vô úy tạng;
Long thiên,
thiện thần thường theo
hộ trì. Lại nói rằng: Nếu
như pháp tụng chú, tức có tất cả
thiện thần,
long vương Kim Cang Mật tích thường theo
hộ vệ không
xa lìa hai bên người
trì chú, như
giữ gìn đôi tròng con mắt, như
hộ mạng mình. Lại người
trì chú: Hoặc ở núi non, đồng vắng, ngủ riêng
một mình, các
thiện thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để
bảo vệ trừ sạch tai chướng. Nếu ở nơi rừng sâu nuí thẳm, quên mất đường đi; các
Thiện thần,
Long vương hoá làm kẻ thiện nhơn
chỉ đường về. Nếu gặp giặc, trận đánh, bị bọn cướp giựt, trốn lạc qua nước khác,
thiện thần long vương sẽ dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi
núi rừng, đồng vắng, nước, lửa hiếm ít;
Long vương ủng hộ hóa ra nước, lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng:
Long Thiên chúng Thánh đồng từ hộ, trăm nghìn
tam muội đốn
huân tu. Lại trong kinh
Đại Phật Đảnh Đà Ra Ni nói:
Giả sử có
chúng sanh nơi
tâm tán loạn, miệng vẫn tụng
Thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn
na do tha,
hằng hà sa cu chi
Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc, mỗi mỗi đều có các
Kim Cang chúng mà làm
quyến thuộc, ngày đêm thường theo
hộ vệ người này. Dù có
ma vương phương tiện rình tìm người kia, cũng không thể được. Các tiểu
quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này ngoài mươi
do tuần. Nếu
quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễu kẻ
thiện nhân; các chúng
Kim Cang lấy chày đập nát đầu, nhỏ như
hạt bụi.
Hằng ngày khiến người này làm việc như nguyện. Cho nên lời tụng kia nói: Tám vạn bốn ngàn
Kim Cang chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo
hộ thân (
hành giả).
Mật bộ các kinh rộng nói
hộ trì cho người
tụng chú; muốn biết rõ, xin xem trong
Tạng giáo.
8)Khiến phàm đồng
Phật Như Lai quy mạng:
Chơn ngôn người
hành giả, trì tụng
Thần chú khi khoá số đã mãn; thân, khẩu, ý
ba nghiệp ra làm các
việc thiện ác, đều thành
pháp môn vô lậu công đức. Cho nên
Bạch Tán Cái tụng nói rằng: Tụng xong một vạn tám ngàn biến, biến
biến nhập nhập nơi
vô tướng định. Tên
thành Kiến cố
Kim Cang tràng,
tự tại được gọi là Phật giữa
loài người. Dù cho
mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi,
chư Thiên vẫn nghe tiếng thành ra
Phạn âm. Kinh
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói rằng:
Tụng trì Đà Ra Ni ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay ác tất cả
thiên long nghe đều là
pháp âm thanh tịnh. Lại có
bài kệ rằng:
Thí như thuốc
linh đơn;
Điểm sắt thành vàng báu.
Tụng trì Đà Ra Ni;
Biến phàm làm
Thánh Hiền.
Lại
Thần Biến Sớ nói rằng:
Chơn ngôn hành giả năng khiến
ba nghiệp giống như
ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại kẻ
hành giả trì chú, được
quy mạng; cho nên được chư Phật
quy mạng. Cho nên
Phật Đảnh kệ rằng:
Mười phương thế giới các
đức Như Lai hộ niệm, cho người đó
hộ trì vậy đó.
9)Đầy đủ
tha lực,
tự lực hiện thành Bồ đề:Trong
Hiển giáo có
Tự lực và
Tha lực, hai môn
Thập Trụ Luận,
Niệm Phật cảnh … nói:
1)
Tự lực môn: Nghĩa là tu
lục độ hết thảy muôn hạnh gọi là khó
hành đạo, như người đi bộ xa nghìn dặm thì phải đến chậm.
2)
Tha lực môn: Các
pháp môn niệm Phật gọi là dễ
hành đạo. Như người đi đường thủy xuôi thuyền
thuận gió thì được đến mau.
Nay trong
Chơn ngôn bí Mật Thần chú đầy đủ hai lực Tự và Tha. Trong
kinh Đại Thừa Bảo Vương Đẳng và các kinh nói:
Hành giả Chơn ngôn ngày ngày được đầy đủ
Ba la Mật,
viên mãn công đức. Lại
Phật Đảnh tụng rằng: Không
trì trai ấy mà gọi là
trì trai, không
trì giới mà xưng là
trì giới, Tăng pháp 250 giới,
Tỳ Kheo Ni phạm Bát
Ba La, khi nghe
Phật Đảnh Đà Ra Ni liền được
cụ túc Thanh Văn giới. Và trong
Phật Đảnh Sớ có nói: Hạnh môn
Bồ Tát tùy hành thời đủ; nay không hành mà tự đủ, là nhờ sức của
Thần chú có đầy đủ muôn hạnh;
lời nói này không sai.
Trong
Chơn ngôn Tự Lực Môn: Mỗi mỗi một chữ đều là
toàn thân của chư Phật. Kinh
Mạt Pháp Trung Nhứt Tự Chú nói: Sau khi
diệt độ, Ta biến thân làm chú này … tức là
Tha Lực môn. Lại có các kinh nói:
Chơn ngôn hành giả hiện đời năng thành
Vô thượng Bồ đề. Cho nên kinh Lầu các nói rằng: Ta từ nơi
vô lượng cu chi trăm ngàn kiếp, tuy
hành khổ hạnh mà không được
Bồ đề nhờ có vừa nghe Đà Ra Ni thì tăng thêm hạnh
tương ưng, liền
thành chánh giác. Lại
Ngũ tự Đà Ra Ni tụng rằng: Chư Phật sức bổn thệ,
hiện thành các việc Thánh. Nghĩa là chỉ ngồi niệm
một lần, liền thành tới
Chánh giác. Lại tựa Đà Ra Ni nói rằng: Nếu học chứa nơi tâm, tức là
ba nghiệp của
phàm phu sẽ
biến thành chỗ chứa
công đức, chỉ
trong đời này liền được
Bồ đề, không
cần lao nhọc tấn tu nhiều kiếp. Lại
Thần Biến Sớ nói rằng: Xét Đà Ra Ni làm Đại bất tư nghì thừa,
thành Phật thần thông. Nghĩa là y các môn
thành Phật, như cỡi dê, ngựa, đi nghìn dặm đường qua
thời gian rất lâu mới đến. Y Đà Ra Ni môn
thành Phật, như cỡi
thần thông đi nghìn dặm đường, móng ý liền đến nơi. Chỗ đến tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau vậy. Lại các môn
thành Phật như mài vàng đá lấy
ngọc Như Ý, tu theo
Chơn ngôn thành Phật như sức
thần thông lấy
ngọc Như Ý. Lại còng nói rằng: Các vị
Bồ Tát vì cầu
Bồ đề, tuy tu các
khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu.
Trải qua vô lượng kiếp còn không được
thành tựu như vậy.
Chơn ngôn hành giả nếu tu không thiếu pháp tắc thì chỉ
trong đời này sẽ được
thành công, đắc chứng
Bồ đề. Cho nên
Thần Biến Sao nói: Đốn siêu các
địa vị, là ví dụ nhờ các
thần thông, mau
xa lìa phiền não ràng buộc, là vì nhờ
chú thuật, và trong
Đại Giáo Vương kinh nói:
Nếu không y
bí mật khóa tụng
tu hành, sẽ không
thành công trọn vẹn ở cõi
Vô thượng Bồ đề.
10)
Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học: (Các
Phật Như Lai còn tìm cầu học).
Như
Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói: Các Phật cũng cầu
Thần chú, huống nữa
phàm phu không trì tụng sao? Cho nên các kinh kia noí: Trong một lỗ chân lông của
Quán Thế Âm Bồ Tát có
vô lượng chư Phật và
Bồ Tát.
Phổ Hiền Bồ Tát vào trong một lỗ chân lông của
Quán Âm,
trải qua mười hai năm mà chẳng biết chừng đổi. Lại nói rằng: Đức
Quán Âm có sáu chữ
Đại Minh Đà Ra Ni; tất cả
Như Lai đều không biết chỗ sở đắc kia. Nhơn vị
Bồ Tát làm thế nào mà biết được, đến nỗi nói: Phật trên
hoa sen đã
thành Phật, để cầu sáu chữ
Đại Minh này …
Hỏi: Phật có đủ tất cả trí, đâu không biết Đà Ra Ni đó ư?
Đáp: Có ba nghĩa:
1)
Tiêu biểu Đà Ra Ni này là
thù thắng thâm sâu, khiến
tôn trọng. Như trên đã nói: Phật không biết mà tự cầu đó.
2)Phật trong
Quyền giáo: Như
A la hán hay
Bích chi Phật: Phật trong
Quyền giáo không thể biết được Viên tôn
Mật chú. Như
Tiểu Thừa cực quả không hay biết được pháp
thâm sâu của
Đại Thừa.
3)Mật tôn
Thần chú: Tức thể, lại là Viên
viên quả hải cho nên Phật không đắc được. Như Thích
Đại Thừa Luận nói: Viên
viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay
Lục Tự Đại Minh và
Chuẩn Đề Thần chú tức thể lại là Viên
viên quả hải vậy. (Nay Mật bộ tất cả
Thần chú là pháp
sở thuyên trong
Hiển giáo. Thật mà luận thì hàm đủ
năng thuyên trong
Hiển giáo. Nay
Lục Tự và
Chuẩn Đề chính là
quả hải trong
Hiển giáo).
Hỏi: Kinh
Bảo Vương chỉ nói
Lục Tự Đại Minh, Phật không biết được, cớ sao nay nói
Chuẩn Đề mà Phật cũng không biết được?
Đáp: Kinh
Bảo Vương kia nói:
Lục Tự Đại Minh rồi, lại liền nói
Chuẩn Đề, nên biết
Chuẩn Đề là đồng
quả hải. Lại Phật chỉ biết Phật nói
Chơn ngôn ở trong
Ngũ bộ:
Phật bộ gồm thâu tất cả. Nay
Chuẩn Đề độc riêng ngoài
Ngũ bộ; chẳng chẳng Viên
viên quả hải đó là pháp gì?
Lại hỏi: Luận rằng
Chơn ngôn chỉ là
ngôn giáo năng thuyên tức lấy tiếng danh, câu
văn thể là thể, vì sao được cho là viên
viên quả hải?
Đáp: Nếu hỏi câu này tức là chưa biết
tôn chỉ của
Mật giáo. Nay
bí Mật Thần chú trong
Mật giáo tức là pháp
sở thuyên. Như trên đã nói, tất cả
lời nói,
văn tự thuộc về lời
năng thuyên, phần nhiều lấy thinh, danh, cú văn làm thể hoặc lấy
Duy Thức là thể. Trong
Chung giáo nói: Lấy
Vô tánh chơn như làm thể. Trong
Đốn giáo lấy
Tuyệt đãi chơn như làm thể. Trong
Viên giáo nói lấy Thập huyền làm thể hoặc
Hải ấn tam muội làm thể. Kia trong
ngôn ngữ năng thuyên, trong
Hiển giáo còn như vậy, tức là
tuyệt đãi chơn như thập huyền môn, huống là Mật tôn
Thần chú, chính là Nhứt chơn
pháp giới trong Hiển viên ư! Lại
Thích Ma Ha Diễn Luận,
căn cứ vào năng thuyên trong
sanh diệt môn. Hội tướng quy tánh, lấy
chơn như làm thể hoặc lấy
Nhứt tâm làm thể. Trong
chơn như môn, lấy
tuyệt đãi chơn như làm thể. Lại
Thậm Thâm Huyền
Lý Luận,
Bất Động Bổn Nguyên Luận, trong hai bổn Luận kia, lấy gì làm thể, lấy lý suy gạn, thì biết nói là lấy
bất nhị quả hải làm thể.
Lời nói năng của nó còn như thế, tức cũng là
bất nhị quả hải; huống hồ
Lục Tự Đại Minh,
Chuẩn Đề Thần chú, nghĩa là pháp
sở thuyên trong hai bổn Luận kia ư! Lại từ xưa, các Ngài đều cho rằng:
Bí Mật Thần chú là chư
Phật tâm ấm, chỉ có Phật mới biết được chẳng phải nhơn vị có thể hiểu. Lại nay, kinh
Bảo Vương nói: Phật cũng không biết
Thần chú, nếu chẳng phải viên
viên quả hải đó thì còn là gì nữa? Mong các
học giả rộng lòng mà thể nhận, chớ
vọng tình tự chấp!
Hỏi: Vì sao chư Phật không đắc được viên
viên quả hải?
Đáp: Viên
viên quả hải là
pháp bổn tánh
thành tựu,
tiêu biểu chẳng phải chư Phật tu nhơn đoạn chướng mà được; lại
tiêu biểu ra ngoài
nhân quả vậy. Vì thế nên nói chư Phật không được cầu mà tự cầu đó. Cứ thật mà luận, các Phật đều biết được. Cho nên Ngài
Hiền Thủ nói: Tánh đức
quả hải, tức là
thập Phật cảnh giới.
Hỏi:
Lục Tự Đại Minh và
Chuẩn Đề Thần chú đã là viên
viên quả hải, tức là
thập Phật cảnh giới cớ gì
phàm phu trì tụng được?
Đáp: Nay trong
Mật giáo nói: Lấy
Chơn ngôn bất tư nghì lực khiến
ba nghiệp phàm phu đồng
ba nghiệp của
Như Lai mà được trì tụng. Lại Mật tôn
Thần chú, nếu
y cứ vào chỗ
hiểu biết, tức là chỉ
cảnh giới của chư Phật. Nay nhơn vị
phàm phu tuy chẳng
hiểu biết, chỉ nên trì tụng
tự nhiên diệt chướng thành đức,
siêu phàm nhập Thánh. Riêng một nghĩa này người tục nghe nói mà phát sợ. Lý vượt thường tình; người đã ít nghe, kẻ
phàm phu lại khó tin. Những bậc
bác học Thượng Trí, xét kỹ nơi đây mà rõ. Ba nghĩa trên đây tùy lòng thủ, xả (lấy hay bỏ).
Mười môn từ trước đến đây
lược bày Mật bộ, y tận
kinh điển, chẳng phải kẻ hạ ngu này hay biết được Mật chỉ. Cho nên
Thần Biến Sớ Sao nói: Chỉ có tay
Kim Cang mới sờ được chỗ kín đáo; con mắt
liên hoa mới có thể nhìn suốt nơi
thâm sâu nhiệm mầu kia.
B. HỎI, ĐÁP
MẬT CHÚ PHÁP KHÍ HƠN KÉM.
Hỏi: Mười môn như trên trình bày hết trong
Chơn ngôn Viên giáo, là tất cả
Chơn ngôn có hơn kém của
ngũ giáo mỗi mỗi không đồng, hay là tất cả chơn môn mà không hơn kém đều là
Viên giáo ư?
Đáp: Theo
Thần Biến Sớ có hai môn:
1)Tùy tha ý môn: Tất cả
Chơn ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài
Thanh Lương sớ chú, ngoài ba Tạng: Kinh, Luật, Luận lập thêm một tạng
bao gồm Đà Ra Ni làm thành bốn tạng. Một trong
ba thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong
Tam thừa đều có Đà Ra Ni,
Ngũ giáo sau đây mỗi mỗi cũng có
Mật chú, như chú trong
kinh A Hàm tức là
Tiểu giáo. Các chú trong kinh
Bát Nhã tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh
Kim Quang tức là
Chung giáo. Chú trong
Lăng Già tức là
Đốn giáo.
Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn và
Chuẩn Đề Thần chú trong
kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là
Viên giáo. (trong mười môn trước đây đã
dẫn chứng kinh Đà Ra Ni, phần nhiều là
Viên giáo)
Phạn ngữ Đà Ra Ni: Tàu dịch là
Tổng Trì, là lấy Giáo, Lý, Hạnh, Quả bốn pháp làm thể. Trong
Ngũ Giáo Đà Ra Ni, mỗi mỗi
bao gồm thâu nhiếp những giáo trong đó gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả vậy.
(Hơn kém của
Ngũ giáo nay nên lên ví dụ này để kẻ mới học được biết):
1)
Tiểu giáo như sắt.
2) Thỉ
giáo như đồng.
3)
Chung giáo như bạc.
4)
Đốn giáo như vàng.
5)
Viên giáo như
ngọc Như ý.
2)
Tùy tự ý môn: Tất cả
Chơn ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ
Lô Giá Na Đại Bất Tư Nghì
Bí Mật Tâm Ấn. (Trong
một đời giáo pháp cho đến Chơn ngôn do
quỷ thần nói đều là
Tỳ Lô Giá Na Như Lai, muốn
pháp môn có
lợi ích khắp
chúng sanh, quý Ngài đã biến ra
các loại quỷ thần mà nói
Chơn ngôn được; chứ không phải
thập loại quỷ thần mà nói
Chơn ngôn được;
các loại khác cũng vậy). Lại
Hiền Thủ Thanh Lương lấy nghĩa
phán giáo trong nhứt kinh gồm nhiều giáo. Tức là biết
Chơn ngôn trong tất cả kinh đều là
Viên giáo.
Tất cả
Chơn ngôn gọi là
Tổng Trì, năng tổng hàm nhiếp
vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn mới
phù hợp Phật tâm nhiệm mầu. Cho nên
Thần Biến Sớ nói:
Chơn ngôn hành giả hay ở trong
sai biệt, giải
vô sai biệt nghĩa. Ở trong
vô sai biệt giải
sai biệt nghĩa. Nên biết đó là người khéo đạt tướng
Chơn ngôn vậy.
Hỏi: Trên nói Mật bộ là
bao la rộng rãi,
thâm sâu, khó suy, khó nghĩ: chưa xét pháp này hợp với
căn khí nào.
Đáp: Chỗ hợp
căn khí có hai:
1)Tùy tha ý môn:
Chơn ngôn đã nói có
Ngũ giáo không đồng,
căn khí cũng có năm món sai khác, Đà Ra Ni trong
ngũ giáo. Các
giáo lý trong đó
gồm có ba căn: thượng, trung, hạn. Cho nên trong kinh Mạn Trà La Sớ cũng có nói: Đà Ra Ni
thông suốt đầy đủ các căn hơn kém.
2)
Tùy tự ý môn: Tất cả Đà Ra Ni đều hợp với bất tư nghì viên căn. Cho nên
Phật Đảnh tụng nói rằng:
Thần thông thắng hóa bất tư nghì; Đà Ra Ni là môn tối đệ nhất. Nay có người chưa từng
tán ngưỡng Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng Đà Ra Ni tạng chỉ
hợp hạ căn. Đây là
lời nói rất
sai lầm. Nhưng trong các kinh Đà Ra Ni hoặc gọi
Tối Thượng Thừa, hoặc gọi
Vô thượng Thừa, hoặc gọi
Kim Cang Thừa, hoặc gọi Bất Tư Nghì Thừa, đâu có phải là chỉ hợp với hạ căn? Cho nên Ngài
Thanh Lương nói: Lấy cạn làm sâu có phải lỗi
báng pháp không? Mong các
học giả nên
lưu tâm, không nên
cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê.
Ngũ giáo ở
Thiên Trúc và Trung Hoa
Hiển Mật cả hai đều rõ mới là bậc thông nhơn. Từ trước đến đây
Hiển Mật đều
giảng giải xong.