VI- VUI MỪNG GẶP ĐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY
Một đời Thánh Giáo của
đức Như Lai không ngoài hai môn
Hiển Mật. (Nhơn Vương Kinh Sao nói: Tất cả
giáo pháp của
Đức Phật, không vượt ra ngoài hai tôn:
Hiển Mật.)
Ở trong
Hiển giáo tuy
Ngũ giáo không đồng mà một
bộ kinh Hoa Nghiêm rất tối tôn, tối diệu; là tủy của chư Phật, là tim của
Bồ Tát. Đầy đủ cả ba tạng, tổng hàm cả
Ngũ giáo. (Phạn bổn có mười vạn
bài kệ, ở đây đã dịch ra, 80 quyển, 60 quyển, hoặc 40 quyển… Tuy văn nghĩa
rộng rãi bao la, trong đó rất cốt yếu, chỉ riêng một quyển kinh văn, phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện là
then chốt của
Hoa Nghiêm, bộ máy của việc
tu hành,
đáng khen ngợi và
tôn sùng, các
đạo lưu ở
Ấn Độ đều
y theo đây mà
tu hành vậy.)
Nơi trong Mật bộ, tuy
Ngũ bộ có khác mà một
chú Chuẩn Đề rất
linh diệu và
thù thắng; chú là mẹ của chư Phật, là mạng của
Bồ Tát bao gồm đủ
Tam Mật, tổng hàm cả
ngũ bộ. (Phạn bản có mười
bài kệ, phương này đã
phiên dịch có các bản của chư Sư,tuy nghĩa thức khác nhau chút ít, nhưng trong đó có phần rất
cương yếu, thì bản dịch của Ngài
Thiện Vô Úy Tam Tạng đời Đường là lãnh tụ của các Đàn, là thuốc bổ của bảy chúng; có thể
truyền thừa và sùng thượng. Các bậc cao đức ở
Tây Thiên,
Đông Độ đều nương nơi đây mà trì tụng vậy.
Nay hai tôn này chỉ ghi soạn ra đây những
pháp linh diệu mà Ngài đã truyền nói. Sau
thời kỳ Phật
nhập diệt, người đời bây giờ không nghe, không biết (không nghe Hiển viên, không biết Mật viên). Cách 700 năm sau đến khi Ngài
Long Thọ ra đời đều hoằng truyền cả hai
tông Hiển viên và Mật viên rồi đem
lưu hành trong nhơn thế. Nay ở
trong đời mạt pháp, được gặp
Quốc Vương Thiên Hựu
Hoàng Đế Bồ Tát, trong cả nước như được thuốc bổ
lưu thông. (Tức là hai giáo
Hiển Mật).
Tôi là một vị Tăng tài mọn,
may mắn gặp được lòng
cảm động vui mừng; ôm hoài bão
trọn đời cũng như người bịnh gặp được
linh đơn, diệu dược; kẻ nấu bếp được
ngọc Như ý Bảo châu, lòng rất
vui mừng hớn hở, bèn
sáng tác ra bài thơ ngâm
ca tụng rằng:
Bao năm
hân hạnh, dứt quên sầu,
Gặp hai
Hiển Mật toại lòng mong.
Thần công
Ngũ bộ đáng nên nhờ.
Mười
huyền diệu quán,
quán không thôi.
Âm cao giọng thấp
Chơn ngôn chuyển.
Thân được đến đi chơi
HOA TẠNG.
Pháp giới chúng sanh việc
vui mừng.
Chỉ nghi vì bởi tại
lòng tin.
V- CHUẨN ĐỀ SÁM PHÁP
Kinh dạy:
Trước khi vào
Đạo tràng, nên làm
lễ Phật,
Sám hối,
Tùy hỷ,
Khuyến thỉnh,
Phát nguyện.
Nên thọ
Bồ đề Tâm Giới; năm pháp này là
quy tắc sáu thời
hành đạo của các vị
Bồ Tát.
Đầu tiên vào
Đạo tràng quỳ gối,
chấp tay, niệm chú
dâng hương.
Đọc
Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn: Án Lam (7 biến)
Tịnh
Khẩu Nghiệp Chơn ngôn: Tu Rị, Tu Rị,
Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị
Ta Bà Ha. (3 lần).
Tịnh
Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Đà Ta Phạ,
Đạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Độ Hám (3 lần)
Phổ
Cúng Dường Chơn ngôn: Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc. (3 lần)
Đọc bài nguyện hương:
Nguyện thử
hương hoa vân,
Biến mãn
Thập phương giới.
Nhứt nhứt chư
Phật độ.
Vô lượng hương
trang nghiêm.
Cụ túc Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Phổ lễ Chơn ngôn: Án Phạ Nhựt Ra Vật. (7 lần)
ĐẢNH LỄ:
Nhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn Nhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương
Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới chư
Phật Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Thất Cu
Chi Phật Mẫu Sở Thuyết,
Đại Chuẩn Đề, Đà Ra Ni
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới Tu đa la Tạng Nhứt thế Đà Ra Ni môn.
Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ
Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu
Chi Phật Mẫu
Chuẩn Đề Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt Thế
Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả Chư
Đại Thanh Văn Tăng.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt thế
Tam thừa Hiền Thánh Tăng.
Sám hối:
Ngã
đệ tử …
chí tâm sám hối.
Đại Thánh Chuẩn Đề Tôn.
Nhứt thế
Hiền Thánh chúng.
Kim thân nhược
tiền thân.
Sở tạo chư
ác nghiệp.
Chúng tội giai
sám hối. (3 lễ).
Khuyến thỉnh:
Ngã
đệ tử …
chí tâm khuyến thỉnhThập phương nhứt thiết Phật.
Hiện tại thành đạo giả,
Ngã
thỉnh chuyển Pháp luân,
An-Lạc chư
chúng sanh,
Thập phương nhứt thế Phật,
Nhược dục
Bát Niết Bàn.
Ngã kim đầu diện lễ,
Khuyến thỉnh cửu trụ thế (3 lễ).
Tùy hỷ:
Ngã
đệ tử …
chí tâm tùy hỷ.
Tam thế chư
Như Lai,
Bồ Tát Thanh Văn chúng.
Tu tập tam thừa nhơn,
Nãi chí phàm phu loại.
Sở hữu chư
phước thiện,
Thí giới
thiền định huệ.
Nhẫn nhục tịnh
tinh tấn,
Ngã kim giai
tùy hỷ (3 lễ)
Phát nguyện:
Ngã
đệ tử …
chí tâm phát nguyện.
Nguyện chư
chúng sanh đẳng,
Tất
phát Bồ đề tâm.
Vĩnh đoạn chư
phiền não,
Đương chứng nhứt
thế trí.
Phục nguyện ngã kim tu,
Chuẩn Đề bí mật hạnh.
Sở cầu chư
Tất Địa,
Tùy tâm tốc thành tựu. (3 lễ)
Hồi hướng:
Ngã
đệ tử …
chí tâm hồi hướng.
Dĩ
ngã sở tu phước,
Cập dữ
Chơn ngôn hạnh.
Hồi hướng chư hữu tình,
Cọng thành
Vô thượng đạo.
Phục dĩ kim sở tu,
Lễ bái cập
sám hối.
Khuyến thỉnh tịnh
tùy hỷ,
Phát nguyện hồi hướng thiện.
Tất thí dữ
chúng sanh,
Vĩnh đoạn tam đồ khổ.
Đồng
thú đạo Bồ đề,
Pháp giới chơn như hải. (3 lễ)
Thất Phật Diệt Tội Chơn ngôn (3 lễ)
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ni nể đế,
ma ha già đế, chơn lăng càn đế
ta bà ha.
VI- VÀO ĐẠO TRÀNG TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ
CÁCH NGỒI KIM CANG TỌA
(Nghĩa là lấy bàn chân mặt gác lên trên vế chân trái, hoặc
tùy ý ngồi cũng được.)
HAI TAY
KIẾT ẤN TAM MUỘI: (Nghĩa là lấy tay mặt duỗi ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáo móng
với nhau). Để ngang dưới rún, thân cho
tề chỉnh, tâm cho
an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu ta có một chữ LAM rất tròn sáng như ngọc
Minh Châu hay như
mặt trăng rằm. Khi tưởng như vậy rồi thì xả ấn
Tam Muội trên Đảnh, tay trái
kiết ấn Kim Cang Quyền (nghĩa là lấy ngón tay cái bấm vào ngón áp út ở giáp bàn tay, rồi 4 ngón tay kia
nắm chặt lại hình như tay cầm cú), rồi tay mặt lần chuỗi mà tụng sau đây:
1) Chú
Tịnh Pháp Giới: Án Lam (108 biến)
2) Chú
Hộ Thân: Án Xỉ Lâm (108 biến)
3) Chú
Lục Tự Đại Minh:
Án Ma Ni Bát Di Hồng (108 biến)
Khi tụng xong chú nói trên thì xả ấn
Kim Cang Quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng
bài kệ Chú Chuẩn Đề:
Chuẩn Đề công đức tụ.
Tịch tịnh tâm thường tụng,
Nhứt thiết chư
đại nạnVô năng xâm thị nhơn,
Thiên thượng cập nhơn gian
Thọ phước như Phật đẳng.
Ngộ thử
như ý châuĐịnh hoạch
vô đẳng đẳng.
Nam Mô Thất Cu
Chi Phật Mẫu
Đại Chuẩn Đề Vương
Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần rồi lạy)
Lúc lạy xong, ngồi kiết toàn già và
kiết ấn Chuẩn Đề: Lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn
với nhau vào trong
hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt; rồi để ấn ấy ngang ngực.
Chí tâm tụng 108 lần
chú Chuẩn Đề và chú Đại Luân Nhứt
Tự như vầy:
Nam Mô Tát Đa Nẫm
Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm,
Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm (tụng 108 lần) muốn trì tụng nữa hoặc tùy lòng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ
Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Tụng ký số làm chừng như trên, hoặc trì nhiều hơn cũng tốt. Khi niệm đủ rồi muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt
kiết ấn Kim Cang Quyến mà ấn theo thứ tự năm chỗ sau đây:
1) Trên đảnh.
2) Nơi vai bên trái.
3) Ở vai bên mặt
4) Tại ngang ngực.
5) Nơi yết hầu.
Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy thì miệng đọc
Thần chú HỒNG HỒNG cho
liên tục,
chừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên trên đảnh đầu và tụng:
Ngã kim trì tụng
Đại Chuẩn Đề.
Tức phát
Bồ đề quảng đại nguyện.
Nguyện ngã
định huệ tốc
viên minhNguyện ngã
công đức giai
thành tựu,
Nguyện ngã thắng phước biến
trang nghiêm,
Nguyện cọng
chúng sinh thành Phật đạo.
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ
tham sân si,
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,
Nhứt thiết ngã kim giai
sám hối.
A Di Đà Phật thân
kim sắcTướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di,
Cám mục trừng thanh
tứ đại hải,
Quang trung
hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ tát chúng diệc
vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ
chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng
bỉ ngạn.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật (108 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Chuẩn Đề Vương
Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)
Nguyện ngã lâm dục mạng vong chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư
chướng ngại.
Diện kiến bỉ Phật
A Di ĐàTức đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Tự
Quy Y Phật,
Đương nguyện
chúng sanhThể giải
đại đạo,
Phát
Vô thượng tâm.
Tự
Quy Y Pháp,
Đương nguyện
chúng sanhThâm nhập kinh tạng,
Trí huệ như hải.
Tự
Quy Y Tăng,
Đương nguyện
chúng sanhThống lý
đại chúngNhứt thiết
vô ngại.
Nguyện dĩ thử
công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ
chúng sanh,
Giai cọng
thành Phật đạo.
HẾT
VII- CÁCH DÙNG KÍNH ĐÀN
(Mua cái kính tròn mới chưa hề dùng soi mặt đường kính độ 7 phân tây)
Đem kính tròn xông trầm. Đến 10 giờ đêm tối ngày rằm, trước tượng
Chuẩn Đề, xây mặt về hướng đông, tướng ngó
hướng tây.
Hành giả ngó hướng đông,
cúng dường hương hoa trang nghiêm, xông
an tức hương và
tịnh thủy,
kiết ấn Chuẩn Đề,
trì chú 108 biến vào Kính đàn (tức là
thành tựu đàn pháp). Mỗi khi
tụng niệm, để kính
trước mặt, tụng xong bỏ kính vào cất trong đãy vải, khi đi đâu
đem theo để
hộ thân.
Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề”
Hành giả trước khi
trì chú, hoặc sau khi trì,
An bố khắp
thân phần,
Được
vô lượng phước đức.
Hoặc mỗi khi
tọa thiền quán tưởng chín chữ an khắp
thân thể, rất là
mầu nhiệm: ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ
CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA.
ÁN: An ký trên đỉnh đầu,
Ánh sáng như
mặt trăng Phóng ra
vô lượng quang,
Trừ diệt tất cả chướng.
CHIẾT: An ký nơi đôi mắt
Sáng màu như
nhật nguyệt Chiếu phá mọi
u ám Phát sinh
trí huệ minh.
LỆ: An ký nơi cổ,
Màu sáng cám
lưu ly (xanh &đỏ)
Hiển bày các
sắc tướng,
Đầy đủ
Như Lai trí.
CHỦ: An ký tại tim (ngực)
Màu
trong trắng như tơ,
Khiến tâm được
thanh tịnh Mau đến đạo
Bồ đề.
LỆ: An ký hai vai,
Sắc màu sáng huỳnh kim,
Người
Quán tưởng chữ này
Thường mặc giáp
tinh tấnCHUẨN: An ký ở tại rún
Màu sắc vàng trắng đẹp,
Chóng lên
diệu đạo tràng
Không thối
Bồ đề tâmĐỀ: An ở hai bắp vế
Sáng màu vàng hơi lợt,
Mau
chứng đạo Bồ đềĐược ngồi tòa
Kim Cang.
TA BÀ: An ở hai bắp chân
Sắc màu đỏ
rực rỡ,
Nếu thường quán chữ này
Mau chuyển được
Pháp LuânHA: An ở hai bàn chân
Ánh sáng như trăng tròn,
Hành giả Quán chữ này
Mau đến đạo
Viên tịch.
VIII- NHẬP NHÀ MỚIKhi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch thì lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng làm gì) đựng nước trong lấy giữa lòng giếng vào lúc nửa đêm, rồi tay trái
kiết ấn Bảo Thủ: (Nghĩa là lấy ngón tay giữa và ngón tay áp út, co lại bấm vào lòng bàn tay, mà giơ ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, còn tay mặt thì
kiết ấn Kiết Tường. (nghĩa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi thư chữ LAM vào trong chén nước, rồi tụng 21 biến
Chuẩn Đề có ghi sau đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải về tám phương: trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạn của
chú Chuẩn Đề như vầy vào giấy vàng. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ
CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA (Viết bằng chữ Phạn), rồi đem dán đủ trên các cửa và
chí tâm cầu nguyện Phật để
tụng chú ấy luôn ba đêm, thì nhà ở được
yên ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được sự
cát tường. Nhà đương ở mà sanh yêu quái, thì cũng làm như trên.
XI- TRỊ QUỶ MỊ LÀM ĐAU ỐM
Bị quỷ mị làm cho đau ốm, lấy cành dưng liễu hay nhánh
thạch lựu, mắt nhìn vào nhánh cây, miệng chăm
tụng chú Chuẩn Đề 108 biến, rồi lấy nhành cây ấy mà đập, phủi trên thân người đau,
tức thời lành bịnh.
Nếu người bịnh ở xa, cũng làm
phương pháp ấy;
gia trì trong nhánh cây 108 biến rồi đêm về phủi trên mình bịnh nhơn.
Trẻ em bị bịnh
quan sát (Hay khóc dạ đề)
Mua chỉ
ngũ sắc về, bảo một đứa trẻ (gái) nhỏ xe hiệp lại, rồi mình cầm chỉ ấy tụng một biến
chú Chuẩn Đề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ 21 gút, rồi lấy chỉ đeo vàơ mình đứa nhỏ, bịnh nó sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các
chi tiết bị đau nhức, nên
gia trì Thần chú vào trong tay 21 biến mà xoa vào chỗ đau cũng được lành bịnh. (Muốn trị bịnh theo pháp này, phải là người
trì chú tu hành trong
thời gian lâu dài mới có
hiệu nghiệm.)
(Còn người mới tụng
Phạn âm chưa thuần
tâm không chuyên nhất, không
hiệu nghiệm mà
đắc tội nặng. Khi vào tự chữa cho mình lành bịnh rồi mới trị cho người khác).
Người bịnh
trầm trọng:
Niệm
chú Chuẩn Đề trong chỉ
ngũ sắc, cứ niệm mỗi câu gút một gút cho đủ số 108 gút đeo trên cổ bịnh nhân thì được lành bịnh. Nếu người ở xa, nên vẽ hình bịnh nhân rồi nhìn vào hình, xưng tên
một lần,
trì chú một biến,
cho đến khi đủ 108 lần rồi mới lấy chỉ đó đeo vào hình nhơn thì bịnh cũng lành được. Lúc đi đừng, vào rừng, đi thuyền, tàu, phải nên nhớ
tụng chú Chuẩn Đề để
hộ thân và
tránh khỏi tai nạn.
X- CHÚ TỲ LÔ GIÁ NA
PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH QUANG CHƠN NGÔN
Bất Không Quyến
Thần Biến kinh nói: Nếu các
chúng sanh tạo đủ
thập ác,
ngũ nghịch, tứ trọng, tội số như
vi trần, đầy khắp
thế giới. Khi thân hoại
mạng chung bị đọa vào
ác đạo. Dùng
Chơn ngôn này
gia trì vào trong đất cát thật sạch cho đủ 108 biến rồi tán rải trên thi hài của vong nhơn hoặc trên mồ mả họ. Vong nhơn kia nếu ở
địa ngục,
ngạ quỷ,
tu la,
súc sanh … Nhờ oai lực
gia trì của
Chơn ngôn, nhờ sức
thần thông của chú lực, lúc bấy giờ liền được ánh
hào quang của chư Phật rọi vào thân và trừ được các
quả báo,
xả thân khổ sở,
vãng sanh về nước
Cực Lạc tây phương Liên hoa hóa sanh, thẳng đến
thành Phật không còn bị
đọa lạc.
Chơn ngôn: Án A Mộ Già Vĩ Lô Tả Nẵng Ma Hạ Mẫu Nại Ra. Mạ Nỉ Bát Nạp Mạ Nhập Phạ Ra Bát Ra Mạt Đa Dã Hồng.
XI- PHƯƠNG PHÁP TÁN SA
Lấy cát giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít châu sa, thần sa, để trong chén nước sạch. Tay
kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát, còn tay mặt
kiết ấn Cát Tường. Mắt ngó vào chén cát, miệng tụng
Thần chú Tỳ Lô 108 biến làm chừng,
gia trì cho được ba đêm rồi đem cát ấy rải lên mồ mả hay thi hài của người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử mà vong nhơn không siêu được, làm
phương pháp này liền được siêu sanh. Hoặc viết
Thần chú này trên vải, giấy vàng rồi đắp lên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực được siêu sanh
cõi Phật.
ĐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁT
THIỆN TRỤ BÍ MẬT ĐÀRANI
Nẵng Mồ Tát Phạ
Đát Tha Nghiệt Đa Nẫm Án Vĩ Bổ Lã Nghiệt Bệ Mạ Nĩ Bát ra Bệ
Đát Tha Đa Nễ Nại Xả Nỉnh Ma Nĩ Ma Nĩ Tô Bát ra Bệ Vĩ Ma Lê Ta Nghiệt Ra Nghiễm
Tỷ Lệ Hồng Hồng Nhập phạ Lã Nhập Phạ Lã Một Đà Vĩ Lô Chỉ Đế Hủng Hế dạ Địa Sắc sỉ Đa Nghiệt Bệ Ta phạ Ha.
Thần chú này viết chữ Phạn trên chuông, trên bảng, trống, trên
tràng phan, trên vách tường. Viết trên giấy, vải đeo mang trong thân, viết trên áo mặc vào thân, hoặc đọc hay tụng các
chúng hữu tình nghe tiếng, nghe danh liền được
tiêu trừ bao
tội chướng, ngủ thức được
yên ổn thân tâm, không
loạn động. Các
chúng sanh mắt thấy, tai nghe, thân chạm xúc đều được tiêu tội đắc phước. Ai thường trì,
đọc,tụng, thân
hiện tại không bị các
bịnh khổ, khi
lâm chung được sanh về các nước Phật.
XII- PHỤ THÍCH
LINH NGHIỆM HẢO MỘNG
CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ
Tụng 10 vạn biến hay 20 vạn biến trong mộng thấy Phật,
Bồ Tát liền thổ ra vật đen. (Vật đen
tiêu biểu cho
ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt
phước sanh, cho nên tự thấy trong miệng thổ ra vật đen hay cơm đen.) Mộng thấy
chư Thiên, Đường, Tự Xá (Nhà, chùa,
tịnh xá rộng lớn) hoặc trên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (Không bị
tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên. Đây là thiện nhơn được
thành tựu nên thấy thiên, đường, tự, xá) Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm rửa (là tịch trừ
tội cấu được
thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên
hư không (không bị
tội nghiệp ràng buộc cho nên thân khinh cử nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng
chư Thiên nữ an vui khoái lạc (được sức
giữ gìn thiện căn tương ưng nên cùng thấy vui khoái lạc.) Hoặc thấy
thuyết pháp (được
thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu
tóc rụng rớt (râu
tóc rụng rớt là pháp Tây quốc
ngoại đạo, râu
tóc rụng rớt đều là
tiêu biểu đoạn
trừ phiền não căn gốc vậy). Hoặc nói rằng thấy thân mình cạo bỏ râu tóc. Hoặc thấy ăn cơm sữa, uống nước
cam lồ (thấy ăn sữa là
thành tựu được phước lành của
thế gian, uống nước
cam lồ là được
pháp vị xuất thế). Hoặc
vượt qua sông, suối, biển lớn (được khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên tòa
sư tử (được tòa
pháp vương) Hoặc thấy
cây Bồ đề (là
kiến đạo tướng). Hoặc cỡi thuyền (là nương cỡi
thuyền Bát Nhã là được cái tướng đến bờ
giải thoát. Tô Đất Địa kinh nói rằng: Hoặc thấy cỡi
sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng … đều là cái tướng
Tất Địa thành tựu). Hoặc thấy bực
Sa Môn (được ly thế nhiễm mà ra khỏi
tam giới). Hoặc thấy
cư sĩ mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là
tiêu biểu chánh, trắng là
tiêu biểu tịnh, tức là thấy bạch tịnh
Chánh pháp mà
phú hộ). Hoặc thấy
mặt trời,
mặt trăng (
tiêu biểu phá
phiền não vô minh ám). Hoặc thấy người đồng nam
đồng nữ (không bị
phiền não tham dục làm
ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng là
thiện nghiệp, nghĩa là được thế,
xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc
trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy cùng với họ đấu chiến được thắng (nghĩa là cùng
phiền não ma cộng chiến mà
đắc thắng). Hoặc thấy ác mã, trâu nước muốn đến húc người trì tụng
Thần chú. Người
trì chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (nghĩa là đối với si
phiền não ma, mà được thắng vậy). Hoặc ăn sữa cháo, tôn Phạn (là được
thượng vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy
Tô Ma Na Hoa (hoa đây nói là xứng ý hoa, sắc vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghĩa là
tiêu biểu sở cầu thiện pháp quyết được xứng ý. Hoặc thấy
có mùi hương thơm, bạch hoa hương
tiêu biểu cho hương của
ngũ phần pháp thân. Nghĩa là được
ngũ phần thiện nghiệp). Hoặc thấy
quốc vương (nghĩa là được đại nhơn
hộ niệm được tôn quý
thắng nghiệp).
Nếu không thấy những
cảnh giới như vậy, phải biết người đời trước đã tạo
ngũ vô gián tội, nên càng phải trì tụng mãn 70 vạn biến, 90 vạn biến, trăm vạn biến liền thấy những
cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đã diệt liền thành tiên hạnh. Những
cảnh giới hảo mộng như trên đây đều là cái tướng
chứng nghiệm thành tựu của người
hành giả.
CẢM NIỆM
Ai ơi! Xem hết quyển này,
Gắng theo
phương pháp trong đây
tu hành.
Niệm Phật trì chú Chuẩn Đề,
Sống đời
hạnh phúc chết về
Tây phương.
Niệm Phật chẳng khác thuyền trôi,
Thuận theo gió nước vào bờ rất mau.
Chuẩn Đề kiêm niệm chẳng lơ,
Khác nào phản lực động cơ đời này.
Quyết đi thì đến không sai,
Chuẩn Đề niệm tụng Thánh thai hiện tiền.
Chuyên cần chí kính
lòng thành,
Chuẩn Đề như ý toại lòng
ước mong.
Tỳ Khưu THÍCH VIÊN ĐỨC