1
NHỮNG LỢI LẠC CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Bồ Tát Hạnh mở đầu với sự
tán thán chư Phật và chư
Bồ tát, các ngài được xem là những người nhận
tối thượng những sự
cúng dường.
1. Đến các Bậc
Phúc Lạc, các ngài có
Pháp Thân,
và đến tất cả những vị
Thừa Kế,
Và đến tất cả những vị đáng
tôn kính, con xin
đảnh lễ.
Theo
truyền thống, giờ đây tôi sẽ nêu lên ngắn gọn
Lối vào
giới hạnh của
Bồ tát.
Từ Bậc
Phúc Lạc đồng nghĩa với Phật và là
một chuyển ngữ của tiếng Sanskrit sugata. Từ này tạo thành bởi hai
yếu tố : sukha có nghĩa là “phúc lạc”, và gata nghĩa là “đến”. Một Sugata (
Thiện Thệ) như vậy là “người
đạt đến phúc lạc,” hay theo Khảo Cứu về Luận Lý, “người đã
đạt đến hay đi đến, một cách
hoàn hảo.” Sự
chứng đắc trạng thái phúc lạc có hai
phương diện :
chứng ngộ và
loại bỏ.
Khi
tâm thức phát triển những phẩm chất
tâm linh và
thoát khỏi mọi thứ ngăn chướng nó, nó càng ngày càng có khả năng thấy
rõ ràng bản tánh của những
hiện tượng,
cho đến khi nó thấy biết
bản tánh tối hậu mà không còn
chướng ngại nào. Cái thấy biết những
hiện tượng như chúng thực là chính là
trí huệ biết mọi sự vật không chút
vọng tưởng. Đây là
trạng thái trí huệ không thể bị che ám, cũng không thể bị hư hoại.
Phương diện chứng ngộ nhằm chỉ
thiền định về sự không có
thực tại (
vô tự tánh) trong những
hiện tượng. Điều này dẫn đến cái biết
hoàn toàn về sự đa thù của những
hiện tượng và cái biết
hoàn toàn về
bản tánh của chúng. Qua
sức mạnh của những
đối trị,
chúng ta từ bỏ mọi che chướng làm
tối tăm sự thấu hiểu của
chúng ta, sự thấu hiểu này
cho phép chúng ta thấy biết những
hiện tượng trong
thực tướng trần trụi của chúng và
đạt được cái biết toàn hảo về tất cả
hiện tượng không trừ sót. Ba loại
hiểu biết hoàn toàn này tạo thành ba
đặc tính của sự
đạt đến phúc lạc qua
chứng ngộ.
Cái thấy hay cái hiểu không lầm lỗi này khai triển
dần dần qua
thực hành. Khi nó trở nên mạnh mẽ hơn và
rõ ràng hơn, nó
hoạt động như một
đối trị với
niềm tin sai lầm vào cái ngã và vào sự có thực của những
hiện tượng, kết quả là sự tin sai ấy càng lúc càng yếu đi.
Cuối cùng, khi cái
đối trị này đã
đạt đến sức mạnh hoàn toàn của nó,
trí huệ không
ý niệm thấy
vô ngã xuất hiện.(10) Như
thế trí huệ này
chống lại những che chướng, và nó trừ bỏ những thức tình chỉ
đơn giản qua việc thấy những
hiện tượng như chúng thực sự là. Đây là điều
chúng ta gọi là sự
loại bỏ toàn hảo.
Đây không phải là chuyện
giảm thiểu sức mạnh của những thức tình
tiêu cực một cách tạm thời nhờ những cấp bậc định
tinh vi khác nhau. Một khi những thức tình
tiêu cực đã
bị loại trừ nhờ
trí huệ vô niệm, chúng
bị loại trừ
vĩnh viễn. Chúng không thể xảy ra
trở lại trong những
hoàn cảnh mà trước kia đã từng khơi dậy chúng. Điều này được biết như là một sự loại trừ không thể
đảo ngược. Khi
trí huệ vô niệm phi thường được
hoàn thiện nhờ
thực hành và mọi ngăn chướng với nó đã bị
bãi bỏ nhờ cái
đối trị, bấy giờ
chúng ta nói rằng sự
loại bỏ đã
hoàn tất.
Ba
phương diện này – toàn hảo, không thể
đảo ngược, và
trọn vẹn – là
ba tính chất của
chứng ngộ qua sự
loại bỏ. Bấy giờ, một Sugata là người đã “đến” qua ba
chứng ngộ này và ba loại trừ này.
Một Sugata có
Pháp thân bắt đầu bằng
từ bỏ những thức tình
tiêu cực, đến một điểm ngài đạt cấp độ thứ nhất trong mười cấp độ của
con đường Bồ tát.(11) Bấy giờ ngài tiến theo
con đường đến
Phật tánh cho đến khi
đạt được cấp độ không học nữa. Vào
lúc ấy, ngài
thành tựu không gian tuyệt đối hoàn toàn thanh tịnh,
bản tánh tuyệt đối và
thân thể tuyệt đối, hay
Pháp thân. Vì những che chướng
cho đến vô minh rơi rụng hết, mọi phẩm tính của
trí huệ bổn nguyên
xuất hiện,
đặc biệt là hai mươi mốt phẩm
tính thanh tịnh của
Pháp thân. Cái còn lại sau khi tất cả che chướng
bị loại bỏ được gọi là
trí huệ bổn nguyên.
Phương diện chứng ngộ của
Pháp thân là
cực điểm của
chân lý của
con đường, trong khi
phương diện loại bỏ của nó là
cực điểm của
chân lý của sự dừng dứt.
Hai chân lý này tạo thành Pháp, tức là cái thứ hai trong
Tam Bảo mà
chúng ta quy y.
Pháp thân như thế là
phương diện tối hậu của Pháp.
Báo thân và
Hóa thân, chúng
biểu lộ từ Pháp thân, tạo nên
Tăng đoàn những vị đã
đạt đến con đường không học nữa. Và Phật, ngài
thoát khỏi mọi
lỗi lầm và đầy đủ mọi phẩm tính
tốt đẹp, là người
sở hữu chân lý của
con đường và
chân lý của sự dừng dứt. Ba cái này – Phật, Pháp và Tăng – là ba chỗ
quy y tối hậu.
Chúng hội những
Bồ tát Đại thừa, những
Thanh Văn và những
Độc Giác Phật, các ngài đang tiến trên
con đường, có thể được gọi là
cộng đồng tối cao, hay Tăng. Chính các vị, cùng tất cả những vị thầy khác xứng đáng
tôn kính, mà Shantideva
đảnh lễ ở đây.
Đã bày tỏ lòng
tôn kính đến
Tam Bảo, ngài
tuyên bố ý định tạo luận, nó là một sưu tập những
hoạt động của những
Bồ tát, hay là những đứa con của Phật.
Đức Phật có ba loại người
thừa kế. Người con
thân thể vật chất của ngài là Rahula. Những người con
thừa kế của lời ngài là những
Thanh Văn và
Độc Giác Phật. Và những người con
thừa kế của tâm ngài là những
Bồ tát. Những người con thứ ba này được xem là những người
thừa kế chính, vì họ
mong mỏi đến mọi phẩm tính cao cả của
Phật tánh, để cho
lợi lạc của tất cả
chúng sanh, bằng cách
áp dụng những
phương tiện hoàn hảo của
con đường đại bi và
tánh Không. Họ là những người
thừa kế của
đức Phật mà Shantideva nhắm đến, và chính những
hoạt động của họ, trong mọi
phương diện của chúng, mà ngài
diễn tả ở đây, bao trùm những điểm
chính yếu của
con đường tâm linh.
Sự
tu hành của một
Bồ tát cốt ở sự
thực hành sáu hay mười
ba la mật.(12) Điều này có thể tóm thành ba
giới luật : tránh những hành động làm hại, làm những hành động thiện ích, và làm việc cho sự
lợi lạc của
chúng sanh. Shantideva
diễn tả con đường này trong ba giai đoạn :
đi vào,
tu hành, và
thành tựu.
Đi vào bao gồm sự
đảm đương nhận lấy
Thệ Nguyện Bồ tát và hình thành lần đầu tiên nguyện vọng
giác ngộ, nó được gọi là
Bồ đề tâm. Phần chính của bản văn
diễn tả sự
tu hành tiếp theo sự phát sinh
Bồ đề tâm, nó là sự
thực hành sáu ba la mật.
Mục đích của điều này, sự
thành tựu Phật tánh, được
diễn tả ngắn gọn vào cuối chương chín.
Bồ tát (Bodhisattva) có nghĩa là gì ? Bodhi là
giác ngộ,
trạng thái không có mọi
lỗi lầm và đầy đủ mọi đức tính. Sattva để chỉ người nào có
can đảm và
niềm tin,
cố gắng đạt đến giác ngộ cho tất cả
chúng sanh. Những người nào có
ý muốn tự nhiên,
thành thật này
đạt đến giác ngộ vì sự
lợi lạc tối hậu của tất cả
chúng sanh được gọi là
Bồ tát. Với
trí huệ, họ hướng thẳng tâm họ đến
giác ngộ, và với
đại bi, họ
quan tâm đến
chúng sanh.
Ý muốn này về
giác ngộ viên mãn vì
lợi lạc cho những người khác là cái
chúng ta gọi là
Bồ đề tâm, và nó là điểm bắt đầu của
con đường. Do trở nên biết rõ
giác ngộ là cái gì, người ta không chỉ hiểu rằng có một
mục tiêu để
thành tựu mà còn có thể làm được điều đó. Được hướng dẫn bởi
tham muốn cứu giúp
chúng sanh, người ta nghĩ, vì
chúng sanh, ta phải
đạt đến giác ngộ ! Một
tư tưởng như thế tạo thành cổng vào
Đại thừa.
Bồ đề tâm, bấy giờ là hai
ý muốn :
đạt đến giác ngộ trong chính mình, và làm thế vì tất cả
chúng sanh.
Dĩ nhiên, người ta có thể có một
ý muốn mơ hồ nào đó
đạt đến giác ngộ, hay
cảm thấy nó là cái gì
cần phải đạt đến. Nhưng không có sự
chắc chắn rằng
giác ngộ là thực sự
hiện hữu và có thể
thâm nhập, người ta sẽ không bao giờ
thành tựu nó. Bởi thế rất quan trọng phải biết
giác ngộ là gì.
Trong bối cảnh này, sự
giải thích về
tánh Không nêu lên ở lần
chuyển Bánh Xe Pháp thứ hai là cốt yếu quan trọng. Mọi
hiện tượng vốn trống không, không có
hiện hữu thực sự,
vô tự tánh. Điều này được
giải thích rõ ràng trong những
kinh Bát Nhã ba la mật và những bình giải của Nagarjuna và các
đệ tử của ngài.(13) Nhưng
tri giác về những
hiện tượng của
chúng ta vào lúc này là cái gì ? Cái mà Nagarjuna
diễn tả không phải là cái
chúng ta đang
tri giác thực sự bây giờ. Cái
chúng ta đang
kinh nghiệm đích thị là cái ngược lại. Thay vì
tri giác những
hiện tượng như là trống không,
chúng ta thấy mọi sự là đang
hiện hữu và có thật. Nếu qua
nghiên cứu và
thực hành,
chúng ta có được một
hiểu biết và
tin tưởng nào đó rằng
bản tánh của những sự vật là
tánh Không, bấy giờ
chúng ta nhận ra những thấy biết của
chúng ta từ trước tới giờ không
tương ưng chút nào với cách thức những sự vật thực sự là và
chúng ta đã
bám víu một cách
vô minh vào cách thức thấy biết
sai lầm những sự vật của mình. Hơn nữa, cái
vô minh này đã là gốc rễ của tham và ghét ; nói cách khác, nó chính là gốc rễ của
sanh tử.
Vô minh,
niềm tin rằng những sự vật là có thực, thì cực kỳ có
quyền lực. Nhưng
chúng ta nên nhớ rằng nó không gì hơn là một
lỗi lầm ; nó chỉ là một hiểu sai mà
chúng ta bám trụ vào, nhưng thật ra nó chẳng có căn cứ nào cả. Cái đối nghịch của nó, sự
hiểu biết rằng những
hiện tượng không có
thực thể, được đặt nền một sự thực
vững chắc đứng vững trước mọi
biện bác. Nếu người ta làm quen với cái hiểu này, nó có thể khai triển
vô tận, bởi vì nó là cả hai phẩm chất
chân thật và
tự nhiên của tâm. Khi nó
triển khai và lớn mạnh hơn, nó
hoạt động như cái
đối trị lại
niềm tin sai lầm rằng những sự vật là thực,
niềm tin sai này bắt buộc càng lúc càng yếu đi
tương ứng.
Chúng ta có thể
thoát khỏi sự hiểu sai ấy một cách
hoàn toàn không ? Có nói rằng:
Bản tánh của
tâm thức là
trong trẻo và
sáng tỏ,
Những che chướng chỉ là ngoại sinh.
Dù những che chướng này đã
hiện diện từ rất lâu xa, chúng là không cùng một
bản chất với tâm. Bởi thế, khi cái
đối trị –
tri giác đúng về những sự vật – khai triển, những che chướng này có thể
hoàn toàn bị trục xuất.
Bản tánh của tâm,
trong sáng và
tỉnh giác, thì vượt ngoài mọi hư hỏng,
lầm lẫn ; nó không thể bị những che chướng
tác động. Không có
hiện tượng nào, hoặc
tâm thức hoặc xảy ra nơi
thế giới bên ngoài, có thể làm
ô nhiễm nó. Không có cái gì có thể làm hư hỏng phẩm tính
tự nhiên này, nó là
tính cách bẩm sinh của
chính tâm.
Niềm tin vào sự có thực của những sự vật được căn cứ trên
tri giác thấy biết
sai lầm và
hoàn toàn trái ngược với
bản tánh của tâm. Nhưng bởi vì những
điều kiện và cách thức
hiện thời của
tri giác đã thành
thói quen từ lâu,
chúng ta cứ có khuynh hướng
kinh nghiệm những sự vật một cách
lầm lẫn. Bởi thế, về mặt kia, tâm này thấy những sự vật không thực như thế nào, tâm ấy có khả năng hủy diệt cái đối nghịch của nó, sự xác tín rằng những
hiện tượng là thực. Mặt khác, dầu
niềm tin sai lầm này vào sự có thật có
quyền lực bao nhiêu, nó cũng không thể đụng đến
bản tánh bổn nhiên của tâm. Như Dòng
Tương Tục Thiêng Liêng có nói :
Những
nhiễm ô là ngoại sanh,
Những phẩm tính là bổn hữu.
Điều này rất kích động
tư tưởng. Bởi vì những che chướng này thật ra là thứ gì tách lìa với tâm,
chúng ta chắc chắn có thể
thoát khỏi chúng,
miễn là chúng ta cứ
tiếp tục lập đi lập lại
thực hành và
áp dụng những
đối trị. Mọi thức tình
tiêu cực có thể bị nhổ gốc, ngay cả những khuynh hướng
thói quen chúng để lại sau như những vết hằn cũng sẽ
bị loại bỏ.
Khi
tâm thức hoàn toàn thoát khỏi những thức tình và khuynh hướng
tiêu cực này, nó hiểu và biết tất cả những
hiện tượng. Bằng siêng năng và dùng những
phương pháp đúng đắn,
chúng ta có
thể hiện thực hóa cái tiềm năng
chúng ta có cho
toàn giác như vậy. Chỉ bởi vì có những tấm
màn che chướng giữa
tâm thức và đối tượng của nó mà
chúng ta không thể biết mọi sự vật. Một khi những tấm màn này được cất đi, không
sức mạnh mới nào là
cần thiết nữa. Thấy và biết là
bản chất của
bản thân tâm thức. Khi nào
tâm thức còn
tồn tại, nó có khả năng biết, những khả năng này không tự
phát lộ chừng nào mọi che chướng được vất bỏ. Điều này nghĩa là đạt
giác ngộ. Nếu
chúng ta suy nghĩ theo những đường hướng này, mong muốn
giác ngộ sẽ lớn lên trong
chúng ta.
Về mong muốn làm việc cho
lợi lạc của những người khác, điều này đến từ sự thấu hiểu rằng, tất cả
chúng sanh, không chỉ là người, cũng như
chúng ta, đều muốn được
hạnh phúc và không bị khổ đau. Thật ra, tất cả
chúng ta đều có lòng bi :
chúng ta muốn
giải thoát những người khác khỏi khổ đau. Và ở một mức độ nào đó, tất cả
chúng ta đều
thương yêu và mong muốn những người khác được
hạnh phúc. Những
cảm giác này có
thể không rất mạnh và lớn, nhưng mỗi người đều có chúng trong một
chừng mực nào. Chẳng hạn, khi
chúng ta thấy một ai đang hấp hối,
tự nhiên chúng ta nghĩ, “kinh khủng thật !” và
chúng ta muốn cắt bỏ sự
đau đớn khỏi họ. Cũng như chính
chúng ta không muốn khổ đau mà muốn được
hạnh phúc,
chúng ta có thể có cùng mong muốn đó cho những người khác. Dù cho
chúng ta có thể có rất ít từ và bi vào lúc này, chúng là những cái
chúng ta cần khai triển. Khi chúng lớn lên, mong muốn làm việc cho những người khác của
chúng ta cũng lớn lên.
Để có
tham muốn đạt đến giác ngộ, dầu chỉ để cho phần riêng của
chúng ta,
chúng ta phải biết cái gì
đạt được khi
giác ngộ và cái gì bị mất khi không
giác ngộ. Để cho điều ấy,
chúng ta cần
suy nghĩ về những bất toàn của
vòng sanh tử – và đến cả những bất toàn của
Niết bàn khi xem nó như là đối cực kia. Như có nói trong
Tinh Túy của
Trung Đạo :
Bởi vì họ thấy những khuyết điểm của nó,
Họ
từ bỏ sanh tử.
Bởi vì lòng họ đầy
từ bi,
Niết bàn cũng không giữ họ lại được.
Người trí mong muốn cho
hạnh phúc của
chúng sanhAn trú ở ngay trong
sanh tử.
Họ không
bị giam nhốt bởi
sanh tử, vì họ đã thấy những bất toàn của nó. Bởi vì
đại bi của họ, họ không nấn ná ở trong
niết bàn. Vì họ biết rằng có những khuyết điểm trong cả hai, họ
mong mỏi một
giác ngộ siêu vượt hai đối cực này.
Như vậy trước hết
chúng ta phải
ý thức cái gì là
sai lầm nơi
sanh tử, vì đây là
căn bản cho ước muốn
đạt đến giác ngộ. Để lìa khỏi và tự
giải thoát mình,
chúng ta phải
suy nghĩ về cái gì được xem là khổ của
sanh tử ; điều này sẽ làm
sanh khởi ý muốn giải thoát cho những người khác. Hơn nữa, nếu
chúng ta cần phải vượt qua những
hy vọng và
tham vọng của
chúng ta về những đời tương lai,
trước tiên chúng ta phải đương đầu với sự bám níu của
chúng ta vào đời
hiện tại này. Đây là điều
chúng ta cần phải tu hành, từng
bước một.
Bồ đề tâm là một
trạng thái rất
tốt đẹp của tâm,
thấm nhuần bởi
trí huệ, trong đó
lòng tốt kết hợp với
trí thông minh cao nhất. Nó là một cái gì
hoàn toàn kỳ diệu. Loại phúc lành và
lòng tốt này làm
chúng ta bình an tức thì, đến mức
chúng ta bớt hẹp hòi và
xao động. Khi
chúng ta gặp những người khác,
chúng ta không
cảm thấy ngột ngạt và
xa cách. Ngược lại,
chúng ta cảm thấy thân thiết với người khác. Với một tâm như thế,
chúng ta không bao giờ
sợ hãi, nhưng mạnh mẽ và
can đảm. Đây là một tâm thái rất hữu ích nên có.
Bồ Tát Hạnh không phải là một
kết tập những
ý kiến riêng của Shantideva, cũng không phải là một lập lại
y nguyên của
kinh điển. Nó hơn là những lời dạy của
kinh điển, trong
hình thức rút gọn. Như ngài nói :
2. Điều tôi cần nói, tất cả đã được
nói trước rồi,
Và tôi cũng
nghèo nàn học vấn và
thiện xảo ngôn ngữ.
Bởi thế tôi không có
ý nghĩ nó làm
lợi lạc cho những người khác.
Tôi viết nó chỉ để ổn cố sự
hiểu biết của mình.
“Điều tôi cần nói, tất cả đã được
nói trước rồi, và tôi cũng
nghèo nàn học vấn và
thiện xảo ngôn ngữ” được nói
đơn giản chỉ để gạt bỏ
kiêu mạn. Với những người chỉ muốn thu gom
kiến thức, ngài chẳng có điều gì mới để nói. Và vì ngài không nghĩ ngài có thể giúp đỡ cho những người khác, ngài viết bản văn này để
thúc đẩy sự
thực hành tâm linh riêng của mình và của những người cùng ở một cấp độ với ngài.
Chương đầu của mười chương
Bồ Tát Hạnh đề cập đến những phẩm tính của
Bồ đề tâm. Như một chuẩn bị cho
Bồ đề tâm, người ta cần
thực hành thất giác chi để tích tập
công đức và tịnh hóa chính mình. Đây là
chủ đề của chương hai. Chương ba
diễn tả làm sao phát sinh
Bồ đề tâm. Những chương sau
giải thích làm sao đưa
Bồ đề tâm vào
thực hành qua
sáu ba la mật. Cái đầu tiên của
sáu ba la mật,
rộng lượng, được nói suốt cả bản văn và không có chương riêng biệt nào dành cho nó. Làm thế nào
thực hành giới thanh tịnh được
giải thích trong hai chương về
cẩn thận và
chánh niệm. Những chương
tiếp theo dành cho bốn
ba la mật cuối :
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ.
Cuối cùng, Shantideva
kết thúc bản văn với một chương về
hồi hướng công đức cho
lợi lạc của
chúng sanh.
Minyak Kunzang Sonam, theo
truyền thống của Patrul Rinpoche,
giải thích cơ cấu của
Bồ Tát Hạnh theo đoạn kệ
nổi tiếng của Shantideva :
Nguyện
Bồ đề tâm quý báu nảy sinh
Ở những ai nó chưa được phát sanh.
Và nơi nào nó đã sanh ra, chớ để dừng tắt,
Mà ngày càng lớn rộng khắp nơi nơi.
Đối với những người chưa phát sinh
Bồ đề tâm, ba chương đầu của
Bồ Tát Hạnh giải thích làm thế nào để
phát tâm. Rồi để
ngăn ngừa Bồ đề tâm không lui sụt,
tiếp theo là những lời dạy trong những chương về
cẩn thận,
chánh niệm và
nhẫn nhục. Sau đó, những chương về
tinh tấn,
thiền định và trí huệ diễn tả làm thế nào
Bồ đề tâm có thể được khai triển
liên tục.
Cuối cùng, chương mười và cũng là chương
kết luận bàn về làm thế nào để
chia xẻ và
hồi hướng Bồ đề tâm này, nó đã được phát sinh, được
bảo vệ khỏi lui sụt, và khai triển càng ngày càng lớn mạnh. Patrul Rinpoche đã
giải thích nó như thế, và tôi thấy lối
giải thích ấy rất
sâu xa.
4. Thật khó khăn thay để có được
thoải mái và
sung túc,(14)
Nhờ đó
ý nghĩa chân thực của
cuộc đời người
Có thể thu hoạch được ! Nếu tôi
lơ là không chuyển nó thành
lợi ích cho mình,
Làm sao một cơ hội
hy hữu như thế mà có lại được ?
Để có thể
thực hành Bồ đề tâm, nó có biết bao là phẩm chất
tốt đẹp,
chúng ta cần
trí thông minh, những
điều kiện thuận lợi, và
đặc biệt,
điều kiện tối cao của đời làm người.
Một đời làm người là khó tìm và rất
giá trị nếu
chúng ta có nó.
Chúng ta cần không
lãng phí cuộc đời của
chúng ta mà phải dùng chúng cho tốt.
5. Như khi một tia sấm chớp bửa tan đêm tối
Ánh sáng chói lòa của nó bày hiện mọi
đám mây đen
che dấu,
Hiếm hoi như thế, nhờ
thần lực của chư PhậtNhững
tư tưởng lành khởi lên, ngắn ngủi và nhanh chóng trong
thế giới.
6. Hãy thấy sự
hoàn toàn yếu ớt của
đức hạnh !
Chỉ trừ
Bồ đề tâm toàn hảo,
Ngoài ra không có gì có thể đứng vững
cưỡng lại nổi
Sức mạnh lớn lao tràn ngập của điều xấu.
Bởi vì nghiệp của
quá khứ của
chúng ta, rất hiếm và khó có được một tâm tốt, trong khi
hoàn toàn dễ dàng có những
tư tưởng xấu, bởi vì đây là cái
chúng ta đã
quen thuộc. Thế nên
chúng ta cần
nuôi dưỡng những
tư tưởng tốt, như ngưỡng mộ chư Phật và bi mẫn đối với
chúng sanh. Chính qua cái ấy mà
chúng ta phát triển
Bồ đề tâm.
Không có gì mạnh mẽ bằng
Bồ đề tâm để tịnh hóa những hành động xấu và những che chướng của
chúng ta, để
đạt được hạnh phúc tạm thời và
tối hậu, và để giúp đỡ những người khác. Nếu
chúng ta muốn
giải thoát chính mình và những người khác khỏi khổ đau của
sanh tử, thì
chúng ta phải khai triển
Bồ đề tâm. Khi nào
chúng ta làm thế, những phẩm tính
vô biên của nó đến nỗi rằng, dù
chúng ta còn có vẻ là những
chúng sanh bình thường chịu đựng khổ đau,
chúng ta sẽ được
tuyên bố là những người
thừa kế của chư Phật, xứng đáng với sự
tôn kính của người và trời.
Bồ đề tâm của
chúng ta có thể còn chưa
tự nhiên. Nó còn là cái gì
chúng ta phải tạo tác ra.
Tuy nhiên, một khi
chúng ta đã ôm lấy và bắt đầu khai triển tâm thái
phi thường này, bất cứ hành động
tích cực nào
chúng ta làm –
lễ lạy, đi nhiễu,
đọc tụng, hay hành động của lòng
rộng lượng – dầu
xem ra không có gì khác, sẽ đem lại những kết quả
tăng trưởng lớn lao.
Bản thân Bồ đề tâm có hai
phương diện : nguyện vọng và
áp dụng. Nguyện vọng chỉ
đơn giản là mong muốn đạt
giác ngộ vì tất cả
chúng sanh, ước muốn
theo đuổi con đường.
Áp dụng bắt đầu với việc mang lấy lời
thệ nguyện của
Bồ đề tâm và hứa đưa nó vào trong hành động. Nguyện vọng chỉ giống như muốn đi
đâu đó ;
áp dụng là thực sự đi.
Những phẩm tính
tốt đẹp của mới chỉ
Bồ đề tâm nguyện vọng cũng là
bao la ; còn nhiều biết bao nhiêu là những phẩm tính của người mang lấy lời
thệ nguyện ! Từ giây phút lời
thệ nguyện được
đảm đương, bất cứ điều gì một
Bồ tát làm, dù đi hay ngủ, đều sẽ tạo ra
công đức lớn lao qua
năng lực hoàn hảo của
ý định. Và nếu có
công đức lớn lao khi muốn làm nhẹ bớt chỉ một cơn khó chịu của một
chúng sanh, người ta cần gì nói đến
lợi lạc vô cùng của việc mong muốn giúp đỡ cho
vô số chúng sanh ?
Có nói rằng nghĩ xấu về một
Bồ tát như
vậy thì sẽ có những
hậu quả cực kỳ
nghiêm trọng. Bởi thế,
chúng ta nên rất
cẩn thận giữ mình khỏi phạm vào loại
lỗi lầm này và xem những người khác như những vị thầy của
chúng ta. Và
chúng ta không bao giờ nên, mà không có một
lý do thật
đặc biệt, nêu ra những
lỗi lầm của những người khác. Như Gendun Drubpa
toàn trí đã nói, “Hãy
biết ơn tất cả
chúng sanh và nhìn tất cả mọi
hành giả với cái nhìn
trong sạch. Hãy
hàng phục kẻ thù bên trong.”(15)
Chúng ta hãy theo
lời khuyên của ngài.