MỞ CỬA MẶT TRỜI
Trường ca
Thánh Tăng Trần-Huyền-Trang Đường-Tam -Tạng thỉnh kinh
(Dựa trên sử liệu)
Từ Hoa A lan nhã xuất bản 2005
|
|
|
|
|
Thi ngâm: Đoàn Yên Linh & Hồng Vân
Đề tựa
...áo
mặt trời ẩn hiện một bàn tay,
mười
phương thế sự - một tâm nầy.
Tán thán công đức
Chép
lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy,
Cõi
diêm phù đất vẽ dấu chân xưa
Đức
ân Người sóng vỗ pháp âm đưa
Quy
thân mạng mười phương con đãnh lễ.
Mở kệ
Trên
tờ nguyệt mật hoa khai dòng kệ
Bút
lan thơm từ thuở núi chưa già
Tiếng
hạc chầu đêm rất thánh về qua
Quy
niệm giác mười phương con đãnh lễ.
Dâng kệ
Khấu
đầu lạy hoa rừng vui ứa lệ
Chim
ngậm cành lá ngọc hát trên sương
Xuân
thu nào trí tuệ mở dị thường
Quy
ý pháp mười phương con đãnh lễ.
Khẩn nguyện
Dâng
lời nguyện muôn thân quỳ dưới bệ
Với
đại từ làm tông chỉ qui y
Ngã,
Pháp không hóa hiện ứng duyên tùy
Như
phương tiện huyễn thân làm diệu dụng.
Đất
Lạc-Dương hóa sinh như huyễn dã (1,2)
Cũng
như từng bao lần đã thọ thân
Đức
mẫu từ trong giấc ngủ cùng trăng
Thấy
đồng tử thiên y màu lụa bạch
Quang
sắc lạ tỏa ngời đêm tịch tịnh
Đi
về tây, đất trổ dấu hài in.
Tuổi
mười ba, tay mở Niết-Bàn kinh
Đèn
một ngọn, mặc tình muôn thế sự.
Đại-Từ-Ân
mượn nơi làm tăng lữ (3)
Theo
tôn sư học luận Nhiếp- Đại-Thừa (4)
Đọc
dòng kinh lòng thoảng gió mây đưa
Ý
siêu thoát, âm vang như đồng vọng
Trên
pháp tọa lời lời tuôn châu ngọc
Nghe
thuyết kinh tàng lọng tạ ân sâu
Suối
ngừng reo, cây khép lá nghẹn ngào
Mười
ba tuổi, vang danh từ thuở ấy.
Thắp
đuốc pháp cho mặt trời thức dậy
Mở
tâm người thủy nguyệt hiện toàn chân
Riêng
một thân một ngựa đến Trường An (5)
Học
kinh pháp với lòng vô phân biệt
Luận
Câu-Xá đã hai lần quán triệt (6)
A-Tỳ-Đàm,
tông Thành-Thật gẫm suy (7,8)
Vượt
trùng quan vó biếc một thân Kỳ (9)
Trên
muôn dặm một lòng mong thấy Phật.
Tờ
kinh cũ, gió lay đêm huyền hoặc
Tự
ngàn xưa dòng mực hiện pháp âm
Mà
nơi đây chiếc bóng quyện hương trầm
Trí
khao khát mơ thầm trăng Linh-Thứu. (10)
Đêm
mộng lạ đỉnh Diệu- Cao ngọc báu (11)
Giữa
đại dương ngời nước biếc hiện ra
Đóa
sen vàng thay thuyền rước đưa qua
Nương
lá gió mượn hoa vào đất Phật
Ôi
đất cũ có nhớ lời hẹn gặp
Bến
Lương- Châu mang giáo pháp dạy người
Lệnh
vua truyền phong tỏa khắp nơi nơi
Giữa
đêm lạnh âm thầm trên lưng ngựa
Đến
Linh- Châu trải muôn vàn gian khổ
Đường
quanh co còn lại chỉ một mình
Ngước
nhìn trời, mây nước cũng lặng thinh
Ngọc-Môn
ải đã đành xa vạn dặm.
Cây
ngô đồng bắc cầu qua sông rộng
Hồ-Lư-
Giang in bóng nước tăng bào
Mạc-Hạ-Diên
cát lạnh với trăng sao
Đêm
lạc bước giữa xương người, phân ngựa.
Ai
bỏ xác trên đường đi quá nửa
Ngày
lên cao sa mạc cháy xương da
Hơn
bốn ngày Bạch-Mã hãy còn xa
Rơi
bầu nước trên tay không một giọt.
Thiêm
thiếp mộng nửa hồn như thanh thoát
Trên
môi khô lời nguyện vẫn chưa quên
‘
Xin làm người thắp đuốc sáng trong đêm,
Xa
đất Phật, nguyền không quay trở lại.’
Đêm
yên lặng, nửa hồn xa trần giới
Thấy
trong mơ thánh thể tỏa hào quang
Sương
đêm buông sa mạc ngở đạo tràng
Gió
mát dịu tưởng cành dương rưới nước.
Ngựa
đưa người đến bên đồng cỏ ướt
Sau
hai ngày dừng lại đất Y-Ngô
Vua
quan cùng tăng sĩ đến dựng cờ
Đồng
đãnh lễ dưới chân người tìm Phật
Đất
vui trổ lá hoa mừng chánh pháp
Chim
họp bầy tấu thiên nhạc trên không
Vua
Cao-Xương gởi thiếp viếng hoàng cung
Đến
Bạch-Lực sáu ngày băng sa mạc.
Tay
thắp đuốc, tay cầm hương tiếp rước
Vua
tự thân cung thỉnh đến đạo tràng
Cờ
quạt bay rợp đất, trống chiêng vang
Tuôn
mưa pháp thức muôn lòng say ngủ.
Đỉnh
Linh-Sơn có còn như ngày cũ ?
Mây
Kỳ-Viên phiêu bạt đã bao lần ? (12)
Dõi
mắt nhìn sông nước cũng bâng khuâng
Hồn
đất thánh giục thầm chân tăng lữ.
Vua
xuống lệnh xây thêm đền điện mới
Chuốt
đũa vàng, chén ngọc kính dâng lên
Khiến
sai người cung kỉnh suốt ngày đêm
Tâm
mến pháp sinh lòng lưu giữ lại
Hoa
đại đạo nở cho ngàn thế giới
Ngọn
lữa thiêng- tờ lá bối chép kinh
Từ
tạ vua, dứt áo bỏ cung đình
Lìa
thế tục cầu chi danh lợi hảo.
Xưa
Thiện-Tài hơn trăm thành cầu đạo (13)
Mỗi
tờ kinh mực đọng dấu hài ai
Ngài
Ba-Luân khóc suốt bảy đêm ngày (14)
Cầu
trí tuệ mở khai tâm bát nhã. (15)
Pháp
bất-nhị nay đà chia đôi ngã (16)
Bắc
và Nam hai mối đạo không đồng (17)
Người
luận kinh sự, lý chẳng viên thông
Nhớ
lời Phật, pháp truyền qua Đông độ. (18)
Xưa
Ca-Diếp-Ma-Đằng vào Trung thổ (19)
Mang
cho người trang Tứ-Thập-Nhị-Kinh
Vườn
Tiêu Dao-vua dựng gác Tây-Minh
Ngài
La-Thập từ Phạn-văn phiên dịch (20)
Cho
người Hán hơn bốn trăm kinh quyển,
Trên
đất Tần bút pháp kết ngọc hoa.
Pháp-Hộ
đời Tây Tấn cũng tìm qua (21)
Mang
lời Phật chép ra trang Hán tự.
Đỉnh
Ngân-Sơn áo bay- vô trụ xứ (22)
Dòng
A- Phu suối giữ bóng nguyệt tà.
Dấu
tăng hài lá cỏ nép bên hoa
Phiến
đá lạnh gối đầu đêm gió núi.
Hơn
trăm dặm đồng cỏ xanh lầm lũi
Thành
Khuất-Chi hùng biện trước đền vua
Người
Cúc-Đa khinh mạn Luận-Du-Già (23,24)
Giữa
pháp hội tỏ ra tăng-thượng-mạn.
Tâm
từ ái đâu màng tranh sâu, cạn
Dẫn
dắt người ví tát cạn ao sen
Như
cánh vàng rực rỡ, nước bùn chen
Mang
Tiểu, Đại hai thừa ra minh giải.
Kinh
pháp Phật học khi còn thơ dại
Từ
Thanh-Văn, Duyên-Giác đến Phật thừa.
Lời
kinh nào chẳng phải pháp âm xưa,
Trí
mê chấp mở bày tâm phân biệt.
Trí
huệ Phật - ôi hai vầng nhật nguyệt.
Đi
về tây, tìm đến thành Tô Diệp
Hai
ngàn người Đột- Quyết cướp trên đường
Vào
trại binh thuyết pháp giữa vòng gươm
Kinh
Thập-Thiện dạy người xa nẽo dữ.
Sau
bảy ngày lạc trong vùng núi tuyết
Vượt
đại hồ, thành Tô Diệp dừng chân
Về
phương tây, nghìn suối nước Bình-Tân
Hai
trăm dặm đến thành đô Bạch-Thủy
Rời
Cung-Ngự hơn dặm ngàn thiên lý
Đường
tây nam sa mạc trải xương khô
Không
dấu chân, không nước, cát xây mồ
Ai
đã đến- nắm xương còn bỏ lại.
Vào
cung điện trước quân thần thuyết giải
Mỗi
bước đi tang hải cũng ngậm ngùi
Thiết-môn-quan
ngàn dặm nước mây trôi
Sang
sông lạnh tìm đến miền Hoạt quốc.
Người
cầu pháp giữa đêm dài thắp đuốc
Đưa
thiếp mời vấn Luận-Tỳ-Bà-Sa (25)
Đạt-Ma
là tên gọi vị tăng già
Vang
danh khắp vùng núi đồi Thông-Lĩnh.
Trước
môn đệ phải cúi đầu cung kỉnh
Người
dặm trường tìm Phật, trí như mây
Mỗi
ngôn từ là mỗi pháp âm bay
Không
chỗ trụ trên tờ kinh vô tự.
Thành
Ba-Lợi tìm lại người huyền sử
Đến
tháp thờ nhìn thấy dấu Thế Tôn
Chậu
rữa tay, răng Phật, chổi cỏ rơm
Ôi
đã phải vì người mà lưu lại.
Ka-pi-sa
gặp nhiều tông lắm phái
Hoa
như lai trổ đất Phật muôn mầu
Vua
dựng tràng mở hội luận nông,sâu
Đại
thừa giáo- ngài Ý Thanh, Huệ Tánh (26,27)
Nhất-Thiết-Hữu
cùng Sa-Di-Tắc-Bộ (28)
Đồng
uyên thâm kinh điển thuộc tông môn
Trước
điện vàng, pháp Phật rộng càn khôn
Cả
pháp hội phải một lòng qui phục.
Đại-Tuyết-Sơn
giá băng tràn thung lũng
Gió
rừng đêm rét lạnh mảnh tăng y
Trời
mưa hoa tuyết trải trắng đường đi
Tiểu-Sa-Lãnh,
núi Hắc-Sơn tiếp nối
Đồi
gặp đồi, núi qua rồi lại núi
Sương
mai về kết ngọc hạt long lanh
Người
săn nai chỉ lối rẽ rừng xanh
Ngôi
cổ tự Sa-Lạc-Ca dừng ngựa.
Na-ga-ra
đất bùn ai trải tóc (29)
A-Dục-Vương
tháp ngọc nhiễu quanh vòng (30)
Đăng-Quang-Thành
mong thấy bóng Từ Tôn (31)
Trước
thạch bích khấu đầu hơn trăm lạy
Đá
nín lặng, đất trời như đọng lại
Cất
lời than, cây cỏ cũng lặng im
Lệ
tuôn dòng theo mạch máu về tim
Tiếng
khẩn nguyện vọng từ hang núi lạnh.
Dường
như đất vỡ ra thành muôn mảnh
Dường
như trời khép lại một bầu không
Dường
như trăng về hẹn giữa đêm rằm
Trên
vách đá hiện một vòng ánh sáng.
Đầu
đảnh lễ ánh từ quang tỏa rạng
Bóng
Thế Tôn hiện rõ nếp kim lan
Chư
Thanh-Văn, chư Bồ-Tát hai hàng
Động
rêu đá hóa đạo tràng như huyễn.
Hơn
ngàn dặm đi về miền Bắc Ấn
Ngựa
dừng cương chùa Hộ-sắc-ca-la
Vòng
tay cung, tăng chúng bước chân ra
Cùng
đảnh lễ người phương xa cầu pháp.
Liền
kể lại giữa khuya vừa khép mắt
Nghe
trong mơ lời thúc giục tham thiền
Trên
hư không hóa hiện dáng chư Thiên
Hoa
trải lối, đèn đưa đường tìm Phật.
Vua
nghe tiếng truyền ngựa xe tiếp rước
Đến
kinh thành lưu lại viện Già-la
Trong
hai năm cầu học vị tăng già
Ngài
Tăng-Xứng, mỗi ngày ba thời pháp.(32)
Đồng
thanh khí lời kinh tương hội nhập
Ngỏ
lời khen : trí huệ sánh tiền nhân,
Đâu
thẹn cùng ngài Vô-Trước, Thế-Thân (33,34)
Tiếc
không sớm thấm nhuần hương vị đạo .
Bảy
trăm dặm trèo non rồi lội suối
Về
tây nam đến Yết-bổ-đà-la
Vượt
dòng sông dùng lại đất Thước- ca
Đến
học đạo với tông đồ Bồ Tát
Phái
Trung-Luận tám trăm năm giáo pháp (35)
Dựng
Không-môn miền Nam Ấn truyền thừa
Vị
tăng già- đồ đệ của người xưa
Thông
kinh tạng luận Bách-môn, Quảng-bách.(36,37)
Về
phương đông đến Chi-na-phát-đế
Hơn
một năm thọ pháp với tỳ khưu
Điều-Phục-Quang
dạy Đối-pháp, Lý-môn (38,39,40)
Cùng
chú giải ba mươi bài Duy-Thức.(41)
Mạt-thố-la
tháp thờ môn đệ Phật
Trên
lá hoa thấp thoáng đạo tràng xưa
Áo
bày vai bên hữu, gối quỳ thưa
Như
huyễn hiện vào ra ngôi tháp cổ.
Dừng
chân đứng bên dòng sông cổ độ
Nước
sông Hằng muôn thuở chảy về đâu
Bên
dòng xưa dừng ngựa suốt mùa đông
Mở
Kinh-Bộ Tỳ-bà-sa cầu học.( 42)
Đến
Mạc-đế học Biện-chân, Phát-trí (43)
Khúc-nữ-thành
ba tháng lại học kinh (44)
Tỳ-bà-sa
ngài Nhật-Trụ thuyết minh (45)
Cuối
mùa hạ, A-du-đà dừng lại.
Mỗi
thánh địa buộc thuyền vào chiêm bái
Đến
A-đề giặc cướp chận trên sông
Tế
nữ thần, chọn làm vật thiêu thân
Tâm
an định khiến cho người kinh ngạc.
Trời
lộng gió thổi lật thuyền, bay cát
Cây
hai bờ trút lá xuống lòng sông
Chừng
thiên nhiên rúng động, nổi cuồng phong.
Đất
Xá-vệ hơn dặm ngàn dừng ngựa (46)
Kỳ-thọ-viên
vàng dát kín đất vua
Ca-tỳ-la
đất cũ có bao giờ (47)
Thoáng
nếp áo - tưởng người xưa cầm bát.
Rừng Sa-la vời bay đôi cánh hạc (48)
Gió hiu hiu làm động mấy tờ kinh
Câu-thi-na ba lần hiện hồi sinh (49)
Vườn Lộc-uyển lần đầu tiên chuyển pháp.
Phệ-xá-li,
ứng thân Duy-Ma-Cật (50,51)
Ngài
A-Nan xin bát sữa đề hồ (52)
Giường
bệnh nằm hay thánh thất Tỳ-lô (53)
Pháp
bất-nhị, vấn kinh không lời đáp.(54)
Ma-kiệt-đà
tam tạng kinh kết tập (55)
Lần
đầu tiên khi Phật nhập niết bàn
Cội
bồ đề quỳ lạy, cất lời than
Cho
dù biết Phật trên ngàn, dưới suối.
Nghìn
cư sĩ kết hoa dâng pháp hội
Chư
tăng ni cờ lọng chắp tay sen
Na-lan-đà
bốn vị đại tỳ kheo (56)
Đến
cung thỉnh rước về nơi tinh thất.
Chánh-Pháp-Tạng,
ngài Giới-Hiền Bồ-Tát (57)
Hơn
ba năm đã có ý đợi chờ
Người
phương đông cầu pháp-thoáng trong mơ
Trên
đất Ấn, dạy pháp môn Duy-Thức.
Na-lan-đà
hơn năm năm dừng bước
Luận
Bách-môn, Trung-quán,luận Du-Già
Một
tờ kinh, một bóng, một đèn hoa
Ba
lần giảng, ba lần nghe pháp vị.
Núi
Hi-Lô kết hoa dâng lời nguyện
Tượng
Quán-Âm hoa rải khắp trên thân
Nguyện
mang kinh về đất cũ hoàn an
Như
thật tướng nguyện tái sinh Đâu-Suất
Thấy
Phật tánh, nguyện đời sau thành Phật
Nhận
gia tài túi vải nặng hai vai (58)
Trên
chiếc hài vương lá cỏ trần ai.
Kinh
Vệ-Đà, tục truyền do thiên khải
Từ
Phạm-Thiên, Đế-Thích xuống nhân gian
Mở
tờ hoa tìm học những lời vàng
Mang
so sánh với đạo tràng chư Phật.
Tâm
bát ngát vượt trên Không và Sắc
Trí
bao la đâu chấp Hữu hay Vô
Na-lan-đà
cổng tu viện dựng cờ
Xé
mảnh giấy của tông đồ ngoại đạo. (59)
Pháp
chư Phật vượt trên tông và giáo
Lạ
lùng thay- người chấp áo, chấp khăn
Dâng
lên vua Giới-Nhật một bài văn
Cùng
bài bác thuyết ‘Không’ như tà đạo.
Khúc-Nữ-Thành
dựng hội trường luận thảo
Mười
tám vua cùng chư vị tăng ni
Tượng
Phật vàng voi trắng mở đường đi
Ngà
chuốt cán, lọng tàng hoa kết ngọc.
Áo
Đế-Thích, Phạm-Thiên làm sắc phục
Hai
vì vua cầm lọng đứng hầu bên
Hoa
trải đường, pháp nhạc trỗi trang nghiêm
Đồng
cung thỉnh vào pháp đường an vị.
Chế-Ác-Luận
phá trừ tâm nghi kỵ
Như
mặt trời tỏ rạng ánh bình minh
Một
bản văn truyền dán trước cổng thành
Ai
bác được- nguyện dâng đầu chịu tội.
Một
bản văn đọc bên trong pháp hội
Trước
hàng ngàn tu sĩ cả đôi bên
Lời
từ tâm vô ngại, trí vô biên.
Khắp
hội trường không gian như chìm lắng
Các
vì vua đồng hoan hỉ chắp tay
Hơn
mười ngàn đại chúng suốt năm ngày
Cùng
yên lặng không một lời vấn, đáp.
Vua
khuyến khích ai người mong luận pháp
Được
tự nhiên bày tỏ mối nghi nan
Đến
cuối ngày bổng náo loạn hội tràng
Nhóm
đối lập bày mưu toan hãm hại.
Vua
xuống lệnh ai người không chính đại
Thiếu
quang minh, hành động chẳng nghĩ suy
Y
luật hình trừng trị chẳng kiêng vì
Buổi
vấn pháp được duy trì tiếp tục.
Mười
tám ngày số đông người qui phục
Trải
thảm vàng, kiệu ngọc rước vòng quanh
Lời
tung hô, chúc tụng khắp trong thành
Nêu
danh hiệu ‘giải-thoát-thiên’ dâng tặng.
Đức
khiêm cung từ tâm vô-sở-đắc (60)
Như- chân không. Thị- diệu hữu giả bày (61,62)
Lữa
không sinh thiêu rụi chõng luận, suy
Gió
chẳng trụ thổi tung sàn xuất, nhập
Tâm
phân biệt sinh muôn vàn kiến chấp
Trí
dở, hay toan lấy giả làm chân
Thuyền
từ qua bể khổ cũng không hơn
Phương
tiện hạnh mở bày như diệu dụng.
Tay
nhân ái viết thiên Hội-Tông-Luận
Mong
dung hòa nghịch, thuận- trí thế gian.
Cùng
đồng qui Trung- quán với Du-già
Về
nhất tướng- vẫn không ngoài Vô-Tướng.(63)
Chú thích
(1)
Lạc-Dương : kinh đô nước Trung Hoa đời Hán.
(2)
Huyễn dã : cánh đồng hư huyễn của sinh tử như mộng.
(3)
Đại Từ Ân : Chùa Đại Từ Ân, năm Trinh Quán thứ 22, đời
vua Đường thái Tông. Hoàng thái tử Trị dựng chùa cho mẹ
là Văn Đức Hoàng Hậu. Ngài Huyền Trang đã xin vua Cao Tông
xây tháp thờ bản tiếng Phạn của kinh luận và xá lợi Phật
thỉnh từ Ấn Độ.
(4)
Nhiếp-đại-thừa luận : Do bồ tát Vô-Trước soạn.
(5)
Trường An : kinh đô nước Trung Hoa bắt đầu đời Hán, thuộc
huyện Tây An, tỉnh Thiểm Tây.
(6)
Câu xá luận : A tỳ đạt ma Câu xá luận do ngài Thế Thân
biên soạn. Ngài Huyền Trang dịch ra 30 quyển.
(7)
A-tỳ-đàm : còn gọi là A-tỳ-đạt-ma, tức Luận tạng.
(8)
Thành-Thực-Tông: Tông phái Tiểu thừa, thành lập ở Ấn Độ.
Tông nầy lấy Luận-Thành-Thực do ngài Ha-lê-bạt-ma (Harivarman)
soạn làm tông chỉ. Ngài Cưu-Ma-La-Thập đã dịch tập luận
nầy ra Hán văn vào cuối thế kỷ thứ 5.
(9)
Kỳ : tên ngựa, có thể chạy ngàn dặm.
(10)
Linh-Thứu : còn gọi là núi Kỳ- xà- quật, Linh sơn, nơi Đức
Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa.
(11)
Diệu-Cao : núi Tu Di.
(12)
Kỳ viên : vườn của thái tử Kỳ Đà, còn gọi là Kỳ-thọ
viên. Ông Cấp-Cô-Độc dát vàng trên đất đổi cho thái tử,
lấy khu vườn nầy cúng dường cho Phật làm đạo tràng.
(13)
Thiện-Tài : vị đồng tử trong kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Nhập-Pháp-Giới,
người tham vấn 53 vị thiện tri thức để cầu học bồ tát
hạnh.
(14)
Ba-Luân : Bồ tát Tát-Bà-Ba-Luân, dịch là Thường-Đề.
(15)
Bát-nhã : Trí tuệ siêu việt biết rõ thực thể của các
pháp.
(16)
Bất-nhị : lý như nhất, bình đẳng.
(17)
Bắc tông : ngài Thần-Tú. Nam tông : Đức Lục-Tổ Huệ-Năng.
(18)
Đông độ : chỉ phương đông Ấn Độ. Độ là cõi.
(19)
Ca-Diếp-Ma-Đằng : Ngài Kasyapa- mantanga, thế kỷ thứ nhất,
đến Trung Hoa vào thời vua Hán Minh Đế, dịch kinh Tứ Thập
Nhị Chương.
(20)
Cưu-Ma-La-Thập : ngài Kumara-Jiva, thế kỷ thứ 4.
(21)
Pháp-Hộ : cao tăng Ấn Độ, đến Trung quốc năm 266,
dịch 175 quyển kinh sang Hán văn.
(22)
Vô trụ xứ : Pháp không tự tính, không sinh, không diệt, theo
duyên mà dấy lên.
(23)
Cúc-Đa : tên vị tăng Mokshagupta dịch là Mộc-Xoa-Cúc-Đa.
(24)
Luận Du-Già : Du-Già-Sư-Địa-Luận, bộ yếu chỉ của
học phái Du-già, tục truyền do Bồ tát Di-Lạc giáng thần
xuống chùa A-du-đà dạy cho Bồ tát Vô-Trước ghi chép lại
vào thế kỷ thứ 5.
(25)
Tì-bà-sa luận : Vibhasa, có nghĩa là Quảng thuyết, giảng về
Pháp tướng của Nhất-thiết-hữu bộ, gồm có 4 bộ.
(26)
Ý-Thanh : ngài Mano-jnaghosa
(27)
Huệ-Tánh : ngài Prajnakara
(28)
Nhất-Thiết-Hữu : Tát-bà-đa, một tông tiểu thừa.
(29)
Nagara : xứ Nagarahara, nơi Đức Phật Thích-Ca khi còn là Bồ
tát đã trải áo và tóc trên đường đất bùn lầy, ước
nguyện được Đức Phật Nhiên-Đăng bước qua.
(30)
A-Dục Vương : tên vua A-Cu-Da, dịch là Vô-Ưu.
(31)
Đăng-quang-thành : Dipankara, có hang lưu ảnh.
(32)
Tăng-Xứng : ngài Sanghakirti ở thành Bhalluka, lúc nầy đã 70
tuổi.
(33)
Vô-Trước : vị tổ của Pháp Tướng tông, người soạn Du-già-sư-địa-luận.
(34)
Thế-Thân : sinh 900 năm sau khi Phật nhập diệt, viết
1000 bộ luận.
(35)
Trung luận : Trung-quán luận do bồ tát Long-Thọ soạn.
(36)
Bách môn : bách luận, gồm khoảng 100 bài kệ do Đề-Bà bồ
tát soạn, Thế-Thân bồ tát chú giải, Cưu-Ma-La-Thập bồ
tát dịch ra Hán văn.
(37)
Quảng Bách : bộ luận doThánh Thiên Bồ tát soạn, ngài Huyền
Trang dịch ra Hán văn.
(38)
Điều-Phục-Quang : ngài Vinitaprabha, người đã soạn hai bộ
chú giải về Ngũ-Uẩn luận và Duy-thức-tam-thập-tụng.
(39)
Đối pháp luận : A tì đạt ma luận.
(40)
Lý môn luận : tên gọi tắt của Nhân-minh-chính-lý-môn-luận,
là một trong ngũ minh, thuộc khoa học lý luận. Bồ Tát Trần-Na
soạn.
(41)
Duy-Thức : tất cả các pháp do Thức sinh.
(42)
Kinh-Bộ : Kinh-lượng-bộ, là một trong 18 bộ của Tiểu thừa. Bốn trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt được tách rời
từ Nhất-thiết-hữu bộ, lấy kinh làm chính. Người sáng
lập là Kumara-ladha, dịch là Cưu-ma-la-đà.
(43)
Phát-trí-luận : A-tì-đạt-ma-phát-trí-luận, 300 năm sau khi
Đức Phật nhập diệt, ngài Già-đa-diẽn-ni-tử soạn, 20 quyển.
Ngài Huyền-Trang dịch ra Hán văn.
(44)
Khúc-nữ-thành : đất Kanyakubja.
(45)
Nhật-Trụ : ngài Suryavarman
(46)
Xá-vệ : Sravasti, vua Ba-Tư-Nặc ở thành nầy.
(47)
Ca-tỳ-la : Ca-tỳ-la-vệ, kinh đô của dòng Thích-Ca, vua Tịnh-Phạn
trị vì. Đức Phật có lần cầm bát khất thực ở thành
nầy khi về thăm hoàng tộc.
(48)
Sa-la : rừng cây Ta-la long thọ. Loại cây nầy có hai thân song
song. Kinh Niết Bàn nói rằng khi Đức Phật nhập diệt nơi
rừng nầy, thân cây hóa ra đôi chim hạc nên còn gọi là cây
Hạc.
(49) Câu-thi-na : nơi Phật nhập diệt.
(50)
Phệ-xá-li : tên đất Vaisaki.
(51)
Duy-Ma-Cật : ngài Vimala-kirti, dịch là Tịnh-Danh.
(52)
A-Nan xin sữa : kinh Duy-Ma-Cật, phẩm Thanh-Văn.
(53)
kinh Duy-Ma-Cật, phẩm Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh.
(54)
Kinh Duy-Ma-Cật : Ngài Văn-Thù- Sư-Lợi hỏi ngài Duy-Ma-Cật
: ‘những gì là bất nhị pháp môn?’. Ngài Duy-Ma-Cật
im lặng không đáp. Ngài Văn-Thù nói: ‘Hay thay !. Không ngôn
tự, văn thuyết, đó thật là bất-nhị pháp môn’.
(55)
Ma-kiệt-đà : tên một nước ở Trung Ấn, có thành Vương
Xá
(56)
Na-lan-đà : ngôi chùa lớn ở nước Ma-kiệt-đà, các vua đời
sau tu sửa trở thành một ngôi tinh xá lớn nhất Thiên-Trúc.
(57)
Giới-Hiền : ngài Silabhadra, trụ trì chùa Na-lan-đà.
(58)
Cung trời Đâu-Suất là trú xứ của Bồ-tát Di-Lạc. Theo truyền
thuyết, bồ-tát có thời kỳ thị hiện ứng thân ở huyện
Thuận-Hóa (Trung-quốc) mà người đời gọi là Bố-Đại hòa
thượng vì ngài thường hay mang chiếc bao bằng vải lớn trên
vai.
(59)
một người thuộc nhóm Lokayatika, dịch là Thuận-Thế, dán
trước cửa tinh xá Na-lan-đà một mảnh giấy viết 40 quan
điểm của phái nầy; đồng thời thách thức bất cứ ai có
thể bác được lập luận nêu trên. Sau nhiều ngày không ai
lên tiếng, Ngài Huyền-Trang cho người ra xé mảnh giấy ném
xuống đất.
(60)
vô-sở-đắc : trí tuệ thể hội được vô tướng, không
còn gì để chấp giữ, phân biệt.
(61)
Không trong phi không là Chân-không.
(62)
Hữu trong phi hữu là Diệu-hữu.
(63)
Vô-Tướng : ‘Nhất pháp tức là vô tướng’ ( kinh Vô-Lượng-Nghĩa).
Trần-Huyền-Trang
Trần-Huyền-Trang
người Lạc Châu, tỉnh Hà Nam, sinh năm Khai Hoàng thứ 20 đời
vua Tùy Văn Đế, tức năm 600.
Sau
chuyến tham bái và cầu pháp ở đất Thiên Trúc, ngài để
lại cho hậu thế một sự nghiệp vĩ đại qua 20 năm phiên
dịch kinh điển, gồm có 76 bộ kinh, 1349 quyển. Ngoài những
bộ kinh luận quan trọng về Duy Thức và Trung Quán, ngài đã
hoàn tất bộ ‘ Đại Bát Nhã Ba La Mật ’ gồm 600 quyển
trong những ngày gần cuối đời.
Năm
664 viên tịch tại cung Ngọc Hoa, thọ 65 tuổi. Vua Đường
Cao Tông bãi triều 3 ngày làm lễ quốc táng.
Xem Thêm: Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh, Võ Đình Cường