Ba năm trước, tôi được gọi về quê vì mẹ chúng tôi bệnh nặng. Mẹ đã bị tai biến hơn một năm và mẹ không muốn làm khổ con cháu phải hằng ngày lo túc trực săn sóc mình. Một hôm mẹ đã cố ý uống thuốc quá liều khi không có người thân bên cạnh. Nhưng có linh cảm không lành, em trai tôi đã trở về nhà đứng lúc để đưa mẹ đi bệnh viện. Sau khi xổ thuốc, mẹ bị biến chứng sưng phổi (do than bột – thuốc xổ trào lên) nên phải điều trị lâu dài trong bệnh viện. Có giai đoạn mẹ bị hôn mê khá sâu, và các bác sĩ cũng không biết mẹ có thể tỉnh lại và hồi phục được hay không. Chúng tôi, những đứa con trai và con gái của mẹ thay phiên nhau ngồi bên giường bệnh ngày qua ngày túc trực. Sau ba tuần như vậy, các chị tôi bắt đầu thì thầm với nhau có nên yêu cầu bệnh viện rút các ống thở và truyền thức ăn để mẹ được ra đi nhẹ nhàng thanh thản hay không? Mẹ vẫn không có biểu hiện gì để trở về với sự sống, những bệnh nhân quanh đó lần lượt ra đi. Hầu hết họ đều là những người già trên tám mươi tuổi như mẹ chúng tôi vậy. Tuy nhiên thỉnh thỏang cũng có những bệnh nhân còn rất trẻ ra đi một các oan ức với tiếng khóc than đau đớn của cha mẹ hay anh em họ. Đó là dịp để tôi quán về cái khổ của bệnh và chết một cách thấu đáo nhất.
Vào tuần thứ ba mẹ tôi ở trong tình trạng hôn mê, vấn đề để mẹ ra đi hay giữ mẹ ở lại thế gian này với thân xác bệnh tật không còn làm chủ được các hành động của mình trở nên một vấn đề lớn đối với chúng tôi. Một số thành viên trong gia đình muốn làm tất cả những gì trong khả năng của mình để mẹ được sống lâu hơn, một số khác chỉ muốn sự can thiệp nhẹ nhàng của bác sĩ, đó chỉ là rút các ống trợ giúp trên người mẹ để mẹ được ra đi... Khi sự việc như vậy, mọi người hướng về tôi (một người tu) để đem ra quyết định cuối cùng trong vấn đề này. Tôi cũng thực sự bối rối... vì mẹ là người tôi thương nhất trên đời, dù đã ngoài bốn mươi tuổi, tôi vẫn muốn có mẹ trên đời!
Tôi ngồi xuống bên mẹ, nắm tay mẹ như bao ngày qua trong bệnh viện, thầm thì đọc bài kinh tâm từ (Karaniya sutta) bằng Phạn ngữ và Việt ngữ. Tôi yêu cầu các anh chị em tôi cùng lắng nghe và trải lòng từ đến mẹ. Chúng tôi cùng ôn lại những kỷ niệm đẹp về mẹ. Riêng tôi, hầu hết các kỷ niệm về mẹ đều đẹp và cảm động.... Chúng tôi làm như vậy được ba ngày thì mẹ đột nhiên tỉnh dậy, vã mồ hôi như tắm, nhưng gương mặt hồng hào, sáng tỏa. Mẹ nhận ra tất cả mọi người xung quanh, chúng tôi mừng vui khôn xiết. Sau mấy tuần nữa điều trị trong bệnh viện, mẹ đã được xuất viện. Trong số những người con muốn được chăm sóc phần đời còn lại của mẹ, chúng tôi đã quyết định anh trai thứ, người có thời gian, điều kiện và sự ân cần nhẫn nại nhiều nhất để làm người chăm sóc mẹ.
Khi tôi chia sẻ câu chuyện về mẹ tôi cho một số bạn đạo, có nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này. Một số nói rằng khi một người đã muốn kết thúc cuộc đời (sau tai nạn hay bệnh nan y) vì không muốn trở thành gánh nặng cho người thân, chúng ta phải tôn trọng quyết định của người đó, không nên đem họ đến bệnh viện và nhờ sự can thiệp của nền y học hiện đại để kéo dài sự sống ngoài ý muốn của họ. Thậm chí có lúc người ta còn nói rằng lòng từ bi của chúng tôi chỉ làm cho cuộc đời rắc rối hơn, trở thành ghành nặng cho người khác, vv. Qua kinh nghiệm thực tế này, tôi nhận ra người ta hiểu và thực hành lòng từ bi theo những cách khác nhau, có khi là đối nghịch nhau, và thậm chí có thể đem đến xung đột về quan kiến và phương thức hành động. “Vấn đề là có quá ít sự đồng thuận về việc phải làm sao để thể hiện lòng từ bi bằng hành động trong những bối cảnh đặc biệt giữa cuộc đời đa đoan bề bộn.
Nếu bạn có bạn bè hay người thân trong gia đình đang ở trong tình trạng bệnh tật hay sắp từ giã cõi đời, tất nhiên không ai khuyên bạn phải cư xử với trái tim cứng rắn. Mọi người đều sẽ khuyên bạn hãy cư xử với khả năng từ bi và nhân hậu nhất mà bạn có thể. Với một số người, lòng từ bi là hãy giữ sự sống còn càng lâu càng tốt; với một số người khác, lòng từ bi là hãy chấm dứt sự sống khi nó đã trở nên quá đau đớn, khổ sở, và có vẻ như tàn nhẫn với người bệnh nếu để họ sống tiếp trong tình trạng như vậy. Và không ai trong nhóm người này thấy rằng người thuộc nhóm kia là từ bi, hay thực sự hiểu đúng về lòng từ. Nhóm thứ nhất nhìn nhóm thứ hai như tội phạm (vì họ khuyến khích tự tử và cố ý cho cái chết không đau đớn), nhóm thứ hai thấy nhóm trước như những người không có trái tim, và thậm chí độc ác để cho sự sống tiếp diễn như vậy.
Đối với những ai phải cố gắng làm việc thỏa thuận giữa hai ranh giới khó xử này của các ý kiến trái ngược nhau về lòng từ bi trong lựa chọn hành động giữa sống và chết, quả thật không có nhiều nguồn hướng dẫn đáng tin cậy.” Thời đó tôi đã ngồi tĩnh tâm lắng nghe tiếng nói tâm linh từ bên trong mình, cũng như lắng nghe những ý kiến khác nhau của người thân và lời khuyên của những bậc thầy trong đạo. Và tôi đã lựa chọn hành động theo tiếng nói cảm xúc sâu lắng nhất từ bên trong.
“Nền văn hóa của chúng ta không thích nghĩ về bệnh tật và cái chết, và kết quả là, khi phải đối diện với ai đó đang bệnh nặng hay sắp chết, chúng ta cảm thấy chới với và không biết phải làm gì. Một số người sẽ đơn giản là khuyên bạn nên làm những gì cảm thấy đúng, thích hợp cho lúc đó, nhưng cảm xúc cũng rất trơn trượt, không phải là cái mà lúc nào cũng có thể đáng tin cậy hoàn toàn được. Điều gì đó cảm thấy đúng nhiều khi chỉ vì nó làm bạn có cảm xúc tốt, không kể đến nó có thực sự đúng với người khác hay không. Mong mỏi kéo dài sự sống có thể chỉ là mặt nạ che đậy sự sợ chết của chính người đó; mong muốn kết thúc sự sống đau đớn có thể chỉ là lý trí hóa sự bức xúc của bạn khi phải chứng kiến khổ đau (của người thân). Ngay cả khi bạn được khuyên từ một nguồn có chánh niệm hiện hữu, bạn vẫn thấy rằng cái có vẻ là những nguồn cảm hứng tự nhiên nhưng thực ra chúng chỉ là những giả định chưa được kiểm nghiệm về đời sống và cái chết đã được điều kiện hóa.
Điều này nói lên tại sao nững lời khuyên nhủ đơn giản là hãy từ bi và chánh niệm hiện diện trong khi ai đó đang bệnh nặng hay đang trải qua tiến trình chết là không đủ. Chúng ta cần được giúp đỡ trong việc giáo dục lòng từ bi: lời khuyên đặc biệt về việc hãy suy tư sâu xa về những ám chỉ của hành động chúng ta làm khi đối diện với vấn đề sống chết; và những ví dụ đặc trưng về việc trong quá khứ, những người tiền nhiệm đã hành động như thế nào về vấn đề này.
(Adapted from an article of Ven Thanissara, đọan đầu la kinh nghiệm riêng của người viết)