TÁI SINH VÀ LUÂN HỒI
THEO QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO
Phỏng vấn PGS. TS. Hà Vĩnh Tân
Hỏi 1: PGS.TS lý giải như thế nào về những trường hợp trong thực tế như "cháu bé ở Vụ Bản"; đấy có phải là tái sinh luân hồi hay không?
Trả lời: Câu chuyện cháu bé ở Vụ Bản theo
những người trong cuộc đã được nhiều người đưa lên
phương tiện truyền thông. Đây là một
vấn đề thuộc lĩnh vực
nghiên cứu tâm linh khá
thú vị cần được
nghiên cứu nghiêm túc mới có thể
kết luận được.
Ta biết
rằng,
con người là thể tổng hòa của
hai mặt vật chất và
tinh thần và
loài người có hai
đời sống là
vật chất và
tinh thần đang quện hòa nhau tương hỗ
với nhau.
Phần
tinh thần của
con người, còn gọi là phần
tâm linh, lại
bao gồm trí tuệ và
cảm xúc tâm hồn. Câu hỏi “sau
khi phần thể xác của
con người dừng
hoạt động, thì phần
tâm linh có còn
tồn tại không? Và nếu
tâm linh vẫn còn
tồn tại thì ở mức độ nào và sự
vận động của nó ra sao?” thuộc vào
vấn đề khó nhất đối với
trí tuệ loài người.
Cho tới nay khoa học chưa có câu
trả lời rõ ràng cho
vấn đề này!
Khoa
học và công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt trong việc
hiểu biết phần thể xác của
con người và
áp dụng kiến thức đó một cách
rộng rãi vào
đời sống vật chất của
con người. Khoa học với ngành máy tính điện tử,
truyền thông và
trí tuệ nhân tạo cũng đang giúp ta mở dần một cánh cửa vào việc
nhận biết và hiểu sâu hơn
bản chất đời sống trí tuệ và
tư duy của
con người.
Tuy nhiên,
đời sống tâm linh là
vô cùng phong phú, và là một
thực tại có
bản chất huyền bí, vô hình, nên việc
áp dụng khoa học kỹ thuật vào
nghiên cứu các
hiện tượng của
đời sống tâm linh nói chung lại còn rất
hạn chế, hiện mới chỉ dừng lại việc
ghi nhận và thống kê các “hiện tượng tâm linh”.
Khoa học vẫn chưa thể giúp ta “quan
sát Tâm linh” một cách trực tiếp và chưa thể
giải thích rạch ròi lĩnh vực này.
Các
tôn giáo từ lâu đã
quan tâm đến
đời sống tâm linh
của
loài người, họ đều có triết lý và
quan điểm riêng về các
vấn đề đạo
đức,
tình thương giữa
con người, cũng như về sự
tồn tại của một phần
tâm linh sau khi thể xác
con người không còn hoạt đông.
Phật giáo, một
tôn giáo có nền triết lý cởi mở và gần với khoa học nhất, trong hơn hai ngàn năm trăm năm nay cũng đã có
nhận thức sâu sắc và khá
rõ ràng về
vấn đề tái sinh và
luân hồi của
tâm linh sau khi thể
xác chết.
Đối với một
hiện tượng hay
câu chuyện tâm linh cụ thể như câu hỏi về “cậu bé ở Vụ Bản Nam Định” nêu ở đây, tôi cho rằng,
hiện tượng hay
câu chuyện tâm linh chỉ là “bằng chứng hiển nhiên” có sức
thuyết phục với ai đã được
tiếp xúc và thấy biết trực tiếp nó.
Là “những người trong cuộc”, họ thường nói: “tôi đã được mắt thấy tai nghe
rõ ràng nên không
thể không tin vào việc đó!”.
Ngược
lại, với những người ngoài cuộc chỉ được nghe kể lại, thì thường rất khó mà tin ngay vào những chuyện hiếm khi xảy ra như vậy, việc tin hay không tin chủ yếu
phụ thuộc vào
kinh nghiệm và
lập luận của riêng mình.
Quan điểm của tôi, như một người mới chỉ được đọc và nghe
gián tiếp, là: “nếu
câu chuyện đã được nhân chứng kể lại “là sự thật” (tôi xin
nhấn mạnh, “nếu đó là sự thật”), thì đây chính là một bằng chứng về “sự
Tái sinh luân hồi của một con nguời” được trình bày trong
giáo lý của nhà Phật.
Còn “việc đó có phải là
sự thật hay không?” xin dành lại cho các nhà khoa học
trả lời sau khi nhập cuộc đầy đủ và thực sự nghiêm túc.
Tôi
tin rằng, chỉ khi hiểu sâu sắc các
kinh nghiệm và
kiến thức cũng như biết cách
áp dụng đúng đắn, hài hòa các
phương pháp của Khoa học và
Phật
học, các nhà
nghiên cứu tâm linh mới có thể
thâm nhập vào lĩnh vực
tinh
tế và nhậy cảm này.
Chỉ khi đó
chúng ta mới có được những câu
trả lời có sức
thuyết phục về các
vấn đề Tâm linh.
Hỏi 2: Vậy tái sinh được hiểu theo nhà Phật thì như thế nào? Trong thực tế điều này đã được công nhận chưa?
Trả lời :
Vấn đề về
con người và sự
tái sinh luân hồi là một
chủ đề cốt yếu của nhà Phật, được trình bày trong
toàn bộ giáo lý của nhà Phật và
đặc biệt trong “Duy thức học” – một “bộ môn khoa học” trong
Phật học. Tôi chỉ xin trình bày
vắn tắt như sau:
Con người có “thân mạng” được cấu thành và phối
kết hợp bởi năm nhóm, mà
Phật giáo gọi là “ngũ uẩn” (hay năm
kết tập)
vật chất và
tinh thần, gồm:
Sắc uẩn (xác thân),
Thọ uẩn (thọ cảm ưa chịu),
Tưởng uẩn (
tư tưởng hay tưởng tượng),
Hành uẩn (
hành vi tức
việc làm) và
Thức uẩn (thức
trí phân biệt).
Trong đó,
Sắc uẩn là phần “vật chất”, và bốn uẩn kia thuộc về phần
tinh thần. Năm nhóm này
biến đổi từng phút giây như một dòng nước.
Khi
mệnh chung, thân xác mất đi, những nhóm đó tan rã, nhưng kết quả của những hành động về thân, khẩu , ý vẫn còn
tác động. Cái “còn tác động” sau đó ta gọi là “nghiệp lực”.
Sắc uẩn ám chỉ xác thân, có
hình thức khối lượng,
biến đổi theo
thời gian, và sờ thấy được, nên nó
cụ thể.
Còn
thọ uẩn,
tưởng uẩn,
hành uẩn, và
thức uẩn thì biến hiện,
trừu tượng, vô hình như trường điện từ. Bốn uẩn này phải nương vào
sắc uẩn (xác thân còn
sinh hoạt) mới hiển lộng ra được. Khi
hoạt động, bốn uẩn (hay danh pháp) ấy lại hiển lộng ra
hai mặt, là mặt nổi và mặt chìm:
- Mặt nổi gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn.
- Mặt chìm tuy chỉ có một mình thức uẩn (thuộc tinh thần) hoạt động, nhưng nó lại rất nhậy bén, đa diện và phong phú.
Theo
Duy thức học trong
Phật giáo, thì vì
thức uẩn rất
phức tạp, có thể
hình dung như nó gồm ba vòng ẩn hoạt, huyền bí
vô cùng, là vòng ngoài, vòng giữa, và vòng trong.
Ví như chiều sâu của
đại dương gồm thượng tầng, trung tầng, và đáy biển.
Vòng ngoài của
thức uẩn
tương ứng với thượng tầng của
đại dương (kể cả mặt nước), nơi hứng chịu
mọi vật, và
áp lực của gió bão. Vòng ngoài này hướng ra
ngoại cảnh qua năm
giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) chịu tất cả
ảnh hưởng của
ngoại cảnh,
đồng thời liên kết với vòng trong cùng qua vòng giữa. Vòng ngoài ấy (gồm năm thức đầu) ta tạm gọi là vòng
nhận thức.
Vòng giữa của
thức uẩn
tương ứng với trung tầng của
đại dương, gắn với
tư duy, có
tác dụng phân biệt trước một đối tượng, để
phản ứng ra ngoài hay nhận vào bên trong, cũng như trung tầng của
đại dương có
tác dụng đẩy bất cứ một vật thể gì
lên mặt nước, hay
nhận chìm vật ấy xuống đáy biển. Vòng giữa này (là thức thứ sáu) có thể gọi là vòng
tri thức.
Vòng trong cùng của
thức uẩn
tương ứng với đáy biển, có đặc tánh
tự nhiên là yên lặng thống kê
mọi vật. Cũng như đáy biển là kho chứa tất cả những gì chìm xuống đó và giữ nguyên vị, không dời chỗ. Vòng trong cùng, hay
trung tâm của
thức uẩn này, được gọi là vòng Linh thức.
Vòng Linh thức này
gồm có hai phần: Phần động (hiển lộng) gọi là Mạt-Na, quen gọi là “hồn”, và phần tĩnh (
an nhiên) gọi là A-Lại-Da, thường gọi là “phách”.
Đó
là hai thức lực tiềm lặng ‘nằm’ vừa trong vừa ngoài
trí não con người. Hai loại siêu năng này
biểu lộ được là do
động lực cảm ứng của dòng nhân
điện
lưu chuyển trong não và
thân thể.
Hồn lực Mạt-Na (còn gọi là thức thứ bảy) chủ trì các sự
hiếu động và
hành vi con người. Nó
tượng trưng cho “tự ngã” (tức là cái ta), nắm giữ
toàn diện cá thể nhân sinh. Phách lực A-Lại-Da (hay
tàng thức – thức thứ tám) ẩn sâu trong tâm khảm, nên rất tiềm tàng, vốn tĩnh lặng.
Cái “kho” A-Lại-Da
cất giữ không những tất cả
hiểu biết và
kinh nghiệm của riêng ta trong
hiện tại, mà nó còn tồn trữ
toàn thể thông tin về
pháp hành từ
vô thủy quá khứ, đến
mãi mãi muôn
kiếp luân hồi trong tương lai.
Phách lực hay
tàng thức A-Lại-Da
tượng trưng cho “đại ngã”,
làm
tiêu biểu cho “bản thể vũ trụ”. Nó là “gạch nối” giữa
tiềm thức với
cõi
vô cùng, và là “pháp thân” của mọi
sinh linh khi chưa chuyển động.
Phách lực A-Lại-Da, đôi khi còn được gọi là
Thần Thức.
Thần thức này cũng là “chân ngã” hay “tịnh ngã”, tứclà cái “ta thật” của mỗi
chúng ta, theo
Phật học, có khả năng thay đổi:
tiến hóa hay thối
hóa là do
ba nghiệp (ý, khẩu, thân) mà
chúng ta tạo trong
quá khứ và hiện tại….
Hay nói cách khác,
Thần thức con người sau khi
lâm chung được
nghiệp lực dẫn
đi theo các nẻo đường
luân hồi ở các cõi
tâm linh như địa nguc,
súc sinh,
ngã quỷ, bán thần (Atula), người hay thiên thần…Trong
trường hợp tái sinh lại
kiếp người, thì
nghiệp lực dẫn thấn thức nhập vào hợp thể tinh cha cộng trứng mẹ mà tạo nên
bào thai con người.
Cần nói thêm rằng, có hai
quan niệm thông thường trái ngược về
vấn đề tái sinh luân hồi mà theo
Phật giáo đều không đúng:
1/
Con người sau khi chết là hết, cả
linh hồn và thể xác mất hẳn;
2/
Linh hồn là
bất tử.
Chân lý vô thường của
vạn vật là: mọi sự vật,
hiện tượng đều
biến đổi không ngừng, Còn có
bản thể hay
bản tính của
vũ trụ mới là
bất biến,
thường hằng mà thôi!
Theo
Phật giáo,
Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, bằng
công trình thiền quán vĩ đại 49 ngày, đã chỉ rõ: “tất cả
mọi người đều có sẵn
hạt giống của
trí tuệ giác ngộ trong lòng”.
Phật gọi
hạt giống của
trí tuệ giác ngộ là “Chân như giác tính”
hay nói tắt là
Giác tính.
Duy thức học cho rằng
Giác tính nằm sâu trong
tàng thức A-Lại-Da, lại bị mê mờ, người thường khó
nhận biết được. Đây cũng chính là
Huệ mạng của
con người, gọi là nằm sâu trong “thân mạng” (gồm “ngũ uẩn giai không”) nhưng lại bao
trùm khắp vũ trụ - “pháp giới”.
“Huệ mạng” là phần
tinh túy nhất, còn được gọi hay “Phật tính”, giống như trong khoa học, người ta gọi bản
tuần hoàn của các
nguyên tố hóa học là bản
tuần hoàn Meldeleev vậy.
“Huệ mạng”
này ai ai cũng có,
gắn liền với bản thể và
bản tính của
vũ trụ,
vì vậy mà
tồn tại vĩnh hằng. Chỉ những
con người giác ngộ hoàn toàn như
Phật tổ
Như Lai là bậc “Vô thượng Chính đẳng Chính giác” mới
nhận biết đầy đủ được
huệ mạng này.
Cõi này của
Tâm linh nhà Phật gọi là “Vô Dư Niết Bàn”. Nhà Phật
phân biệt cõi “Vô Dư Niết Bàn” này với “cõi “Hữu Dư Niết Bàn”, thường được gọi là “cõi Vĩnh hằng” hay “Niết bàn”, nơi mà
Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh tới, sau khi
lâm chung...
Trình bày về một
luận thuyết rộng lớn và
tinh tế của
Phật giáo về sự
tái sinh luân hồi một cách
vắn tắt như trên, bằng
ngôn ngữ phổ thông dùng ít các
thuật ngữ chuyên môn, là điều khó; cộng với cái thấy hiểu còn
hạn chế của mình, nên không khỏi có phần sai và thiếu, mong các bạn tìm đọc thêm bài giảng của các bậc
thiền sư chân tu hoặc các nhà khoa học
nghiên cứu tâm linh trong và ngoài nước để
hiểu rõ và đúng hơn về
vấn đề mang
ý nghĩa nhân sinh quan trọng này.
Đây cũng là
vấn đề thuộc loại
hóc búa nhất đối với Khoa học.
Ta
biết, Khoa học cũng còn chưa
tìm ra cách ghi đọc và giải mã
ngay lập tức ý nghĩ của
con người. Có thể nói, việc
chứng minh rõ ràng được sự
tồn tại và
vận hành của phách lực A-Lại-Da hay sự
luân hồi của
Thần thức là một bài toán còn khó hơn nữa mà
Phật học đặt ra trước Khoa học.
Tuy
nhiên, khoa học cũng không chịu lùi bước và hiện đang có những bước tiến lớn trong việc
nghiên cứu một dạng thông tin mới với những
hiện tượng siêu việt và công nghệ
siêu việt của tương lai:
Lý thuyết Thông tin Lượng tử với
hiện tượng Thông tải Lượng tử
(Quantum Information & Quantum Telepotation) để
ứng dụng phát triển
công nghệ
Truyền thông Lượng tử & Máy tính Lượng tử (Quantum communicationm & Quatum Computer).
Tôi có
niềm tin rằng,
Lý thuyết Thông tin Lượng tử
cùng những
tiến bộ trong các ngành khoa học khác như máy tính điện tử,
truyền thông, y sinh học phân tử,
trí tuệ nhân tạo …
nhất định sẽ giúp
chúng ta giải được bài toán lớn về sự
tồn tại và
vận hành của phách lực A-Lại-Da,
thiết lập hoàn toàn được cầu nối giữa hai
con đường Khoa học và
Đạo học
chân thực, dẫn
loài người tới
mục đích cao quý là sự
giác ngộ Chân lý vũ trụ, giúp
chúng ta có được
An lạc và
Hạnh phúc ngay tại
cuộc đời này.
Xin
giới thiệu hai cuốn sách để
độc giả tham khảo:
1- “Thuyết
Luân Hồi và
Phật Giáo Tây Phương”
(Rebirth and the Western Buddhist),
Tác giả: Tiến sỹ
vật lý Martin Willson, dịch giả
đại đức Thích
Nguyên Tạng, 2006. http://www.quangduc.com/Taisanh/18luanhoi.html
2- “Sự sống sau cái chết…”,
Tác giả: Deepak Chopra, The New York Times Bestseller, Nhã Nam - Nhà xuất bản
Văn Hóa Sài Gòn¸ 2009.
(Nguồn: Phattuvietnam.net)