Vào tháng 10,
mùa đông, nhằm tiết
đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng:
"Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
Một lần khác,
“Mùa hạ, tháng 4, vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: ‘Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm’." (1)
Ở nơi chốn
an ổn,
ấm cúng mà chợt
chạnh lòng nghĩ đến người đói rét trong ngục thất; cùng con gái
chứng kiến việc xử kiện mà
động lòng thương tưởng
tội nhân.
Cả hai
trường hợp trên, được ghi
vắn tắt trong Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư theo lối biên niên (2), đều
liên quan đến tội nhân, tù nhân.
Xem ra, sử chỉ ghi sự
quan tâm của nhà vua đối với
tội nhân, tù nhân; nhưng nên hiểu lòng vua đối với dân cũng như thế. Nghĩa là vua cũng đặt lòng thương của mình đối với dân như
cha mẹ đối với con cái, như
quan niệm “dân chi phụ mẫu” (
cha mẹ của dân) (3) được nói đến trong
Kinh Thi (4).
Quan niệm vua/quan là
cha mẹ của dân, ngay từ thời
Mạnh Tử (372 – 289 trước Tây lịch), đã đổi khác, với chủ trương “
dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.” (5)
Thực ra,
triết học chính trị và
lãnh đạo Tây phương và
Đông phương từ ngàn xưa đã xem dân là chủ nhân ông của đất nước; vua/quan là công bộc của dân (servant of the people).
Lãnh đạo có mặt để
phục vụ quần chúng chứ không phải để được
quần chúng phục vụ. Dù vậy,
tư tưởng “
dân chủ” nầy,
trớ trêu thay, dường như chỉ mới được đón nhận về mặt
lý thuyết (và khẩu hiệu) tại
Việt Nam trễ tràng vào thế kỷ 19, 20.
Thực tế cho thấy, quan chức thời nay, dưới chế độ độc đảng luôn miệng lên án sự bất minh và
độc tài của các chế độ vua chúa
thời xưa, đã
công khai tự nhận mình là “
cha mẹ của dân,” theo cái nghĩa là có quyền đè đầu cưỡi cổ người dân,
định đoạt mọi thứ cho
đời sống của
nhân dân. Người dân
Việt Nam cho đến thời đại văn minh tân tiến ngày nay—thời đại mà các
tiêu đề “
tự do, dân chủ” luôn được
rêu rao nhắc đến trên từng bảng hiệu và giấy tờ hành chánh—vẫn chưa từng được
quý trọng,
thương yêu bởi những người “
công bộc” hay “
đầy tớ.” Theo cách ấy, quan chức
lãnh đạo ngày nay làm
cha mẹ thì là
cha mẹ vô tâm, thiếu
trách nhiệm với con cái; còn làm đầy tớ thì cũng là đầy tớ phản phúc,
vô luân.
Làm thế nào mà một vị vua được cả nước tôn quý, đứng trên
thiên hạ, ở nơi cung vàng điện ngọc mà vẫn
xót thương, tưởng nghĩ đến tù nhân và dân đen? Có khi nào những người
lãnh đạo ngày nay dành một phút nhìn thẳng vào thực trạng
thống khổ của
nhân dân, thay vì chỉ lo
tìm cách trấn áp,
bỏ tù người dân có
ý kiến trái ngược với mình? Có thể nào
lãnh đạo ngày nay dừng lại một phút, bớt nói bớt
luận bàn, bớt tìm kế sách
bảo vệ đảng phái và ngôi vị của mình, để lắng nghe tiếng nói
trung thực và tiếng kêu
đau thương của người dân?
Vua Lý Thánh Tông
sở dĩ có tiếng là vị vua
nhân đức,
thành công trong việc
trị quốc an dân, là nhờ lòng thương
chân thành đối với con cái, cũng như đối với con dân (6). Lòng thương không hề là điểm yếu của một chế độ, một chính thể. Lòng thương không làm nhu nhược,
yếu hèn đi
dũng khí của
trượng phu; ngược lại, có thể làm chất liệu
hàn gắn những vụn vỡ, phân ly, tạo
sức mạnh hòa hợp, đoàn kết trong toàn dân. Bằng chứng là trong
thời gian 18 năm tại vị, ông vua
nhân từ Lý Thánh Tông đã đánh Tống, bình Chiêm, với những chiến công lẫy lừng khiến quân Tống không còn dám
xâm lấn Đại Việt, và vua Chiêm phải
đầu hàng,
triều cống cả ba Châu (Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính – ngày nay là một số các huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị).
Chuyện người xưa làm, không khó:
cha mẹ thì phải ra
cha mẹ, công bộc thì phải ra công bộc. Thương dân như con đẻ thì phải làm tất cả cho dân, vì dân; chứ không phải chỉ thương nơi cửa miệng hay khẩu hiệu. Đối với
gia đình,
cha mẹ ngoài
trách nhiệm chăm sóc,
nuôi dưỡng, còn phải biết lắng nghe,
nhận biết sở trường,
sở đoản, cảm nghĩ,
lý tưởng và
quan niệm sống của con; và trên tất cả, phải
thương yêu con. Không có
thương yêu thì
cha mẹ không còn là
cha mẹ.
Lãnh đạo có lẽ không
cần phải học đòi chiêu thuật chính trị nào để an dân, mà chỉ cần nuôi lớn và biểu hiện lòng thương của
cha mẹ,
thành thực hướng về
muôn dân.
Cha mẹ sinh dưỡng con cái không phải để được con cái
phụng sự, mà chính là để
yêu thương, chăm sóc bằng cả lòng thương và
trách nhiệm trọn đời của mình. Không thể làm
cha mẹ của dân được thì hãy cúi mình làm công bộc, làm con cháu, tận tụy phụng
dưỡng nhân dân như chính
cha mẹ của mình.
Ý tưởng nầy không có gì mới; nhưng cũng chẳng bao giờ
lỗi thời trong việc
hộ quốc an dân, nhất là trong giai đoạn cùng khốn nguy vong của đất nước.
(5) Dân là quý nhất, thứ đến là xã tắc, sau cùng mới là vua. Mạnh Tử (372 – 289 trước Tây lịch) được xem là người kế thừa học thuyết của Khổng Tử (551 – 479 trước Tây lịch).