Quyển 2

13/05/20203:21 CH(Xem: 3809)
Quyển 2
Viện Phật Học Bồ Đề Phật Quốc
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Thích Huyền Châu biên dịch

QUYỂN 2
 

Đoạn 8: Chỉ tánh thấy không sanh không diệt

Bấy giờ, A Nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay, quên mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm. Hôm nay được khai ngộ, như đứa trẻ khát sữa bỗng gặp mẹ hiền, liền chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như lai dạy bảo; từ nơi thân tâm này, chỉ ra chỗ chân vọng hư thật, và ở nơi hiện tiền phát minh hai tính sinh diệtkhông sinh diệt.

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:

Lúc xưa chưa được đức Thế Tôn chỉ dạy, con gặp nhóm Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử, cả hai đều nói rằng thân này chết rồi thì mất hẳn và gọi đó là niết bàn. Nay con tuy được gặp Phật nhưng vẫn còn hồ nghi. Xin Phật chỉ rõ làm sao chứng biết tính không sinh diệt nơi tâm này? Hiện nay các hàng hữu lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.

Phật bảo:

–Đại vương, ngay nơi thân của đại vương đang tồn tại, Như lai xin hỏi: Nhục thân của đại vương có như kim cương bất hoại, hay cũng bị biến đổi tan rã?

–Bạch đức Thế tôn, thân con hiện nay rốt cuộc rồi cũng bị biến hoại.

Phật bảo:

Đại vương chưa hề bị diệt, làm sao biết mình sẽ biến diệt?

Bạch đức Thế tôn, thân vô thường biến hoại của con tuy chưa hề bị diệt, nhưng con thấy trước mắt, từng niệm dời đổi mãi không ngừng, như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu mất. Vì tàn hoại không dừng, nên con biết chắc thân này sẽ diệt mất.

Phật dạy:

– Đúng thế, Đại vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, dung mạo so với lúc trẻ thì như thế nào?

Bạch đức Thế tôn, lúc con còn trẻ da thịt tươi nhuận, đến khi trưởng thành huyết khí sung mãn. Giờ thì tuổi già ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần lẫn lộn, tóc bạc mặt nhăn, không sống được bao lâu nữa, so sánh sao được với lúc đang còn trẻ trung khoẻ mạnh!

Phật bảo:

Đại vương, thân thể của ông, đâu phải già liền?

Vua bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, sự biến hóa âm thầm thay đổi, con thật khó hay biết; nắng mưa thấm thoát, đến nay thân thể thế nầy. Nhưng so sánh lúc 20 tuổi, tuy gọi là trẻ nhưng mặt mày của con đã già hơn lúc 10 tuổi. Đến khi 30 tuổi lại già hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 62 tuổi nhưng so với tuổi 50 thì rõ ràng lúc 50 tuổi còn khỏe mạnh hơn nhiều. Bạch đức Thế tôn, con thấy nó âm thầm thay đổi như thế nên thân nầy đến nay đã suy yếu. Trong sự thay đổi ấy con lại chia từng đoạn 10 năm và suy xét chín chắn hơn, thì sự biến đổi ấy đâu phải chỉ từng một niên kỷ, hai niên kỷ, mà thật sự nó thay đổi trong mỗi năm. Chẳng những nó thay đổi mỗi năm mà thực ra nó thay đổi trong từng tháng. Chẳng những nó thay đổi trong từng tháng, mà thật ra nó thay đổi trong từng ngày. Chiêm nghiệm thật sâu, quán sát thật kỹ, con thấy nó thay đổi trong từng sát na, trong từng niệm không hề dừng nghỉ. Thế nên con biết thân này cuối cùng phải chịu sự biến đổihoại diệt.

Phật bảo:

Đại vương, ông thấy sự biến hóa thay đổi không ngừng nên biết thân mình hoại diệt. Vậy ngay lúc hoại diệt ấy, ông biết trong thân có yếu tố nào không bị hoại diệt hay chăng?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, con thật không biết.

Phật bảo:

– Nay Như lai sẽ chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt. Đại vương, ông thấy nước sông Hằng vào lúc ông mấy tuổi?

Vua bạch Phật:

– Lúc được ba tuổi, mẹ con dắt đi yết lễ thần Kỳ Bà Thiên, con đã đi qua sông Hằng và thấy nước sông Hằng khi ấy.

Phật bảo:

Đại vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thấy mình già hơn 10 tuổi, ngày qua tháng lại, niệm niệm đổi dời, cho đến khi 60 tuổi. Vậy khi ông thấy nước sông Hằng lúc 3 tuổi, so với thấy nước sông Hằng lúc 13 tuổi thì như thế nào?

Vua bạch Phật:

– Cái thấy ấy không khác so với lúc con 3 tuổi, và cho đến nay đã 62 tuổi, cái thấy ấy vẫn không khác.

Phật bảo:

– Nay ông tự cảm thấy mình tóc bạc mặt nhăn, da mặt ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ. Vậy cái thấy sông Hằng hiện nay của ông so với cái thấy lúc nhỏ, có già có trẻ gì không?

Vua bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, không.

Phật bảo:

Đại vương, da mặt tuy nhăn, nhưng cái thấy chưa từng bị nhăn; cái bị nhăn thì thay đổi, còn cái không bị nhăn thì không thay đổi. Cái thay đổi thì phải bị hoại diệt, còn cái không thay đổi thì vốn không sinh diệt, vậy làm sao trong ấy nó nhận chịu sự sinh tử, mà ông còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt Già Lê rằng: thân này sau khi chếthoàn toàn mất hẳn.

Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin rằng thân này sau khi chết sẽ sinh thân khác, nên vua cùng đại chúng nhảy nhót vui mừng, như được điều chưa từng có.

Đoạn 9: Chỉ rõ chỗ điên đảo

A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay quỳ xuống bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh diệt thì tại sao đức Thế tôn lại gọi chúng con bỏ quên chân tánh, làm việc điên đảo? Xin Phật mở lòng từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng con.

Khi ấy đức Phật buông cánh tay sắc vàng, năm ngón tay chỉ xuống, bảo A Nan rằng:

– Nay ông thấy cánh tay Mẫu đà la của Như lai là thuận hay nghịch?

A Nan bạch:

Chúng sinh trong thế gian cho đó là nghịch, riêng con thì không biết thế nào là thuận, thế nào là nghịch.

Phật bảo A Nan:

– Nếu người thế gian cho đó là nghịch, thì người thế gian gọi thế nào là thuận?

A Nan bạch Phật:

– Khi đức Như lai đưa cánh tay Đâu la miên lên, các ngón tay chỉ lên trên hư không thì gọi là thuận.

Đức Phật liền đưa cánh tay lên và bảo A Nan rằng:

Điên đảo là như thế, chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau mà chúng sinh trong thế gian đều nhìn thấy như vậy. Nay dùng thân ông và pháp thân thanh tịnh của chư Như lai để so sánh, qua đó biết rõ thân của Như lai gọi là chánh biến tri, còn thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Ông nên quán sát kỹ nơi thân mình và thân Phật, do từ chỗ nào mà gọi là điên đảo?

Khi ấy A Nan cùng cả đại chúng chăm chăm nhìn Phật không chớp mắt, chẳng biết thân tâm mình điên đảo chỗ nào. Đức Phật khởi lòng từ bi, thương xót A Nanđại chúng, nên phát ra lời nói với âm thanh như tiếng hải triều, dạy bảo hội chúng:

– Này các thiện nam tử! Như lai thường nói: Sắc, tâm, các duyên, các tâm sở và các pháp sở duyên, đều do tâm biến hiện. Thân, tâm các ông đều là những vật hiện ra từ trong tâm tánh. Tại sao các ông lại bỏ mất tâm tánh vốn nhiệm mầu sáng suốt ấy, mà nhận lấy sự mê trong ngộ? Vì mê muội nên có hư không. Trong hư không mê muội ấy, kết hợp với cái tối tăm thành ra có sắc; sắc xen tạp với vọng tưởng, rồi lại nhận tướng vọng tưởng làm thân. Nhóm các duyên giao động bên trong, rong ruổi theo cảnh vật bên ngoài, rồi nhận sắc tướng mờ mịt lăng xăng đó làm tâm tánh. Một khi đã lầm nhận tướng ấy làm tâm thì chắc chắn nghĩ rằng tâm ở trong thân. Chẳng biết từ sắc thân cho đến núi sông, hư không, và thế giới bên ngoài đều là những vật ở trong chân tâm. Ví như bỏ đi trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một hòn bọt nước rồi cho đó là mặt nước bao la với biển cả vô cùng. Các ông là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay Như lai rủ xuống, không có sai khác. Cho nên Như lai gọi các ông là thật đáng thương xót.

Đoạn 10: Bỏ tâm phan duyên, ngộ tánh thấy thường hằng

  1. Kiến đạo nhưng chưa dám tự nhận.

A Nan nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế tôn, tuy con đã nghe pháp âm vi diệu của Phật, ngộ được tâm vốn thanh tịnh sáng suốt, viên mãn thường trú như vậy, nhưng để hiểu rõ pháp âm của Phật vừa dạy con cũng phải dùng tâm phan duyênnhận biết điều mong cầu. Cho nên dù có được tâm ấy, con cũng chưa dám nhận là tâm tánh xưa nay vốn thường hằng. Cúi mong đức Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc nghi ngờ, để con quay về đạo vô thượng.

  1. Ngón tay chỉ trăng, tâm phân biệt cũng có chỗ quy thú

Phật bảo A Nan:

– Ông vẫn còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì pháp nhận được ấy cũng chỉ là sở duyên, chứ không phải nhận được pháp tánh. Ví như có người dùng ngón tay chỉ hướng mặt trăng cho người khác, thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng, thì chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ luôn cả ngón tay chỉ hướng. Vì đã nhận lầm ngón tay chỉ hướng chính là mặt trăng. Hơn nữa, không những bỏ mất ngón tay chỉ hướng mà người ấy còn không phân biệt được sáng và tối. Vì ngón tay vốn không phát sáng mà cho rằng giống như mặt trăng có tính sáng soi, tức là không biết được hai tánh sáng và tối.

Các ông cũng như vậy, nếu lấy cái phân biệt pháp âm của Như lai làm tâm của mình thì tâm ấy lẽ ra khi tách rời cái phân biệt âm thanh nói pháp, nó phải có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ lữ quán, ở tạm rồi đi, không dừng lại mãi được. Còn người chủ lữ quán thì không đi đâu, nên gọi là chủ. Tâm cũng như vậy. Nếu thật là tâm của ông thì không cần đi đâu, vậy tại sao khi rời âm thanh lại không có tánh phân biệt?

Nói thế chẳng những đối với tâm phân biệt các âm thanh và cái phân biệt tôn dung của Như lai, khi rời các sắc tướng, cũng không có tánh phân biệt. Như vậy cho đến cái phân biệt đều không, chẳng phải sắc, chẳng phải không, mà nhóm Câu Xá Ly lầm cho là minh đế. Khi rời các pháp trần, không còn tánh phân biệt thì tâm tính của ông đều có chỗ trả về, như vậy lấy gì để làm chủ?

  1. Chỉ rõ tánh thấy không có chỗ trả về

A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, nếu như tâm tính của con đều có chỗ trả về, thì tại sao Như lai dạy tâm diệu minh ấy không có chỗ trả về? Cúi xin Phật thương xót chỉ dạy cho con điều ấy.

Phật bảo A Nan:

– Khi ông thấy Như lai bằng cái thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, cái thấy ấy tuy chưa phải là chân tâm, mà nó như mặt trăng thứ hai, chứ không phải là bóng của mặt trăng. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, Như lai sẽ chỉ cho ông nghĩa không thể trả về.

Này A Nan, cửa đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm không có ánh trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít, chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sở duyên, trong chỗ rỗng trống thì toàn là hư không, khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt, mưa tạnh trời thanh thì lại thấy trong lặng.

Này A Nan, ông hãy xem rõ các tướng biến hóa ấy, nay Như lai trả các tướng ấy về nơi xuất phát của nó. Thế nào là nơi xuất phát? Này A Nan, trong các tướng biến hóa, cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên nhân cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả lại cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm tối không có ánh trăng, thông suốt trả về cho các cửa, ngăn bít trả về cho tường vách, cảnh sở duyên trả về cho phân biệt, trống rỗng trả về cho hư không, mù mịt trả về cho bụi, trong lặng trả về cho trời tạnh. Tất cả mọi vật có trong thế gian cũng không ra ngoài các loại ấy.

Còn tánh thấy sáng suốt khi nhìn tám thứ kia thì ông muốn trả về đâu? Nếu trả về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối. Nay tuy các thứ sáng tối có sai khác, nhưng cái thấy không hề có sai khác. Các loại có thể trả về được, đương nhiên chẳng phải là ông. Cái không trả về được chẳng phải chính ông thì là ai? Vậy nên biết tâm ông vốn nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt, mà ông tự mê lầm, bỏ mất tánh bản nhiên đành chịu luân hồi, thường bị chìm đắm trong biển sinh tử, nên Như lai gọi là đáng thương xót.

Đoạn 11: Lựa riêng trần cảnh để chỉ ra tánh thấy

  1. Tất cả chỉ là hiện tượng

A Nan bạch Phật :

Bạch đức Thế tôn, tuy con biết tánh thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là chân tánh của con?

Đức Phật bảo A Nan:

– Nay Như lai hỏi ông: Hiện ông chưa chứng quả vô lậu thanh tịnh, nhưng nhờ thần lực của Phật, ông mới thấy được cõi sơ thiền mà không bị chướng ngại. Còn A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem trái am ma la trong lòng bàn tay. Các vị Bồ tát thấy trăm nghìn thế giới. Mười phương Như lai, đều thấy cùng tận các quốc độ thanh tịnh số như vi trần. Còn chúng sinh thì chỉ thấy rõ được không quá gang tấc.

Này A Nan, giờ ông hãy cùng Như lai xem cung điện của Tứ thiên vương, và xem khắp các loài trong nước, trên đất, trong hư không,… tuy có nhiều hình tướng tối sáng khác nhau, nhưng chúng đều là tiền trần phân biệtchướng ngại. Ông nên ngay nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật. Nay Như lai để ông lựa ra trong cái thấy, cái gì là tâm, cái gì là vật?

Này A Nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải ông; xem xét cùng khắp cho đến Thất kim sơn (bảy ngọn núi bằng vàng), tuy phát ra vô số ánh sáng nhưng cũng là vật chứ không phải ông. Lần lần quan sát mây nổi, chim bay, gió động, bụi mù, cây cối, núi sông, rau cỏ, người và muôn thú,… đều là vật chứ không phải là ông.

  1. Cái thấy không phải là vật

Này A Nan, vị trí các vật xa gần tuy khác nhau, nhưng đều do tánh thấy thanh tịnh của ông nhìn thấy được. Vậy nên vạn vật tự có sai biệttánh thấy của ông không có sai khác. Cái thấy nhiệm mầu sáng suốt đó thật là tánh thấy của ông.

Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy được tánh thấy của Như lai. Nếu thấy sự vật mà gọi là thấy được tánh thấy của Như lai, thì khi Như lai không thấy, sao ông lại không thấy được chỗ không thấy của Như lai? Nếu ông nói rằng thấy được cái không thấy thì tự nhiên cái thấy đó không phải là tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ không thấy của Như lai, tức là cái thấy bản nhiên rõ ràng không phải là vật, thì sao lại cho rằng tánh thấy ấy không phải là ông?

  1. Vật và ta không thể xen tạp

Lại nữa, nếu như cái thấy là vật, vậy khi ông nhìn và thấy được vật thì vật ấy cũng thấy được ông. Thế thì thể tánh xen tạp, nên ông với Như lai cùng cả thế gian đều không an lập được.

Này A Nan, nếu khi ông thấy thì chính ông thấy, chứ không phải Như lai thấy. Tánh thấy cùng khắp đó không phải là ông thì còn là ai nữa?

Sao lại tự nghi chân tánh của ông? Chân tánh của ông, ông không tự nhận lấy, lại chấp lời nói của Như lai mà cầu chứng cái chân thật.

  1. Nghi ngờ cái thấy có lớn nhỏ đứt nối

A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, nếu tánh thấy đó nhất định là của con, chứ không phải của ai khác, thì khi con cùng Như lai xem cung điện quý báu của Tứ thiên vương, xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy bao trùm cả cõi Ta bà. Khi quay về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn rừng, đến nơi giảng đường thanh tịnh, nơi phòng chái thì lại chỉ thấy hành lang, chái nhà.

Bạch đức Thế tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó trùm khắp pháp giới. Nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng. Vậy là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay là bị tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay con không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì con từ bi chỉ rõ.

  1. Chỉ rõ tiền trần làm ngăn ngại

Phật bảo A Nan:

– Tất cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói rằng tánh thấy co giãn. Ví như trong vật hình vuông thì thấy hư không trong ấy hình vuông. Nay Như lai hỏi ông, hư không hình vuông được thấy trong vật vuông ấy là cố định hay không cố định? Nếu cố định vuông thì khi thay vật tròn vào, lẽ ra hư không ấy không thể tròn được. Nếu không cố định hình vuông thì khi ở trong vật vuông, lẽ ra hư không chẳng phải vuông. Ông nói không biết nghĩa đó thế nào, nghĩa đó như vậy, sao còn hỏi như thế nào nữa?

A Nan, nếu muốn nhận ra tánh không vuông không tròn, thì chỉ cần trừ bỏ cái vuông của đồ vật, chứ bản thể hư không vốn không vuông. Do đó không nên nói phải bỏ đi tướng vuông của hư không.

Lại như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng tánh thấy đã rút nhỏ lại, vậy khi ông ngước xem mặt trời, phải chăng tánh thấy đã giãn ra để tiếp xúc với mặt trời?  Nếu xây tường nhà chia cắt cái thấy làm cho đứt đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu nối? Nghĩa ấy ông nói không đúng.

  1. Khai thị về khả năng tâm chuyển được vật

Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm tánh, bị vật xoay chuyển, cho nên ở trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng với Như lai, thân tâm đều viên mãn sáng suốt, là đạo tràng bất động. Trên đầu một mảy lông có thể trùm chứa thập phương quốc độ.

Mục 3: Tánh thấy siêu việt nghĩa “phải” và “chẳng phải”

Đoạn 1: Nghi ngờ tánh thấy hiện tiền

A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, nếu tánh thấy đó nhất định là chân tánh, thì cái diệu tánh đó phải ở ngay trước mắt con. Tánh thấy đó đã là chân tánh của con thì thân tâm con hiện nay là vật gì? Mà nay thân tâm con thật có sự phân biệt, còn tánh thấy kia thì không phân biệt riêng gì thân con. Nếu nó thật là tâm con, khiến cho con hiện nay thấy được, thì tánh thấy ấy đã thật là con, còn thân này không phải là con. Vậy chẳng khác nào trước kia Như lai vặn hỏi: Vật có thể thấy được con chăng? Xin Phật rủ lòng đại từ bi, chỉ bày cho chỗ chưa tỏ ngộ.

Đoạn 2: Không có cái gì tức là cái thấy

Phật bảo A Nan:

– Nay ông nói rằng, tánh thấytrước mắt ông. Nghĩa ấy không đúng. Nếu tánh thấy thật sự ở trước mắt ông và ông thấy được thì tánh thấy đó đã có chỗ ở, chẳng phải không chỉ ra được. Hôm nay Như lai cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, nhìn khắp rừng suối với điện cát, đường đi, ở trên xa đến mặt trời, mặt trăng, phía trước là sông Hằng. Nay đang ở trước tòa sư tử của Như lai, ông hãy dùng tay chỉ ra xem trong các tướng kia, chỗ mát là rừng cây, chỗ sáng là mặt trời, chỗ ngăn ngại là vách, chỗ thông suốthư không. Như thế cho đến cỏ cây mảy mún, tuy lớn nhỏ khác nhau nhưng đã có hình tướng thì không có vật gì là không chỉ ra được. Vậy nếu tánh thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là tánh thấy.

Này A Nan, ông nên biết, nếu hư không là cái thấy, tức hư không đã thành cái thấy, thì cái gì là hư không? Nếu vật là cái thấy, tức vật đã là cái thấy, thì cái gì là vật? Ông hãy phân tích kỹ càng trong vạn vật, chọn ra tánh thấy vốn thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu, chỉ rõ ra ngã thể cùng vạn vật một cách phân minh không nhầm lẫn cho Như lai xem.

A Nan bạch Phật:

– Nay con ở giảng đường Trùng Cát nầy, nhìn ra xa đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng, cái mà tay chỉ ra được và mắt thấy được, tất cả đều là vật, chẳng phải tánh thấy.

Bạch đức Thế tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh văn như chúng con, cho đến các vị Bồ tát, cũng không thể nào ở nơi hiện tượng muôn vật chỉ ra được cái thấy, mà khi rời tất cả vật riêng có tự tính.

Phật dạy: Đúng thế, đúng thế!

Đoạn 3: Không có cái gì ra ngoài tánh thấy

Đức Phật lại bảo A Nan:

Như lời ông nói, không có cái thấy khi rời vạn vật mà riêng có tự tánh, nên trong vạn vật đã chỉ được thì không có cái gì là cái thấy cả.

Nay Như lai lại hỏi ông: Ông cùng Như lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem vườn rừng cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình tướng khác nhau, trong đó nhất định không có tánh thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, có cái gì ra ngoài tánh thấy?

A Nan bạch Phật:

-Bạch đức Thế tôn, con thấy khắp rừng Kỳ Đà nầy, không biết trong đó có gì ra ngoài tánh thấy. Vì sao? Nếu cây ra ngoài tánh thấy thì sao lại thấy cây, còn nếu cây tức là tánh thấy thì sao lại gọi là cây. Như thế cho đến hư không, nếu ra ngoài tánh thấy thì sao thấy được hư không, còn nếu hư không tức là tánh thấy, thì sao lại gọi là hư không. Con lại suy nghĩ, phát minh chín chắn trong muôn hình vạn tượng, thật không có cái gì ra ngoài tánh thấy cả.

Phật dạy: Đúng thế, đúng thế!

Đoạn 4: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thưa thỉnh

Khi ấy trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô học, nghe Phật dạy như thế mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đều hoang mang không giữ được tâm thanh tịnh, sợ đánh mất những điều hiểu biết xưa nay.

Như lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, nên sinh lòng thương xót an ủi A Nan và cả đại chúng rằng:

– Các thiện nam tử, bậc vô thượng pháp vương nói lời chân thật, như tính chân như mà nói, không lừa không dối. Chẳng phải như bốn thứ luận nghị càn gỡ bất tử của ngoại đạo Mạt già lê. Ông hãy suy nghĩ cho chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của Như lai.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử thương xót bốn chúng, ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật chấp tay cung kínhbạch Phật rằng:

Bạch đức Thế tôn, đại chúng nầy chưa ngộ được chỗ đức Như lai phát minh ra hai nghĩa “phải” và “chẳng phải” của tánh thấysắc không.

Bạch đức Thế tôn, như các hiện tượng sắc khôngtrước mắt, nếu là tánh thấy thì lẽ ra phải chỉ được, nếu chẳng phải là tánh thấy thì lẽ ra không thể thấy được. Nay đại chúng không rõ nghĩa ấy do đâu nên mới kinh sợ, chứ không phải vì trước đây thiện căn ít ỏi. Kính mong đức Như lai thương xót, phát minh cho rõ vạn vậttánh thấy vốn là vật gì, mà ở trong đó lại không có các nghĩa “phải” và “chẳng phải”.

Đoạn 5: Tánh thấy không có nghĩa “phải” và “chẳng phải”

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi cùng cả đại chúng rằng:

Mười phương Như lai và các vị đại Bồ tát khi tự an trụ trong chánh định, thì cái “thấy” và cái “bị thấy” đều là tưởng tướng, đều là hoa đốm hư không, vốn không có gì. Cái “thấy” và cái “bị thấy” đó vốn là tâm tánh Bồ đề nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt, làm sao trong đó lại còn có nghĩa “phải” và “chẳng phải”?

Này Văn Thù Sư Lợi, nay Như lai hỏi ông: Như ông đây là Văn Thù, lại có đúng là Văn Thù hay chẳng phải là Văn Thù?

Bạch đức Thế tôn, đúng thế. Con đây thật là Văn Thù, nơi con chẳng có Văn Thù thật. Vì sao? Vì nếu có một Văn ThùVăn Thù thật thì thành ra có hai Văn Thù. Nhưng hiện nay chẳng phải con không phải Văn Thù. Trong ấy thật không có hai tướng phải và chẳng phải.

Phật bảo:

Tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt nầy cùng với hư khôngtiền trần cũng lại như vậy. Vốn là chân tâm viên mãn thanh tịnh vô thượng bồ đề, sáng suốt nhiệm mầu, vọng làm ra sắc, không và nghe, thấy. Ví như dụi mắt, thấy có hai mặt trăng thì mặt trăng nào là mặt trăng thật, còn mặt trăng nào không phải là mặt trăng thật. Này Văn Thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy vốn không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải thật là mặt trăng. Vì thế hôm nay các ông hãy xem, cái thấy và trần cảnh cùng với các thứ phát minh được đều là vọng tưởng, trong ấy không thể chỉ ra nghĩa “phải” và “chẳng phải”.

Bởi tất cả đều là tâm tính nhiệm mầu sáng suốt nên có thể làm cho các ông vượt ra ngoài cái “chỉ ra được” và cái “không chỉ ra được”.

Mục 4: Phá thuyết nhân duyên, tự nhiên

Đoạn 1: Nghi ngờ tâm tánh tự nhiên như thần ngã

A Nan bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế tôn, nếu thật như lời đấng pháp vương đã nói, tâm tánh duyên khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trụ, không có sinh diệt. Điều ấy so với thuyết của ông Phạm chí Ta Tỳ Ca La ngày xưa nói về minh đế, hoặc các thuyết của ngoại đạo Đầu hói… nói có chân ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế nào?

Ở núi Lăng Già, đức Thế tôn đã từng vì các ngài Đại Huệ,… chỉ dạy rằng: Ngoại đạo thường nói tự nhiên, còn Phật dạy nhân duyên, không phải cảnh giới của ngoại đạo. Nay con quán sát kỹ thấy tánh giác vốn tự nhiên, không sinh không diệt, xa lìa mọi hư vọng điên đảo, dường như không phải là nhân duyên, cũng không phải là tự nhiên của ngoại đạo. Xin Phật chỉ dạy cho chúng con làm sao để khỏi rơi vào tà kiến, đạt được tâm tánh chân thật, giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu.

Đoạn 2: Chỉ rõ không phải là tự nhiên

Phật bảo A Nan:

– Nay Như lai dùng phương tiện chỉ dạy như vậy, chân thật bảo ông như vậy mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm tưởng là tự nhiên.

Này A Nan, nếu chắc là tự nhiên thì cần phải xét rõ thể tánh tự nhiên chăng? Ông hãy quán sát trong tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy, lấy gì làm tự thể? Tánh thấy đó lấy cái sáng làm tự thể, hay lấy cái tối làm tự thể, lấy hư không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể?

Này A Nan, nếu lấy cái sáng làm tự thể thì lẽ ra không thấy được tối, nếu lấy hư không làm tự thể thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự thể thì đến khi sáng, tánh thấy đã diệt mất rồi làm sao còn thấy sáng được?

Đoạn 3: Nghi ngờnhân duyên

A Nan bạch Phật:

Tánh thấy nhiệm mầu ấy chắc không phải là tự nhiên. Nay con phát minh được, nó do nhân duyên mà sinh nhưng tâm con vẫn còn chưa rõ. Xin hỏi đức Như lai, nghĩa ấy như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên.

Đoạn 4: Tánh thấy không phải nhân duyên, vốn rời các danh tướng

Phật dạy:

– Ông nói nhân duyên, Như lai lại hỏi ông: Nay ông do nhân duyên mà có thấy, tính thấy hiện trước đó, vậy tính thấy ấy là nhân nơi sáng mà có thấy, hay nhân nơi tối mà có thấy, nhân nơi hư không mà có thấy hay nhân nơi ngăn bít mà có thấy?

Này A Nan, nếu tánh thấy nhân nơi sáng mà có thì lẽ ra không thấy được tối, còn nếu nhân nơi tối mà có thì lẽ ra không thấy được sáng. Như vậy cho đến nhân nơi hư không, nhân nơi ngăn bít thì cũng giống như nhân nơi sáng và nơi tối.

Lại nữa A Nan, tánh thấy ấy duyên nơi sáng mà có thấy hay duyên nơi tối mà có thấy, duyên nơi hư không mà có thấy hay là duyên nơi ngăn bít mà có thấy?

Này A Nan, nếu duyên nơi hư không mà có thấy thì lẽ ra không thấy được ngăn bít, nếu duyên nơi ngăn bít mà có thấy thì lẽ ra chẳng thấy được hư không. Như vậy cho đến duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng đồng như duyên nơi hư không, duyên nơi ngăn bít.

Nên biết tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên, cũng chẳng phải chẳng tự nhiên. Chẳng có nghĩa chẳng phải (phi) hay chẳng chẳng phải, không có nghĩa phải (thị) hay chẳng phải (phi thị). Lìa hết tất cả các tướng, tức là tất cả pháp.

Ông nay sao lại bỏ mất bản tâm, ở trong các chỗ danh tướng nhận lấy hý luận thế gian mà vọng khởi phân biệt? Thế cũng như dùng bàn tay nắm lấy hư không chỉ thêm nhọc sức, chứ hư không sao lại để ông nắm lấy được.

Đoạn 5: Lại nghi nhân duyên

A Nan bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế tôn, nếu tánh giác nhiệm mầu này chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, tại sao Thế tôn thường chỉ dạy các tỳ kheo rằng: Tánh thấy có đủ bốn thứ nhân duyên, nghĩa là nhân nơi hư không, nhân nơi ánh sáng, nhân nơi tâm và nhân nơi con mắt. Nghĩa đó như thế nào?

Đoạn 6: Đức Phật chỉ rõ tánh thấy rời cả bốn tướng

Phật bảo :

– Này A Nan, Như lai nói như thế là nói về các tướng nhân duyên trong thế gian, đó không phải là đệ nhất nghĩa. Này A Nan, nay Như lai hỏi ông: Người đời thường nói “tôi thấy được”. Vậy thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy?

A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy các hình tướng, gọi đó là thấy. Còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó thì không thể thấy được.

– Này A Nan, nếu không có ánh sáng mà gọi là không thấy thì lẽ ra không thấy được tối, sở dĩ thấy tối bởi vì không có ánh sáng, chứ đâu phải là không thấy. Này A Nan, nếu trong lúc tối vì không có ánh sáng mà gọi là không thấy, vậy hiện giờ trong lúc sáng, không có bóng tối thì lẽ ra đều phải gọi là không thấy.

Nếu hai tướng sáng tối tự xâm đoạt nhau thì tánh thấy của ông trong đó chẳng phải tạm không. Như thế biết rằng trong cả hai trường hợp đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy. Vì thế A Nan, ông nên biết rằng: Trong lúc thấy sáng thì cái thấy không phải là cái sáng; trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy hư không, cái thấy không phải là hư không; trong lúc thấy ngăn bít, cái thấy không phải là ngăn bít.

Đoạn 7: Sự thật của Tánh thấy

Bốn nghĩa đó đã thành lập rồi, ông lại nên biết: Khi nhận thấy tánh thấy thì tánh thấy không phải là cái (bị) thấy. Tánh thấy còn vượt khỏi cả cái thấy và cái thấy còn không thể bắt gặp tánh thấy được, thì tại sao ông còn nói đến những tướng nhân duyên, tự nhiên và hòa hợp? Các ông là hàng Thanh văn trí năng hẹp hòi không hiểu biết, không thông suốt được thật tướng thanh tịnh. Nay Như lai bảo ông phải biết chiêm nghiệm, không nên trễ nãi trên đường tu đạo giác ngộ nhiệm mầu.

Mục 5: Chỉ rõ thể tánh chân thật

Đoạn 1: Tánh thấy không phải là cái thấy

A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, như Phật Thế tôn vì chúng con giảng nói về nhân duyên, tự nhiên, các tướng hòa hợp và không hòa hợp, nhưng trong tâm chúng con vẫn còn chưa rõ mà nay lại nghe Phật dạy: “thấy được cái thấy không phải là tánh thấy” nên càng thêm lúng túng. Cúi xin đức Phật thương xót, ban cho mắt đại trí huệ, chỉ rõ cho chúng con phương pháp giác ngộ tâm tánh sáng suốtthanh tịnh.

Thưa xong, A Nan buồn khóc đảnh lễ, vâng nghe thánh chỉ của Phật.

Khi ấy đức Thế tôn thương xót A Nan và cả đại chúng, lại đang muốn chỉ dạy pháp đại tổng trìcon đường tu hành các môn Tam ma đề mầu nhiệm, nên bảo A Nan rằng: Ông tuy nhớ giỏi và chỉ có ích cho việc học rộng, nhưng nơi vi mật quán chiếu Xa ma tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho kỹ, Như lai sẽ vì ông phân tích chỉ bày, đồng thời cũng khiến cho những kẻ hữu lậu trong tương lai chứng được quả vị Bồ đề.

Đoạn 2: Hai thứ nhận thức sai lầm

  1. Hai thứ vọng kiến

Này A Nan, tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian đều do hai thứ vọng kiến điên đảo phân biệt, ngay đó phát sinh, ngay đó thành nghiệp luân chuyển. Những gì là hai thứ vọng kiến? Một là biệt nghiệp vọng kiến, hai là đồng phận vọng kiến của chúng sinh.

  1. Biệt nghiệp vọng kiến.

Thế nào gọi là biệt nghiệp vọng kiến? Này A Nan, như người thế gian bị bệnh nhặm mắt, ban đêm nhìn ngọn đèn, thấy quanh đèn có vòng tròn năm màu bao phủ. Ý ông nghĩ sao? Ánh đèn ban đêm này hiện ra quầng sáng, đó là màu sắc của đèn hay là màu sắc của cái thấy?

Này A Nan, nếu màu sắc này là của ngọn đèn thì người không nhặm mắt sao lại chẳng thấy, mà quầng sáng ấy chỉ riêng người nhặm mắt mới thấy? Nếu đó là màu sắc của cái thấy thì cái thấy đã thành màu sắc, còn người nhặm mắt kia thấy quầng sáng thì gọi là gì?

Lại nữa A Nan, nếu quầng sáng này rời đèn mà vẫn có, thì khi nhìn những vật chung quanh như bình phong, ghế, màn, cũng phải thấy quầng sáng hiện ra. Nếu rời cái thấy mà có quầng sáng thì lẽ ra chẳng phải mắt thấy. Tại sao người nhặm mắt mới thấy quầng sáng?

Thế nên phải biết màu sắc thực sự là do tại đèn, và cái thấy quầng sáng là do bệnh nhặm mắt mà ra. Quầng sáng và cái thấy đều do mắt bị nhặm chứ cái nhận biết mắt bị nhặm thì không bệnh. Rốt ráo chẳng nên nói quầng sáng là đèn hay cái thấy, hoặc trong đó chẳng phải đèn cũng chẳng phải cái thấy.

Ví như mặt trăng thứ hai, không phải thật thể mặt trăng và cũng không phải là cái bóng của mặt trăng. Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành ra vậy. Những người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng do dụi mắt mà hình thành, đó là hình tướng hay không phải là hình tướng, hay là ra ngoài cái thấy hay không ra ngoài cái thấy.

Quầng sáng cũng vậy, do bệnh nhặm mắt mà thành. Nay ông muốn gọi cái gì là đèn, cái gì là thấy cũng không được, huống gì còn phân biệt không phải là ngọn đèn hay không phải là cái thấy!

  1. Nhận thức đồng phận vọng kiến.

Thế nào gọi là đồng phận vọng kiến?

Này A Nan, cõi Diêm Phù Đề, trừ nước biển ra trong đó đất bằng có ba ngàn châu. Châu lớn chính giữa bao quát từ Đông sang Tây có đến hai ngàn ba trăm nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến hai ba trăm nước; hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi cho đến năm mươi nước. Này A Nan, nếu trong số các châu đó có một châu nhỏ chỉ có hai nước. Người một nước đồng chiêu cảm ác duyên, thì riêng chúng sinh nước ấy sẽ thấy tất cả những cảnh giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng khác như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi lưu, phụ nhĩ, hồng nghê…  và chỉ nước đó thấy, còn chúng sinh nước bên cạnh thì không thấy cũng không nghe.

Đoạn 3: Tánh thấy xa rời tướng hòa hợp

  1. Dùng vọng kiến biệt nghiệp để nhận ra tánh thấy

A Nan, nay Như lai đem hai việc đó, kết hợp lui tới để chỉ rõ.

Này A Nan, như vọng kiến biệt nghiệp của chúng sinh thấy nơi đèn có quầng sáng hiện ra, tuy giống như cảnh nhưng cái thấy đó vốn do mắt nhặm mà hình thành. Giống như hôm nay ông dùng mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng sinh, đều do cái thấy bị bệnh từ vô thỉ mà hình thành. Mắt nhặm tức là cái thấy lao nhọc, không phải do màu sắc tạo ra. Song, người biết được mắt nhặm thì cái thấy của họ không bị sai lầm.

Cái thấy và cảnh vật bị thấy, dường như hiện ra trước mắt, là do tâm giác ngộ sáng suốt phân năng kiến sở kiến mà thành bịnh. Nhận rõ cái thấy sinh khởi từ bệnh nhặm, chứ bản giác minh tâm rõ biết các duyên thì không bị bệnh.

Có năng giác sở giác mới thành bịnh. Nếu biết bổn giác không ở trong bịnh, đây mới thật là nhận ra tánh thấy. Sao còn gọi nó là thấy, nghe, hay, biết?

Thế nên nay ông thấy Như lai cùng với ông và mười loại chúng sinh trong thế gian là đều do mắt nhặm, chứ không phải cái biết mắt bị bịnh nhặm. Tánh thấy chân thật đó không bị nhặm nên chẳng gọi là thấy.

  1. Lấy nghiệp chung so với nghiệp riêng đi đến nhận rõ sự thật mười phương

Này A Nan, nếu so sánh đồng phận vọng kiến của chúng sinh với biệt nghiệp vọng kiến của một người thì một người nhặm mắt cũng giống như người trong cả nước kia. Người thấy quầng sáng là do mắt nhặm mà có, còn trong nước kia hiện ra những tướng không lành là do cộng nghiệp nên cùng thấy trong đó hiện ra các điềm ác.

Cả hai đều do vọng kiến từ vô thủy phát sinh. Giống như ba ngàn châu trong cõi Diêm Phù Đề, gồm bốn biển lớn và thế giới Ta bà, cho đến các nước và các chúng sinh hữu lậu trong mười phương, đều là tâm giác ngộ sáng suốt vô lậu nhiệm mầu. Kiến văn giác tri là bịnh duyên hư vọng, khiến hư dối hòa hợp sinh ra, hư dối hòa hợp chết đi.

Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa hợp thì trừ được các nhân sinh tử xưa nay, đó chính là tánh giác tròn đầy không sinh không diệt và cũng chính là chân tâm bản giác thanh tịnh thường trú.

  1. Phá chấp do nghĩa hòa hợp

Này A Nan, ông tuy đã ngộ tâm tính nhiệm mầu sáng suốt, tánh giác vốn không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông vẫn chưa rõ cội nguồn của tánh giác ấy vốn sinh ra từ sự không phải hòa hợp hay không phải không hòa hợp.

Này A Nan, nay Như lai lại dùng nơi tiền trần để hỏi ông, ông còn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên trong thế gian mà tự nghi lầm rằng chứng được tâm Bồ đề là do hòa hợpphát khởi.

Vậy nay tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa hợp hay cùng với tối hòa hợp, là cùng với thông suốt hòa hợp hay cùng với ngăn bít hòa hợp?

Nếu cùng với sáng hòa hợp thì khi ông đang thấy sáng, cái sáng hiện trước mặt, vậy chỗ nào xen lẫn với cái thấy. Nếu có thể phân biệt được tướng của cái thấy thì hình tướng của cái xen tạp như thế nào?

Nếu chẳng phải là cái thấy thì làm sao thấy được sáng? Còn nếu chính là cái thấy thì làm sao thấy được cái thấy? Nếu cái thấy cùng khắp thì chỗ nào hòa với cái sáng? Nếu sáng cùng khắp thì không thể hòa với cái thấy.

Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen tạp, ắt phải mất tên gọi của tính sáng. Cái thấy xen lẫn vào làm mất tính chất của cái sáng, mà nói hòa với cái sáng là không có nghĩa đó. Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít cũng giống như vậy.

Lại nữa A Nan, tánh thấy thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu hiện nay của ông là hợp với sáng hay hợp với tối, hợp với thông suốt hay hợp với ngăn bít?

Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không hợp với cái tối, làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tối mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng sẽ không thấy được cái sáng; mà đã không thấy được sáng thì làm sao hợp với cái sáng và biết rõ cái sáng không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít cũng giống như vậy.

  1. Phá chấp do nghĩa không hòa hợp

A Nan bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế tôn, nay con suy nghĩ cái tâm vốn giác ngộ nhiệm mầu này cùng các duyên trần và các tâm niệm suy nghĩ không hòa hợp chăng?

Phật dạy: Nay ông lại nói tánh giác không hòa hợp thì Như lai hỏi ông, tánh thấy gọi là không hòa hợp đó, là không hòa với sáng hay không hòa với tối, không hòa với thông suốt hay không hòa với ngăn bít? Nếu không hòa với sáng, thì giữa thấy và sáng phải có ranh giới. Ông hãy xem kỹ, chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy; đâu là ranh giới của cái thấy và cái sáng?

Này A Nan, nếu bên cái sáng, chắc không có cái thấy, thì hai cái không tiếp xúc được với nhau. Cái thấy tự chẳng biết được tướng sáng ở đâu thì làm sao thành lập được ranh giới? Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít cũng giống như vậy.

Lại nữa, tánh thấy nhiệm mầu không hòa hợp ấy, là không hợp với sáng hay không hợp với tối, không hợp với cái thông suốt hay không hợp với cái ngăn bít? Nếu không hợp với cái sáng thì cái thấy với cái sáng có tánh trái ngược nhau. Ví như lỗ tai với cái sáng, hoàn toàn không tiếp xúc với nhau được. Cái thấy bấy giờ còn không biết cái sáng ở đâu, làm sao phân biệt được rõ ràng nghĩa hợp hay không hợp? Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít cũng giống như vậy.

Mục 6: Phát khởi chỗ Chân ngộ

Đoạn 1: Kết luận

Này A Nan, ông còn chưa rõ tất cả các tướng huyễn hóa nơi tiền trần ngay đó sinh ra và cũng ngay đó diệt mất. Huyễn hóa giả dối nên gọi là tướng, nhưng tánh chân thật vốn là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu.

Như vậy, cho đến ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứthập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, nhân duyên tách rời thì hư vọng gọi rằng diệt mất mà ông không biết sinh, diệt, đến, đi, đều là tánh chân như vi diệu nhiệm mầu sáng suốt tròn khắp không lay động của Như lai tạng thường trú. Trong tánh chân thường đó mà cầu những việc đến đi, mê ngộ, sinh tử hoàn toàn không thể được.

Đoạn 2: Nói về năm ấm

  1. Về sắc ấm

–A Nan, tại sao ngũ ấm vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như lai tạng. Này A Nan, ví như có người dùng mắt thanh tịnh để nhìn bầu trời quang đãng, chỉ thấy một khoảng hư không trong sáng, hẳn không thấy gì nữa hết. Người ấy vô cớ nhìn sững chẳng nháy mắt, nhìn lâu phát ra mỏi mệt nên trong hư không thấy có hoa đốm lăng xăng và tất cả các tướng giả dối không thật. Nên biết sắc ấm cũng lại như vậy.

Này A Nan, các hoa đốm lăng xăng ấy, chẳng phải từ hư không đến, cũng chẳng phải từ con mắt ra. Thật vậy A Nan, nếu từ hư không đến, tức là đã từ hư không đến thì phải trở về với hư không, mà đã có ra có vào thì chẳng phải là hư không nữa. Hư không, nếu chẳng phải không thì không thể dung chứa được tướng hoa đốm sinh diệt kia. Như thân thể A Nan thì chẳng dung nạp thêm một A Nan nào được nữa.

Nếu hoa đốm từ mắt mà ra, đã từ mắt đi ra thì phải trở về trong mắt. Nếu tánh của hoa đốm từ mắt mà có thì tất nhiên nó có thể nhận thấy được. Nếu nó thấy được thì khi đi ra làm hoa đốm giữa hư không đến lúc trở về nó phải thấy con mắt. Nếu không thấy được thì khi đi ra sẽ làm mờ hư không và khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại nữa, khi thấy hoa đốm lẽ ra con mắt không mờ. Tại sao khi thấy hư không trong lặng thì mới gọi là con mắt trong sáng?

Vậy nên biết rằng sắc ấmgiả dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

  1. Về thọ ấm

Này A Nan, ví như có người tay chân yên ổn, trăm vóc điều hòa, bỗng như quên mìnhtâm tánh chẳng có gì chống trái nhau. Người này vô cớ xoa hai bàn tay giữa hư không, trong lòng bàn tay vọng sinh các tướng trơn, rít, lạnh, nóng. Nên biết thọ ấm cũng giống như vậy.

Này A Nan, các cảm xúc không thật ấy, chẳng phải từ hư không mà đến cũng chẳng phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy A Nan, nếu từ hư không mà đến, đã xúc chạm nơi bàn tay, sao lại không xúc chạm với thân thể. Chẳng lẽ hư không lại biết chọn lựa nơi chốn để xúc chạm sao? Nếu nó từ bàn tay thì lẽ ra không đợi hai bàn tay hợp lại mới có.

Lại nữa, nếu từ trong lòng bàn tay mà ra thì khi bàn tay hợp lại mới biết có cảm xúc, đến khi hai tay rời nhau thì cảm xúc phải trở vào. Vậy cánh tay, cổ tay, xương tủy lẽ ra phải biết tung tích khi ra vào của cảm xúc.

Nếu phải có tâm mới hay biết, biết khi nó ra, biết khi nó vào, cho đến tự biết có một vật qua lại trong thân thì đâu cần phải đợi khi hai tay hợp lại với nhau mới gọi là cảm xúc?

Do vậy nên biết thọ ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

  1. Về tưởng ấm

Này A Nan, như có người khi nghe nói đến quả me chua thì trong miệng chảy ra nước bọt, hoặc khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân cảm thấy rờn rợn. Nên biết tưởng ấm cũng giống như vậy.

Nay A Nan, tiếng me chua này chẳng phải từ me sinh ra, cũng chẳng phải từ miệng mà vào. Thật vậy A Nan, nếu từ me sinh ra thì me tự biết nói, đâu cần đợi người nói. Nếu từ miệng mà vào thì tự miệng đã nghe tiếng, đâu cần đến tai. Nếu chỉ riêng tai nghe được thì nước bọt này tại sao không tiết ra từ lỗ tai? Việc nghĩ tưởng mình đứng trên dốc cao cũng giống như vậy.

Do đó nên biết tưởng ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

  1. Về hành ấm.

Này A Nan, ví như dòng nước chảy mạnh, các làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau không vượt khỏi nhau. Nên biết hành ấm cũng giống như vậy.

Này A Nan, tánh của dòng nước cũng vậy, chẳng từ hư không sinh ra, chẳng phải do nước mà có, cũng chẳng phải tánh nước, cũng chẳng phải lìa hư không và nước.

Thật vậy A Nan, nếu nhân hư không mà sinh, thì mười phương hư không vô tận sẽ thành dòng nước vô tận. Thế giới tự nhiên sẽ bị nhấn chìm. Nếu do nước mà có thì dòng nước này, tánh của nó lẽ ra không phải là nước nữa, và hiện giờ có thể chỉ ra tướng của nước và dòng nước khác nhau. Nếu dòng nước tức là tánh nước thì khi nước trong lặng sẽ không còn là thể của nước nữa. Nếu lìa hư không và nước thì hư không vốn chẳng có trong và ngoài. Ngoài nước ra vốn không có dòng nước.

Do vậy nên biết hành ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

  1. Về thức ấm.

Này A Nan, ví như có người lấy bình tần già bịt cả hai lỗ, trong ấy đựng đầy hư không, rồi đem đi xa nghìn dặm đến chỗ nước khác. Nên biết thức ấm cũng giống như vậy.

Này A Nan, hư không đó chẳng phải từ phương kia đến, cũng chẳng phải từ phương này vào. Thật vậy A Nan, nếu hư không từ phương kia đến, thì trong bình này đã đựng đầy hư không đem đi, tất nhiên ở chỗ chiếc bình phải thiếu một ít hư không. Nếu hư không từ phương này vào thì khi mở miệng bình đổ ra, phải thấy hư không đi ra.

Do vậy nên biết thức ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

(hết quyển 2)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/06/2017(Xem: 17418)
07/06/2010(Xem: 87945)
07/06/2010(Xem: 76683)
11/03/2017(Xem: 47897)
25/02/2015(Xem: 9291)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.