- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm tùy hỷ công đức thứ mười tám
Tùy hỷ là gì ? Tùy là tùy thuận. Tùy sự, tùy lý, tùy quyền,
tùy thật. Hỷ là hỷ khánh, khánh nhân, khánh quả, khánh hạnh, phụng hành Phật
pháp, hoằng
Bổn thể của Phật tức là lý, lý của Phật cũng tức là pháp thân. Phật xuất hiện
ra đời để giáo hóa tất cả chúng sinh trong mười phương, đó là sự. Do lý mà tùy
sự, do sự mà tùy lý, đây gọi là lý sự không hai. Sự chẳng lìa lý, lý chẳng rời
sự. Nhìn lại là hai, song kỳ thật là một, nhìn lại là một, nhưng lại có thể
phân làm hai. Cho nên nói hai chẳng phải hai, chẳng phải hai mà hai. Hai mà chẳng
phải hai, chẳng phải hai mà hai, tức là lý trung đạo.
Tùy quyền tùy thật công đức, tức là công đức tùy hỷ của Phật nói về quyền, công
đức tùy hỷ của Phật nói về thật. Mình có nhân lành thì mới nghe được diệu pháp,
đây là nhân của sự hỷ khánh mà gặp được diệu pháp này. Sau khi gặp được diệu
pháp mà chuyên tâm tu trì, thì tương lai sẽ đắc được quả bồ đề.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc bạch đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Nếu có người thiện
nam, người thiện nữ, nghe Kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ, thì đắc được bao nhiêu
phước đức ? Bèn nói bài kệ rằng :
Sau khi nói xong Phẩm Phân Biệt Công Đức, thì lúc đó đại Bồ Tát Di Lặc bèn bạch
với Đức Phật Thích Ca rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Nếu như có người thiện nam, người
thiện nữ, giữ năm giới hành thập thiện, nghe được Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ công
đức, thì họ đắc được bao nhiêu phước đức ? ‘’Đại Bồ Tát Di Lặc lại nói ra bài
kệ.
Sau khi Phật diệt độ
Có người nghe kinh này
Mà sinh tâm tùy hỷ
Được bao nhiêu công đức ?
Sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, tương lai có người nghe được Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, mà sinh một tâm niệm tùy hỷ, thì người đó đắc được bao nhiêu phước đức ?
Xin Thế Tôn từ bi khai thị.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : A Dật Đa ! Sau khi Như Lai diệt
độ, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và những người có trí
khác, hoặc già, hoặc trẻ, nghe kinh này mà tùy hỷ. Từ pháp hội ra đi đến nơi
khác.
Lúc đó Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc rằng : ‘’A Dật Đa ! Sau khi Như Lai vào Niết
Bàn rồi, ngoài các hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng này
ra, như có những người trí huệ, bất cứ là già hoặc trẻ, từ trong pháp hội nghe
Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ rồi, từ trong pháp hội ra đi đến những nơi khác, vì
người khác giải nói nghĩa lý của kinh này, thì sẽ đắc được phước đức không thể
nghĩ bàn.’’
Hoặc tại nhà của chư Tăng ở, hoặc tại chỗ vắng vẻ, hoặc tại thành ấp đường
xá, xóm làng ruộng nương, đem sự nghe của mình mà vì cha mẹ, người thân, bạn
bè, tri thức, tùy sức mà diễn nói, khiến cho họ nghe rồi mà tùy hỷ, lại đi diễn
nói với người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, lại đi diễn nói với người
khác nữa, cứ như thế cho đến người thứ năm mươi.
Hoặc tại chỗ chư Tăng ở, hoặc ở tại chỗ vắng vẻ trong thâm sơn cùng cốc, hoặc
tại thành ấp, đường xá, xóm làng, ruộng nương .v.v... Đem Phật pháp mà mình
nghe được ở tại pháp hội, vì cha mẹ, người thân, bạn bè, tri thức, tùy sức hiểu
biết của mình, mà vì họ giải nói nghĩa lý của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến
cho họ gieo trồng căn lành, đắc được lợi ích công đức tùy hỷ.
Những người tùy hỷ kinh điển đó, nghe rồi lại đi giáo hóa người khác, vì họ giải
nói nghĩa lý trong kinh, khiến cho họ nghe rồi lại tùy hỷ, cứ như thế cho đến
người thứ năm mươi, người đó đắc được phước đức nhiều không thể nói đặng.
A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ, thứ năm mươi đó, tùy hỷ công đức,
nay ta nói ra ông nên lắng nghe.
Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ, thứ
năm mươi đó, tùy hỷ công đức, bây giờ ta vì ông mà nói ra. Ông nên tập trung
chú ý nghe.’’
Nếu bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới,
loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng ẩm ướt, loài biến hóa
sinh ra, hoặc loài có hình, loài không có hình, loài có nghĩ tưởng, loài không
có nghĩ tưởng, loài chẳng có nghĩ tưởng chẳng phải không có nghĩ tưởng, loài
không chân, hai chân, loài bốn chân, nhiều chân, như vậy hết thảy loài chúng
sinh. Có người cầu phước, tùy theo sự ưa muốn của họ, mà cung cấp cho đầy đủ.
Nếu như có bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới.
Bốn loài là loài sinh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm ướt, bằng biến hóa sinh
ra. Sáu đường chúng sinh là trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa
ngục. Loài sinh bằng trứng thì trứng do tưởng mà sinh ra, loại sinh bằng thai
thì thai do tình mà có, loài sinh bằng ẩm ướt thì nhờ ẩm ướt mà hợp cảm, loài
biến hóa thì nhờ hóa mà ly ứng. Tóm lại, loài sinh bằng trứng, thai, ẩm ướt, biến
hóa, đều là nghiệp quả sở cảm; tình tưởng ly hợp, đều là nghiệp nhân năng cảm.
Loài sinh bằng thai : Do ái tình mà sinh ra. Loài sinh bằng trứng : Chỉ nhờ
loạn tưởng mà sinh ra. Loài sinh bằng ẩm thấp : Ngửi hương tham vị phối hợp mà
cảm. Loài sinh bằng biến hóa : Chán cũ vui mới, nhờ đó mà ứng. Đây là chúng
sinh của dục giới. Chúng sinh có hình thuộc về sắc giới; chúng sinh vô hình
thuộc về cõi vô sắc, chúng sinh không thức nhị biên xứ. Vô tưởng là chúng sinh
vô sở hữu xứ. Phi hữu tưởng phi vô tưởng là chúng sinh phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Đây là tên gọi của chín loài chúng sinh.
Loài không chân là loài giun .v.v... Loài hai chân là chó, gà, chim .v.v... Loài
bốn chân là cọp, sư tử .v.v... Loài nhiều chân là rết, cuốn chiếu .v.v... Hết
thảy các loài chúng sinh. Có người vì cầu phước mà tùy thuận sự ưa muốn của họ,
đều cung cấp cho họ đầy đủ, chẳng thiếu món gì.
Mỗi mỗi chúng sinh đều cấp cho đầy cõi Diêm Phù Đề : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ
mã não, san hô, hổ phách các thứ châu báu, và voi ngựa xe cộ, cung điện lầu các
làm bằng bảy báu .v.v...
Hết thảy chúng sinh đều bố thí đầy Diêm Phù Đề : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, san hô, hổ phách hết thảy các thứ châu báu đá quý và voi, ngựa, xe cộ,
cung điện, lầu các, làm bằng bảy báu .v.v... Phàm là những gì chúng sinh cần,
thì vị đại thí chủ đó đều bố thí tất cả, tuyệt đối không có tâm san tham.
Đại thí chủ đó, bố thí như vậy, mãn tám mươi năm rồi, bèn nghĩ như vầy : Ta đã
bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, tùy ý sự ưa muốn của họ, nhưng những
chúng sinh này đều đã già nua, tuổi đã quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, sự chết
chẳng còn bao lâu. Ta nên dùng Phật pháp để giáo hóa họ.
Vị đại thí chủ đó, lại bố thí bảy báu, bố thí xe cộ, bố thí cung điện cho chúng
sinh. Người nhân gian đi du hành phải đi bằng xe, thuyền; người trên trời đi du
hành bằng cung điện. Tóm lại, người ở trên trời ngồi ở trong cung điện, thì có
thể đi du hành khắp nơi, tốc độ còn nhanh hơn hỏa tiễn hiện đại. Có người khởi
vọng tưởng : ‘’Cung điện làm sao di động được ?‘’ Cảnh giới này, đợi khi nào
bạn chứng được ngũ nhãn lục thông, thì tự nhiên sẽ biết. Đây chẳng phải là việc
bí mật, mà là việc bình thường, chỉ cần dụng công tu hành, nỗ lực tham thiền
thì sớm sẽ hiện thực.
Bố thí như thế trải qua tám mươi năm. Vị đại thí chủ đó bèn nghĩ như vầy : ‘’Ta
đã bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, đều tùy thuận tâm ý của họ. Họ
muốn gì thì ta bố thí cái đó. Song, những chúng sinh đó đã già nua, tuổi tác đã
hơn tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, cái chết chẳng còn bao lâu. Ta nên dùng Phật pháp
để dạy họ, khiến cho họ kịp thời tu hành, thoát khỏi biển khổ sinh về Tịnh
Độ.’’
Bèn triệu tập những chúng sinh đó, truyền bá Phật pháp giáo hóa, khiến cho
họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nhất thời đều đắc được đạo Tu Đà Hoàn, đạo Tư
Đà Hàm, đạo A Na Hàm, đạo A
Vị đại thí chủ đó nghĩ rồi, bèn lập tức triệu tập hết thảy chúng sinh lại, tuyên
bố Phật pháp, chỉ dạy giáo hóa họ, khiến cho họ đắc được lợi ích Phật pháp,
sinh tâm hoan hỷ. Những chúng sinh đó, sớm đắc được quả vị A
T
Cảnh giới của A
Lại có đủ tám giải thoát. Tức là xả bỏ tham ái ba cõi, giải
thoát khỏi tám thứ thiền định trói buộc:
1). Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2). Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3). Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4). Không vô biên xứ giải thoát.
5). Thức vô biên xứ giải thoát.
6). Vô sở hữu xứ giải thoát.
7). Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8). Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.
Phật nói với Bồ Tát Di Lặc : ‘’Ý của ông như thế nào ? Vị đại thí chủ đó, đắc được
công đức có nhiều chăng ?‘’
Có người hỏi : ‘’Cửu địa là gì ? ‘’Đáp : Tại dục giới có nhất địa, gọi là ngũ
thú tạp cư địa, tức là trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, thế giới của
năm loài chúng sinh ở lộn lạo. Tại sắc giới có tứ địa.
1). Sắc giới trời sơ thiền, gọi là Ly sinh hỷ lạc địa, vì lìa khỏi dục giới thọ
sinh, cho nên trong tâm cảm thấy vừa hoan hỷ vừa khoái lạc.
2). Sắc giới trời nhị thiền, gọi là Định sinh hỷ lạc địa. Vì từ trong đînh,
sinh ra một thứ hoan hỷ, chẳng gì sánh bằng, mà được cảnh giới khoái lạc.
3). Sắc giới trời tam thiền, gọi là Ly hỷ diệu lạc địa. Đã lìa khỏi hoan hỷ thô,
đắc được khoái lạc vi diệu.
4). Sắc giới trời tứ thiền, gọi là Xả niệm thanh tịnh địa. Xả bỏ diệu lạc niệm đầu
của tam thiền, thân tâm thanh tịnh, một bụi trần không nhiễm. Tại vô sắc giới
có tứ địa
1). Không vô biên xứ địa. Tuy cảm giác chẳng có thân, nhưng có tâm thức tác
dụng.
2). Thức vô biên xứ địa, sáu thức trước hoàn toàn diệt tận, chỉ có hai thức sau
tồn tại.
3). Vô sở hữu xứ địa. Chế phục được thức thứ bảy, chỉ còn thức thứ tám tồn tại.
4). Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa. Định lực khống chế thức thứ tám, không thể hoạt
động là phi tưởng. Định lực chẳng đủ, thức thứ tám lại hoạt động là phi phi
tưởng. Bất động tức chẳng có sinh tử, có động thì có sinh tử. Tóm lại, đem ba
cõi vẽ thành cửu địa, làm tiêu chuẩn tiến lên của người tu hành, dụng công tu
hành thành tựu, thì thăng lên một giai đoạn. Vượt quá phạm vi cửu địa, thì chứng
được tứ quả A
‘’Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ đề.’’
Bồ Tát Di Lặc bạch đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Công đức của người đó rất nhiều,
vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó, chỉ bố thí tất cả đồ vui thích, thì công đức
đã vô lượng, hà huống khiến cho họ đắc được quả A La Hán.
Bồ Tát Di Lặc nói với Phật rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Công đức của vị thí chủ đó
rất nhiều. Vì vị đó chẳng những bố thí tất cả đồ vui thích, mà còn khiến cho
tất cả chúng sinh chứng được tứ quả A
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Nay ta phân tích rõ cho ông nghe, người đó đem tất
cả đồ vui thích, bố thí cho sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng
kỳ thế giới. Lại khiến cho họ đắc quả A
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc : ‘’Bây giờ ta phân tích rõ ràng đạo lý này cho
A Dật Đa ! Như người thứ năm mươi đó, lần lượt được nghe Kinh Pháp Hoa mà
tùy hỷ, công đức còn vô lượng vô biên A tăng kỳ, hà huống là người đầu tiên, ở
trong pháp hội nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Phước người này, còn hơn phước
người thứ năm mươi, vô lượng vô biên A tăng kỳ, không thể sánh được.
Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Như người thứ năm mươi đó, lần lượt
nghe được Kinh Pháp Hoa, mà phát tâm tùy hỷ, còn đắc được công đức vô lượng vô
biên A tăng kỳ. Hà huống là người đầu tiên, trực tiếp nghe Kinh Pháp Hoa ở
trong pháp hội, mà phát tâm tùy hỷ, công đức của người này, đương nhiên phải
thù thắng hơn công đức của người gián tiếp nghe Kinh Pháp Hoa (người thứ năm
mươi vô lượng vô biên A tăng kỳ, cũng không thể so sánh được).’’ Tóm lại, ở
trong đạo tràng nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, thì công đức không thể nói, không
thể nói, tức là dù nói, cũng nói không ra cứu kính có bao nhiêu.
Lại nữa, A Dật Đa ! Nếu có người vì kinh này, mà đi đến phòng Tăng, hoặc ngồi, hoặc đứng, nghe trong giây lát, thì nhờ công đức đó, mà tái sinh đời sau, được voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng, đồ thượng hạng và cung điện.
Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Nếu như có người, vì ngưỡng mộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà đến chỗ chư Tăng ở, hoặc là ngồi, hoặc là đứng, để nghe Kinh Pháp Hoa trong chốc lát. Do công đức đó, mà tái sinh đời sau, được sinh vào nhà vua, có đủ voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng, hoặc được sinh về cõi trời có cung điện bảy báu.’’
Nếu lại có người, ngồi ở nơi giảng pháp, có người đến mà khuyên bảo, khiến cho họ ngồi nghe pháp, hoặc phân chia chỗ cho họ ngồi, thì công đức của người đó, khi chuyển thân khác, sẽ được chỗ ngồi của trời Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của vua Chuyển luân thánh vương.
Nếu lại có người, ngồi ở nơi giảng pháp nghe Kinh Pháp Hoa, sau đó lại có người đến bèn khuyên họ ngồi xuống nghe kinh, hoặc phân chia nửa chỗ của mình cho họ ngồi, hai người cùng ngồi một chỗ, hoặc nhường chỗ ngồi cho họ ngồi, thì công đức của người đó, khi tái sinh đời sau, sẽ được chỗ ngồi của trời Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Thiên Vương hoặc chỗ ngồi của vua Chuyển Luân Thánh Vương.
Các vị ! Nếu như có người đến Phật Giáo Giảng Đường nghe
kinh, phải chiêu đãi giúp tìm chỗ ngồi. Nếu có người không có chỗ ngồi, thì hãy
chia nửa chỗ ngồi của mình cho họ ngồi, hoặc là nhường chỗ ngồi của mình cho họ
ngồi, thì tương lai chắc chắn sẽ có phước báu. Tóm lại, phàm là người đến nghe
kinh thì phải chiêu đãi, đừng giống như người gỗ, chẳng đếm xỉa gì đến họ,
khiến cho họ sinh sợ, lần sau họ chẳng dám đến nữa. Phải biết chiêu đãi khách, là
lễ phép chứ chẳng phải phan duyên, điểm này phải chú ý.
A Dật Đa ! Nếu lại có người, nói với người khác rằng : Có kinh tên là Pháp
Hoa, chúng ta có thể cùng nhau đến nghe, người đó nghe lời, bèn đến nghe trong
chốc lát. Công đức của người đó chuyển thân sau, được sinh cùng một chỗ với Bồ
Tát Đà
Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Nếu như lại có người, nói với người khác rằng
: Hiện nay có đạo tràng giảng Kinh Pháp Hoa, chúng ta có thể cùng nhau đi đến nghe.
Người đó nghe lời khuyên, đi đến nghe Kinh Pháp Hoa trong chốc lát. Người
khuyên và người nghe kinh đó, đắc được công đức, khi sinh thân sau sẽ cùng sinh
một chỗ với Bồ Tát Đà
Hiện tại Phật Giáo Giảng Đường đang giảng Kinh Pháp Hoa. Các vị có thể khuyên
các người thân bạn bè, khiến cho họ đến nghe kinh. Chẳng những các vị có công đức,
mà người thân bạn bè của quý vị, cũng được công đức, trồng xuống căn lành,
phước báu tương lai không thể hạn lượng.
Trong trăm nghìn vạn đời, chẳng bao giờ bị câm, hơi miệng chẳng hôi thối, lưỡi
thường chẳng có bệnh tật, miệng cũng chẳng có bệnh tật, răng chẳng dơ, chẳng đen,
chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong. Môi
chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, chẳng thô rít, chẳng ung nhọt, cũng
chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen xạm,
chẳng có các sự đáng chê.
Trong trăm nghìn vạn đời chẳng mắc bệnh câm. Trong miệng chẳng có mùi hôi, thân
chẳng tỏa ra mùi hôi. Người tu hành mà chẳng giảng kinh thuyết pháp, thì sẽ mắc
bệnh câm; người tu hành chẳng giữ gìn giới luật, thì sẽ tỏa ra mùi hôi thối.
Nếu khuyên người khác nghe kinh, thì được công đức lưỡi chẳng bị bệnh tật,
miệng chẳng bị bệnh tật, răng chẳng dơ, chẳng đen, chẳng vàng, chẳng thưa, chẳng
thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong, rất ngay thẳng và trắng sạch.
Môi rất đẹp, chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, cũng chẳng thô rít, cũng
chẳng bị nhọt, cũng chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, cũng chẳng dày lớn,
cũng chẳng đen xạm, chẳng có chỗ khiến cho người nhàm chán. Có người môi thì
trời bao đất (môi trên thì dài môi dưới thì ngắn), hoặc đất bao trời (môi trên
thì ngắn môi dưới thì dài), đó là do tiền kiếp thích nói chuyện thị phi mà bị
quả báo.
Mũi chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen, cũng chẳng dài hẹp, cũng chẳng
cong trũng, chẳng có những tướng khiến cho người thấy chẳng vui.
Mũi ngay thẳng, cũng chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen cũng chẳng dài
hẹp, cũng chẳng trũng ngắn. Chẳng có những tướng khiến cho người thấy chẳng
vui. Muốn khiến cho sáu căn trang nghiêm, thì hãy làm nhiều công đức lành, đừng
làm việc tội ác. Phàm là người có ngũ quan đoan chánh, thì không cần hỏi mà vẫn
biết, nhờ công đức vậy.
Môi lưỡi răng thảy đều tốt đẹp trang nghiêm, mũi thì cao thẳng. Mặt mày tròn
đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, nhân tướng đây đủ. Đời đời sinh ra
đều gặp Phật, nghe pháp tin nhận lời của Phật dạy.
Đây là người khuyên người khác đi nghe kinh, và người nghe lời khuyên đi nghe kinh,
đều được môi lưỡi răng tốt đẹp trang nghiêm. Mũi thì cao thẳng, mặt mày tròn
đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, tướng tốt đầy đủ, đời đời sinh ra nơi
nào cũng được thấy Phật, nghe pháp, sinh niềm tin, tiếp nhận lời Phật dạy, tức
là y giáo phụng hành.
A Dật Đa ! Ông xem đó, khuyên một người khiến cho họ đến nghe pháp, mà được công
đức như thế, hà huống là một lòng nghe giảng, đọc tụng, rồi ở trong đại chúng,
vì mọi người phân biệt giải nói pháp tu hành.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Ông hãy xem, chỉ khuyên một người đến đạo
tràng nghe pháp, mà được công đức nhiều như thế. Hà huống là chuyên tâm nghe
giảng, đọc tụng, ở trong đại chúng lại hay phân biệt vì người giải thích pháp
tu hành, công đức đó càng rộng lớn.’’
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Đức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, bằng kệ dưới đây.
Nếu người trong pháp hội
Được nghe kinh điển này
Cho đến một bài kệ
Tùy hỷ với người nói.
Như vậy lần lượt dạy
Đến người thứ năm mươi
Người cuối cùng được phước
Nay sẽ phân biệt nói.
Nếu như có người, ở trong pháp hội được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến
một bài kệ, mà có sở tâm đắc, tùy hỷ đối với người khác giảng nói nghĩa lý bài
kệ đó. Cứ như thế truyền dạy đến người thứ năm mươi, thì người đó đắc được
phước báu như thế nào ? Nay ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói, mong rằng các
ông hãy lắng nghe.
Như có đại thí chủ
Bố thí vô lượng chúng
Tròn đủ tám mươi năm
Tùy ý muốn của họ.
Thấy họ tướng già nua
Tóc bạc và mặt nhăn
Răng rụng hình khô gầy
Nghĩ họ chết sắp đến.
Lần lượt nói ra, như có vị đại thí chủ, dùng đủ thứ của cải vật chất, để bố thí
cho vô lượng vô số chúng sinh đã hơn tám mươi năm, tùy ý muốn cần dùng của họ,
đều khiến cho họ mãn nguyện.
Vị đại thí chủ đó, thấy những chúng sinh đó đã già nua, tóc bạc mặt nhăn, răng rụng,
hình hài khô gầy. Lại biết họ sống chẳng còn bao lâu, bèn khởi tâm thương xót, khiến
cho họ thoát khỏi biển khổ sinh tử, đến được bờ Niết Bàn bốn đức : Thường, lạc,
ngã, tịnh.
Nay ta nên dạy họ
Khiến cho được đạo quả
Bèn dùng phương tiện nói
Pháp Niết Bàn chân thật.
Đời đều chẳng lâu bền
Như bọt nước ngọn lửa
Các ông phải nên biết
Sớm sinh tâm nhàm lìa.
Bây giờ ta phải dạy họ pháp môn tu ra khỏi thế gian, khiến cho họ đều đắc được đạo
quả A
Tất cả sự tướng thế gian đều chẳng vững bền, đều hư vọng huyễn hóa chẳng thật. Giống
như bọt nước ngọn lửa đều vô thường. Các ông nên biết đều là không, đừng tham
luyến hồng trần, hãy mau nhàm lìa thế giới Ta Bà, trở về ngôi nhà tự có sẵn;
cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Mọi người nghe pháp đó
Đều đắc A La Hán
Đầy đủ sáu thần thông
Ba minh tám giải thoát.
Người năm mươi cuối cùng
Nghe bài kệ tùy hỷ
Người này phước hơn kia
Không thể ví dụ được.
Những chúng sinh đó, nghe pháp của vị đại thí chủ đó rồi, bèn phát tâm tu hành,
sau đó hết thảy đều đắc được quả A La Hán.
Họ có đủ sáu thần thông, sáu thần thông là gì ?
1). Thiên nhãn thông : Nhìn thấy được cảnh giới khoái lạc của trời người, lại thấy
được tình hình thọ khổ dưới địa ngục, rõ ràng như xem truyền hình.
2). Thiên nhĩ thông : Chẳng những thấy được hành động của trời người, mà còn nghe
được trời người nói chuyện, giống như nghe máy thu băng.
3). Tha tâm thông : Biết được trong tâm kẻ khác nghĩ việc gì.
4). Túc mạng thông : Quán sát được nhân duyên quá khứ, và nhân quả tương lai của
chính mình và người khác.
5). Thần túc thông : Có thể hành động ở trong định, hoặc đi đứng ở trong hư
không, đến đi tự tại, nhậm vận tự tại, chẳng bị điều kiện hạn chế nào.
6). Lậu tận thông : Tức là quét trừ tất cả phiền não, chẳng có mọi vọng tưởng. Các
lậu đã sạch, chẳng thọ thân sau nữa. Ngoại đạo chỉ có năm thần thông, mà chẳng
có lậu tận thông.
Lại có đủ ba minh và tám giải thoát. Ba minh :
1). Túc mạng minh.
2). Thiên nhãn minh.
3). Lậu tận minh.
Tức cũng là biết tướng sinh tử đời quá khứ của mình, và của
người khác; lại biết tướng sinh tử vị lai của mình, và của kẻ khác; lại biết tướng
khổ hiện tại, trí huệ đoạn sạch tất cả phiền não. Ba minh ở tại Phật là ba đạt,
ở tại A
Lần lượt đến người thứ năm mươi, họ chỉ nghe được một bài kệ Kinh Pháp Hoa, mà tùy
hỷ công đức, thì đắc được phước báu, lớn hơn so với vị đại thí chủ gấp trăm
lần. Phước báu đó chẳng cách chi nói hết được, dù dùng ví dụ để hình dung, cũng
chẳng nói được bờ mé của nó.
Lần lượt nghe như vậy
Phước đức còn vô lượng
Hà huống trong pháp hội
Người đầu nghe tùy hỷ.
Lần lượt nghe kinh như thế, còn được vô lượng phước báo, hà huống là người đầu
tiên ở trong pháp hội nghe, mà tùy hỷ công đức, công đức của người đó càng lớn
hơn. Các vị chú ý ! Phàm là nơi nào có giảng kinh thuyết pháp, mà tùy hỷ tham
gia, thì nhất định có phước đức không thể nghĩ bàn.
Nếu khuyên được một người
Dẫn họ nghe Pháp
Nói
Ngàn vạn ức khó gặp.
Bèn nghe lời đến nghe
Cho dù nghe chốc lát
Phước báu của người đó
Nay sẽ phân biệt nói.
Nếu như có người dẫn họ đến đạo tràng (chùa) nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, và
nói với họ : ‘’Kinh Pháp Hoa là kinh thâm áo vi diệu nhất, trong trăm nghìn vạn
kiếp khó gặp được.’’ Tóm lại, chẳng dễ gì gặp được cơ hội có người giảng Kinh
Pháp Hoa. Cho nên, tôi khuyên các vị phải tùy hỷ nghe kinh, bất cứ người nào
giảng kinh gì, ở trong phạm vi có khả năng, thì phải tham gia pháp hội, được phước
báo chẳng nhỏ. Có cơm có thể không ăn, nhưng kinh thì không thể không nghe, có
tư tưởng như thế, thì mới là tiêu chuẩn của Phật giáo đồ. Nên nhớ, không thể
một bên thì nghe kinh, một bên thì khởi vọng tưởng, hoặc là ngủ gục, do đó có
câu: ‘’Tâm chẳng chú ý, thì thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe.’’ Pháp sư
giảng giải nghĩa kinh mà chẳng hiểu biết. Tại sao như vậy ? Vì chẳng lọt vào
tai.
Người đó nghe lời bèn đến đạo tràng nghe Kinh Pháp Hoa, dù trong
thời gian rất ngắn, mà chuyên tâm nghe giảng, thì người đó đắc được phước báu,
nay ta (Đức Phật) sẽ phân biệt nói cho ông (Bồ Tát Di Lặc) nghe.
Đời đời miệng chẳng bệnh
Răng chẳng thưa vàng đen
Môi chẳng dày co thiếu
Chẳng có tướng đáng chê.
Lưỡi chẳng khô đen ngắn
Mũi vừa cao lại thẳng
Trán rộng và bằng phẳng
Mặt mày rất đoan nghiêm.
Khiến người hoan hỷ thấy
Hơi miệng chẳng hôi thối
Thơm như hoa ưu bát
Thường từ trong miệng ra.
Người tùy hỷ nghe Kinh Pháp Hoa, đắc được phước báu đời đời miệng chẳng có bệnh,
răng chẳng thưa, chẳng vàng, chẳng đen, rất ngay thẳng, đều trắng sạch. Bậc
Thánh nhân có bốn mươi cái răng, phàm phu có ba mươi hai cái, Phật có bốn mươi
cái răng. Bồ Tát
Vị A
Người tùy hỷ Kinh Pháp Hoa thì môi chẳng dày, cũng chẳng
mỏng, vừa đẹp. Lại chẳng co chẳng thiếu, rất đoan chánh, chẳng có tướng đáng
chê. Lưỡi chẳng khô khan, chẳng đen xạm, chẳng ngắn nhỏ. Mũi vừa cao vừa thẳng,
chẳng cong gãy. Trán thì rộng bằng phẳng. Mặt như trăng rằm, mắt màu xanh biếc,
hoàn toàn trang nghiêm. Ngũ quan của người đó đoan chánh, ai ai cũng hoan hỷ thấy
họ. Trong miệng của người đó, chẳng có hơi hôi thối, thường tỏa ra hương vị
thơm của hoa ưu bát, vì thường đọc tụng Kinh Pháp Hoa.
Nếu đi đến nhà
Mu
Hoan
Nay sẽ nói phước đó.
Sau sinh trong trời người
Được voi ngựa xe báu
Châu báu và kiệu cáng
Và ngồi cung điện trời.
Nếu như có người muốn nghe Kinh Pháp Hoa, mà đến chỗ của chư Tăng ở, dù nghe
kinh này trong thời gian chốc lát, mà sinh tâm tùy hỷ, y giáo phụng hành, nay
ta sẽ vì ông nói ra phước báu của họ đắc được. Sau khi người đó chết đi, chẳng
sinh về cõi trời, thì sinh vào cõi người, được voi ngựa xe báu. Ở cõi trời thì
được ở cung điện trời, đắc được phước báu như thế.
Nếu ở nơi giảng pháp
Khuyên người ngồi nghe kinh
Nhờ phước đó nên được
Tòa Thích Phạm chuyển luân.
Hà huống một lòng nghe
Giải nói nghĩa lý kinh
Như lời nói tu hành
Phước đó chẳng hạn lượng.
Nếu như ở chỗ giảng kinh thuyết pháp, mà khuyên họ ngồi xuống nghe kinh, do
nhân duyên đó nên được phước báo, tương lai có thể ngồi ở chỗ ngồi của trời Đế Thích,
hoặc chỗ ngồi của Đại Phạm Thiên Vương, hoặc chỗ ngồi của vua Chuyển Luân Thánh
Vương. Hà huống tự mình chuyên tâm nghe kinh, giải nói được nghĩa lý của Kinh
Pháp Hoa, y theo pháp nói trong Kinh Pháp Hoa mà tu hành, thì được phước báu
không thể hạn lượng.