Ý NGHĨA CÂU
ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM
TRONG KINH KIM CANG
A. DẪN NHẬP:
1. Lý do chọn đề tài:
Kinh Kim Cang là một trong những
bộ Kinh trọng yếu của
Phật giáo Đại thừa. Có lẽ vì
bộ kinh này cô đọng,
hàm súc tinh hoa lời Phật dạy, nên kinh này được khắc trên đá và khắc trên gỗ.
Bộ kinh này được các bậc cao
đức Phật giáo và giới nghệ nhân đặt lên
vị trí hàng đầu.
Trong thời
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602-675),
Kinh Kim Cang đã
phổ biến khá
rộng rãi trong
giới học Phật, ngay cả trong giới
cư sĩ. Chính nhờ Kinh này, một Bồ-tát tiều phu ở Lĩnh Nam đã đến với
đạo Phật và
trở thành bậc
Tổ Sư Long Tượng siêu việt nhất
trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa, đó là
Lục Tổ Huệ Năng.
Câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là câu nói
cốt lõi của
kinh Kim Cang
cũng là câu nói
nổi tiếng của
giới học Phật, nhất là
Thiền Tông, dùng câu này làm
yếu chỉ tu hành. Khi xưa
ngũ tổ Hoằng Nhẫn thấy
nhân duyên truyền tâm ấn cho
Huệ Năng đã đến, Ngài bèn
mật hiệu cho
Huệ Năng vào thất rồi
giảng Kinh Kim Cang, đến câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài
Huệ Năng liền hoát nhiên
đại ngộ.
Vì câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” có một tầm quan
trọng như vậy nên
người học Phật không thể nào không nắm bắt được
ý nghĩa thâm sâu của nó. Hiểu được “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là ta đã hiểu được
cốt lõi
của
kinh Kim Cang. Chính vì
lý do này mà người viết chọn đề tài : “Ý nghĩa câu ‘ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ trong kinh Kim Cang”.
2. Lịch sử đề tài:
Vì
kinh Kim Cang là một
bộ kinh trọng yếu của
Phật giáo nên kinh này được rất nhiều
học giả cũng như được nhiều
Thiền sư giảng giải như :
- Về Trung Hoa có "Kim Cang Bát-nhã kinh sớ" của Ngài
Trí Khải đời Tùy, "Kim Cang Bát-nhã sớ" của Ngài
Kiết Tạng đời Tùy, "Kim Cang
Bát-nhã ba-la-mật kinh lược sớ" của Ngài
Trí Nghiêm cũng thuộc đời Đường , "Kim Cang giảng lục" của ngài Thái Hư…
- Về
Việt Nam thì có “Kinh
Kim Cang giảng giải” của HT. Thích Thanh Từ, “Kim Cang Gươm Báu Chặt Đứt Phiền Não” của
Thiền Sư Thích
Nhất Hạnh, “Kinh
Kim Cang Dịch Và Lược Giải” của HT. Thích Thiện Hoa …
Trên đây là những bộ sách có
giá trị giảng giải ý nghĩa thâm sâu của
kinh Kim Cang, thế nhưng người viết chưa
tìm thấy cuốn sách nào viết về câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh này, nếu có chăng chỉ thấy một vài bài viết nhỏ, hoặc chỉ thấy câu này được đem ra
thảo luận trên các
diễn đàn Phật giáo hay được
thảo luận trong cuộc đối thoại giữa các vị
Thiền sư. Còn đối với
bản thân người viết khi chọn đề tài này
nghiên cứu, người viết cũng không nghĩ mình đóng góp gì nhiều cho việc
nghiên cứu kinh Kim Cang, mà chỉ nghĩ mình sẽ đóng góp một tí gì đó nhỏ nhoi trong
việc làm sáng tỏ câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” cũng là nắm bắt
yếu chỉ của
kinh Kim Cang.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đây là đề tài nghiêng về lĩnh vực
lý luận giải thích nên trong quá trình
trình bày đề tài, người viết
sử dụng phương pháp giải thích, phân tích,
bình luận là chủ yếu. Bên cạnh đó người viết cũng
dẫn chứng thêm một vài
bài kệ thiền có
giá trị để làm cho
ý nghĩa đề tài càng thêm
sáng tỏ.
B. NỘI DUNG:
I. GIỚI THIỆU KINH KIM CANG:
1. Quá trình phiên dịch Kinh Kim Cang:
1- Ngài Cưu-ma-la-thập (Kumãrajiva) ở chùa
Thảo Đường tại
Trường An. Vào
niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ tư, tức là năm 402 Tây lịch, thuộc đời
Dao
Tần, Ngài dịch tên kinh là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật". Đây là bản có
giá trị nhất, được gọi là định bản, vì bản dịch này được
mọi người dùng để trì tụng. Bản này nằm trong bộ
Tam Bảo tụng
hằng ngày ( Kinh
nhật tụng).
2- Ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) đời Ngụy dịch tên kinh cũng đồng với bản trên tức là "Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật"
vào khoảng 508 Tây lịch.
3- Ngài Ba-la-mật-đà (Paramàrtha) -Trung Hoa dịch là Chân Đế- dịch vào đời Trần, khoảng giữa thế kỷ thứ VI, để tên là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật".
4- Ngài Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta) đời Tùy, khoảng đầu thế kỷ thứ VII dịch tên cũng đồng là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật".
5- Ngài
Huyền Trang đời Đường, khoảng giữa thế kỷ thứ VII, dịch chung trong bộ Đại Bát-nhã, 600 quyển, gồm 16 hội, "Kim Cang" là hội thứ 9, quyển 577 trong bộ Đại Bát-nhã.
6- Ngài
Nghĩa Tịnh, đời
Đường đầu thế kỷ thứ VIII, dịch tên kinh là "Phật thuyết năng đoạn
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh". Ngài có đi
Ấn Độ mang
bản chữ Phạn về.
Sáu nhà dịch đồng một
bản kinh, nhưng về sau được chú ý nhất là bản của các ngài Cưu-ma-la-thập, ngài
Huyền Trang và ngài
Nghĩa Tịnh.
2. Giải thích đề kinh “Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật:
- Kinh là chữ Hán. Kinh là những lời giảng dạy của
đức Phật góp lại thành bộ. Kinh là
khế kinh tức là khế lý và
khế cơ. Tất cả những kinh Phật đều phải đủ
hai nghĩa khế lý
khế cơ, nghĩa là vừa hợp
chân lý, vừa hợp
căn cơ người. Thiếu một trong hai điều kể trên thì chưa gọi là kinh được, vì chủ yếu của
đạo Phật cốt
giáo hóa chúng sanh giác ngộ, thấy được lẽ thật (đúng
chân lý) và
chúng sanh tin nhận được (hợp
căn cơ).
Khế cơ và khế lý còn có thể hiểu là
tùy duyên và
bất biến. Kinh Phật nói
ngàn đời cũng không sai, đó là
bất biến; nhưng vào mỗi thời theo
căn cơ
mà nói, hoặc thấp hoặc cao, đó là
tùy duyên.
-
Kim Cang :
kim cang có
hai nghĩa:
1. Ngọc
Kim Cương: thuộc về loại khoáng vật rất quý giá, tánh nó rất cứng và rất bén, đã không bị các vật
phá hoại,
trái lại còn
phá hoại các
vật.
2.
Kim cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là “thép”, thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng bén và cũng không bị các vật
phá hoại,
trái lại phá hoại các vật, như khoan sắt, đục đá, dao búa… nhờ có thép mới bén.
Phật dùng “ngọc kim cương” hay “chất thép cứng” để
thí dụ trí tuệ Bát-nhã rất
quý báu và có sẵn trong
mọi người. Nó không bị các
vô minh phiền não tàn phá,
trái lại còn phá tiêu hết tất cả
vô minh phiền não từ
vô thỉ
đến nay. Nó phá một cách
rốt ráo và dễ dàng, như gió thổi mây bay,
mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi Bát-nhã-ba-la-mật :
trí tuệ rốt ráo.
- Bát-nhã là âm theo tiếng Phạn. Bát-nhã nghĩa chánh là
trí tuệ.
- Ba-la-mật là âm theo tiếng Phạn. Ba-la-mật hoặc dịch là đến bờ kia hoặc dịch là cứu kíùnh
viên mãn.
Trí tuệ được cứu kính
viên mãn gọi là
Bát-nhã ba-la-mật, vì nếu chỉ nói "trí tuệ" e có
lầm lẫn. Ở
thế gian người khôn ngoan
lanh lợi cũng gọi là người có
trí tuệ, thế nên
từ ngữ "Trí tuệ Bát-nhã" là để
giản trạch cho đừng lầm với
trí tuệ của người
thế gian.
Trí tuệ Bát-nhã là
trí tuệ thấu được lý thật, thấy được thể
chân thật của các pháp, không còn kẹt trong các
kiến chấp, trong những cái nhìn
thiên lệch chưa thấu đáo. Do thấu được lẽ thật, nên
trí tuệ này
khi đến chỗ cứu kính chẳng những phá được tất cả
tà thuyết ngoại đạo mà
còn dẹp hết những
mê lầm chấp trước của
mọi người. Cho nên khả năng công phá đó vượt hơn tất cả, dụ như
kim cương là chất cứng nhất có thể phá tan các kim loại khác mà các thứ khác không
phá hoại được nó.
-
Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật là một
trí tuệ vững chắc,
kiên cố phá dẹp tất cả
tà thuyết ngoại đạo làm cho
chúng ta sạch hết những
chấp trước sai lầm, những mê mờ
đen tối để đến bờ
giải thoát,
giác ngộ.
3. Sự liên hệ giữa Kinh Kim Cang với Thiền tông:
Dĩ nhiên ai cũng biết đức
Lục tổ khi gánh củi vào khách điếm bán, thấy có người đang
tụng kinh Kim Cang, đức
Lục tổ nghe qua, tâm liền
khai ngộ, mới
hỏi thăm và được biết là
Ngũ tổ Huỳnh Mai dạy
đồ đệ trì tụng "Kim Cang", do đó Ngài tìm đến
học đạo.
Trong
Thiền tông lúc Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma)
truyền tâm ấn cho ngài
Huệ Khả, Tổ trao bốn quyển kinh Lăng-già (Lankà) để làm
tâm ấn. Đến
đời
Ngũ tổ, thấy
Kim Cang là quyển
kinh tối yếu trong nhà Thiền, Ngài dạy: Chẳng những
tăng ni mà cả cư sĩ đều nên trì
tụng kinh Kim Cang.
Ngũ
tổ chủ trương dùng
kinh Kim Cang để
ấn tâm, thế nên khi
Lục tổ đến học,
vào trước giờ
truyền y bát, Ngài đem
kinh Kim Cang ra giảng. Khi giảng đến câu Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,
Lục tổ hoàn toàn liễu ngộ. Như vậy
Lục tổ ngộ đạo và được
truyền y bát làm Tổ cũng nhân nơi
kinh Kim Cang. Do đó
chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của kinh này đối với
Thiền tông. Sau này
kinh Kim Cang được
xem như tâm ấn trong nhà Thiền. Trong các chùa, các
thiền viện bộ kinh này được
xem như kinh
Nhật Tụng.
Ngài
Khuê Phong cũng bảo:
Kim Cang là
bộ kinh quí đáng để
ấn tâm. Học
kinh Kim Cang là học thẳng vào
phương pháp tu Thiền.
II. Ý NGHĨA CÂU “ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM” TRONG KINH KIM CANG:
1. Giải thích câu : “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”:
Nguyên văn đoạn kinh bằng Hán văn như sau:
"Phật cáo Tu-bồ-đề: Ư ý vân hà?
Như Lai tích tại
Nhiên Đăng Phật sở ư
pháp hữu sở đắc phủ?
- Phất dã Thế Tôn!
Như Lai tại
Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thật
vô sở đắc.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát
trang nghiêm Phật độ phủ?
- Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố?
Trang nghiêm Phật độ giả,
tức phi trang nghiêm, thị danh
trang nghiêm.
Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng
như thị sanh
thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
Nghĩa là:
Phật hỏi Tu-bồ-đề: Ý ông nghĩ sao?
Như Lai thuở xưa ở chỗ
đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, có sở đắc chăng?
- Bạch
Thế Tôn, không phải vậy!
Như Lai ở nơi
đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp,
thật không có sở đắc.
- Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Bồ-tát
trang nghiêm cõi Phật chăng?
- Bạch
Thế Tôn, không phải vậy! Vì cớ sao?
Trang nghiêm cõi Phật tức không phải
trang nghiêm, ấy gọi là
trang nghiêm.
- Thế nên Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh
tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc,
pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.
Chúng ta hiểu “tâm thanh tịnh” là tâm như thế nào ?
Tâm thanh tịnh chính
là
chơn tâm bất sanh bất diệt vốn có trong mỗi
chúng sanh,
tâm thanh tịnh này bị
che lấp bởi tâm
chấp trước theo các trần.
Vì vậy đức Phật dạy
chúng ta muốn cho
chơn tâm hiển lộ thì
chúng ta không nên
để tâm dính mắc theo
sáu trần.
Cụ thể là
chúng ta không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm.
Hay nói gọn
lại là “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nên không có chổ trụ mà sanh tâm kia. Như vậy câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là câu
kết luận của
đoạn các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh
tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Chính nhờ Bồ-tát không để
lục căn dính mắc với
lục trần, mà
chơn tâm hiển lộ, như lời
nhận xét của Ngài Bá Trượng “Tâm cảnh không đến nhau là giải thoát”. Bồ-tát nên
trụ tâm thanh tịnh nơi chổ tâm vô chấp.
Có thể nói rằng “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là một chìa khóa mở
cửa Phật tâm, giúp ta sống trong trần mà không bị trần lôi kéo, vẫn thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, thân xúc chạm nhưng tâm vẫn không đắm
nhiễm, vẫn
an nhiên tự tại. Tâm
tự tại này chính là tâm “đối cảnh vô tâm” của vua
Trần Nhân Tông trong bài thơ “Cư Trần Lạc Đạo”:
Cư trần
lạc đạo thả
tùy duyên
Cơ tắc sang hề khốn tắc miên
Gia
trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh
vô tâm mạc
vấn thiền.
Dịch :
Ở đời vui đạo cứ
tùy duyên
Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà sẵn ngọc tìm đâu nữa
Đối cảnh
vô tâm chớ hỏi thiền.
Ở trong trần mà không bị nhiễm bởi trần, sống
tùy duyên,
an nhiên tự tại
và vô
chấp trước cảnh trần, luôn
an trú nơi
chơn tâm thanh tịnh, đó là
lối sống “vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của vua
Trần Nhân Tông.
Lối sống “cư trần lạc đạo” của vua
Trần Nhân Tông càng
chứng minh rằng khi
hành giả thực hành câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì ắt một ngày nào đó
hành giả sẽ
đạt đến chổ “đối cảnh vô tâm”,
tự tại giải thoát
giữa
cuộc đời này.
2. Vì sao đức Phật khuyên chúng ta “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ?
Mở đầu
kinh Kim Cang, ngài
Tu Bồ Đề bạch hỏi : “Thế Tôn !
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn,
phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tâm,
vân hà ưng trụ,
vân hà hàng phục kỳ tâm ?”, nghĩa là “Bạch
Thế Tôn ! Người
thiện
nam, người
thiện nữ phát tâm vô thượng chánh đẳng giác nên làm sao trụ,
làm sao
hàng phục tâm kia?”. Và suốt
bộ kinh này, mọi lời dạy của
đức Phật cũng nhằm
trả lời câu hỏi này là :
- Làm sao
trụ tâm
- Làm sao
hàng phục tâm
“Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là câu
trả lời hoàn chỉnh nhất cho câu hỏi trên của ngài Tu-bồ-đề.
Trong suốt kinh Kim Cang đức Phật cũng chỉ
trả lời câu hỏi “làm sao
trụ tâm, làm sao
hàng phục tâm”, cũng chính là làm rõ
ý nghĩa của câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Đức Phật khuyên
chúng ta “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” vì“Phàm
sở hữu tướng giai thị
hư vọng. Nhược kiến
chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”. (Phàm những gì có tướng đều là
hư vọng, nếu thấy các tướng là phi tướng tức thấy
Như Lai). Phàm những gì có
hình tướng đều chịu sự
biến đổi của
vô thường, nên nói “hữu tướng tất hữu hoại”, có tướng tất có sự
hoại diệt, có sanh ra thì có mất đi,
vì vậy thật tướng của các tướng là phi tướng. Khi thấy thực của các tướng là phi tướng ắt thấy
Như
Lai, thấy
Như Lai là thấy
chơn tâm thường trú.
Khi
chúng ta nhận chân được
thực tướng các pháp là phi tướng rồi, thì
chúng ta phải
hàng phục tâm. Không để cho tâm
chạy theo trần cảnh (không
để sáu căn dính mắc
sáu trần),
trụ tâm ở chổ
không chấp, không
vướng mắc, giữ
tâm thanh tịnh,
tự tại trước sự
sinh diệt, khổ đau
vô thường của
cuộc đời.
Hàng phục được tâm
phân biệt vọng động là ta đang
trụ tâm.
Như vậy
hàng phục tâm cũng chính là
trụ tâm.
Ngài Long Tề
Hòa thượng ngộ được lý
vô trụ của kinh
Bát Nhã nên có làm
bài kệ rằng:
Tâm cảnh đốn tiêu dung
Phương minh sắc dữ không
Dục thức bổn lai thể
Thanh sơn
bạch vân trung.
Nghĩa:
Không còn
chấp tâm và cảnh
Mới ngộ được lý
sắc không
Muốn biết bổn lai thể
Kìa, mây trăng với non xanh.
Bài kệ trên tỏ cho
chúng ta biết
trạng thái của người
ngộ đạo, đã trãi qua một quá trình
hàng phục tâm “Tâm cảnh đốn tiêu dung”, nay mới
trụ tâm “Phương minh sắc dữ không”. Khi đã
hàng phục được tâm và
trụ tâm rồi
thời
chơn tâm tự hiện “Thanh sơn
bạch vân trung”. Lúc này
hành giả nhìn
cảnh vật
hiện tượng với tâm vô chấp, nhìn nó đúng như những gì nó đang
hiện hữu.
Cho nên một khi tâm dấy động theo
trần cảnh là tâm
vô minh dẫn mình
đi vào luân hồi sanh tử khổ đau.
Hành giả muốn
phát tâm vô thượng chánh đẳng giác thì phải biết cách
hàng phục tâm vọng động và
trụ tâm vô chấp bằng cách “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
3. Hành trì câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”:
Chúng ta đã hiểu phàm những gì có tướng đều
hư vọng, kể cả Phật,
giáo pháp,
quả vị vô thượng chánh đẳng giác … đều còn nằm trong tướng trạng khi tâm
chúng sanh phân biệt,
chấp trước vào đó. Nên trong quá trình
thực tập câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”,
hành giả không kẹt vào bất cứ đối tượng nào, dầu đó là
quả vị giác ngộ tối thượng.
3.1. Không
trụ tướng Phật mà sanh tâm:
Chữ ‘sanh’ ở đây chỉ là một cách nói :
Phật Tánh vốn sẵn có, vốn
Vô Sinh, chẳng thể sanh ! Nói là ‘sanh’ bởi vì khi tâm ta "Không trụ vào đâu cả " thì
Phật Tánh hoát nhiên
hiển lộ, ta
cảm thấy như là
Phật Tánh phát sanh ra vậy. Tức là Không trụ vào đâu cả thì
Phật Tánh hiển lộ.
Thế nào là “không
trụ tướng Phật mà sanh tâm” ? Trong
kinh Kim Cang đức Phật phá cái chấp “thấy cái
thân tướng của Phật là thấy được Phật” của người
tu đạo như sau:
“Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ
thân tướng kiến
Như Lai phủ? Phất dã Thế Tôn! Bất khả dĩ
thân tướng đắc kiến
Như Lai. Hà dĩ cố?
Như Lai sở thuyết
thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu-bồ-đề: Phàm
sở hữu tướng giai thị
hư vọng. Nhược kiến
chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”.
Dịch là:
“Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do
thân tướng mà thấy
Như Lai chăng? -Bạch
Thế Tôn, không phải vậy. Không thể do
thân tướng thấy được
Như Lai. Vì cớ sao?
Như Lai đã nói
thân tướng tức không phải
thân tướng.
Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là
hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”.
Trọng tâm của đoạn này là hai chữ “thấy Như Lai”, như thế nào mới thấy
Như Lai ? Thấy
thân tướng của
Như Lai mà cho rằng đã thấy
Như Lai thì thật chưa thấy
Như Lai. Vì
thân tướng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp
hiện tại của
Như Lai là do
tứ đại giả hợp, vẫn chịu
quy luật vô thường sinh diệt nên
thân tướng này là giả tướng
hư vọng, thấy
thân tướng này chưa phải thấy
Như Lai. Trong
kinh Kim Cang, lại
một lần nữa
đức Phật làm
sáng tỏ ý
này. Ngài nói với ông Tu-bồ-đề: Tu-bồ-đề, nếu do 32 tướng mà xem Như-lai thì
chuyển luân Thánh vương tức Là
Như Lai. Rồi
Thế Tôn nói
bài kệ:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ
âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành
tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”.
Nghĩa :
Nếu do sắc thấy ta,
Do
âm thanh cầu ta,
Người ấy hành
tà đạo,
Không thể thấy
Như Lai
Nếu chúng cho rằng
âm thanh,
sắc tướng của
Như Lai là
Như Lai thì không lẽ
Chuyển luân thánh vương cũng có 32 tướng tốt cũng là
Như Lai sao ? Chấp như thế là
chúng ta rơi vào
tà kiến vì thấy biết
sai lầm, nếu thấy
thật tướng của các tướng là phi tướng mới thấy
Như Lai.
Như Lai vốn
bất sanh bất diệt, không đến không đi, chính là Tánh giác sẵn có nơi mọi
chúng sanh. Nếu
chạy theo sắc tướng thanh âm mà cầu Phật, tức là cầu Phật ngoài tâm. Phật muốn
chỉ thẳng cho
chúng ta thấy Phật là Tánh giác
thường hằng của
mọi người. Đức Thích-ca do ngộ Tánh giác ấy được
thành Phật.
Mọi người chúng ta muốn cầu Phật phải xoay lại Tánh giác của chính
mình liền thấy Phật. Thấy
Pháp thân Như Lai mới thực sự thấy
Như Lai. Chính vì thế
đức Phật khuyên
chúng ta không nên
trụ tướng Phật mà sanh tâm.
3.2. Không
trụ tướng pháp mà sanh tâm:
Phá tướng Phật xong,
đức Phật lại phá tướng pháp. Trong
kinh Kim Cang Phật
phá chấp tướng pháp của người
tu đạo như sau:
“Tu-bồ-đề! Nhữ vật vị
Như lai tác thị niệm: Ngã
đương hữu sở
thuyết pháp,
mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn
Như Lai hữu sở
thuyết pháp tức vi
báng Phật, bất năng giải
ngã sở thuyết cố. Tu-bồ-đề!
Thuyết pháp giả,
vô pháp khả thuyết, thị danh
thuyết pháp. Nhĩ thời Tuệ Mạng Tu-bồ-đề
bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu
chúng sanh ư
vị lai thế, văn
thuyết thị pháp, sanh
tín tâm phủ?”.
Dịch là:
“Này Tu-bồ-đề, ông chớ bảo
Như Lai khởi nghĩ thế này, ta sẽ có nói pháp,
chớ khởi cái nghĩ ấy. Vì cớ sao? Nếu người nói
Như Lai có nói pháp tức là
phỉ báng Phật, không thể hiểu nghĩa ta đã nói. Này Tu-bồ-đề, nói pháp
đó không có pháp có thể nói ấy gọi là nói pháp. Khi ấy ngài Tuệ Mạng Tu-bồ-đề
bạch Phật rằng: Bạch
Thế Tôn, vả lại có
chúng sanh ở đời
vị lai
nghe nói pháp này sanh
lòng tin chăng?”.
Cốt lõi của đoạn này là “Thuyết
pháp giả,
vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp”, tức là “thuyết pháp là không có pháp để thuyết mới gọi là thuyết pháp”. Pháp mà
đức Phật phủ định Ngài không thuyết là chỉ cho
pháp tánh hay
thực tướng các pháp. Đứng trên mặt tướng trạng thì
chúng ta thấy có Pháp để
đức Phật thuyết nhưng đứng trên mặt
thể tánh thì không có pháp gì để thuyết, bởi vì
bản thể các pháp vốn vượt ra ngoài
lời nói tướng trạng thì làm sao dùng
ngôn từ để
diễn tả được. Đối với những đối tượngc chưa có khả năng
trực nhận tánh không này thì
đức Phật tùy duyên vận dụng
vô số phương tiện,
ngôn từ giảng giải chánh pháp, giúp
chúng sanh tiếp cận
chân lý. Nên pháp Phật chỉ là
phương tiện đưa
chúng sanh đến bờ giác. Trong
kinh Kim Cang đức Phật khẳng định : “Nhữ đẳng
Tỳ Kheo tri ngã
thuyết pháp như
phiệt dụ giả,
pháp thượng ưng xả
hà
huống phi pháp” , tức là, “Này các
Tỳ Kheo nên biết pháp của ta nói dụ
như chiếc bè, pháp còn phải bỏ huống là phi pháp”. Pháp Phật
ví như chiếc bè đưa người vượt khỏi sông mê, khi đến bờ rồi, phải bỏ chiếc bè, vì còn ôm theo chiếc bè là người mê. Cho nên pháp Phật chỉ là
phương tiện chớ không phải là
cứu cánh. Dù
đức Phật có dùng
phương tiện thiện xảo gì nói pháp chăng nữa vẫn không chỉ ra được
thật tánh các pháp.
Đức Phật đợi chúng
đệ tử đến lúc
đủ khả năng lãnh hội pháp
vô thượng, Ngài mới
chỉ thẳng “không có pháp để thuyết mới gọi là thuyết pháp”. Chính
vì
vậy mà
đức Phật từng
phát biểu “trong 49 năm ta không
nói một lời nào”.
Bằng cách phủ định cái phủ định để xác định: “không có pháp để thuyết mới gọi là thuyết pháp”,
đức Phật đã đưa
chúng ta trực nhận pháp tánh chân thực.
3.3. Không
trụ tướng “quả vị
vô thượng chánh đẳng chánh giác” mà sanh tâm:
Trong
kinh Kim Cang,
đức Phật đã
lần lượt phá các
chấp tướng của
chúng sanh như
chấp tướng Phật,
chấp tướng pháp,
chấp tướng chúng sanh,
chấp tướng bố thí… rồi bây giờ
đức Phật phá luôn chấp cái chấp “có pháp
vô thượng chánh đẳng giác để chứng đắc” của người
tu đạo. Cuộc đối thoại sau đây giữa Tu-bồ-đề và
đức Phật đã cho ta thấy sự
phá chấp này:
“Tu-bồ-đề
bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phật đắc
A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vi
vô sở đắc da? Phật ngôn:
Như thị, như thị! Tu-bồ-đề! Ngã ư
A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề,
nãi chí vô hữu thiểu pháp
khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề”.
Dịch là: “Ngài Tu-bồ-đề
bạch Phật rằng: Bạch
Thế Tôn, Phật được
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay là không được ư?
Phật bảo: Đúng như thế, như thế! Này Tu-bồ-đề, ta đối với
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhẫn đến không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Từ trước đến giờ
chúng ta cứ nghĩ rằng
Thái tử Sĩ Đạt Ta sau 49 ngày
nhập định dưới cội Bồ-đề đã
chứng đắc quả
vô thượng chánh đẳng giác, thế
mà nay
đức Phật lại phủ định “ta đối với
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhẫn đến không có một chút pháp có thể được”. Vì sao Phật lại nói không có pháp
vô thượng chánh đẳng giác để
chứng đắc ? Vì pháp
vô thượng
chánh đẳng giác là
chơn như, là
Phật tánh, vốn không
sanh không diệt, không đến không đi, nó không mất, cũng không phải còn. Nếu
chúng ta chấp
có “pháp
vô thượng chánh đẳng giác” để
chứng đắc thì không lẽ “pháp
vô thượng chánh đẳng giác” có mất có được sao. “Pháp
vô thượng chánh đẳng
giác” có đắc và không đắc thì đâu còn là “pháp
vô thượng chánh đẳng giác” vì “pháp
vô thượng chánh đẳng giác” từ
xưa nay nó vẫn
y nguyên như
vậy, không mất, không còn, không sanh, không diệt nhưng vì do
chúng sanh bị
vô minh che lấp nên không
nhận ra đó thôi. Chính
vì vậy đức Phật
mới bảo ông Tu-bồ-đề : “Này Tu-bồ-đề, ta đối với
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhẫn đến không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Sự
phá chấp này của
đức Phật cho
chúng ta
thấy rằng một khi tâm ta còn
ngã chấp và
pháp chấp thì không thể nào vào được quả “vô thượng chánh đẳng giác”. Đến đây khiến ta nhớ lại câu nói của Ngài Bá Trượng : “Nếu một
hạt bụi chúng ta đập nát ra thành 100 hạt bui nhỏ, rồi 99 hạt
chúng ta thấy không, còn một hạt nhỏ xíu mà thấy
có là chưa thấy đạo”. Cửa đạo
thênh thang nhưng còn một chút ngã cũng không lọt vào được, chỉ có
trí tuệ Bát nhã phá sạch mọi
pháp chấp,
ngã chấp thì
Phật tánh tự hiện.
3.4. Nếu
mọi người trong
xã hội sống với tâm “vô sở trụ”:
Từ xưa
đến nay chúng ta thấy khổ đau
xuất hiện,
hận thù, chiến tranh
xuất hiện trong
cuộc đời này là do đâu ? Do lòng người tham đắm
sắc tài danh lợi, ta và của ta lúc nào cũng xâm chiếm
tâm hồn con người. Cái “ta” càng to lớn, họ càng
tham lam vun vén cho cái “của ta” càng nhiều. Thế nhưng họ chẳng bao giờ
thỏa mãn với những gì mình có,
hạnh phúc lại như cái bóng khi họ vừa chạm tay vào nó, nó liền vuột mất, nhường chổ cho khổ đau xâm chiếm.
Thực tế xã hội ngày nay đã nói lên điều này. Một
sự kiện nổi bật nhất là
ngày nay
nhân loại đang đứng trước thảm cảnh “suy thoái kinh tế toàn cầu”.
Nguyên nhân gây nên suy thoái kinh tế là do sự
chấp ngã của
con người,
chấp ngã là
nguyên nhân của lòng tham, lòng tham là
nguyên nhân dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, vì sao ? Có một số người muốn làm bá chủ kinh tế toàn cầu nên họ đã dùng nhiều
thủ đoạn rất tinh vi để
lọc
lừa làm cho nhiều nhà tỷ phú, nhiều ngân hàng trên
thế giới tin tưởng gởi tiền vào. Khi bộ mặt thật họ bị lột tẩy thì các ngân, các nhà tỷ phú
nào gởi tiền vào đó đều bị
phá sản vì không lấy tiền lại được. Và ở bên
Mỹ, suy thoái kinh tế xảy ra là do
nguyên nhân : sau vụ 11-9, nước Mỹ có chính sách giảm lãi suất cho vay. Khi lãi suất thấp, vì lòng
tham lợi
nhuận, người ta đã đổ xô đi vay tiền để kinh doanh nhà đất. Các ngân hàng cũng vì
tham lợi nhuận nên cho vay
thoải mái. Đến khi giá nhà đất tuột xuống thấp thì các ngân hàng không thu được tiền cho vay dẫn đến
phá sản.
Theo dự báo của James B. Stack, giai đoạn suy thoái có thể bắt đầu vào quý 4 năm 2006 hoặc đầu năm 2007.
Nguyên nhân đầu tiên được
viện dẫn để đề cập đến suy thoái là do ngân hàng trung ương các nước đều phải dùng đến bài thuốc tăng lãi suất để
kềm chế lạm phát. Lãi suất tăng sẽ có thể
dẫn đến nhu cầu
tiêu dùng giảm, hệ quả là các doanh nghiệp cũng
giảm bớt đầu tư vì nhu cầu tăng chậm. Đầu tư,
tiêu dùng đều tăng chậm, trong khi lạm phát vẫn đang có
xu hướng “dẫn dắt” lãi suất cùng tăng -
bức tranh kinh
tế thế giới vì thế mà không quá
lạc quan.
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế là làm cho nhiều nhà doanh nghiệp bị
phá
sản, nhiều người trên
thế giới thất nghiệp. Có tờ báo đăng tin một nhà tỷ phú của nước Canada, giàu đứng thứ tư trong nước, nhưng khi suy thoái
kinh tế toàn cầu, các công ty của ông bị
phá sản, ông rơi vào khủng hoảng
tinh thần và đã đâm đầu vào đường rầy cho xe lửa cán chết. Nghe nói ông là nhà tỷ phú thứ hai tự tử khi suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra. Và báo cũng đăng tải có một người
Việt Nam cư trú tại Mỹ, do thất nghiệp mà đã vào một tòa nhà bắn 13 người chết …còn rất nhiều
trường hợp
kinh khủng khác xảy ra do
hậu quả của suy thoái kinh tế toàn cầu đem lại.
Chúng ta thấy do lòng
chấp ngã sâu nặng của
con người gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu và cũng chính lòng
chấp ngã sâu nặng dẫn đến khủng hoảng
tinh thần khi
đối diện với
hậu quả của suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trong trình trạng ấy nếu
nhân loại biết
áp dụng câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của
kinh Kim Cang thì mọi khổ đau sẽ không có mặt. Vì nếu
tâm không chấp ta và cái của ta, ắt hẳn
tham lam không có mặt, tham không có mặt, tất
nhiên không có những
thủ đoạn lọc lừa, không có những
trường hợp mờ mắt vì lợi, được như thế
tự nhiên kinh tế toàn
cầu tự cân bằng ổn định. Và nếu họ đã lỡ bị lòng tham làm mờ mắt, dẫn đến
gia nghiệp tiêu tan thì, trong
hoàn cảnh này, nếu người ấy có cơ may gặp được câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của
kinh Kim cang, hiểu được câu nói này và chợt bừng tỉnh, nghĩ rằng bấy lâu nay mình như người say giữa
cuộc đời, vì
vướng mắc vào
ngã và ngã sở, bị
sắc tài danh lợi lôi kéo đến nổi bây giờ
điêu đứng khổ sở như thế này. Bây giờ đã
thông suốt lý đạo, người ấy giữ tâm mình vô chấp,
tư duy rằng cái ngã này còn
không
thật có huống gì
gia tài sự nghiệp của mình, đủ duyên nó đến hết duyên nó đi, có gì đâu mà phải
tuyệt vọng khổ đau. Nghĩ như vậy rồi, người ấy giữ tâm
vô trụ, không để sáu căn dính mắc với các trần, vì thế tâm người
ấy
lạc quan yêu đời hơn.
Quả thật, nếu
mọi người trong
xã hội hiểu và
thực hành câu : “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của
kinh Kim Cang thì họ sẽ không còn
bi quan nhu nhược trước những
biến đổi thăng trầm của
cuộc đời mà họ sẽ có một
thái độ sống tự tin, làm chủ
bản thân trước mọi
hoàn cảnh.
Thái độ sống xả ly
trong
tỉnh giác ấy không phải là sự trốn chạy hay buông lơi mà
thể hiện
tinh thần “vô sở trụ”.
C. KẾT LUẬN:
Kinh Kim Cang là
bộ kinh dùng
trí tuệ Bát-nhã sắc bén chặt đứt sạch mọi
vọng chấp (
chấp ngã,
chấp pháp hay chấp bốn tướng), đốn tận gốc
vô minh phiền não của
chúng sanh từ vô thỉ
đến nay. Nên kinh này được
ví như ngọc
kim cang có thể chặt đứt mọi sắt thép cứng rắn mà không bị hư hoại.
Vì
công năng phá chấp đặc biệt này,
kinh Kim Cang đã được
tu sĩ cũng như giới
cư sĩ, nhất là giới nghệ nhân
hành trì và
truyền bá rộng rãi.
Nếu như
kinh Kim Cang là
bộ kinh được xem là
trọng yếu của
Đại thừa Phật
giáo thì câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” được xem là
cốt lõi của
toàn bộ kinh này. Vì hầu như suốt
bộ kinh Kim Cang,
đức Phật dù đề cập đến nhiều khía cạnh nhưng hầu như chỉ để khai triển và làm
sáng tỏ ý nghĩa của câu này. Hiểu được “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là ta đã nắm bắt
tông chỉ của
kinh Kim Cang, và hiểu được câu này là ta đã biết cách
trụ tâm và
hàng phục tâm. Theo Phật muốn
trụ tâm và
hàng phục tâm,
hành giả không nên trụ chấp ở một
pháp tướng nào dù đó là
đức Phật hay
quả vị vô thượng chánh đẳng giác.
Hành giả trực nhận chơn tâm bằng tâm “vô trụ”, như tâm
vô trụ của các vị
Thiền sư “đối cảnh
vô tâm mạc vấn thiền”. Câu nói này
quả thật là kim
chỉ nan dẫn lối đưa đường người
tu Phật nắm bắt
yếu chỉ tu hành.
Câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là
yếu chỉ tu hành của những người
tu Phật mà còn có
công năng chuyển hóa những
tâm hồn bi quan, khổ đau trong
cuộc đời, giúp họ sống
tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ
bản thân trước mọi
hoàn cảnh sống. Vì thế câu nói này đã trở nên
nổi tiếng, được nhiều tầng lớp trong
xã hội biết đến.
TUỆ ĐẠT-KHOA TRIẾT
PHẬT GIÁO, KHÓA 6 (2009)
(Hoa Linh Thoại)