04 Phẩm Bồ-tát

09/06/201012:00 SA(Xem: 14650)
04 Phẩm Bồ-tát

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Tư
 Phẩm BỒ TÁT [Audio]
(The Reluctance of the Bodhisattvas)

1 Bồ-tát Di Lặc [Audio]
2 Quang Nghiêm Đồng tử [Audio]
3 Bồ-tát Trì Thế [Audio]
4 Trưởng giả tử Thiện Đức [Audio]

1)Bồ-tát Di Lặc (Maitreya). 
Vấn Đề Thọ Ký:

Bồ-tát Di Lặc tên là A Dật Đa (Ajita) và họ là Từ Thị. Trong vô lượng kiếp quá khứ, có Đức Phật hiệu là Đại Thống Trí Như Lai ra đời thì cả Đức Thích Ca (tiền kiếp) và Bồ-tát Di Lặc (tiền kiếp) cùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng mãi đến khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời thì ngài Di Lặc mới phát tâm xuất gia. Tuy xuất gia nhưng ngài Di Lặc không chú tâm tu hành nên ngài sẽ thành Phật sau Đức Phật Thích Ca gần mười tiểu kiếp. Về sau nhờ Đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy Thức nên ngài mới chứng được”Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức” và được thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở hội Long Hoa tại thế giới Ta bà nầy. Hiện nay Bồ-tát Di Lặc đang tu ở cung trời Đầu Xuất, chuyên giảng môn Duy Thức Học. Ngài đã thị hiện thành nhiều thân ở cõi trần để hóa độ chúng sinh, nhưng không ai hay biết. Một hiện thân rất quen thuộc đối với người Việt Nam và Trung Hoa là Bố Đại Hòa Thượng. Ngài thường quẩy cái đáy bằng vải và đi khắp chợ búa xóm làng để giảng giải Phật pháp cho thính chúng và phát kẹo bánh cho trẻ con. Mãi cho đến đời Lương Niên Hiếu Trịnh Minh năm thứ ba thì ngài tu hợp thính chúng tại chùa Nhạc Lâm và nói một bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc

Hóa thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhơn giai bất thức.

 Nghĩa là:

Di Lặc thật là Di Lặc

Biến hóa trăm ngàn hóa thân

Thường hiện trong đời

Mà người đời chẳng ai biết.

Bố Đại Hòa Thượngthân hình mập mạp, bụng phệ, cười hoan hỷ. Ngày nay có những bức tượng tạc Bồ-tát Di Lặc với sáu đứa trẻ bu quanh. Sáu đứa trẻ nầy là ám chỉ cho Lục tặc thi nhau quấy phá lục căn làm tâm bất tịnh.

Dựa theo Duy Thức Luận thì nếu con người biết chuyển Thức thành Trí thì sáu tên Lục tặc nầy tức là đại diện cho sáu thức sẽ được chuyển thành hai trí. Ý thức hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở cầu trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi lạc cho chúng sinh. Còn nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thứcthân thức sẽ biến thành “Thành Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra ba món hóa thân để tùy theo căn cơ của chúng sinhhóa độ.

Khi nói về Duy thức thì người học Phật phải thấu hiểu là thức thì chưa siêu việt bằng trí vì thức còn phân biệt còn trí thì biết trực tiếp mà không cần phân biệt. Thí dụ khi nhìn một cành hoa. Nếu chúng ta khởi niệm phân biệt hoa tốt, xấu…là thức tức là Tri. Còn không khởi niệm phân biệt hoa tốt xấu là Trí. Do đó Tri cạn Trí sâu.

Trong Phật giáo thì Duy thức nói về Có còn Bát nhã thì nói về Không. Tuy khác nhau về hình tướng, phương tiện nhưng cứu cánh vẫn như nhau. Người học Phật vì có bệnh chấp vào văn tự nên mới nói có sự khác biệt vì thế khi nghe nói Có thì tin thật có và khi nghe nói Không thì tin thật không mà không chịu suy tư quán chiếu để thấy cái cứu cánh của nó. Để phá hai căn bệnh chấp Có chấp Không của người học Phật, Ngài Long Thọ căn cứ vào giáo phá tướng (Kinh Bát Nhã) mà rộng nghĩa Không để phá bệnh chấp Có. Còn Ngài Vô Trước thì hiễn bày lý diệu hữu để phá bệnh chấp Không. Do đó mà Phật giáo có hai tông: Không tông là tông Bát nhãTướng tôngduy thức tông hay còn gọi là Hữu tông. Thí dụ cái nhà của chúng ta. Nếu dựa theo Hữu tông thì cái nhà là do gạch, ngói, cây, gổ, công thợ…tức là do duyên hợp mà thành nên tuy cái nhà là Có mà tự tánh là Không. Tuy nói diệu hữu nhưng cuối cùng cũng hiển bày lý chơn không. Còn theo Không tông thì cái nhà là do nhơn duyên sanh giả có nên cái nhà là Không. Trên văn tự chúng ta thấy như có khác, Hữu tông nói Có, Không tông nói Không, nhưng trên chỗ dung hội thì tuy hai nhưng mà một. Đó là nói Không thì biết cái Không của diệu hữu, còn nói Có thì biết chỉ cái Diệu hữu của Chơn không.

Bồ-tát là viết tắc của chữ Bồ-đề Tát ĐỏaPhạn ngữ là Bodhisatwa có nghĩa là Giác Hữu Tình tức là loài hữu tình đã giác ngộphát nguyện làm cho chúng sinh cũng được giác ngộ như mình tức là Hữu Tình Giác. Bồ-tát phải trãi qua 55 giai đoạn từ khi phát tâm Bồ-đề thì mới đạt được quả vị đẳng giácthành Phật. Đừng nên hiểu lầm là Bồ-tát thì lúc nào trí tuệ hay tâm thanh tịnh cũng cao hơn các vị A La Hán trong Thanh Văn.

Khi chúng ta mới phát tâm tu theo Đại thừa, làm việc vì người quên mình tức là lấy lợi tha làm phương châm hành động thì được gọi chung là Bồ-tát. Tất cả Phật tử không phân biệt tại gia hay xuất gia, nam hay nữ muốn phát tâm tu theo Bồ-tát đạo, giữ Bồ-tát giới tức là 10 giới trọng và 48 giới khinh để phá trừ tập khí ngã mạn, chấp ngã chấp pháp và nguyện hy sinh mình mà lo cứu giúp chúng sinh đều là Bồ-tát cả. Muốn thọ Bồ-tát giới thì người tu bắt buộc phải ăn chay trường vì đã là Bồ-tát thì sao lại còn ăn thịt chúng sinh? Càng quên mình, càng hy sinhchúng sinh thì càng tiến sâu trong Bồ-tát đạo. Nếu hy sinh những vật ngoài thân như tiền của, nhà cửa, xe cộ, cúng dường để in kinh viết sách, vật dụng…thì tương đối dễ làm nhưng Bồ-tát còn dám hy sinh những gì về nội thân như hiến tặng tim, gan, thận, máu huyết…đôi khi ngay cả thân xát của mình mà họ vẫn hoan hỷ thực hành.

Giai đoạn đầu kể từ khi mới phát tâm Đại thừaThập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi HướngTứ Gia Hạnh thì gọi là Đệ Nhất A Tăng Kỳ Kiếp tức là Bồ-tát Địa Tiền có nghĩa là chưa bước vào Thập Địa. Trí tuệtâm thanh tịnh của Bồ-tát Địa Tiền không bằng các vị A La Hán vì họ đã vượt ra khỏi tam giới, chứng đắc Niết bàn nên tâm rất thanh tịnh.

Giai đoạn thứ hai là Bồ-tát tu từ Sơ Địa đến Thất Địa tức là họ đã đạt được Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền ĐịaViễn hành Địa thì gọi là Đệ Nhị A Tăng Kỳ Kiếp.

Giai đoạn thứ ba là họ tu từ Bát Địa đến Thập Địa tức là Bất Động Địa, Thiện Huệ ĐịaPháp Vân Địa thì gọi là Đệ Tam A Tăng Kỳ Kiếp.

Khi mãn Thập Địa đến địa vị Đẳng giác, qua Đẳng giác đến Diệu giác tức là thành Phật. Bồ-tát Đẳng giácDiệu giác đã dứt trừ Trần sa hoặcVô minh hoặc để đến chỗ giác ngộ hoàn toàn là Phật. Khi chỉ còn một đời nữa là sẽ thành Phật như Bồ-tát Di Lặc thì gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.

Thông thường các vị Bồ-tát đã chứng quả vị cao trong Thập Địa tức là chứng được Đệ Tam A Tăng Kỳ Kiếp thì họ thường thị hiện trong thế gian nầy để giáo hóacứu độ chúng sinh dưới nhiều hình tướng khác nhau, nhưng không bao giờ để lộ tung tích thì chúng ta gọi họ là Siêu phàm Bồ-tát. Bố Đại Hòa thượnghiện thân của Bồ-tát Di Lặc vậy.

Bấy giờ Đức Phật gọi Bồ-tát Di Lặc bảo:

- Di Lặc! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Bồ-tát Di Lặc thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả! Bởi vì trước đây, trong một hôm nọ con vì Đầu Suất Thiên Vương và một số chư Thiên quyến thuộc, dạy cho họ về hạnh bất thối chuyển đối với quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng:

- Thưa ngài Di Lặc! Thế Tôn thọ ký cho ngài một đời sẽ thành Vô thượng Bồ-đề. Vậy ngài định dùng đời nào khi ngài nhận sự thọ ký ấy? Đời quá khứ? Đời hiện tại? Hay đời vị lai ư? Nếu đời quá khứ thì quá khứ đã qua rồi! Đời vị lai thì chưa đến! Đời hiện tại? Có hiện tại nào lại không vận động biến chuyển? Có hiện tại nào tồn tại cố định? Đức Phật đã thường dạy:”Này các Tỳ Kheo! Ngay bây giờ, các ông vừa có sanh, vừa có lão, vừa có diệt vong!” Hay là ngài định sử dụng cái vô sanh mà cho rằng được thọ ký ư? Nói đến vô sanh tức là chánh vị. Đã là chánh vị thì không có vấn đề thọ ký và cũng không có cái gì gọi là “được” quả vô thượng Bồ-đề. Thế thì làm sao ngài Di Lặc lại “được thọ ký” một đời? Hay là ngài dựa theo đời của chân như sanh mà được thọ ký? Hay là đời của chân như diệt mà được thọ ký? Nếu dựa theo đời của chân như sanh thì không được. Vì chân như không có sanh. Nếu dựa theo đời của chân như diệt thì cũng không được. Vì chân như không có diệt. Ngài nên biết tất cả chúng sinh đều NHƯ. Tất cả pháp đều NHƯ. Các thánh hiền cũng NHƯ. Chính Di Lặc ngài cũng NHƯ. Nếu ngài được thọ ký thì tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được thọ ký. Vì luận về nghĩa NHƯ thì không còn có cái hai. Không có cái nào khác với cái nào. Nếu ngài được Vô thượng Bồ-đề lẽ ra tất cả chúng sinh cũng được quả Vô thượng Bồ-đề! Vì tất cả chúng sinh là tướng của Bồ-đề. Nếu ngài được diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng phải được diệt độ. Vì chư Phật biết tất cả chúng sinh là tướng của Niết bàn vốn đã vĩnh cửu tịch diệt. Cho nên chẳng còn gì để diệt nữa. Vì vậy, ngài không nên lấy pháp bất thối chuyển mà dạy cho các Thiên tử. Thật ra không có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề và cũng không có người thối thất với quả Vô thượng Bồ-đề. Ngài nên hướng dẫn cho các chư Thiên nầy xả bỏ quan niệm chấp mắc về quả Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề không phải được từ nơi thân, cũng không phải được từ nơi tâm. Tịch diệt là Bồ-đề, vì diệt diệt hết các tướng chấp. Bất quán là Bồ-đề, vì xa lìa hết các trần duyên. Bất hành là Bồ-đề, vì không lưu một ức niệm, một hy vọng nào. Đoạn là Bồ-đề, vì xa lìa kiến chấp. Ly là Bồ-đề, vì lìa xa tất cả vọng tưởng. Chướng là Bồ-đề, vì chống lại tất cả mong muốn. Bất nhập là Bồ-đề, vì không dính dáng vào chuyện tục lụy. Thuận là Bồ-đề, vì thuận theo chân như. Trụ là Bồ-đề, vì hằng trụ pháp tánh. Chí là Bồ-đề, vì đạt đến chỗ thực tế của chân lý. Bất nhị là Bồ-đề, vì xa rời ý cănpháp trần. Đẳng là Bồ-đề, vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề, vì không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Tri là Bồ-đề, vì rõ biết hết tâm hành của chúng sinh. Bất hội là Bồ-đề, vì các nhập không nhóm được. Bất hiệp là Bồ-đề, vì dẹp tan hết các phiền não. Giả danh là Bồ-đề, vì biết rõ tánh của ngôn ngữ văn tự vốn không. Như hóa là Bồ-đề, vì không còn dính ở thủ, xả hai bên. Vô loạn là Bồ-đề, vì tự tâm thường trụ tướng tịch tĩnh. Thiện tịch là Bồ-đề, vì thể tự tánh lúc nào cũng vắng lặng. Bất thủ là Bồ-đề, vì xa lìa hết các phan duyên. Bất dị là Bồ-đề, vì nhìn các pháp bằng cái thấy bình đẳng. Vô tỉ là Bồ-đề, vì các pháp không có tướng đối đải để so sánh. Vi diệu là Bồ-đề, vì các pháp khó biết mà biết rõ tất cả.

Khi được Đức Phật Thích Ca thọ ký cho một đời nữa sẽ thành Phật thì Bồ-tát Di Lặc tin như vậy vì Phật nói không sai. Ngay cả khi đem hạnh bất thối chuyển có nghĩa là sự tinh tấn nổ lực tu hành, không nên thoái bước để tiến về chỗ giải thoát giác ngộ cho các vị Trời thì cũng là lời Phật dạy. Tu hành rốt ráo, thanh lọc thân tâm để chứng quả Vô thượng Bồ-đề cũng là Phật nói. Như thế Bồ-tát Di Lặc chỉ lập lại những lời Phật dạy để thuyết cho mấy vị Trời thì hoàn toàn đúng như lời dạy của Phật thì tại sao ông Duy Ma Cật lại bảo là sai?

Nếu đứng về Pháp Tướng mà nói thì thời giantương đối, là sinh diệt, là vô thường nên quá khứ đã qua, hiện tại không dừng và vị lai chưa đến. Nhưng thật ra ngay trong hiện tại đã ngầm chứa quá khứvị lai rồi chẳng hạn như trong một đời hiện tại của con người thì cũng đã có đủ quá khứ, hiện tạivị lai là sinh, già, chết. Như vậy nếu nói một đời thì dựa vào cái móc thời gian nào? Còn trưởng giả Duy Ma Cật thì dựa vào Pháp Tánh mà nói nên Pháp Tánhtuyệt đối, không thay đổi, bất sanh bất diệt là Như nên không phân biệt thời gianquá khứ, hiện tại hay vị lai. Thời gian được con người đặt ra là dựa theo khái niệm tương đối. Thí dụ như Tây phương thì họ chia là ngày, giờ, phút, giây, năm, tháng. Còn người Đông phương thì có giờ ngọ, giờ thìn…hay tháng tỵ, tháng mẹo…Cũng như nếu chúng ta ở Mỷ thì tháng 12 là mùa Đông lạnh giá trong khi ở Úc Đại Lợi lại là mùa hè nóng bức. Khi con người đang hạnh phúc vui tươi thì tâm hồn lúc nào cũng như mùa Xuân hoa nở. Còn gặp cảnh bất hạnh đớn đau thì cho dù đang ở mùa Xuân họ vẫn thấy ảm đạm u buồn như mùa Đông giá rét. Thế thì chẳng có cái gì là đồng nhất cố định cả. Cho nên khi còn thấy có sự phân biệt, thay đổi thì tâm còn vọng động tức là còn đau khổ. Vì thế nếu dựa theo Pháp Tánh thì không còn phân biệt thời giankhông gian nên không có vấn đề một đời hay một kiếp mà trước sau như một tức là không có quá khứ, hiện tại hay vị lai. Vì thế không có cái gì gọi là một đời cả.

Trong lịch sử Việt Nam có ngài Thiền Lão Thiền Sư mang sắc thái của thiền Mã Tổ. Một hôm, vua Lý Nhân Tông vào núi gặp ngài bèn hỏi:

Hòa thượng ở đây được bao lâu rồi?

 Ngài đáp:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu

 Nghĩa là:

Chỉ biết ngày tháng này

Còn xuân thu trước ai hay làm gì

Vua hỏi tiếp:

Hòa thượng ở đây làm gì?

 Ngài đáp:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.

 Nghĩa là:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong mây trắng hiện toàn chân.

Qua bốn câu thơ trả lời của ngài, chúng ta thấy ngài đang sống với thực tại chớ không bị lệ thuộc vào thời gian. Ngài không nghĩ về quá khứ mà cũng chẳng quan tâm đến tương lai và tất cả cảnh vật trước mắt ngài đều từ chơn tâm hiển lộ. Vậy người biết sống trong giây phút hiện tại là người có hạnh phúc, có an lạc. Suy nghĩ về quá khứ hoặc lo lắng quá nhiều cho tương lai chưa đến là đánh đổi cái hạnh phúc an lạc trong tay mình bằng những phiền não khổ đau không thể nắm bắt được. Thí dụ như nếu chúng ta đang nấu nồi cơm thật nóng thật ngon thì cứ thưởng thức hương vị thơm ngon của cơm bây giờ, tại sao lại phải lo lắng về quá khứ hay tương lai thì cũng như cơm đang nóng không ăn mà lại ăn cơm ngụi hay cơm sống chưa nấu.

Còn nếu nói về vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh là cái bất sanh bất diệt, là khả năng để thành Phật có sẳn trong tất cả mọi người. Do đó nếu Di Lặc được thọ ký thì chúng sinh cũng được thọ ký. Nếu Di Lặc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chúng sinh cũng được quả vị Vô thượng Bồ-đề vì tất cả chúng sinh chính là tướng Bồ-đề.

Đứng về Pháp Tướng thì Di Lặc là vị đại Bồ-tát sắp thành Phật còn chúng sinh thì vẫn trầm luân trong lục đạo luân hồi. Nhưng nếu dựa vào Pháp Tánh thì Di Lặcchúng sinh đâu có khác gì nhau bởi vì hai bên đều có Phật Tánh bình đẳng như nhau, không hơn không kém. Di Lặctrí tuệ thì chúng sinh cũng sẳn có cái trí tuệ sáng suốt nầy. Di Lặc được diệt độ thì chúng sinh cũng được diệt độ. Đứng về Tướng thì thấy có chúng sinh để độ, có pháp môn để tu, có quả vị để chứng, có phân biệt thời gian, không gian, có phân biệt tốt xấu, thiện ác, có tu bất thối chuyển…Đây chính là cái nhìn của Tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện để hướng dẫn những người sơ cơ tu tâm sửa tánh, bỏ ác phục thiện. Họ thấy có quả vị để chứng, có trí tuệ phát sinh nên mới cố gắng tu hành. Đây cũng còn gọi là giáo lý bất liễu nghĩa.

Nhưng thật ra dựa theo tư tưởng Đại thừa tức là giáo lý liễu nghĩa thì Bồ-đề phát xuất từ tự tánh thanh tịnh nên không có cái gì là thối chuyển hay bất thối chuyển. Thật ra quả Bồ-đề không là cái gì cả vì nó chẳng ở xa, chẳng ở gần, chẳng ở thấp, chẳng ở cao, chẳng ở trên, chẳng ở dưới. Nó không có kích thước nặng nhẹ, lớn nhỏ, vuông tròn, không có màu sắc, hình tướng cho nên khi Bồ-tát Di Lặc dạy các vị Thiên tử tu hạnh bất thối chuyển để đạt quả vị Bồ-đề thì ngài dạy họ đạt cái gì? Bởi vì Bồ-đề phát xuất từ trong tự tánh của mọi chúng sinh. Nếu tự tánh của mình hoàn toàn thanh tịnh, không còn phiền não vô minh, không còn các dục vọng ô nhiễm thì có Bồ-đề nên không có vấn đề thối chuyển hay không thối chuyển. Mọi người đều có tự tánh Bồ-đề vì Bồ-đề là về mặt trí tuệ giác ngộ, nhận thức chân lý và nhìn đời bằng con mắt khách quan đứng đắn chớ không phải do ý niệm chủ quan thiên lệch. Còn Niết bàn là về mặt giải thoát cho nên không còn phiền não khổ đau thì có Niết bàn ngay. Do đó cái tự tánh thanh tịnh khách quan cùng với nhận thức chân lý khách quan trong sáng và không sai lầm thì chính là Bồ-đề vậy. Vì thế dựa theo tư tưởng Duy Ma Cật thì:

Tịch diệt là Bồ-đề. Tịch diệtvắng lặng tất cả những tham vọng, những lục dục thất tình, những tham-sân-si, mạn nghi, phiền não cho nên có tịch diệt là có Bồ-đề.

Bất quán là Bồ-đề. Quán là tưởng tượng nhớ lại những chuyện về quá khứ hay tương lai, chuyện gần chuyện xa, chuyện giàu chuyện nghèo, chuyện mình chuyện người làm cho tâm bất tịnh. Nếu không quán tưởng như thế tức là đừng có ảo tưởng về quá khứ, đừng có mù quán về hiện tại và đừng mộng tưởng về tương lai thì tâm thanh tịnh tức là có Bồ-đề.

Bất hành là Bồ-đề. Hành tức là tâm hành. Bất hành là tâm không còn nghĩ chuyện quá khứ, chuyện hiện tại hay chuyện tương lai và không còn nhớ thiện nhớ ác, nhớ tốt nhớ xấu. Vì thế Lục Tổ cũng nói không nghĩ thiện, nghĩ ác thì thấy được Chơn tâm tức là có Bồ-đề.

Đoạn là Bồ-đề. Đoạn là xa lìa kiến chấp và lìa các vọng tưởng thì có Bồ-đề.

Ly là Bồ-đề. Nếu con người lìa xa vô minh phiền não, lìa xa dục vọng là có Bồ-đề.

Chướng là Bồ-đề. Chướng là ngăn trở những mong muốn, tham vọng. Đánh tan những ước vọng ảo huyền thì có Bồ-đề.

Bất nhập là Bồ-đề. Nhập tức là sáu căn còn tham đắm nơi sáu trần nên gọi là lục nhập. Sáu trần có sức hấp dẩn, quyến rủ làm sáu căn ham thích mà thâu nhập nó vào làm tâm chất đầy vọng tưởng. Bất nhập là mắt tai mũi lưỡi thân và ý vẫn còn nguyên mà không bị sắc thanh hương vị xúc pháp ảnh hưởng, tác động mà tạo ý niệm tham dục. Bất nhập là không còn tham trước nên tâm được thanh tịnh tức là có Bồ-đề.

Thuận là Bồ-đề. Thuận là tùy thuận Pháp Tánh. Theo giáo lý của đạo Phật thì tự tánh của mọi ngườithanh tịnh bản nhiên cho nên tùy thuận với tự tánh thanh tịnh bản nhiên là có Bồ-đề.

Trụ là Bồ-đề. Khi lìa tâm vọng tưởng, điên đảoquay về với Pháp Tánh thanh tịnh thì có Bồ-đề.

Bất nhị là Bồ-đề. Bỏ tánh phân biệt tốt xấu, cao thấp, thiện ác. Con ngườixóa bỏ được biên giới nhị nguyên để quay về với chân lý Nhất Như tức là tất cả là một và một là tất cả thì có Bồ-đề.

Đẳng là Bồ-đề. Bình đẳng tức là không còn chấp ngã, chấp pháp. Mình cũng không mà người và vũ trụ cũng không nên tâm thanh tịnh tức là có Bồ-đề.

Vô vi là Bồ-đề. Vô vi là không sanh diệt, không tạo tác, không thay đổi, xa lìa Tướng hư vọng và là Thể Tánh của các pháp nên rất thanh tịnh tức là Bồ-đề.

Trí tuệ của mọi ngườithật tánh để có khả năng trực nhận chân lýTự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẳn trong tất cả mọi người. Tự tánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, Phật Tánh là có sẳn chớ đâu phải tu hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thì không biết mìnhPhật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng như trong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò tay vô lấy thì sẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay. Trong tánh Không tức là Tự Tánh thanh tịnh bản nhiên thì không có trí tuệ hay chứng đắc gì cả. Vì thế Tâm Kinh mới có câu:”Vô trí diệc vô đắc” và “Dĩ vô sở đắc cố” là vậy. Trong Chân Không Diệu Tánh, Phật Tánh thì luôn sẳn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói, là giả danh để tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai Diện Mục của mình mà thôi. Vì thế mà Kinh Hoa Nghiêm trong thời Nhật xuất tiên chiếu thì Phật đã xác định là”Tất cả chúng sinh sẽ thành Phật vì trong tất cả chúng sinh đều có đủ phước đức trí tuệ Phật”. Và Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập Niết bàn trong thời Nhật một hoàn chiếu là” Tất cả chúng sinh đã thành Phật”.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật Thích Ca dạy rằng “Như Lai không chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác gì cả”. Sở dĩ Ngài không chứng mà thế gian đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và cũng không có tướng thọ giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng không thương, không ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và Như Lai luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào trong quỷ đạo của ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề chớ thật ra Như Lai đâu có chứng đắc gì đâu. Nhưng Như Lai nói không chứng đắc mà thật ra Như Laichứng đắc. Cái chứng đắc nầy là vô thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không phải là không. Tại sao không là thật? Bởi vì cái mà Như Lai chứng đắc thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có kích thước, nặng nhẹ, không có văn tự ngôn ngữ để diễn tả. Thế thì cái mà Như lai chứng đắckhông thật có. Nhưng nếu không thật thì phải là hư. Vậy mà cái quả chứng đắc của Như Lai lại là vô hư. Tại sao? Là vì Như Lai có đầy đủ trí tuệ để nhận thức chân lý hoàn toàn đúng, đúng theo tự tánh Bồ-đề và tự tánh thanh tịnh Niết bàn của sự vật hiện tượng, đúng theo Thật Tánh của con người, đúng theo Pháp Tánh của vạn pháp cho nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não khổ đau, tâm luôn thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là không phải là không có. Cho nên Tâm Kinh mới có câu:”Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” có nghĩa là Có tức là Không và Không mới chính là Có vậy. Khi vào chùa gặp các vị Tăng thì làm sao chúng ta biết vị nào chứng đắc và vị nào chưa chứng đắc? Trong Phật giáo thì chứng đắc là vô thực thì đâu có ai cấp bằng hay chứng chỉ chứng đắc cho ai đâu. Thượng Tọa, Hòa thượng là những danh xưng, là những giả danh để gọi chớ nó không phản ảnh đúng con người thật hay Bản tâm của họ được. Vì tu hành là vô cầu vô sở đắc tức là ngay cả chứng đắc cũng không mong cầu thì Thượng tọa hay Hòa thượng có sá gì. Nhưng vô hư thì nó sẽ phản ảnh tướng mạo uy nghi đạo đức, tư tưởng chân chính, lời nói thanh cao hòa nhả, hành động đúng với chân lý, không còn tánh tham tật đố, loại bỏ tập khí ngã mạn, làm việc vì chúng sinh chớ không mong cầu lợi ích gì cho riêng mình. Vị nào đạt được những đặc tính đó thì là người chứng đạo. Có vô hư mới thành vô thực được. Chỉ có tư tưởng Đại thừa tức là giáo lý liễu nghĩa thượng thừa mới cho chúng ta cái nhìn thâm sâu huyền diệu như vậy.

Như thế thì không riêng gì Bồ-tát Di Lặc được Phật thọ ký mà chính Đức Phật cũng đã thọ ký cho tất cả chúng sinh từ lâu rồi.

Thế là:

Chẳng cần chờ đến “Long Hoa hội”

Tự tánh đã từng “thọ ký” xong.

Nếu nói theo giáo lý phương tiện là có pháp môn để tu, có Bồ-đề để chứng tức là vẫn còn có chấp. Cũng vì còn chấp ngã, chấp pháp nên Phật tử tại gia cúng vái cầu xin, còn người xuất gia thì chấp cứng vào hình tướng, lấy phương tiện làm cứu cánh, càng thêm ràng buộc thì làm sao có thể giải thoát mà thấy được Bồ-đề? Vì thấy chỗ mắc kẹt nầy mà tư tưởng Duy Ma Cật sẽ dẫn dắt chúng sinh đến một thế giới của Bản Tâm thanh tịnh mà đã có sẳn trong tất cả mọi người không phân biệt tại gia hay xuất gia. Ông Duy Ma Cật giúp chúng sinh phá tan các chấp, cho dù là chấp Có, chấp Không hay chấp ngã chấp pháp để lìa Sự Tướng sinh diệt, biến đổi, vô thường mà nhập vào Bản Thể Tự Tánh thanh tịnh sẳn có của mình. Con người có lìa xa vọng tưởng điên đảotùy thuận Pháp Tánh Chân Như thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh tức là Bồ-đề hiễn lộ và Niết bàn hiện bày. Biết thế thì chúng sinh không cần phải cúng vái cầu xin vì không cần đi tìm kiếm những gì mình đã có sẳn. Trong Phật giáo cúng vái cầu xinhình tướng bên ngoài vì cầu mà được thì sinh ra kiêu căng, tự phụ, mất tự tin. Còn cầu mà không được thì sanh ra oán Trời trách Phật. Vì thế tư tưởng Đại thừa giúp chúng sinh quay về sống với Tự Tánh thanh tịnh của mình thì cuộc đời sẽ vô cùng an vui tự tại. Dù thuận duyên có đến hay phải đối diện với nghịch duyên thì cũng chẳng có gì quan trọng cả vì vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn thì có gì thật đâu mà phải bận lòng. Có hay không của thế gian cũng chỉ là duyên giả huyễn vì duyên tan thì phải trả lại hết cho thế gian. Có càng nhiều thì khổ càng to thế thôi. Chấp nhận và sống hạnh phúc với những gì mình có thì mới thật là an vui tự tại.

Con người đã có sẳn cái khả năng nhận thức khách quan mà đạo Phật gọi là tự tánh thanh tịnh bản nhiên. Chính cái tự tánh thanh tịnh khách quan sẽ giúp chúng ta có khả năng nhận thức mọi hiện tượng trong thế gian nầy một cách khách quan, đứng đắn đúng với sự thật. Nhưng chúng ta lúc nào cũng chạy theo chủ quan tức là chạy theo tham-sân-si, mạn, nghi, phiền não, vô minh nên đánh mất đi cái nhìn khách quan, cái tự tánh thanh tịnh tức là cái trí tuệ trong sáng của mình nên chúng ta không có Bồ-đề là vậy. Do đó khi ông Duy Ma Cật bảo Bồ-tát Di Lặc đừng dạy các chư Thiên về pháp bất thối chuyển để có Bồ-đề là vì trong tất cả chúng ta đã có sẳn Bồ-đề rồi chớ còn tìm kiếm ở đâu xa. Bồ-đề là giải thoát giác ngộ, là vô vi, là vô hình vô tướng, là Chân Không Diệu Tánh thì làm sao mà tìm thấy được. Chỉ cần con người biết Tịch diệt tức là làm tâm vắng lặng bằng cách loại bỏ tham-sân-si, mạn, nghi, phiền não để không còn giận còn hờn, còn buồn còn khổ, còn tánh tham tật đố hay thực hành Bất quán tức là đừng ngồi đây mà nhớ tới những chuyện viễn vông không đâu bên Tây bên Tàu, mộng tưởng ảo huyền những ước vọng tương lai về giàu sanh phú quý…hay Bất nhập…thì có Bồ-đề ngay.

Nhiều Phật tử thường khoe tháng này tôi ăn chay được 5 ngày, 10 ngày, hay nửa tháng, một tháng…Thật ra ăn chay đậu hủ tương rau là cốt để kiểm soát lại thân tâm của chính mình mà loại bỏ bớt tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến. Nếu ăn chay mà tánh tham chưa bỏ, tật đố vẫn còn, lòng còn buồn giận thì tâm làm sao sáng suốt thanh tịnh được. Ăn chay như vậy thì chỉ là tu theo hình thức bề ngoài mà thôi. Tâm không thanh tịnh thì làm gì có Bồ-đề. Cho nên ca dao Việt Nam cũng có câu:

Sân si nghiệp chướng không chừa
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì?

Khi Bồ-tát Di Lặc tin vào lời nói Thọ ký, tin vào văn tự Một đời sẽ thành Phật và tin vào chứng quả Bồ-đề thì ngài tượng trưng cho Sai Biệt Trí, còn cư sĩ Duy Ma Cật dựa vào Bản Thể, Pháp Tánh thì không còn có sự phân biệt mà phải lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ để thấy tất cả không Hai tức là Bất Nhị. Đây chính là Căn Bản Trí tức là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẳn nhưng bị vô minh phiền não che lấp nên chưa được phát chiếu cũng như chất vàng còn nằm trong quặng lẫn lộn với đất, cát, sỏi, đá.

Có một cư sĩ mới học thiền, tới hỏi ngài Trí Tạng Tây Đường:

- Bạch Hòa thượng có Phật không?

Ngài trả lời:

- Có.

- Bạch Hòa thượng, có pháp không?

- Có.

- Bạch Hòa thượng, có thiên đường không?

- Có.

- Bạch Hòa thượng, có địa ngục không?

- Có.

Hỏi cái gì ngài cũng đáp có. Ông cư sĩ thắc mắc hỏi lại:

Hòa thượng trả lời “Có” thì có lầm chăng?

Hòa thượng hỏi:

- Trước khi đến đây ông có hỏi ai những câu nầy không?

Cư sĩ thưa:

- Dạ, con có hỏi Hòa thượng Cảnh Sơn.

- Vậy Hòa thượng đáp như thế nào?

- Câu nào ngài cũng đáp không, còn ở đây câu nào Hòa thượng cũng đáp có. Vậy ai đúng, ai sai?

Ngài liền hỏi ông cư sĩ:

- Ông có vợ không?

- Dạ có.

Hòa thượng Cảnh Sơn có vợ không?

- Dạ không.

- Vì Hòa thượng Cảnh Sơn không có vợ nên ngài đáp câu nào cũng không, còn ông có vợ nên câu nào tôi cũng đáp có.

Ngài Cảnh Sơn không vợ là ý muốn nói ngài không còn ái nhiễm, ngài đã ngộ được các Pháp tự tánh là Không, nên ngài mới đáp không. Còn ông cư sĩ mới học đạo, còn đầy ái nhiễmmê chấp nên ngài Tây Đường đáp “Có” để ông ấy sợ mà lo tu hành. Đây là cách dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh mà thôi vì người thông suốt lý đạo thì nói sao cũng được, không chấp trên văn tự ngôn ngữ nên nói là để phá chấpphù hợp với lý chân thật. Thật ra “Có” và “Không” đều đúng cả vì nếu dựa theo sự Tướng bên ngoài thì Có. Còn theo Bản Thể Chân Như thanh tịnh bên trong thì tất cả đều là không. Nhưng Sắc tức thị Không cho nên Có tức là Không và Không chính là Có tuy hai nhưng mà một tức là bất nhị.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Di Lặc thưa. Khi trưởng giả Duy Ma Cật thuyết thời pháp ấy, hai trăm Thiên tử được vô sanh pháp nhẫn. Vì vậy, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Khi các vị Trời đã thấu hiểu rằng Đức Phật không những chỉ thọ ký cho Bồ-tát Di Lặc mà Ngài còn thọ ký cho tất cả chúng sinh vì ai ai cũng sẳn có cái Phật Tánh thanh tịnh bản nhiên. Và một đời sẽ thành Phật là nói theo giáo lý phương tiện chớ thật ra không có cái móc thời gian nào có thể đo được khi nào là một đời cả vì ngay trong đời hiện tại thì chúng ta cũng đã có quá khứ và vị lại hiện diện rồi. Nói một cách khác là về phương diện thời gian không có bất cứ một thời điểm đặc biệt nào làm thời điểm zero để sau đó phân chia cái âm thì thuộc quá khứ hay cái dương thì thuộc về hiện tại như trong toán học. Sau cùng cũng không có cái gì là Bồ-đề hay chứng đắc cả vì nếu con người biết lìa xa vọng thức mê lầm quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì Bồ-đề hiễn hiện. Vì Chân lý huyền diệu như vậy cho nên hai trăm vị Trời khi đã am hiểu liền được vô sanh pháp nhẫn tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

2) Quang Nghiêm Đồng tử.
 Vấn Đề Đạo Tràng.

Đức Phật gọi Quang Nghiêm Đồng Tử bảo:

- Quang Nghiêm! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Quang Nghiêm thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật! Bởi vì trước đây vào một hôm nọ, con từ thành Tỳ Xá Ly đi ra, Ngài Duy Ma Cật thì từ ngoài thành đi vào. Con lễ phép chào và hỏi”

- Thưa cư sĩ! Ngài từ đâu đến đây?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Tôi từ đạo tràng đến.

Con lấy làm lạ hỏi:

- Ngài nói đạo tràng, vậy đạo tràng nào? Ở đâu?

Thông thường trong kinh điển Phật giáo thì Đồng Tử là người tu hành từ khi còn nhỏ, không phạm dâm dụcgiữ giới hạnh thanh tịnh trọn đời. Đồng Tử cũng còn có nghĩa là người đang tu theo Bồ-tát đạo nhưng chưa được giác ngộ hoàn toàn vì như đứa trẻ chưa thành người lớn. Một nghĩa khác là người tu hành chân chánh, tẩy trừ sạch mọi trần cấu, phiền não khổ đau và có tâm hồn thanh tịnh trong sáng như trẻ thơ.

Nhưng Đồng Tử trong kinh nầy là một vị Bồ-tát tu hành chứng đắc. Ngài dùng ánh sáng của trí tuệcông đức để trang nghiêm nên mới có tên là Quang Nghiêm. Phàm nhân thì dùng vàng ngọc, kim cương, châu báu, áo quần, phấn son…để trang sức cho báo thân tứ đại của họ. Còn Quang Nghiêm Đồng Tử lại dùng trí tuệ sáng suốtcông đức tu hành để trang nghiêm cho Pháp Thân làm cho chúng sinh đều kính phục. Khi nhìn hình tượng của các chư Phật hay Bồ-tát thì có hào quang rực rỡ vì đây là tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt thanh tịnh tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong bến bờ mê muội.

Đứng về Sự Tướng mà nói thì đạo tràng là nơi Đức Phật Thích Ca tĩnh tọa trên tòa Kim Cươngthành đạo nên được gọi là Bồ-đề đạo tràng. Các tịnh xá như Trúc Lâm, Kỳ Viên…là nơi Phật và chư đệ tử trú ngụ trong mùa an cư kiết hạ cũng là đạo tràng. Ngày nay các Phật Học Đường, các chùa để phổ biến Phật pháp đều là đạo tràng cả. Nhưng ở đây ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà nói thì bất cứ pháp môn, hạnh tu nào mà lợi ích cho chúng sinh, đưa đến chỗ giải thoát giác ngộ đều là đạo tràng. Vì thế ông Duy Ma Cật mới nói:

Trực tâmđạo tràng: Tâm hạnh thành thật, thẳng thắn không hư dối quanh co. Khi một người có tâm thẳng thắn, thành thật thì đây là người tốt, là trực tâm của nhơn thừa Phật giáo. Còn trực tâm của Đại thừa là không có trí phân biệt để chạy theo cái tốt mà chê cái dở, tâm phải bình đẳng không cao không thấp đối với tất cả vạn pháp. Nhìn đúng là Như thị chớ đừng phân biệt khen chê theo sở thích của mình. Không thương, không ghét, không giận không hờn, thấy sao biết vậy thì đây mới là trực tâm để có Bồ-đề.

Phát hạnh là đạo tràng: Siêng năng tinh tấn làm tất cả việc.

Thâm tâmđạo tràng: Luôn luôn vun bồi công đức và làm tăng trưởng công đức.

Bồ-đề tâmđạo tràng: Vận dụng trí tuệ trong sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết...để tránh mọi si mê lầm lạc.

Bố thíđạo tràng: Thí tái, thí pháp và thí cả vô úy cho chúng sinh mà không hy vọng đền đáp ơn nghĩa.

Trì giớiđạo tràng: Giữ giới thanh tịnh đúng như chí nguyện mong ước lúc phát khởi sơ tâm.

Nhẫn nhụcđạo tràng: Tâm được điều thuận, nhu nhuyễn đối với tất cả chúng sinh không còn bị chướng ngại.

Tinh tấnđạo tràng: Không lúc nào giải đãi trong việc học chánh pháp, hành chánh pháp và sống trong chánh pháp.

Thiền địnhđạo tràng: Tâm nhu hòa an ổn, không rong rủi ở lục dục thất tình. Hằng ngày con người nên kiểm soát lại những ý nghĩ của mình. Nếu có ý nghĩ thiện thì nên làm tức là chứng thiện phụng hành, những ý nghĩ bất thiện như tham lam, giận hờn, si mê, tật đố tức là chư ác mạc tác thì nên loại bỏ nó đi, còn những ý nghĩ lăng xăng thì nên chận đứng nó đi để tâm được thanh tịnh tức là tự tịnh kỳ ý. Làm được như thế tức là thiền cho nên bất cứ ở đâu mà có những đức tính trên thì có đạo tràng.

Trí tuệđạo tràng: Thấy rõ bản chất vô thường, vô ngãbất tịnh của các pháp đúng như thật.

Từ là đạo tràng: Đối với tất cả chúng sinh đều thương như con một của mình thì người đó ở đâu là có đạo tràng đến đó.

Bi là đạo tràng: Vận dụng mọi phương tiện cứu khổ cho chúng sinh.

Hỉ là đạo tràng: Lúc nào cũng vui mừng khi thấy người khác được vui.

Xả là đạo tràng: Đoạn hết mọi ý niệm ghét thương trong lòng.

Thần thôngđạo tràng: Thành tựu đầy đủ lục thông.

Giải thoátđạo tràng: Luôn luôn vận dụng pháp bội xả và sống trong pháp bội xả.

Phương tiệnđạo tràng: Giáo hóa chúng sinh bằng nhiều hình thức, tùy căn cơ, đối tượng.

Tứ nhiếp là đạo tràng: Thuyết pháp độ chúng sinh bằng nhiều cách và tùy cơ duyên mà hóa độ.

Đa vănđạo tràng: Chúng ta học Phật tức là nghe chánh pháp rồi tư duy chánh pháp. Sau đó có thực hành chánh pháp và sống đúng theo chánh phápchúng ta ở trong đạo tràng rồi đó.

Phục tâm là đạo ràng: Vận dụng chánh quán mà quán các pháp.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạođạo tràng: Rời bỏ hết pháp hữu vi. Nếu luôn quán niệm về Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề và Bát chánh đạochúng ta đang ở trong đạo tràng vậy.

Tứ diệu đếđạo tràng: Thấy đúng như thật, biết đúng như thật, nói đúng như thật các pháp thế gian. Thấy biết rõ thế giantam khổ, bát khổ mà cái gốc chính là tham-sân-si, mạn, nghi…và nếu diệt được cái gốc tư hoặckiến hoặc để cảm nhận được sự tịch diệt của Niết bàn thì người đó đang ở trong đạo tràng.

Duyên khởiđạo tràng: Biết rõ từ vô minh cho đến lão tử đều không có cái hết. Biết quán tưởng pháp mười hai nhân duyên để tu hành là ở trong đạo tràng.

Các phiền nãođạo tràng: Vì nhận biết sự tác hại của phiền não một cách quyết định.

Chúng sinhđạo tràng: Vì nhận biết sự hòa hợp, sự nương gá tạm bợ, biết rõ tánh chất vô thường vô ngã của chúng.

Tất cả Pháp là đạo tràng: Vì biết rõ tất cả pháp vốn Không.

Hàng mađạo tràng: Vì biết trước các thế lực bất hảo của ma.

Tam giớiđạo tràng: Dù nhận có tam giới mà không bị ràng buộc trong tam giới. Người nào dù ở trong tam giới mà không bị các dục vọng của cõi dục, không bị các vật chất của cõi sắc, không bị các khái niệm tư tưởng hoang đường của cõi vô sắc làm mê muội thì tuy ở trong tam giới mà không dính mắc tam giới. Cho nên cũng là con người đó mà nếu không còn bị các dục vọng thiêu đốt thì ra khỏi dục giới, không còn lệ thuộc vào vật chất thì ra khỏi sắc giớitâm không còn gởi gắm vào những tư tưởng mơ hồ, hoang đường mê tín dị đoan thì người đó ra khỏi vô sắc giới. Thế thì tam giới vẫn là đạo tràng.

Sư tử hốngđạo tràng: Vì sự thuyết pháp độ sanh đạt đến vô sở úy.

Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cọng phápđạo tràng: Vì thân, khẩu, ý đã thuần thục đạt đến chỗ tột cùng của thanh tịnh, không còn có sự sai lầm.

Tam minhđạo tràng: Nhận thức các pháp thấu suốt tận gốc, tột nguồn.

Nhất niệm tri nhất thiết phápđạo tràng: Vì thành tựu nhất thiết chủng trí.

Như thế thì tất cả các pháp đều là đạo tràng mà tất cả các pháp đều là Phật pháp, là Chơn Tâm, là Phật Tánh. Chơn Tâm, Phật pháp thì ở cùng khắp mọi nơi cho nên đạo tràng cũng vậy. Nơi nào có Phật pháp là nơi ấy có đạo tràng. Vì thế người Phật tử tu đâu cũng được không nhất thiết phải vào chùa mới tu. Khi đã lìa Tướng nhập Thể thì đâu đâu cũng là đạo tràng. Ở nhà, ở chợ, ở sở làm là những đạo tràng rất tốt để tu. Sống trong thế giới ô trượcchúng ta biết tu tâm dưỡng tánh có nghĩa là biết lìa bỏ tâm vọng tưởng cuồng loạn để quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì gia đình mình chính là đạo tràng vậy. Nhưng đạo tràng lớn nhất, cao siêu nhất chính là Tâm của mình và chùa lớn nhất, vĩ đại nhất và thanh tịnh nhất chính là Phật Tâm của chúng ta vậy.

Các vị Bồ-tát đã dùng trực tâm tức là tâm ngay thẳng chân chánh, không hư dối quanh cothực hành Lục độ Ba-la-mật, tứ vô lượng tâm, tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên…để giáo hóa chúng sinh. Các Ngài đem chánh pháp của Phật đến với chúng sinh tức là các Ngài đã đem đạo tràng đến với mọi người cho nên bất cứ nơi nào các Ngài đến thì nơi đó là đạo tràng. Vì thế mà ông Duy Ma Cật mới nói với Quang Nghiêm Đồng Tử :”Tôi từ đạo tràng đến” là vậy.

Ông Duy Ma Cật đáp:

Thế đấy! Quang Nghiêm Đồng tử! Bồ-tát nếu ứng dụng trí tuệ Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh thì mọi hành động giở chân lên, hạ chân xuống đều từ đạo tràng đến và lúc nào cũng ở trong Phật pháp vậy.

Muốn có đạo tràng nầy thì phải ứng dụng câu:”Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc” của Tâm Kinh làm tiêu chuẩn cho mọi sinh hoạt của cuộc đời mình thì giở chân lên, hạ chân xuống đều từ trong đạo tràngxuất phát.

Bạch Thế Tôn! Quang Nghiêm thưa. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy rồi có năm trăm trời, người đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Tuy Ông Duy Ma Cật chỉ nói một câu đơn giản và rất bình thường là:”Tôi từ đạo tràng đến” mà nó có một sức mạnh vô song có thể phá tan cái màn vô minh còn che lấp trong tâm trí của tất cả chúng sinh. Vì từ đây con người sẽ không còn lầm lẩn về ý nghĩa của chữ “đạo tràng” nửa. Chúng ta sẽ không còn nghĩ rằng đạo tràng là chỗ Phật ngồi, đạo tràng là chỗ Phật tử tu theo Tịnh độ, Mật tông, Thiền tông…hay là chỗ tu tập cúng kiến làm đàn làm chay…mà Trực tâm mới là đạo tràng, thâm tâmđạo tràng, Bố thíđạo tràng, Từ là đạo tràng, Giải thoát là đạo tràng…. Do đó chúng ta không cần phải đi đâu xa để tìm đạo tràng mà một khi chúng ta biết sống với những đức tính như Thiền định, Duyên khởi…là chúng ta đang ở trong đạo tràng đó.

Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp có pháp lành để độ chúng sinh và còn chấp có hình tướng người xuất gia tu trong đạo tràng nên cư sĩ Duy Ma Cật dựa theo Pháp Tánh mà nói thì tất cả nhất cử nhất động là từ nơi đạo tràng mà ra vì tất cả các pháp đều là Phật pháp. Chủ đích của đoạn kinh nầy là phá cái chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu mà thật ra tu ở đâu cũng được. Tu hành không phải là hình thức bề ngoài, không quan trọng vấn đề đầu tròn áo vuông, không nhất thiết phải vào chùa, thấy tượng Phật mà chính là tu sửa tự tâm. Vì thế cái đạo tràng thanh tịnh nhất, lớn nhất, huyền diệu nhất vẫn chính là tâm của chúng ta và không tượng Phật nào trên thế gian nầy mà to hay mầu nhiệm bằng Phật tâm của chúng ta vậy.

Thời Đức Phật còn tại thế không hề có chùa chiền, am tự mà chỉ có tu viện. Tại sao? Tu viện là nơi chư Tăng tu học Phật pháp với nhau và sau đó thuyết giảng những chân lý đó cho Phật tử tại gia. Họ sống với nhau trong Lục hòa, bình đẳng với mục đích cao cả là cùng hướng về giải thoát giác ngộ. Ngày nay có rất nhiều chùa chiền ở khắp mọi nơi. Ngay cả một khu phố có hai ba cái chùa mà không chùa nào hòa hợp với nhau. Nhiều chùa chiền, nhiều giáo hội có phải là Phật giáo đang trên đà phát triển cực thịnh không? Nhìn ngược lại vào lịch sử của Phật giáo thì thời kỳ nào có những vị cao tăng đắc đạo làm sáng danh đạo Phật thì thời kỳ đó mới là cực thịnh. Vì chúng sinh nhìn vào tấm gương sáng đó mà quay về tu tâm dưỡng tánh. Ngược lại nếu chúng sinh thấy cảnh chia rẻ, bất hòa làm họ chán ngán. Ngày nay trong bất cứ xã hội nào trên thế giới cũng có rất nhiều tôn giáo. Nếu tôn giáo nào biết phát triển bằng cách mở mang những khóa tu học, thiết lập những hệ thống giáo dục để hướng dẫn con người tiến theo đà văn minh của thế giới mà không đánh mất đi những đạo đức căn bản, những chân lý huyền diệu có thể đưa họ đến chỗ giải thoát giác ngộ thì tôn giáo đó phát triển cực mạnh. Trong khi đó các tu sĩ Phật giáo vẫn mơ mộng những chuyện viễn vông, lo cầu an cầu siêu, hay các hình thức mê tín dị đoan vốn thật ra không hề có trong truyền thống Phật giáo. Việt Nam vào thời chấn hưng Phật giáo, có những trường Trung Đẳng và Cao Đẳng như Phật Học đường Liên Hải và Nam Việt…đã đào tạo rất nhiều Tăng Ni xuất sắc làm cho Phật giáo được rạng ngời.

Tiền tài, danh vọng, vật chất là những chướng ngại lớn cho những người tu. Câu chuyện như thế nầy:

“Có một đệ tử quyết tâm học đạo với một vị đạo sư. Sau một thời gian dài thọ giáo, vị đại sư vì có việc phải đi xa nên căn dặn người đệ tử tiếp tục tinh tấn tu hành. Người học trò nghe lời thầy dặn công phu sớm tối không bê trễ. Vì nếp sống thanh bần người đệ tử chỉ có duy nhất một chiếc áo cà sa mà cứ bị chuột cắn rách hoài nên lại phải đi xin mảnh vải khác để vá vào. Phật tử thấy vậy bèn cúng dường cho tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Từ ngày có con mèo, lũ chuột không dám lộng hành nữa, nhưng muốn giữ con mèo thì tu sĩ ngoài việc xin thêm cơm chay còn phải xin thêm sửa để nuôi con mèo. Có vị Phật tử hảo tâm cúng dường con bò để lấy sửa cho con mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò, nhưng bây giờ tu sĩ phải xin cỏ cho bò ăn. Thấy vậy dân làng biếu tu sĩ một mãnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ lo canh tác mà nuôi bò. Tu sĩ ra công cày cấy, trồng rất nhiều rau cỏ, bò ăn hoài không hết nên phải đem ra chợ bán bớt. Miếng đất quá phì nhiêu nên tu sĩ làm không xuể và phải nhờ người đến làm giúp. Tu sĩ bây giờ có nhiều hoa lợi nên tiền bạc dồi dào bèn thuê thợ xây một cái chùa thật lớn. Ngày nào cũng lo mướn người khắc tượng, đúc chuông thật là vĩ đại nhưng thời gian tu hành không còn như trước. Bây giờ tu sĩ phải lo đồn điền, chùa to, tượng lớn, lo giao dịch buôn bán. Có tiền nhiều thì lo mua thêm đất mới để khai thác đầu tư.

Một hôm sư phụ trở về không thấy túp lều tranh mộc mạc mà thay vào đó là một ngôi chùa khang trang tráng lệ. Khách hành hương nô nức, ồn ào cúng vái vang xin. Sau khi nghe người đệ tử giải thích nguồn cơn, sư phụ chỉ thở dài mà nói:”Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tu tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Than ôi chỉ vì một chiếc áo ránh mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lạc đường lúc nào không hay. Nếu mình bị trói buộc vào các thứ đó rồi thì làm sao có thể giải thoát được?”.

Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng sau khi được ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Tổ vị thì đi về phương Nam và phải sống trên 16 năm ròng rả với bọn thợ săn để mai danh ẩn tích. Hằng ngày Ngài phải hái rau cải mà đem nấu chung trong nồi thịt của những người thợ săn. Khi ăn thì Ngài chỉ lựa rau mà ăn chớ không ăn thịt. Mãi đến năm 676 tây lịch khi biết thời cơ hoằng pháp đã đến nên Ngài mới rời rừng núi đi Quảng Châu và sau đó xuống Quảng Đông đến chùa Bửu Lâm miền Tào Khê để hoằng pháp độ sinh. Ngài qua đời năm 713 tây lịch thọ 76 tuổi. Khi ra đi Ngài chỉ ngồi xếp bằngan nhiên thị tịch. Vua Đường Hiến Tông truy phong Ngài là Đại Giám thiền sư và đổi tên chùa Bửu Lâm thành Nam Hoa tự. Trải qua hơn một ngàn năm mà nhục thể của Ngài vẫn còn y nguyên không hề bị hư hại. Nam Hoa tự là một ngôi chùa khá lớn nằm ẩn giữa hai ngọn đồi. Phía sau chùa là một rừng tùng bách xanh um, phong cảnh thiên nhiên vắng lặng. Con đường dẫn vào chùa với những hàng trúc chạy dài. Phía sau chánh điện là một căn phòng nhỏ, trình bày rất giản dị, không có đồ đạc gì đặc biệt ngoài một chiếc ngai lớn bằng gổ có màn trướng bao bọc chung quanh. Bên trong là nhục thân của Lục Tổ, thân hình đen bóng như gỗ mun ngồi xếp bằng trên chiếc ngai. Khác với những xác ướp Ai Cập thì bên ngoài thường được quấn vải liệm rất kỹ nhưng khi cởi các tấm vải đó ra thì thể xác bên trong bị hư hại rất nhiều. Phần lớn da thịt đều nát vụn ra từng mảnh, dù nó được ướp bằng những chất hóa học rất tốt. Và sau khi khai quật thì những xác ướp nầy phải được đặt trong phòng có máy điều hòa không khí để chống lại sự tàn phá của thời gian. Trong khi nhục thể của Lục Tổ không hề quấn vải liệm và toàn thân nguyên vẹn không có một dấu vết hư hại nào. Năm 1966 giáo sư Koshiro, viện trưởng viện đại học y khoa Washeda của Nhật Bản đã cầm đầu một phái đoàn qua Trung Hoa để khảo sát về hiện tượng nầy. Ông đã được phép dùng một cái khoan nhỏ đâm vào nhục thân Lục Tổ để lấy ra một mẩu thịt đem về Nhật khảo sát. Kết quả cho thấy đó quả là một xác người chớ không phải là một pho tượng và cũng không có bằng chứng gì nhục thể của Lục Tổ được ướp bằng chất thuốc nào. Giáo sư Koshiro đã xác định là vì một lý do nào đó mà thể xác đã hóa thạch một cách tự nhiên.

Phải chăng đây là một phép lạ? hay là sức mạnh kỳ diệu của nội tâm của Ngài đã tỏa ra khiến da thịt Ngài trở nên rắn chắc như Kim Cươngtrường tồn bất hoại?

Nhắc lại trước đó hai trăm năm khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào Trung Quốc thì Ngài rất thất vọngPhật giáo thời bấy giờ quá chú trọng về hình thức, lấy phương tiện làm cứu cánh mà quên đi giải thoát giác ngộ mới là điều tối thượng. Tuy đã được ban Tổ vị nhưng rất nhiều người không tin một kẻ thất học, xuất thân từ miền biên thùy hoang dả như Huệ Năng lại có thể tu hành chứng đắc được. Mặc dù Lục Tổkiến thức về tuệ giác bát nhã thâm sâu nhưng số người theo Thần Tú quá đông nên họ không bao giờ chấp nhận việc Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho Huệ Năng. Có lẽ Ngài để lại nhục thân bất hoại là một bằng chứng hùng hồn rằng cái kiến thứccon người có thể học được từ sách vở từ chương so với cái trí tuệ siêu tuyệt của người tu chứng đắc vốn khác nhau rất xa. Cái trí thức của kẻ phàm phu và cái trí tuệ của bậc thượng trí có thể ví như đom đóm mà so với trăng rằm vậy.

Đối với Phật giáo Việt Nam thì tại Chùa Đậu tỉnh Hà Tây (miền Bắc) cũng có hai anh em thiền sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật. Sau 100 ngày các thiện tín Phật tử mở cửa am thấy hai vị thiền sư vẫn ngồi theo thế nhập thiền và có mùi thơm. Nhục thể biến thành đá và ngày nay vẫn còn tại chùa để Phật tử chiêm bái.

Phật giáo Tây tạng (Tibetan Budhism) có một lịch sử rất thăng trầm. Đạo Phật truyền vào Tây tạng từ thế kỷ thứ bảy dưới triều đại vua Songsen Gampo, nhưng mãi đến thế kỷ thứ tám dưới triều đại vua Trisong Detsen, Phật giáo mới bắt đầu phát triển nhờ sự giúp đở của một nhà sư Mật tông (Tantrism) Ấn độ tên là Padmasambhata. Nhưng mãi đến năm 1041 có đại sư Atisha lúc bấy giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamasila ở Ần độ nhận lời mời của vua Yeshe-O đến Tây Tạnghoằng dương Phật phápPhật giáo bắt đầu phát triển rất mạnh. Ở Tây tạng tất cả các tu sĩ đều phải trải qua một kỳ thi về Phật học. Nếu thi đậu thì họ được gọi là “Trappa” tương đương với chữ “Bhiksu” tức là Tỳ Kheo. Còn danh từ Lạt Ma có nghĩa là một vị học giả, dùng gọi cho tất cả những người thi đậu kỳ thi về Phật học. Lạt Ma gồm có cư sĩ và tăng sĩ. Trước khi đạo Phật du nhập thì Tây tạng đã có đạo Bon Pa chuyên về huyền học, thần thông. Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa Phật giáo vào con đường suy vong. Vì có nhiều giáo hội, dần dần các tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, giải đáp là số tử vi, bùa chú thư phù…Các tinh hoa Phật pháp được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi Phật tử xây chùa, đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành Lạt Ma khỏi cần tu học. Cho đến thế kỷ thứ 14 có vị tu sĩ tên Tsong Khapa (1357-1419) mới bắt đầu phong trào chấn hưng Phật giáo và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái Mũ Vàng (Gelugpas) và Mũ Đỏ (Dugpas). Tất cả 14 vị Đạt Lai Lạt Ma đều xuất thân từ phái Mũ Vàng nhưng phái Mũ Đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số đông. Mãi cho đến vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 là Lobsang Gyatso (La bốc tạng Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm bậy. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ (Trappa). Các tu sĩ phải thi đậu những kỳ thi Phật học mới được bổ nhiệm làm trụ trì tại các tu viện nhưng cũng chỉ ở đây một thời gian ấn định để tránh sự quyến luyến, tham ái tức là chùa của bá tánh mà xem là của mình. Sau thời gian hoằng dương giáo pháp, các tu sĩ được đưa đến những tu viện khác để học hỏi thêm. Phật giáo Tây tạng tiếp tục phát triển cho đến năm 1950 khi Trung Cộng đưa quân xâm chiếm đất Tây tạng khiến cho vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là Tenzin Gyatso (Đăng châu Gia mục thố) bị giam lỏng tại Potala trong chín năm liền cho đến tháng tư năm 1959 mới trốn thoát và tỵ nạn tại Dharamsala mà sau nầy có tên là “Little Lhassa”, gần biên giới Tây tạngẤn Độ sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, cho tới ngày nay.

3 Bồ-tát Trì Thế.
Pháp vui Vô Tận.

Đức Phật gọi Bồ-tát Trì Thế bảo:

- Trì Thế! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Bồ-tát Trì Thế thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả.

- Bạch Thế Tôn! Con còn nhớ một hôm nọ con đang ở nơi tịnh thất, bấy giờ có ma Ba tuần đem theo cả một vạn hai ngàn Thiên nữ, giả dạng y như Trời Đế Thích. Họ đánh trống thổi kèn, đàn nhạc, ca hát, đi đến chỗ con. Một số đông dập đầu lễ lạy dưới chân con; rồi chấp tay cung kính đứng trước con, hàng ngũ trang nghiêm trật tự. Con nghĩ họ là Trời Đế Thích. Còn bèn thuyết pháp cho họ rằng:

- Quý hóa thay! Kiều Thi Ca! Các vị có phước báu, nhưng không nên buông lung, trong khi hưởng phước. Phải quán ngũ dụcvô thường, để trồng sâu cội phước. Dựa trên tự thân, trên của cải vô thườngtu tập quán chiếu, ngõ hầu được cái thân bền chắc…!

Bấy giờ trong số người đó nói với con rằng:

- Thưa Chánh sĩ! Chúng tôi xin hiến cho ngài hai ngàn Thiên nữ nầy. Ngài hãy nhận để làm người hầu hạ. Họ sẽ giúp đở cho ngài công việc khi cần.

Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ con bèn nói với họ:

- Kiều Thi Ca! Không nên đem hàng Thiên nữ như thế mà hiến tặng cho sa môn Thích tử chúng tôi. Việc làm đó phi pháp. Hàng sa môn Thích tử chúng tôi không thể nhận những người như thế để giúp việc.

Con nói chưa dứt lời thì ông Duy Ma Cật đến, bảo con rằng:

- Này ngài Trì Thế! Họ không phải là Đế Thích. Họ là ma đến để treo ghẹo ông đấy.

Ông Duy Ma cật bèn nói với các ma:

- Các cô gái kia ơi! Hãy hiến các cô cho tôi! Như tôi đây mới là người đáng nhận sự hầu hạ giúp đở của các cô.

Bấy giờ bọn ma rất sợ hãi, nghĩ rằng: Có thể ông Duy Ma Cật sẽ làm bức não chúng ta.

Tất cả đều muốn biến hình trốn đi, nhưng vẫn không biến được. Chúng vận dụng hết sức thần cũng không sao ẩn hình trốn thoát. Bỗng nhiên, trên không trung có tiếng vọng lên rằng:

- Ma Ba tuần! Hãy hiến tặng các cô gái ấy đi thì mới có thể rời khỏi nơi đó.

Bọn ma cả sợ, lạy sấp, lạy ngửa mà dâng.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các cô gái rằng:

- Ma đã hiến các cô cho tôi rồi! Các cô nên phát tâm vô thượng Bồ-đề đi.

Sau đó, tùy căn tánh của mỗi người, trưởng giả Duy Ma Cật thuyết pháp khiến cho hàng ma nữ vui mừng phát tâm hướng về Phật đạo…

Trưởng giả Duy Ma Cật dạy tiếp:

- Các cô đã phát tâm theo đạo Phật, các cô sẽ có cái vui chính của các cô mà không cần đến cái vui của ngũ dục nữa.

Thiên nữ hỏi:

- Cái vui đó là thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Vui thường tin Phật. Vui ham nghe Pháp. Vui cúng dường Tăng. Vui vĩnh ly ngũ dục. Vui quán ngũ uẩn như ác tặc. Vui quán tứ đại như độc xà. Vui quán nội nhập như rỗng không. Vui thuận theo ý đạo. Vui lợi ích chúng sinh. Vui kính trọngcúng dường sư trưởng. Vui làm bố thí được nhiều. Vui giữ giới kiên trìthanh tịnh. Vui nhẫn nhục nhu hòa. Vui siêng nhóm thiện căn. Vui thiền định không loạn. Vui cấu hết, tuệ sanh. Vui được tâm Bồ-đề rộng lớn. Vui hàng phục các ma. Vui đoạn các phiền não. Vui thấy cõi Phật thanh tịnh. Vui thành tựu tướng hảo. Vui tu các công đức lành. Vui trang nghiêm đạo tràng. Vui nghe pháp sâu xa mà không sợ. Vui với tam giải thoát môn. Vui gần bạn đồng học. Vui ở trong chỗ phi đồng họctâm không bị chướng. Vui chuyển hóa được những người ác tri thức. Vui tâm thường thanh tịnh. Vui tu vô lượng đạo phẩm. Đó là pháp vui của Bồ-tát, các cô nên biết.

Khi bấy giờ, Ma Ba tuần bảo các ma nữ rằng:

- Ta muốn các ngươi cùng ta hãy trở về Thiên cung.

Các ma nữ nói:

- Đã hiến chúng tôi cho cư sĩ, giờ chúng tôi có được pháp vui, chúng tôi vui lắm rồi. Từ đây chúng tôi không thích cái vui ngũ dục nữa.

Ma Ba tuần nói:

- Thưa cư sĩ! Mong ngài thả các cô ấy đi! Theo chúng tôi biết Bồ-tát hạnh là xả thí tất cả sở hữu của mình cho người khác.

Ông Duy Ma Cật nói:

- Tôi đã thả rồi, các cô tự ý mà đi. Các cô hãy nhớ làm thế nào cho chúng sinh đều được học chánh pháp như các cô vậy.

Kiều Thi Ca là tên để gọi cho các vị Trời như Trời Đế Thích.

Trì là nắm giữ, Thế là đời. Vì thế Trì Thế là giữ gìn, duy trì Phật Pháp để đem hóa độ cho tất cả chúng sinh trong cuộc đời nầy.

Trong thế gian nầy có rất nhiều loại ma mang nhiều hình tướng khác nhau để làm cho con người khiếp sợ, nhưng đại để có những loại ma như sau:

1)Phiền não ma: Kiến hoặctư hoặc là những nguyên nhân để phát khởi những phiền não khổ đau trong tâm của con người. Phải thấu hiểu vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn để loại bỏ tánh tham, tật đố, tránh xa tham dục thì tâm được thanh tịnh.

2)Ngũ uẩn ma: Năm món sắc, thọ, tưởng, hành, thức quay cuồng, thay đổi không ngừng nên tâm sanh ra vọng tưởng làm con người đau khổ. Quán chiếu ngũ uẩn giai không để sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì tuy có thân tâm mà không chạy theo ngoại trần.

3)Pháp hành ma: Con ngườichạy theo tham dục nên gây ra nghiệp mà phải chịu quả khổ đời đời. Chính mình là người thợ tự vẻ cho cuộc đời của mình ở kiếp sau cho nên nếu muốn được an vui hạnh phúc thì đừng tạo nghiệp.

4)Tứ diệt ma: Vì thân là vô thường nên con người phải đối diện với sinh lảo bệnh tử. Cứ một giây trôi qua, chúng ta già đi một chút. Con người hàng ngày chết lần chết mòn chứ đâu phải đợi đến xuôi tay nhắm mắt mới gọi là chết. Biết thânvô thường thì tâm không lo âu, phiền muộn.

5)Tử ma: Có sinh là có tử ngay cả ông Bành Tổ mà còn phải chết thì luật vô thường không thương xót một ai. Có người khéo tu thì khi chết mình làm chủ được thần thức trong thân trung ấm nên dễ dàng đi tái sinh vào cõi lành. Còn người tạo nhiều nghiệp bất thiện thì nghiệp lực đưa đẩy thần thức họ tái sinh vào nơi xứng đáng với quả nghiệp của họ để thọ nhận cảnh khổ. Còn người chưa đủ nhân duyên hay đánh mất cơ hội đi tái sinh nên thần thức lang thang lẫn thẩn, lúc ẩn lúc hiện tức là ma. Khi nhân duyên mới đến thì thần thức nầy sẽ được tái sinh.

6)Chư thiên ma: Loại ma nầy có nhiều phước đức nên được ở trên các cõi Trời để hưởng ngũ dục lạc. Họ có nhiều thần thông nhưng tâm không thiện nên thường quấy phá hay gây những chướng ngại cho người tu hành cao.

Ngày xưa khi Thái tử Tất Đạt Đa tu sắp thành đạo dưới cội Bồ-đề. Ma Ba Tuần biết Ngài sắp chứng đạo nên cùng thiên ma đến quấy phá Ngài. Quân ma có tới 18 ức bao vây chung quanh Ngài dưới cội Bồ-đề. Ma bảo:

Sa Môn mau đứng dậy.

Thái tử lặng thinh không đáp, như thế đến ba lần. Ma lại hỏi:

Sa Môn sợ ta không?

Tái tử đáp:

- Ta không kinh sợ.

Ma hỏi:

Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta chăng? Ông chỉ có một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại nói không sợ?

Thái tử đáp bằng bài kệ:

Giáp nhơn, cung tam muội

Tay cầm tên trí tuệ

Phước nghiệp làm binh khí

Nay sẽ phá quân ngươi.

Ma bảo:

Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ làm cho thân hình ông tan thành tro bụi.

Thái tử nói:

- Ta tự xem xét trên cõi người ma và thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ chúng của ngươi cũng không thể động được một mảy lông của ta.

Ma nói:

- Sa Môn! Nay muốn cùng ta giao chiến chăng?

Thái tử đáp:

- Muốn được giao chiến.

Bấy giớ Thái tử mặc áo giáp nhân từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ và binh khí phước nghiệp để giao chiến với ma quân.

Chính Đức Phật tuy đơn độc một mình nhưng Ngài chỉ sử dụng bốn loại khí giớitừ bi, thiền định, trí tuệphước đức mà chiến thắng được ma quân.

1)Sở dĩ Ngài chiến thắng được ma quân là vì Ngài có tâm từ bi vô lượng vô biên không oán không thù ai nên ma không hại được. Còn chúng ta thì lòng từ chưa bủa khắp, tâm còn chấp thân sơ nên ma tham, ma sân có chỗ vào.

2)Tâm Phật luôn an định nên cho dù ma có hiện tướng kỳ quái thô bạo dữ dằn Ngài vẫn mặc nhiên không run sợ nên ma không hại được. Còn chúng ta nếu gặp ma mặt đỏ mặt xanh trong đêm tối thì hoảng hốt chạy dài. Không giữ được bình tỉnh bởi vì tâm không an định nên chúng ta sợ và thua ma.

3)Phật có trí tuệ sáng suốt vì Ngài thấy thân nầy không thật thì các tướng mạo ma quỷ nào có thật. Còn chúng ta vì chưa có trí tuệ sáng suốt nên thấy thân là thật và ma cũng thật làm tâm kinh sợ nên bị ma hại.

4)Sau cùng Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích chúng sinh, phước đức kết nhóm nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại được. Sở dĩ chúng ta thường gặp chướng nạn, ma nạn là vì phước đức mỏng, sức tu tập yếu nên bị ma lấn ép.

Mặc dù Ma Ba Tuần có phép xuất quỷ nhập thần nhưng chư thiên ma là ngoại ma nên không quan trọng bằng nội ma ở trong tâm. Do đó Đức Phật đã dạy rằng:

- Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất.

Trong truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, nhân vật Từ Hải uy phong lẫm liệt, bách chiến bách thắng nơi sa trường vậy mà lại thua một Thúy Kiều mình hạc xương mai. Vì thế thắng được mình mới là người làm chủ tất cả.

Ma thì có nội na và ngoại ma. Tuy ngoại ma đôi khi hóa hiện nhiều hình tướng ma quái khác nhau để hảm hại hay hù dọa con người, nhưng thật ra nội ma thì quan trọng hơn nhiều. Nội ma thì không hình không tướng mà có đủ nội lực để sai khiến và đẩy con người vào hố thẳm của tội lỗi đau thương nên đạo Phật chỉ chú trọng đến nó để thanh lọc thanh tâm của mình. Người đạo tâm yếu thì bị ma quái chọc ghẹo, quấy phá và đôi khi còn bị hảm hại nữa. Còn những bậc đức độ cao dầy và ý chí sắt đá chẳng những không khiếp nhược trước bọn ma quỷ nầy mà họ còn đem lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình để hóa độ chúng trở về với chánh đạo. Đối với Ma Ba Tuần thì chúng lấy ngũ dục lạc tức là tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon và ngủ nghỉ làm thú vui sướng.

Tuy các vị Trời nhờ tu thập thiện nên được hưởng phước lạc nhưng họ vẫn còn chịu chi phối bởi luật vô thường và chưa ra khỏi lục đạo luân hồi vì thế Bồ-tát Trì Thế mới khuyên họ nên tu theo chánh đạo thì sẽ có ba pháp bền chắc. Đó là có thân bất hoại, mạng sống vô cùngtiền của vô tận. Tuy là Bồ-tát nhưng Bồ-tát Trì Thế chưa có mắt trí tuệ nên đã nhận lầm Ma Ba TuầnTrời Đế Thích tức là nhìn lầm đối tượng trong khi thuyết pháp. Mà đối tượng sai thì mất đi tính công dụng của pháp cũng như thuốc tuy có hay mà không trị đúng bệnh thì có uống thuốc cũng như không.

Một hôm ngài A Nan đang đi hoằng pháp thì gặp người thợ rèn hỏi ngài về pháp tu thì tôn giả dạy về quán bất tịnh. Khi gặp ông giữ nghĩa địa thì tôn giả dạy về cách đếm hơi thở. Cả hai ông thực tập hoài mà không có tiến bộ chi cả nên tôn giả đem chuyện nầy thuật lại cho Phật. Sau khi nghe xong, Phật dạy rằng:”A Nan! Ông dạy họ sai chớ không phải họ tu không có kết quả bởi vì ông nhìn sai đối tượng. Người giữ nghĩa địa vì thấy thây ma hàng ngày nên dạy họ về quán bất tịnh thì họ mới dễ quán chiếu, thấu triệt về luật vô thường tạm bợ của tạo hóa. Còn người thợ rèn cứ thổi ra thổi vô khì khịt cả ngày thì nên dạy về cách đếm hơi thở tức là hít vô thở ra đều đặn thì việc làm của họ hằng ngày tức là tu vậy.”

Thiên Ma Ba Tuần đã dùng sắc đẹp và đàn nhạc ca hát của các Thiên nữ để cám dỗ Bồ-tát Trì Thế. Tệ hại hơn nữa, Thiên Ma Ba Tuần lại muốn hiến hai ngàn Thiên nữ cho Bồ-tát để quấy phá làm lung lạc con đường tu đạo của Ngài. Bồ-tát Trì Thế biết mình không đủ bản lãnh để đối trị với ngũ dục lạc nên ông không dám nhận. Thà không hay không biết, không dính dáng thì dễ dàng tránh bỏ. Ngược lại ông Duy Ma Cậttrí tuệ sáng suốt, tâm hằng thanh tịnh, không còn bị đắm nhiễm ngũ dục lạc nên chẳng sợ bị cám dổ. Chẳng những không sợ bị nhiễm ô mà ông còn dùng chánh pháp để giáo huấn các Thiên nữ đưa họ trở về sống với chánh đạo. Thông thường nếu chúng ta sợ ma thì sẽ bị ma nhiểu loạn, còn không sợ ma thì ma sợ lại chúng ta. Vì có bản lỉnh cao nên ông mới yêu cầu Ma Ba Tuần hiến những Thiên nữ nầy cho ông. Ông dạy họ nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề để tạo niềm vui trong Phật pháp thay vì lấy ngũ lục lạc làm niềm vui như trước. Cái vui trong ngũ dục như phải có nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, chạy theo tham đắm sắc dục, đàn ca múa hát, phải có địa vị cao sang quyền thế trong xả hội để được vinh thân phì da, ăn ngon mặt đẹp…chỉ là cái vui của người nướng mình trên hầm lửa, cái vui của kẻ mê muội mà cội nguồn vẫn là vô minh, thiếu sáng suốt. Phật giáo không phủ nhận có rất nhiều cái vui trong thế gian nhưng tất cả cũng chỉ là những cái vui nhất thời, tạm bợ và là căn nguyên cội rễ của những nổi khổ sau nầy. Thí dụ như chúng ta vừa mới mua một căn nhà vừa to vừa đẹp nên chắc chắn tiệc mừng tân gia phải là ngày vui cho gia đình. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn sau, chúng ta phải lo tiền nhà, tiền bảo hiểm, tiền thuế và trăm ngàn thứ khác gắn liền với căn nhà mới nầy. Thế thì cái vui thì ngắn ngủi mà cái lo đeo đuổi suốt cả cuộc đời. Nhà càng to thì lo càng lớn và có càng nhiều thì càng phải lo phải giữ. Nếu đây không phải là khổ thì là gì? Ngược lại đối với người trí thì họ không cần những cái vui nhất thời tạm bợ ở trên mà họ chọn cho mình cái vui trường cửu ở mọi hoàn cảnh, ở mọi thời gian. Đối với Bồ-tát thì cái vui là việc tu hành thanh tịnh sáng suốt, khuyên người làm lành lánh dữ và làm việc vì người tức là lúc nào cũng lấy tinh thần vô ngã lợi tha làm phương châm cho hành động. Cái vui của Bồ-tát chính là sự thanh tịnh, an lạc phát xuất từ trong nội tâm và đây mới chính là cái vui vô cùng vô tận.

Cho dù là Thiên nữ ma nhưng khi gặp được bậc đại thiện tri thức giúp khai thị Phật tri kiến thì chúng cũng có khả năng quay trở về với chánh đạophát tâm cầu tiến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế khi phát Bồ-đề tâm tức là đã:”Hồi đầu thị ngạn” thì bây giờ các Thiên nữ đã thức tỉnh và có cái vui chân thật phát xuất từ trong nội tâm mà không còn thích cái vui ngũ dục tạm bợ bên ngoài nên các cô không muốn trở về ma cung nữa. Có cơ hội thoát khỏi chỗ nhơ uế nên các cô không muốn trở về, nhưng ông Duy Ma Cật cho rằng dù các cô có trở về ma cung thì cũng chẳng tai hại gì. Bởi vì ngọc trắng dù ở trong bùn bẩn vẫn không vì vậy mà hoen ố sắc màu. Cũng như người đã phát Bồ-đề tâm dù ở trong cảnh ô trược vẫn không vì vậy mà nhiễm loạn chất thanh cao. Đó là đúng với câu:”Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” vậy. Sống trong bất cứ hoàn cảnh xã hội nào thì không có gì quan trọng mà điều cốt yếu là con người phải luôn luôn bồi dưỡng trí tuệphát Bồ-đề tâm ngày càng thêm rộng lớn.

Bấy giờ các cô gái hỏi ông Duy Ma Cật:

- Khi trở về cung ma, chúng tôi phải làm gì? Thưa ngài Duy Ma Cật!

Ông Duy Ma Cật bảo:

- Này các cô! Có pháp môn tên là :”Vô tận đăng”, các cô hãy siêng năng tu học. Vô tận đăng có nghĩa là cây đèn vô tận. Ví như một ngọn đèn đem mồi thêm ra cả trăm ngàn ngọn đèn nữa, khiến cho chỗ tối được sáng, sáng rộng và sáng mãi mà ngọn đèn nguyên thủy chẳng hao mòn chút ánh sáng nào.

Cũng như vậy, thưa các cô! Bồ-tát có thể dạy dỗ cho

trăm, ngàn chúng sinh khiến cho họ phát tâm vô thượng Bồ-đềđạo tâmđạo hạnh của Bồ-tát chẳng có giảm sút. Ví như ngọn vô tận đăng đấy! Các cô dù ở cung ma sử dụng pháp “Vô tận đăng” khiến cho chư Thiên tử, thiên nử phát tâm vô thượng Bồ-đề thì chính là các cô đã đền đáp thâm ân Phật.

Vô Tận Đăngngọn đèn sáng không bao giờ tắt, là ngọn đèn chánh phápngọn đèn nầy chính là trí tuệ sáng suốt của người tu đạo. Nếu đã có trí tuệ sáng suốt thì mọi việc làm đều lành, mọi tư tưởng đều thiện và mọi lời nói đều tốt cho nên các Thiên nữ dù có ở cung ma nhưng đạo tâm không mất mà họ còn đem Phật pháp truyền bá rộng rãi khiến cho các Thiên tử, Thiên nữ khác phát Bồ-đề tâm thì cũng như đền đáp thâm ân Phật vậy.

Phật dạy rằng trí tuệtừ bi tuy hai nhưng mà một hỗ tương nhau. Từ bi giúp cho trí tuệ đượm nhuần tươi mát và trí tuệ giúp cho từ bi được sáng suốt để làm mọi việc lợi ích cho người đúng với đạo lý. Nếu chỉ có trí tuệ mà không có từ bi thì đó là trí tuệ khô không lợi ích cho mình và cho người. Còn nếu có từ bi mà không có trí tuệ thì đây là từ bi mù. Bởi vì nếu chúng tatình thương nhưng thiếu trí tuệ thì thấy ai cũng thương, người gạt cũng thương nên dễ bị lừa bịp. Vì thế muốn hoàn thành Phật đạo thì phải có đủ trí tuệtừ bi nên kinh Phật mới có câu: “Phước tuệ lưỡng toàn phương tác Phật”.

Bấy giờ các Thiên nữ đầu mặt lễ dưới chân ông Duy Ma Cật. Lễ xong, cùng theo Thiên ma về cung. Tất cả hốt nhiên biến mất.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Trì Thế thưa:

Trưởng giả Duy Ma Cậttrí tuệ biện tài tự tại như thế cho nên con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Cổ nhân có câu: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Trên thế gian nầy không ai biết mình bằng chính mình cho nên Bồ-tát Trì Thế tự biết mình không đủ bản lãnh để đối trị với ngũ dục lạc nên Ngài tránh nó xa để tâm không bị đắm nhiễm. Còn trưởng giả Duy Ma Cật là người có trí tuệ sáng suốt, thần thông quảng đại nên không sợ bị ô nhiễm. Trái lại ông còn vào chốn nhiễm ô để cải hóa, thay tâm đổi tánh và đưa họ trở về với chánh đạo. Một khi con người đã thức tỉnh, biết trực nhận chân lýphát Bồ-đề tâm thì cũng như là ngọn Vô Tận Đăng không bao giờ tắt. Ngọn đuốc trí tuệ nầy thắp sáng để soi đường cho chúng sinh đang đi trong đêm tối mê lầm và sẽ được chuyền tay nhau để chánh pháp mãi mãi được lưu giữ trong tâm của tất cả mọi người. Bồ-tát Trì Thế vì sợ nhiễm ô mà xa lánh bụi trần trong khi tư tưởng đại thừa khẳng định là Bồ-tát một khi đã có trí tuệ Ba-la-mật thì không còn sợ bị sa ngã trước những cám dỗ. Tâm các Ngài không hề bị giao động, không hề sợ hãi và không bị ngăn ngại cho dù phải đối diện với thuận hay nghịch cảnh. Khi đã thấu hiểu những thú vui nhất thời tạm bợ của ngũ dục lạc chính là cội nguồn của những phiền não khổ đau về sau thì con người nên dùng trí tuệ của mình để kiềm chế nó. Con người biết làm chủ được dục lạc thì có an vui tự tại, ngược lại nếu dục lạc làm chủ con người thì dĩ nhiên sẽ chuốc thêm hệ lụy phiền não khổ đau. Người trí thì không chạy theo cái vui nhất thời tạm bợ mà sống với cái vui của Bồ-tát. Đó là niềm vui trong an lạcviễn ly được phiền não. Vui vì lợi ích cho chúng sinh. Vui vì chuyển hóa được kẻ bất thiện. Vui vì được tâm Bồ-đề. Vui vì tu các công đức. Vui vì tâm thường thanh tịnh…Những niềm vui nầy chính là chất xúc tác để mở con mắt tâm và xóa tan những biên giới của nhị nguyên để giúp con người nhận ra kiến tánh của mình. Từ đây con người sẽ sống an vui tự tại trong cái tâm trạng đầy phúc lạc an nhàn.

4)Trưởng giả tử Thiện Đức:
Hội Đại Thí.

Bấy giờ Phật gọi trưởng giả Thiện Đức bảo:

- Thiện Đức! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Thiện Đức thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Vì trước đây, lúc ở tại nhà của thân phụ, con có thiết lập một hội đại thí, kỳ hạn bảy ngày cúng dường các sa môn, Bà la môn, ngoại đạobố thí cho tất cả những người nghèo khó, cho những kẻ ăn xin. Khi bấy giờ, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

- Thưa trưởng giả tử! Hội đại thí lập như vậy chưa đúng. Ngài lập hội tài thí trong bảy ngày, những người được thọ thí đở khổ trong bảy ngày. Sau bảy ngày họ không còn gì nương cậy. Ngài nên lập hội pháp thí mới đem lại lợi ích lâu dài cho người thọ thí.

Con hỏi:

- Hội pháp thí là thế nào?

Ông Duy Ma Cật nói:

- Hội pháp thí không phải chỉ có lợi cho thời gian trước hay thời gian sau, trong một thời cúng dường cho tất cả chúng sinh.

- Thế nghĩa là sao? Thưa cư sĩ, con hỏi.

- Nghĩa là vì Vô thượng Bồ-đề, khởi từ tâm. Vì cứu độ chúng sinh, khởi bi tâm. Vì hộ trì chánh pháp , khởi hỉ tâm. Vì sự nghiệp trí tuệ, khởi xả tâm. Vì hóa độ tâm tham, khởi bố thí Ba la mật. Vì hóa độ phạm giới, khởi trì giới Ba la mật. Vì biết rõ tánh vô ngã của các pháp, khởi nhẫn nhục Ba la mật. Vì biết rõ thân tâm như huyễn, khởi tinh tấn Ba la mật. Vì Bồ-đề, khởi thiền định Ba la mật. Vì nhất thiết chủng trí, khởi bát nhã Ba la mật. Vì giáo hóa chúng sinh, khởi quán vạn pháp giai không. Nhằm trực diện với các pháp hữu vi, khởi quán chư tướng vô tướng. Thị hiện thọ sanh, mà khởi quán không, vô tác. Nhằm truyền bá chánh pháp, khởi nhiều phương tiện. Nhằm hóa độ chúng sinh, thực hành pháp tứ nhiếp. Vì cung kính tất cả, khởi trừ tâm ngã mạn. Vì biết rõ thân mệnh tài như huyễn, khởi ái mộ pháp thân, bát nhãgiải thoát. Đối với lục niệm, thường khởi tưởng niệm. Đối với pháp lục hòa, khởi tâm chất trực. Dùng tâm hoan hỉ, khởi ý gần gủi thánh hiền. Khởi tâm điều phục, không ghét người ác. Với pháp xuất gia, khởi tâm kính mộ. Vì tri hành không lệch lạc, khởi ý chí đa văn. Nhằm tránh mọi ràng buộc, khởi ý đặt mình như ở chỗ cô tịch. Nhằm đạt đến Phật tuệ, khởi chí tọa thiền. Ví ái mộ cõi Phật thanh tịnh, khởi làm việc phước đức.

Thế đấy! Thiện nam tử! Nếu Bồ-tát lập hội pháp thí như thế, thì vừa là đại thí chủ vừa là phước điền cho tất cả chúng sinh.

Trong phẩm Bồ-tát này thì ba vị đầu là Bồ-tát Di lặc, Quang Nghiêm Đồng tử và Bồ-tát Trì Thế là Bồ-tát xuất gia. Còn vị thứ tư là Trưởng giả tử Thiện Đức là Bồ-tát tại gia nên có rất nhiều tiến bạc của cảilập hội đại thí để bố thí cúng dường cho bá tánh. Thiện Đức là người chuyên làm nhiều việc lành việc thiện để vun bồi nhiều phước báo công đức. Trong Lục độ Ba la mật thì bố thí cúng dường là hạnh thứ nhất với mục đích là để đoạn diệt lòng tham mà phát triển tâm từ để tiến về giải thoát giác ngộ. Bố thí thì có tài thí, pháp thívô úy thí.

1)Tài thí: Nếu bố thí ngoại tài là đem của cải, tiền bạc, áo quần, thuốc men, nhà cửa, xe cộ…ra cúng dường kẻ tu hành và cứu giúp người nghèo khó. Người càng thực hành nhiều tài thí thì sẽ càng hưởng nhiều phước báu và những quả tốt lành ở đời nầy và mãi mãi về sau. Còn bố thí nội tài là ra tay giúp đỡ người già cả, chăm sóc người bệnh hoạn, tàn tật hoặc chăm sóc các em trong viện mồ côi. Đôi khi bố thí nội tài là hy sinh cúng dường một phần thân thể như cho máu, cho xương tủy, cho thận hay cả tánh mạng của mình cho kẻ khác. Đây là cơ hội để thử thách lòng tham sống sợ chết và trau dồi đức tính lợi tha.

2)Pháp thí: là đem những giáo lý huyền diệu của Như Lai mà giúp cho chúng sinh thấu hiểu để tu tâm dưỡng tánh và hướng về giải thoát giác ngộ. Biếu tặng kinh sách và cúng dường để in kinh đều là pháp thí cả.

3)Vô úy thí: Con người đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ cho nên nếu làm cho họ hết sợ thì chúng ta đã cứu cho họ bớt đi quá nửa nỗi khổ đau trong kiếp sống nầy. Khi đã biết vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn thì còn cái gì để sợ. Bởi vì nếu chúng ta không tham lam tiền của thì không sợ mất, không màn danh lợi thì không sợ thất vọng, thân nầy là giả huyễn thì không sợ mất. Thật ra bố thí vô úy là một phần của pháp thí vì có thấu hiểu Phật pháp thì con người sẽ dùng trí tuệ sáng suốt để cứu giúp đời. Do đó an ủi người đau khổ, cảnh tỉnh người tham đắm nóng giận, khuyên can kẻ mê mờ độc ác cũng đều là pháp thí cả. Có người lo sợ vì ngày xưa lỡ tạo ra tội nghiệp hay làm tổn thương người khác…Đối với đạo Phật thì nghiệp tánh bổn không tức là con người có thể chuyển nghiệp của mình được vì nghiệp tự tánh là không nên không cứng ngắt cố định. Thí dụ nghiệp ác như nước màu đen đựng trong ly. Nếu bây giờ chúng ta đem ly nước màu đen nầy pha với vài thùng nước tốt khác thì nước bây giờ đâu còn thấy màu đen. Nghiệp con người thì cũng thế. Nếu trong quá khứ chúng ta lỡ tạo ra vài nghiệp bất thiện nhưng bây giờ thấu hiểu Phật pháp nên tránh xa ác nghiệptiếp tục vun bồi thiện nghiệp thì nghiệp ác biến đi đâu còn nữa. Biết như vậy thì hết lo sợ.

Phần lớn tài thí giúp cho người “đở ngặt” chớ không giúp được “đở nghèo”. Thí dụ khi chúng ta cho một người ăn xin số tiền nào đó thì với số tiền nầy họ có thể mua thức ăn được vài ngày. Vài ngày sau thì họ vẫn đói như thường. Có vài trường hợp đặc biệt thì tài thí chẳng những vừa giúp đở ngặt mà còn giúp đở nghèo nhưng vẫn không thể nào giúp cho đở khổ được. Thí dụ nếu ở Hoa kỳ chúng ta làm ăn thành công phát tài thì có thể cho bà con bên Việt Nam một số tiền để làm ăn buôn bán. Nhờ sự giúp đở tài chánh nầy mà người bà con có cuộc sống thịnh vượng tức là hết nghèo. Nhưng ngày xưa nghèo thì khổ vì đói cơm thiếu áo, còn bây giờ có nhiều tiền thì khổ vì phải làm, phải giữ gia sản của mình. Cho nên bất cứ một ai trên đời nầy không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội, nam nữ, da trắng, da vàng hay da đen đều cưu mang nỗi khổ như thường. Mà đạo Phật là đạo diệt khổPháp thíphương tiện tốt nhất để giúp chúng sinh thoát khổ. Khi con người biết thức tỉnh, không còn sống trong mê mờ điên đảo thì cuộc sống chắc chắn sẽ an vui tự tại. Cái an vui nầy chẳng những họ có được trong đời nầy mà còn ảnh hưởng tốt cho những đời mai sau.

Có sự khác biệt sâu xa giữa bác ái của những tôn giáo khác và từ bi của đạo Phật. Bác áitình thương phát xuất từ con tim để cứu giúp con người trong nhất thời. Mà tình thương từ con tim tức là cảm tình thì có lúc đúng, có lúc sai, có lúc mê có lúc tỉnh. Nay thương mai ghét không nhất định vì con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể hiểu được. Khi thấy có nạn nhân bảo lụt thì đem áo quần tiền của đến giúp đở. Giúp đở người mà còn bắt người lệ thuộc vào đoàn thể nầy, tôn giáo nọ thì làm sao gọi là từ thiện tức là thi ơn mà cầu báo vậy. Ngược lại từ bi của Phật giáotình thương phát xuất từ trí tuệ. Trí tuệ thì lúc nào cũng sáng suốt, không mê muội. Giúp người theo tôn chỉ thi ân bất cầu báo tức là bố thí vô tướngđộ sanh vô ngã thì làm gì có sự ràng buộc. Thêm nữa, từ bi chẳng những giúp người diệt trừ mọi nỗi khổ mà còn mang lại niềm an vui tự tại trong tâm của tất cả mọi loài. Vì tầm quan trọng của Pháp thí nên Kinh Phật có dạy rằng:” Cho dù bạn có đem của báu chất đầy ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí cúng dường cũng không bằng Pháp cúng dường”. Tại sao? Của báu thế gian như kim cương, vàng bạc, tiền của, nhà cửa, xe cộ…cho dù có nhiều đến đâu cũng là vô thường, là giả huyễn, là pháp hữu vi sinh diệt. Có nhiều thì phải lo phải giữ có nghĩa là càng chuốc thêm nhiều hệ lụy khổ đau. Ngược lại Pháp thí đem lại sự an vui tự tại, tâm thanh tịnh Niết bàn tức là pháp vô lậu. Lợi người, lợi mình vì cả hai cùng tiến về giải thoát giác ngộ.

Trưởng giả tử Thiện Đức lập hội bố thí cúng dường bảy ngày cho Sa môn, Bà la môn và những người nghèo khổ, ăn xin…thì sự bố thí nầy có phân biệt, có giới hạn. Còn phân biệt, còn sống trong biên giới của nhị nguyên là chưa giải thoát, chưa tự tại. Như thế theo Bồ-tát Thiện Đức thì người nghèo mới khổ còn người giàu có, quyền uy thế lực không khổ sao? Ai dám bảo nhà tỷ phú Bill Gate hay tổng thống Bush không khổ? Hiện tại thống kê mới nhất tại Hoa kỳ có tới 60% bác sĩ và 30% luật sư giải nghệ. Nếu làm bác sĩ, luật sư được nhiều tiền, lắm của, danh vọng cao sang thì tại sao lại bỏ nghề? Thật là:

Rằng hay thì thật là hay

Nghe qua ngậm đắng nuốt cay thế nào.

Ngược lại ông Duy Ma Cật chủ trương nên hội pháp thí thì mới cứu khổ cho tất cả mọi người và mọi giai cấp trong xả hội. Lợi ích của pháp thí thì không có phân biệt, không có biên giới bởi vì từ thiên tử đến chí dân ai ai cũng đều có khổ. Hoàn cảnh và môi trường tuy có khác nhưng cái khổ đâu có tha cho một ai vì khổ khôngranh giới quá khứ, hiện tạivị lai. Khi đem những chân lý như tứ vô lượng tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả; lục độ Ba la mậtBố thí, Trì Giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; luật Vô thường; lý Nhân duyên, thuyết Vô sinh, Vô tác, Không tướng, Thật tướng…giúp cho chúng sinh thấu hiểu mà thực hành để cải thiện cuộc đời của họ là cách Pháp thí hữu hiệu nhất.

Quý vị có biết tại sao hằng ngày chúng ta làm việc gì cũng thấy khổ còn Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì họ cũng vui? Họ có những bí quyết gì mà chúng ta không có? Bồ-tát thì họ làm việc mà tâm rất bình đẳng, không phân biệt thân sơ. Họ cũng làm việc như chúng sinh nhưng không chấp việc mình làm. Làm xong thì quên không ghi nhớ trong lòng nên tâm lúc nào cũng thanh tịnh, không dính mắc. Còn chúng taphàm phu thì làm việc vì mình, vì lợi ích cho mình và cho gia đình của mình trước. Làm xong việc thì chẳng những không quên mà còn nhắc đi nhắc lại làm tăng tập khí ngã mạn và lòng luôn mong cầu đền đáp cho nên phiền não khổ đau cũng vì thế mà phát sinh. Nếu muốn thực hành Bồ-tát đạo viên mãn thì con người cũng nên bắt đầu thực tập con đường vi diệu của Bồ-tát để tâm được thanh tịnh và thoát ra khỏi mọi phiền não khổ đau.

Bạch Thế Tôn! Trưởng giả tử Thiện Đức thưa. Ông Duy Ma Cật thuyết thời pháp ấy, có hai trăm Bà la môn phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Riêng con cảm thấy tâm mình được cởi mở nhẹ nhàng thanh thoát. Con đảnh lễ dưới chân Ông và cởi xâu chuổi anh lạc giá trị trăm ngàn vàng dâng cúng; nhưng Ông Duy Ma Cật không nhận.

Sau lời thỉnh cầu hiến dâng thành khẩn của con, Ông Duy Ma Cật nhận lấy và liền chia làm hai phần. Một phần, bố thí cho người hành khất tối hạ cơ cực nhất. Một phần ông dâng cúng Đức Nan Thắng Như Lai. Khi bấy giờ cả chúng hội đều thấy cõi nước trang nghiêm của Đức Nan Thắng. Đồng thời thấy chuỗi anh lạc biến thành bốn trụ cột của một bảo đài. Bốn mặt dài đẹp đẽ trang nghiêmtrong suốt không chướng ngại nhau.

Ông Duy Ma Cật nói với đại chúng rằng:

- Một thí chủ bố thí cho người hành khất tối hạ bằng tấm lòng bình đẳng y như cúng dường Đấng Như Lai phước điền tối thượng. Cúng dườngbố thí phát xuất từ một bi tâm. Không hy vọng trả ơn và không mong cầu phước báu.

Đó là mô hình của hội pháp thí viên mãn nhất.

Bạch Thế Tôn! trưởng giả tử Thiện Đức thưa:

- Những người hành khất tối hạ thấy thần lực của Ông Duy Ma Cật và nghe thuyết những pháp thậm thâm như thế, họ đều phát tâm hướng về Vô thượng Bồ-đề. Vì duyên cớ đó, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Nhiều vị Bồ-tát ở trước Phật cùng trình bày những trường hợp bị khiển trách của mình. Tất cả đều từ khước không dám đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Nan Thắng là khó thắng. Sống trong thế gian, con ngườithói quen chạy theo ý thức vọng niệm nên tâm có sự phân biệt cao thấp, nghèo giàu, sang hèn, tốt xấu…mà đạo Phật dạy con người muốn có tâm thanh tịnh thì phải bỏ tâm phân biệt và sống với tinh thần vị tha bình đẳng. Ngày xưa chưa học đạo thì thấy có ông bác sĩ bà kỹ sư, ông tỷ phú người ăn mày, ông đại tướng người lính quèn nên mới khinh bần trọng phú, chuộng cao bỏ thấp. Bây giờ giáo lý liễu nghĩa thượng thừa dạy con người bỏ hình Tướng bên ngoài mà nhập Thể Tánh thanh tịnh bên trong thì ai ai cũng thế. Con người còn theo Tướng thì còn theo sự thay đổi sinh diệt vô thường tức là còn đeo mang cái khổ. Người Việt Nam thì có ai quên được cuộc đổi đời năm 1975, biết bao người có tiền rừng bạc biển, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, danh vọng cao sang quyền quý mà bây giờ cũng chạy cơm ngày hai bữa mà thôi. Còn nói về đơn vị nhỏ là gia đình. Ở Việt Nam rất nhiều gia đình có năm, sáu đứa con. Thử hỏi có cha mẹ nào thương tất cả các con của mình đồng nhau chưa? Có nhà thì thương con trai út nhiều, có gia đình thì thương con trai đầu lòng hơn. Cha thì thương con gái còn mẹ thì lo cho con trai…Con thì như thế đến phần cháu thì cháu nội mới là cháu của dòng họ mình còn cháu ngoại là cháu của người ta. Tư tưởng Khổng Mạnh quân sư phụ, tam cương ngũ thường đã gieo vào trong tâm thức của con người biết bao sự phân biệt kỳ thị từ trong gia đình cho đến xã hội, trọng nam khinh nữ, trên đội dưới đạp. Con người vì có tâm phân biệt như thế nên khổ cả cuộc đời và đến chết cũng chưa hết khổ. Trong khi Phật và Bồ-tát với tâm đại bi bình đẳng cho nên họ thương tất cả chúng sinh không phân biệt nam nữ, da vàng, da trắng, da đen hay da đỏ, nghèo hay giàu, ông tướng hay phó thường dân cũng như con một của họ nên tâm họ hằng thanh tịnh và thường trụ Niết bàn. Vì thế khi cố gắng để dần dần bỏ hết tâm phân biệt là việc khó làm, nhưng khó mà làm được mới là quý, là cao cả. Người không làm mà ta làm được mới là hay, là giỏi. Thí dụ như thấy một đóa hoa. Nếu chúng ta khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu…thì đây là Thức. Còn không khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu là Trí. Do đó Thức cạn mà Trí mới sâu. Bây giờ nếu biết chuyển ý thức thành trí tuệ sáng suốt vô phân biệt để tâm được thanh tịnh thì chúng ta đã chiến thắng chính mình rồi. Chiến thắng chính mình là con người phải biết làm chủ sáu căn của mình. Không cho sáu căn chạy theo sáu trần thì sáu thức không sanh nghĩa là không có những ý niệm phân biệt, chạy theo ngũ dục, lục tình khiến tâm bị ô nhiễm. Khó thắng mà thắng được mới là quý và đây chính là ẩn nghĩa của chữ Nan Thắng vậy. Vì thế chiến thắng được mình tức là điều phục được tâm mình là làm chủ tất cả và là chiến thắng cao thượng nhất.

Ông Duy Ma Cật đem chuỗi anh lạc, một phần cúng dường cho Phật và phần còn lại bố thí cho người ăn xin chứng tỏ tâm đại bi bình đẳng, không phân biệt vì Phật và người ăn xin cũng đều có Phật tánh, Bản Thể thanh tịnh như nhau. Ngược lại phàm phu thì kính trọng chư Phật mà lại khinh thường người nghèo khổ cũng tại vì còn tâm phân biệt. Vì thế một trong mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát có câu:”Lễ kính chư Phật” nghĩa là trong tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau tức là sẽ thành Phật cho nên chư Phật ở đây là muốn ám chỉ cho tất cả chúng sinh vậy. Ngài Phổ Hiền muốn khuyên con người bỏ chấp tướng hình thức bên ngoài mà cung kính tất cả chúng sinh như cung kính chư Phật thì tâm sẽ hoàn toàn thanh tịnhchúng sinh bổn nguyên là Phật. Cúng dường, bố thí với tâm vô cầu, vô đắc, phá bỏ mọi chấp trước thì đây mới là chân Pháp thí vậy. Cho dù chúng ta cúng dường ít nhưng với bản tâm thanh tịnh thì trong cái quả phước báo đã có sự an lạc rồi. Ngược lại nếu tiền của có được bằng cách làm ăn bất chánh cho dù có cúng dường nhiều đi chăng nửa với cái tâm mong cầu, phân biệt thì cũng không có kết quả gì. Kinh Phật dạy rằng:”Bố thí cho chúng sinh cũng như cúng dường mười phương chư Phật” bởi vì trong tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh và ai ai cũng sẽ thành Phật. Do đó tâm vô phân biệt là người ăn xin và Phật đồng một Thể. Bởi vì Phật với chúng sinh chỉ có một cái tâm và cái tâm nầy vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời vô thỉ đến nay vẫn không hình không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, ví như hư không, không bờ không bến. Cái tâm nầy chính là Phật tánh vậy. Thêm nữa, Phật với chúng sinh vốn không sai khác nhưng chúng sinhchấp sự Tướng nên cầu ở ngoài. Mà càng cầu thì càng mất nên mãi mãi lặn hụp trong biển sinh tử luân hồi.

Dựa theo giáo lý phương tiện tức là giáo lý tiểu thừa thì bố thí là cốt để tạo phước nhưng giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thì bố thí là nhằm phát triển trí tuệ, tăng trưởng lòng từ bi và phát huy chánh pháp để cùng hướng về đạo quả Bồ-đề. Bởi vì nếu người xin gì, mong gì mình cho nấy mà không giúp họ phát triển trí tuệ thì chỉ làm tăng thêm lòng tham dục của họ mà thôi. Mà lòng tham vô đáy thì biết chừng nào cho vừa cho đủ.. Bố thí như vậy là không đúng với chánh pháp. Ngược lại nếu chúng tatrí tuệ sáng suốt, thông hiểu Phật pháp thì đem những ánh sáng huyền diệu nầy ra bố thí cho chúng sinhPháp thí giúp họ phát triển trí tuệ sáng suốt mà lìa xa tham mê ngũ dục và sau cùng tiến về chỗ giải thoát giác ngộ. Con đường duy nhất để có trí tuệ là phải xóa bỏ chấp ngã chấp pháp, không còn tâm phân biệt thân sơ, tốt xấu, giàu nghèo, trên dưới và tâm hằng thanh tịnh bình đẳng như ánh sáng mặt trời rọi chiếu khắp mọi nơi không phân biệt là cây cao hay ngọn cỏ. Cũng như ánh sáng của mặt trăng chiếu sáng cùng khắp đâu có phân biệt là cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo của người nông dân. Vì thế cổ nhân mới có câu:”Nhựt nguyệt tri minh nan chiếu phúc bồn chi hạ” nghĩa là tuy mặt trời mặt trăng lúc nào cũng chiếu sáng nhưng cái chậu bị úp thì bên trong vẫn tối như thường. Do đó chỉ cần lật ngửa cái chậu thì sẽ có ánh sáng ngay. Như thế Pháp thí vừa lợi cho mình và lợi cho người vì cả hai cùng hướng về Vô thượng Bồ-đề. Ông Duy Ma Cật cúng dường Phật và người ăn xin với tâm hoan hỷ bình đẳng, vô cầu, vô đắc, thi ân bất cầu báo và dập tắt mọi chấp trước thì mới thực hành bố thí đúng với ý nghĩa vậy. Đây là điểm đặc thù của Phật giáo vì dưới ánh mắt sáng suốt trí tuệ của ông Duy Ma Cật thì Đức Nan Thắng Như Lai đã thành Phật còn vị ăn mày sẽ thành Phật vì tuy hình Tướng sinh diệt họ không giống nhau nhưng Bản Thể Chân Như tức là Phật Tánh thì Phật và kẻ ăn mày có khác gì nhau.

Ngày nay có người cúng dường xây cất chùa chiền mà nếu không được mời đặt viên đá đầu tiên, cắt băng khánh thành hay không làm hội trưởng là lòng không vui. Nhiều Phật tử có lòng muốn cúng dường tượng Phật, hay tượng các Bồ-tát mà đòi hỏi chùa phải khắc tên của gia đình mình phía dưới bức tượng. Một ông bác sĩ đến chùa mà không được vị trụ trì nhiệt tình chào đón thì cũng không hài lòng. Một Phật tử có công giúp xây dựng ngôi chùa muốn di ảnh của thân phụ mình lớn hơn những di ảnh khác. Nếu vị trụ trì không chìu theo thì không bao giờ đến chùa đó nữa. Bố thí, cúng dường như vậy là vì bản ngã chớ đâu phải là cho Tam Bảo, cho Phật pháp nên không có kết quả vì thi ân mà mong cầu quá nhiều quả báo.

Chuỗi anh lạc trên tay Đức Nan Thắng Như Lai biến thành bốn trụ cột của một bảo đài. Cũng như một khi chúng sinh có thể lìa Tướng nhập Thể để thấy được Pháp Thân thanh tịnh của mình thì có được bốn tính thanh tịnh của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và đây chính là bốn cột trụ vững chắc để bảo vệ tòa Pháp bảo đài. Thường là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng vậy, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay. Lạc là không còn khổ não, lo buồn, lúc nào cũng an vui tự tại. Ngã là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. Tịnh là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh trong sáng. Nói về Tướng thì chấp có tu, có pháp môn để tu và có chứng đắc. Nhưng đứng về Thể Tánh thì chẳng có khổ vui, không còn chấp ngã chấp pháp nên chẳng có pháp môn để tu. Ta cũng không mà người cũng không nên không có gì ngăn ngại và có trí tuệ sáng suốt cũng như bốn mặt đều đẹp đẻ trang nghiêmtrong suốt không chướng ngại nhau.

Tăng sĩ dựa theo tinh thần Phật giáo là người Khất sĩ. Vì trên thì họ xin giáo Pháp của chư Phật, còn dưới thì xin vật thực của đàn na thí chủ. Chính Đức Phật cũng là một khất sĩ và tất cả đại đệ tử của Ngài đều là khất sĩ cả. Bởi vì khất sĩmục đích tối thượng là phá trừ tánh ngã mạn hay tăng thượng mạn của mình. Khi đã đi xin cơm người thì tìm đâu ra tiền củatài thí cho chúng sinh? Trong những năm gần đây có những thiên tai rất lớn xảy ra khắp thế giới. Thấy chúng sinh bị tai trời ách nước thì ai lại không thương xót. Nhưng việc cứu tế xã hội là do hội từ thiện, chính quyền, hay những người thiện tâm đảm trách. Nếu chúng ta quyên tiền cho các vị Tăng sĩ Phật giáo để lo cứu trợ thì lợi ít mà hại nhiều. Tại sao? Tu hành là nên tránh xa ái dục, nay nếu cầm trong tay quá nhiều tiền lòng tham nổi dậy thì dễ dàng làm việc bất chánh. Họ có tiền là do chúng ta cúng dường cho nên họ tạo nghiệp thì chúng ta cũng gánh theo. Vì chúng ta thiếu sáng suốt tạo phương tiện để lòng tham của họ nổi dậy mà hoang phí cả đời tu thì lổi tại ai? Người tu hành mà còn chú tâm đến tài thí là đi ngược lại với chánh phápPháp thí mới là điều họ đáng quan tâm.

Ngày nay nhiều vị Hòa thượng tu theo Bắc tông đại thừaquan niệm sai lầm là chỉ có những người tu theo Nam tông tức là Phật giáo nguyên thủy mới là khất sĩ bởi vì họ nghĩ rằng hằng ngày họ không cầm bình bát đi khất thực. Thật ra ở Hoa kỳ ngày nay tu theo Nam Tông hay Bắc tông đâu có vị Tăng nào đi khất thực đâu? Không nhất thiết là tay cầm bình bát đến tận nhà thí chủ để nhận vật thực thì mới gọi là khất sĩ. Nếu vị Tăng không đi làm mà nhận tiền hay vật thực cúng dường của thí chủ đem đến chùa nếu khôngkhất sĩ thì là gì? Nếu cho rằng khất sĩ là xấu thì tại sao chính Đức Phậtkhất sĩ mà được mọi người tôn xưng? Vì Ngài không còn tánh ngã mạn và trong Ngài không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh và tướng thọ giả. Phải chăng Đức Phật là người nghèo nhất thế gian? Tuy chỉ có tam y nhất bát và có lẻ là người nghèo nhất nhưng lại là người an lạc nhất trên trần thế nầy vì tâm Phật lúc nào cũng thường trụ Niết bàn. Nếu cho rằng xin ăn không phải là phương cách để diệt bản ngã thì con đường giải thoát vẫn còn xa vô tận.

Đức Thế Tôn dùng giáo phápbố thí tức là pháp thí bởi vì bên trong thì Ngài diệt trừ hết mọi chấp trước còn bên ngoài thì lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Còn Bồ-tát thì bố thítâm không trụ bởi vì các Ngài không thấy có “ta” là người bố thí, không thấy có “người” là kẻ thọ thí và cũng chẳng thấy có “vật” là của tín thí. Đối với bồ-tát thì đây chính là thanh tịnh bố thí vì bồ-tát khi bố thí chẳng sợ mình nghèo, chẳng mong trả ơn và không cần phước báo.

Ngược lại phàm phu khi bố thí thì quá mong cầu phước lợi mà nhà Phật gọi là bố thí trụ tướng. Cho nên cổ nhân mới có câu:

Cầu phước nhơn, thiên mà bố thí

Như tên bắn bổng giữa hư không.

Muốn tâm không trụ thì Kinh Kim Cang khuyên con người nên lìa bốn chấp tướng. Đó là:

1)Ngã tướng: là ỷ mình có danh vị, quyền thế, giàu cótài năng nên thích cầu thân cùng bậc cao sang mà khinh bỉ những người hèn dốt. Nói một cách khác là làm việc vì lợi ích riêng cho mình tức là chỉ nhìn vào bên trong làm tăng trưởng tánh tham mà tạo nghiệp.

2)Nhơn tướng: là chấp lòng năng sở và tri giải tức là chưa chứng ngộ mà nói chứng ngộ, ý mình giữ giới mà khinh kẻ phá giới. Hiểu như thế là chấp theo bề ngoài vì còn tâm phân biệt có người và ta nên tâm sân phát khởi để tạo ra nghiệp.

3)Chúng sinh tướng: là có cái lòng hy vọng hoặc nói chánh làm tà, miệng lành lòng dữ và đây chính là tâm si đang bừng cháy trong ta vì thế mà nghiệp dữ được tác tạo.

4)Thọ giả tướng: là trông mong cho được sống lâu và mong cầu sự phước lợi. Đây chính là ái và cũng là cội nguồn để tạo nghiệp.

Nói tóm lại bố thímục đích chính là giảm trừ lòng tham lam bỏn xẻn của con người. Khi đã thấu hiểu vạn pháp giai không tức là của cải vật chất thế gian chỉ là giả tạm, phù du, không thật nên lòng không tham đắm mà chia xẻ lại với đời. Không ôm giữ, thâu góp cả thế giới vào tay mình rồi cuối cùng cũng buông tay trả lại hết cho trời đất mà thôi. Ngay cả chánh pháp chúng ta cũng không tham. Đối với người học Phật một khi đã thấu hiểu Phật pháp, biết sống với chánh pháp và hòa nhập với thiên nhiên vũ trụ để tâm được thanh tịnh thì cũng nên đem chánh pháp huyền diệu nầy chia xẻ với tất cả mọi người. Đây gọi là pháp thí vậy. Một khi chúng ta sống hoàn toàn tự tại, lòng không tham đắm, tánh không si mê có nghĩa là thấy tiền của không tham, thấy nhà cao cửa rộng không màng, không cầu danh vọng, không buồn không giận…thì cho dù không bố thí nhưng thật ra đây mới chính là bố thí chân thật nhất. Do đó nếu chúng sinh đạt được tâm thanh tịnh, loại bỏ tâm tham tật đố thì cuộc sống an vui tự tại của mình chính là sự bố thí cúng dường cao thượng nhất.

Phần Tóm lược Phẩm Bồ-tát.

Bốn vị Bồ-tát đại diện cho bốn lối tu hành khác nhau trong phẩm Bồ-tát nầy, đó là:

1)Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệtpháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt. Vì Bồ-đề không phải là cái mà từ bên ngoài đưa đến hay cố gắng nỗ lực để đạt được mà Bồ-đề đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế nếu con ngườiTịch diệt là có Bồ-đề, có Thuận là có Bồ-đề, có Bất nhập là có Bồ-đề…Niết bàn thì cũng thế, nếu chúng sinh biết loại bỏ tánh tham, tật đố, không giận không hờn, không vui không buồn thì Niết bàn hiễn hiện ngay. Nhà Phật không quan trọng về vui hay hạnh phúc bởi vì có vui thì sẽ có lúc buồn và hạnh phúc thì sẽ biến thành đau khổ. Cái mà đạo Phật chú trọng nhất là sự an lạc thanh tịnh từ trong nội tâm vì đó là sống với trí tuệ sáng suốt triệt để, là chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh của mình.

2)Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp có chúng sinh cần phải độ, còn chấp có người xuất gia và có chùa để tu, có quả vị để chứng và có công đức để trang nghiêm. Nếu sống theo hình Tướng sinh diệt bên ngoài thì còn chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu nhưng một khi chúng sinh đã thấu nhập được Bản Thể bên trong thì họ không quan trọng cái sinh diệt mà chỉ chú ý đến thật tánh thanh tịnh bất sinh bất diệt thì ở đâu tu cũng được và ở đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh cả. Tu là tu tâm chớ không tu cảnh vì tâm chuyển thì cảnh sẽ chuyển theo cho nên một khi tâm thanh tịnh thì đâu đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh và ai ai cũng đều có Phật tâm thanh tịnh trang nghiêm cả.

3)Bồ-tát Trì Thế tuy thấu hiểu Phật pháp để cứu độ chúng sinh nhưng chưa đủ trí tuệ để hóa độ nghịch duyên nên không dám dấn thân vào chốn ô nhiễm, vào nơi xấu ác vì biết không thể điều phục được tâm mình. Ở Việt Nam vào đời nhà Trần có ngài Tuệ Trung Thượng sĩvị cưnổi tiếng. Một hôm vào cung thăm chị là Thái hậu và được Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Trong bàn tiệc, Ngài gặp thịt vẫn ăn làm Thái hậu kinh ngạc mà hỏi:

- Anh tu thiềnăn thịt thì làm sao thành Phật?

Thượng sĩ cười đáp:

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng cũng chẳng cần làm anh. Thái hậu có nghe cổ đức nói:”Văn Thù là Văn Thù, Giải thoátgiải thoát đó sao?.

Ý ngài Thượng sĩ là Phật là Phật tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng thanh tịnh, không hề bị nhiễm ô. Còn Thượng sĩsắc thân giả huyễn. Khi ăn là sắc thân ăn chớ tâm đâu có ăn thịt mà phải lo sợ ô nhiễm. Miệng nhai thịt mà tâm không nhai thì thịt cũng như đậu hủ mà thôi. Đây mới chính là thực hành thấu triệt câu”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” vậy. Câu chuyện nầy là cho người đắc đạo, tâm thanh tịnh, không còn nhiễm ô trần cảnh. Còn chúng taphàm nhân tâm còn phân biệt ý niệm tham muốn thì không nên bắt chước ngài Thượng Sĩ. Nhắc lại ngày xưa lúc Đức Phật đi khất thực thì Ngài thọ dụng bất cứ vật thực cúng dường chay có mặn có. Ngài thọ dụng nhưng tâm không hề dính mắc và chấp trước nên lúc nào tâm cũng thanh tịnhthường trụ Niết bàn.

4)Trưởng giả Thiện Đức thực hành hạnh bố thí chưa rốt ráo vì quá chú trọng tài thí mà bỏ quên pháp thí. Tài thí chỉ mang lại lợi lạc, an lạc cho thân nghĩa là sự lợi íchgiới hạn nhất thời trong khi pháp thí thì mới đem lại lợi íchan lạc cho tâm tức là sự an vui tự tại mãi mãi về sau không những cho một đời mà còn nhiều đời nữa.

Như trên kinh giới thiệu bốn phương cách tu khác nhau của bốn vị Bồ-tát, không phải là nhằm chỉ vào chổ thiếu sót hay chổ tu chưa rốt ráo của các vị Bồ-tát nầy. Nhưng thâm ý của kinh là muốn dùng các vị Bồ-tát làm đối tượng để chỉ dạy cho chúng sinh những khuyết điểm trên con đường hành đạo. Đó là đừng chấp và hình tướng bề ngoài mà phải quay vào trong Tâm để kiểm soát và hoàn chỉnh tâm thức của mình. Như thế thì ở đâu tu cũng được, tu chùa cũng tốt, tu chợ cũng hay mà ở nhà cũng là đạo tràng sáng chói trang nghiêm thanh tịnh để tu. Thuận duyên cũng tu, nghịch cảnh cũng không thối chí. Chuyển tâm trước thì ngoại cảnh sẽ tự nó chuyển theo. Vì thế đây là mới thực hành thâm sâu câu:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là một khi có tâm tịnh thì sẽ có cõi Phật tịnh mà muốn có cõi Phật tịnh thì trước hết phải làm cho tâm mình thanh tịnh trước. Vì thế các vị Bồ-tát thị hiện thế gian để làm gương giáo hóa chúng sinh, các ngài làm là vì chúng sinh, cho chúng sinh chớ không phải cho các ngài. Như thế chúng sinh học từ Bồ-tát, thấy họ chuyển tâm thì mình cũng phải noi theo mà chuyển tâm cho được thanh tịnh như Bồ-tát.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
19/09/2013(Xem: 28197)
19/05/2010(Xem: 44845)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.