I. Kinh Điển Căn Bản Của Giới Bồ-tát

19/06/201012:00 SA(Xem: 11636)
I. Kinh Điển Căn Bản Của Giới Bồ-tát

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
LUẬT HỌC TINH YẾU

Hoà Thượng Thích Phước Sơn
Nhà xuất bản Phương Đông 2006 – PL 2550

Chương 4
GIỚI BỒ-TÁT

I. KINH ĐIỂN CĂN BẢN CỦA GIỚI BỒ-TÁT

Những Kinh điển liên quan đến giới pháp mà Bồ-tát phải thọ trì được đề cập trong sáu bản sau đây:

1. Bồ-Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh

2. Phạm Võng Kinh Bồ-Tát Giới Bản

3. Du-Già Sư Địa Luận Bồ-Tát Giới Bản

4. Bồ-Tát Địa Trì Kinh

5. Bồ-Tát Thiện Giới Kinh

6. Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh

Sau đây là tóm lược nội dung của phần Giới kinh trong các bản Kinh trên.

1. Bồ-tát anh lạc bản nghiệp kinh

Kinh này ở trong Đại Chính Tạng, tập 24, ký hiệu 1485, do Trúc Phật Niệm đời Diêu Tần dịch khoảng năm (376-378), gồm hai quyển, tám phẩm. Nội dung kinh nói về 52 thứ bậc của Bồ-tát. Anh lạc bản nghiệp là lối dụng ngữ theo hệ thống Kinh Hoa Nghiêm, cho nên giáo tướng của kinh này với kinh Hoa Nghiệm phù hợp nhau rất nhiều chỗ. Vì dùng 52 địa vị của Bồ-tát là: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Vô Cấu ĐịaĐẳng Giác Địa mà có tên gọi như vậy. Ở phần bài tựa của phẩm Đại Chúng Thọ Học nói về tam tụ tịnh giới như sau:

- Dùng 84.000 pháp môn lập ra Nhiếp Thiện Pháp Giới.

- Dùng từ bi hỷ xả, 4 vô lượng tâm lập ra Nhiếp Chúng Sinh Giới. (Nhiêu Ích Hữu Tình Giới).

- Dùng 10 Ba-la-di lập ra Nhiếp Luật Nghi Giới (10 Ba-la-di này với 10 trọng giới của kinh Phạm Võng giống nhau).

Bản kinh này ngoài ảnh hưởng của Kinh Hoa Nghiêm còn chịu ảnh hưởng của kinh Phạm Võng khá nặng; vì nội dung của Tam tụ tịnh giới thuộc giới Đại thừa. Đặc biệt là giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp bỏ, một lần thọ là vĩnh viễn không mất, dù phạm giới Ba-la-di cũng không mất giới thể. Vì chủ trương giới lấy tâm làm thể.

Khi khảo cứu bản kinh này thì tại Ấn Độ không có căn cứ lịch sử thật sự. Mọi thứ kinh luật tại Trung Quốc từ “Pháp Kinh Lục” trở đi đều chép là do Trúc Phật Niệm đời Diêu Tần dịch; nhưng trong phần dịch kinh thuộc “Xuất Tam Tạng ký tập” thì không thấy tên của nó, mà thấy ghi trong phần Thất dịch tạp kinh lục (những kinh lục tạp loại mất tên người dịch). Lịch Đại Tam Bảo Ký nói rằng ngoài bản dịch của Trúc Phật Niệm còn có bản dịch của Trí Nghiêm đời Tống. Thế nhưng, các học giả hiện đại căn cứ tính chất không xác định về dịch giả và nội dung của kinh để kiểm tra thì cho rằng bản kinh này do người Trung Quốc biên soạn. (PQĐTĐ, tr.5227a).

2. Phạm Võng kinh Bồ-tát giới bản

Kinh này ở trong Đại Chánh Tạng tập 24, ký hiệu 1484, tương truyền do Cưu-ma-la-thập (344-413) đời Hậu Tần dịch (nhưng chưa có gì chắc chắn), gồm 2 quyển, thuyết minh về cấp bậc tu hành của Bồ-tát và giới tướng của 10 giới trọng và 48 giới khinh. Theo bài tựa của kinh này do Tăng Triệu viết thì nguyên bản đầy đủ gồm 61 phẩm, 112 quyển mà bản này là phẩm thứ 10 của bộ đó. Vì giáo pháp của chư Phật trùng trùng vô tận, dùng để trang nghiêm pháp thân mà không chướng ngại nhau giống như mạng lưới của Phạm Thiên vương, do đó nên kinh này có tên là kinh Phạm Võng.

Quyển thượng trình bày việc đức Phật Thích Ca tiếp độ đại chúng tại cõi thiền thứ tư khiến họ trở về cung Kim Cương Quang Minhthế giới Liên Hoa Tạng, bằng cách đưa thính chúng đến trước đức Lô-Xá-Na hỏi về nhân hạnh của Bồ-tát, rồi đức Lô-Xá-Na nói rộng về 10 phát thú, 10 tâm trưởng dưỡng, 10 tâm kim cương và 40 pháp môn của Thập-địa.

Quyển hạ trình bày về 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ-tát, dựa theo sự chỉ dạy của đức Thích Ca ngay dưới cội Bồ đề tại thế giới Ta-bà này.

Kinh này được xem là thuộc quyển kinh đệ nhất nói về giới luật của Đại thừa, được giới Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam trọng thị. Vị tăng Nhật BảnTối Trừng căn cứ vào nội dung của kinh cho rằng nó có liên quan đến giới luật ở thời điểm mà nó xuất hiện. Giới của kinh này khác với giới của Tiểu thừa, vì không phân biệt tại gia, xuất gia, chủ trương căn cứ vào giới cộng thông của chúng sinh, lấy việc tự giác về Phật tính làm cơ sở.

Bản kinh này được xem là thuộc hệ thống của Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên về nội dung còn được dẫn dụng từ nhiều kinh khác. Do đó, các học giả suy định rằng nó không phải được dịch từ Phạn văn mà do người Trung Quốc biên soạn vào khoảng cuối đời Lưu Tống. Xưa nay bản kinh này được thịnh hành nhất là quyển hạ, và gọi là Phạm Võng Bồ-tát Giới Kinh, Bồ-tát Giới Bản v.v… Về sớ giải có rất nhiều, nhưng các bản sau đây là chủ yếu:

1. Bồ-tát giới nghĩa sớ, 2 quyển, do Trí Khải đời Tùy soạn.

2. Bồ-tát giới sớ, 3 quyển, do Minh Khoáng đời Đường soạn để bổ sung bộ sớ giải của Trí Khải.

3. Phạm Võng Kinh Bồ-tát giới bản sớ, 6 quyển, do Pháp Tạng đời Đường soạn.

4. Bồ-tát giới bản sớ, 3 quyển, do Nghĩa Tịch, người Tân La (Triều Tiên) thuật.

(PQĐTĐ, tr.4642c-3c)

3. Du-già sư địa luận Bồ-tát giới bản

Giới bản này được gọi gọn là Bồ-tát giới bản, nằm trong Đại Chính Tạng, tập 24, với ký hiệu 1501, do Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch. Giới bản này thuộc quyển 40 và 41 của bộ Du-già Sư địa luận, gồm 100 quyển, cũng do Huyền Trang dịch và được đưa vào Đại Chính Tạng tập 30. Nội dung của Giới bản này trình bày 4 giới Tha Thắng (Ba-la-di) và 3 giới khinh; lấy Tam tụ tịnh giới làm cơ sở; tuy cũng gồm chung cả đạo tục, nhưng trước hết phải là 7 chúng đệ tử thuộc Tiểu thừa đã thọ giới trải qua một thời gian không vi phạm, thì mới được thọ giới này. Thế nên, đây thuộc về loại Tiệm giới.

4. Bồ-tát địa trì kinh

Giới bản của bộ kinh này có tên là Bồ-tát Giới bản, gồm 1 quyển ở trong Đại Chính Tạng, ký hiệu 1500, do Đàm Vô Sấm (385-433) đời Bắc Lương dịch. Giới bản này thuộc về quyển 4 trong bộ Bồ-tát Địa Trì Kinh gồm 10 quyển, do Đàm Vô Sấm dịch, được đưa vào Đại Chính Tạng tập 30. Nội dung của Giới bản trình bày giới văn của Bồ-tát gồm 4 giới Ba-la-di và 41 giới khinh. Tương truyền bộ Bồ-tát Địa Trì Kinh do đức Di-lặc thuyết, luận sư Vô Trước chép, nhưng người Tây Tạng cho rằng đây là tác phẩm của Vô Trước.

5. Bồ-tát thiện giới kinh

Bản kinh này gồm 2 bản, đều do Cầu-na-bạt-ma (367-431) đời Lưu Tống dịch và được đưa vào Đại Chính Tạng tập 30. Bản đầu gồm 9 quyển, ký hiệu là 1582, gồm phần Bài tựa, Chánh tông và phần Lưu thông. Bản hai gồm 1 quyển, ký hiệu là 1583, được rút ra từ quyển 4 và 5 của bộ 9 quyển; nội dung trình bày về 8 giới trọng và 46 giới Đột-cát-la (giới khinh) của Bồ-tát; nghĩa là chỉ có phần Chánh tông.

Bản 9 quyển này được sao ra từ Bồ-tát Địa trong Du-già Sư Địa Luận, và được chỉnh lý thành thể tài của kinh.

6. Ưu-bà-tắc giới kinh

Bản kinh này tiếng Phạn là Upàsaka-sìla-sutra, gồm 7 quyển, 28 phẩm, do Đàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch năm 426, được đưa vào Đại Chính Tạng tập 24, ký hiệu là 1488. Ngoài ra, nó còn có tên là Thiện Sanh Kinh Ưu-bà-tắc Giới bản. Phật vì trưởng giả Thiện Sanh mà nói về Tam quy ngũ giới cbo hàng Đại thừa tại gianiềm tin. Nội dung thuyết minh về phát tâm, lập nguyện, tu hành, trì giới, tinh tấn, thiền định, trí huệ v.v... Đặc biệt tại phẩm Thọ Trì, trừ việc thuyết minh về năm giới của tại gia Bồ-tát, còn đề cập đến 6 pháp, 28 thất ý có liên quan đến giới pháp Đại thừa 10 trọng, 48 khinh của kinh Phạm Võng. Bản kinh này có dẫn nhiều tên kinh luật nên địa vị của nó khá đặc biệt, được người Trung Quốc rất trọng thị. (PQĐTĐ, tr.6409c).

Mấy điểm cần ghi nhận:

- Nếu phân biệt về phương diện đốn tiệm thì Kinh Anh Lạc (số 1), Phạm Võng (số 2) thuộc về đốn giới; Kinh Du-già (số 3), Địa Trì (số 4), Thiện Giới (số 5) và Ưu-bà-tắc (số 6) thuộc về tiệm giới.

- Hai Kinh Anh Lạc, Phạm Võng đều có nguồn gốc từ hệ thống Kinh Hoa Nghiêm và được các học giả suy định là do người Trung Quốc biên soạn.

- Ba Kinh Du-già, Địa Trì và Thiện Giới đều bất nguồn từ luận Du-già Sư Địa, cùng chung một nguyên bản, nhưng khác bản dịch, do đó, có tính cách đại đồng tiểu dị.

- Phạm Võng giới bản có vẻ khắt khe phiền toái hơn, người thọ rồi phải tuyệt đối y giáo phụng hành, tuân thủ nghiêm chỉnh giới trọng cũng như giới khinh; còn Du-già giới bản có vẻ phương tiện quyền xảo hơn, dù nhiễm ô cũng chưa phải đã phạm.

- Tại Trung Quốc, Phạm Võng giới bản tỏ ra thịnh hành; còn tại Tây tạng thì chỉ dùng Du-già giới bản.

- Ưu-bà-tắc giới thuộc giới Đại thừa của người tại gia chứ chưa hẳn là giới Bồ-tát.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
24/06/2010(Xem: 31443)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.