BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO GIÁC NGỘ
Luận Giải
Nguyên tác: Commentary on The Thirty Seven Practices of a Bodhisattva – 1995
Luận giảng: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh ngữ: Nyima Tsering
Hiệu đính: Vyvyan Cayley và Mike Gilmore
Chuyển kệ: Linh Thùy
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 22/10/2000
NGÀY THỨ HAI
MỞ ĐẦUTất cả ba điều hiện hữu duyên sinh là vô thường như những đám mây của mùa thu;
Sinh và chết hiển hiện di động như đang tiến hành một điệu múa;
Đời sống của chúng sinh trôi qua một cách nhanh chóng như tia chớp trên bầu trời;
Và cuộc sống chuyển dịch với tốc độ của một thác nước từ trên đỉnh núi.Đoạn kệ này trích từ kinh Gyacher Rolpa
diễn tả tất cả những
hiện tượng, kể cả
chúng sinh và những nhân tố môi sinh chung quanh, được
kết hợp từ
nhân duyên như thế nào. Do thế chúng thay đổi từ
thời khắc này sang
thời khắc kia và có một tính
tự nhiên có thể tàn lụi
chuyển biến mãi mãi từ trước đến giờ. Không có một
hiện tượng nào sẽ
duy trì bất biến.
Chúng ta thấy rằng
đời sống của
chúng ta như những
chúng sinh là không
bền vững một cách
đặc biệt.
Chắc chắn rằng sau khi sinh ra
chúng ta phải chết;
tuy thế,
tư tưởng này chẳng bao giờ
sinh khởi trong tâm tư
chúng ta rằng cái chết sẽ đến với
chúng ta khi những
điều kiện nội tại và ngoại tại đặc thù gặp gở
với nhau, thường thì không
cảnh báo trước. Cái chết xãy ra một cách bất ngờ với
chúng ta và
chúng ta trôi qua một kiếp sống khác, rồi chỉ còn cái tên của
chúng ta tồn tại trong
thế giới này. Thời điểm như thế sẽ đến. Thậm chí trước khi
lịch sử của
thế giới này bắt đầu được ghi chép lại nhiều nghìn năm về trước qua đi, thế mà
chúng ta không thể chỉ ra một người đơn lẻ nào không chết. Chẳng kể là
giàu có, khả năng,
can trường, hay
thông minh thế nào
chúng ta có thể, không ai trong
chúng ta có thể trành khỏi cái chết.
Tương tự như thế, tất cả những bộ phận của
thân thể là tạm thời và là đối tượng
liên tục thay đổi, bởi tính
vô thường, không
bền vững, và
thoái hóa tự nhiên. Lúc
ban đầu trong đời sống, đôi mắt
chúng ta sắc bén; sau này khi chúng trở nên mờ tối
chúng ta phải đeo kính, rồi thì
dần dần ngay cả kính cũng không thể hổ trợ bởi vì sự
thoái hóa khả năng
cảm giác của sự thấy. Giống như thế, ở thời điểm trẻ tuổi,
chúng ta có thể nghe
rõ ràng những âm thinh với đôi tai của
chúng ta, nhưng những âm thinh này
dần dần yếu ớt cho đến khi
chúng ta điếc và không thể nghe điều gì một cách
chính xác.
Nếu ai đấy
quyến rũ khi còn trẻ vì thế những người khác thích nhìn ngắm người ấy; sự
lôi cuốn ấy có thể trở nên là nguồn gốc của tự hào trong
thân thể. Nhưng
dần dần, với tuổi tác, sự trẻ trung và
hấp dẫn của
thân thể ấy trở nên ốm yếu và lưng còng. Thế thì ngay chính
thân thể ấy và ngay cả chủ nhân của nó cũng
cảm thấy bị nó
chống lại. Thực sự, người ta có thể nói một cách
ngạc nhiên rằng ai đấy quá già và khòm lưng mà vẫn còn sống, và ngay cả con cháu của người ấy có thể là không thể
đến gần mà không
bịt mũi chúng lại. Người ấy
ưu phiền hay bị
tra tấn bởi sự
khổ não của
tuổi già cùng tật bệnh, và
cảm thấy mệt nhọc
tinh thần khi nghĩ về tự ngã. Một số người già
cảm thấy giống như chọn lựa cái chết
tốt hơn là sự sống. Nhưng chỉ bằng nói rằng, “tôi thích chết,” cái chết sẽ không đến.
Khi
chúng ta trẻ và
hấp dẫn cùng sự
giàu sang,
quyền lực,
sở hữu,và
sức mạnh,
chúng ta là đối tượng cho sự
tôn trọng của những người khác. Bất cứ
chúng ta nói điều gì nó được
xem như hệ trọng giống như là
lời nói của Phật. Nhưng một khi
chúng ta gối mõi lưng cong và không còn làm việc được nữa, không ai còn nghe những lời của
chúng ta nữa.
Chúng ta trở thành đối tượng của những sự
xúc phạm và làm bẻ mặt.
Cũng thế, trong
thời gian tuổi trẻ chúng ta nghĩ rằng
chúng ta sẽ khuất phục
kẻ thù của
chúng ta, hổ trợ
thân quyến của
chúng ta và làm điều này điều kia nhầm để
cải thiện sự
bảo đảm tiêu chuẩn đời sống cũng như
tiếng tăm của
chúng ta. Bận tâm với những
tư tưởng như thế,
chúng ta xử dụng
đời sống của mình không
đáp ứng tất cả những
dự tính của chính mình một cách thật sự . Và một cách không thể tránh được,
mọi việc không xãy ra một cách
chính xác như
chúng ta muốn và
chúng ta không thể
hoàn toàn tất cả những gì
chúng ta đã
dự trù, điểu này sẽ là
nguyên nhân làm
chúng ta hối hận và làm cho bè bạn
chúng ta thất vọng. Trong cách này,
chúng ta đi đến
đoạn kết cuộc đời của
chúng ta và không còn
thời gian nào nữa để làm những
kế hoạch mới hay
cải thiện chính
chúng ta.
Như một
thí dụ,
chúng ta có thể
theo đuổi chương trình của một người trong
thế giới hiện đại. Người ấy đến trường trong
buổi thiếu thời của mình và, muốn gặt hái
kiến thức, người ấy tự hào với những bài kiểm
thành công.
Tâm thức tranh đua này tạo nên một
quyết định mạnh mẽ để
cải thiện khả năng
tinh thần và sự
thông minh của người ấy.
Thân thể của người ấy là là đỉnh cao của
tình trạng vật lý tại thời điểm này và khả năng của người ấy là sắc sảo.
Sau một
thời gian nào đấy cậu bé này trở nên một người
trưởng thành. Người ấy tìm một nghề nghiệp, yêu đương và rồi
thành gia thất theo phong tục tập
quán thế gian.
Đời sống của một người
thành niên bắt đầu, người ấy trở nên
nặng gánh với những
trách nhiệm và thế là
thời gian tự do,
vui vẻ,
thoải mái của
tuổi trẻ của người ấy biến mất. Ngay cả nếu người ấy
hài lòng với
đời sống của mình, người ấy lại
lo lắng về người phối ngẫu, và con cái cùng
thân quyến của mình. Rồi người ấy rơi vào sự ganh tị với bè bạn của mình những người
thành công hơn người ấy; người ấy
tranh đua với những người bằng mình và
kiêu ngạo với những người thấp hơn mình. Vì thế, người ấy trãi qua đủ thứ nổi khổ về
thân thể và
tinh thần căn cứ trên công việc, lương bổng và
tiếng tăm của mình.
Lúc khởi đầu, khi người ấy có một ít
thực phẩm và áo quần, người ấy chỉ muốn một nghề nghiệp. Nhưng khi người ấy có công ăn
việc làm rồi, người ấy mong muốn một nghề nghiệp
tốt hơn. Người ấy trở nên
không vui khi chỉ nhận một đồng lương
thấp kém và không
hài lòng với
vị trí của mình. Khi vị thế bằng cách nào đã cao hơn, người ấy bắt đầu
mong đợi người
đồng hành thấp kém hơn mình, và
dần dần người ấy trở nên khoa trương lòng tự hào của mình, nghĩ rằng mình trội hơn những người khác. Trong
hình thức này, tháng năm
trôi qua cho đến khi kiếp sống của người ấy đến chỗ
kết thúc.
Nghĩ lại về
đời sống trong những
tu viện ở
Tây Tạng, có những
tu sinh ngay cả trong tuổi
thiếu niên nhưng có khuynh hướng
học hỏi kinh điển với một tâm tư trực diện đến với sự
thông hiểu tường tận những
kinh luận và
đạt đến giải thoát, đấy là điều thật sự diệu kỳ. Nhưng có những người khác
học hỏi chỉ
đơn thuần thu thập những
kiến thức quảng bác hơn những
pháp lữ của mình, do thế, họ có thể tạo nên những sự khó khăn cho
thiện hữu của họ trong
thời gian tranh luận.
Trong những
lạt ma và geshe (
tiến sĩ Phật học)
kỳ cựu hơn, có những người
hoàn toàn để tâm tư của họ với
Giáo Pháp và
từ bỏ những
hành vi thế gian như chúng chỉ là những làn sóng trên
đại dương. Nhưng một số
tiến sĩ Phật học của Hoàng Mạo phái (Gelugpa) có thể bị rơi vào cái bẩy của việc trở nên vướng măc với cái
danh tự khô khan “Geshe”, có thể thầm nghĩ, “Nguyện cho tôi
trở thành một Geshe Lharampa,” (theo thứ tự từ thấp lên cao của bằng geshe: Dorampa, Lingtse, Tsorampa và Lharampa, Lharampa là cao nhất), và những
tư tưởng khác giống như vậy. Những ai tìm cầu một
vị trí tốt, chẳng hạn như
trụ trì một ‘học đường tu viện’ đối với một geshe
kỳ cựu hay
trụ trì một
tu viện địa phương đối với một geshe mới tốt nghiệp, là điều cực kỳ khó khăn để họ hướng tâm tư vào
Giáo Pháp. Bởi vì họ đã dành
thời gian đời sống của họ trong một đường hướng lừa dối, hành động trong
tác động của
tám pháp thế gian (
bát phong). Họ bắt đầu với một số nguyên tắc và hình thành một
kết hợp giao du (hay
hiệp hội).
Dần dần họ thu được danh xưng của một vị
trụ trì và nhiều người đến nhờ họ tiên đoán. Người ta cũng
cúng dường,
cho đến khi
của cải vật chất của họ
sung túc dần lên đến điểm hai tay họ không đủ để ôm giữ tất cả và họ
bổ nhiệm một thủ khố. Với một thủ khố, thế là có bốn tay để cất chứa
tài sản, và khi bốn tay không giữ hết, họ
bổ nhiệm thêm một
tri khố, thế là bây giờ có sáu tay. Họ cũng có thể
bổ nhiệm thêm một người khác nữa để có tám tay, và vì thể nó cứ tăng dần lên theo cách này.
Nếu
chúng ta không thể
thuần hóa nội tâm của mình, rồi thì sẽ vướng vào những
lỗi lầm trong việc
thực hành Giáo Pháp, là việc lừa đão và làm
thất vọng người khác, điều ấy là không
thích đáng. Ngay cả nếu ai đấy
cảm thấy rằng mình đang
thực hành Giáo Pháp và với một
tâm thức buông xã không
giao động, nếu người ấy
suy nghĩ một cách
cẩn thận thì chỉ là đang góp phần cho
tám pháp thế gian (
bát phong), và sẽ rất khó khăn để hiệp nhất việc luyện tập của mình với sự
thực hành Giáo Pháp thật sự.
Nếu
đời sống người ấy
trôi qua trong cách này và rồi trở nên
già nua và lưng còng,
hoàn cảnh của người ấy giống như được
diễn tả bởi Je Gunghang Rinpoche: “Hai mươi năm bị tiêu phí mà không nhớ để
thực hành Thánh Pháp, hai mươi năm được dùng để nói rằng, “tôi sẽ
tu tập,” và hơn mười năm nói rằng, ‘điều ấy đã không xãy ra, nó đã không xãy ra.’ Đây là
câu chuyện của một người đã dùng
cuộc đời của mình trong một lối
rỗng tuếch như thế nào.”
Chúng tôi có
kinh nghiệm điều này một cách
chính xác như được
diễn tả ở đây. Trước khi đến 20 tuổi,
chúng tôi nhạy bén
học hỏi kinh luận và có một
niềm tin mõng manh trong khái niệm về
tính không và
tâm giác ngộ (bodhicitta). Khi
tâm thức trưởng thành hơn,
chúng tôi bị
thúc đẩy để suy tư về những
vấn đề khác
do bởi phải làm việc với
vấn đề đối mặt với Trung Cộng.
Học hỏi kinh luận trong thời điểm khó khăn ấy,
thời gian trôi qua và
chúng tôi đến 25 tuổi. Rồi thi khi người
Tây Tạng chúng tôi mất nước và phải rải rác khắp nơi trên
thế giới. Sau đấy,
chúng tôi học hỏi kinh luận một ít, suy tư, và
thực hành ở một vài cấp độ và như thế ấy tôi bước vào tuổi 35 hay 36.
Rồi thì
chúng tôi bắt đầu đặt nhiều
năng lượng hơn đối với việc
thực hành,
suy nghĩ rằng nếu
tâm thức một người không hòa hiệp với sự
thực hành Giáo Pháp thực sự, người ấy có thể miệng
tụng niệm hàng giờ mà rồi
kết thúc không phải là biểu hiện
Giáo Pháp thực tế.
Hiện tại chúng tôi đang nghĩ rằng
nếu không thể
thuần hóa tâm thức mình,
Giáo Pháp không thể
hiển hiện. Ngay cả với
thái độ nhấn mạnh trên tâm tư và
thực hiện năng nổ nhất để đặt mình trong một sự
thực hành Giáo Pháp chân thật, dường như nó vẫn giống
thời gian đang tiếp cận khi
chúng tôi dành 10 năm để nói rằng, “Nó đã không xãy ra, nó đã không xãy ra.”
Do thế, cho dù nhìn
bề ngoài chúng ta có
lịch sự, tử tế, hợp với khuôn phép hay không, nếu
chúng ta không thể nghiệm
tâm thức của mình một cách
hoàn toàn thích hợp mọi thứ sẽ trở nên rất khó khăn.
Chúng ta nên
xét đoán chính mình theo hai
tiêu chuẩn chính của việc có
nguyên nhân cho sự tự không thích mình hay sự
ân hận hay không. Nếu
chúng ta để ngày tháng của mình
trôi qua một cách
cẩu thả và
lãng phí, chần chừ việc
thực hành, đây là một sự mất mát lớn lao. Cuộc sống không chờ đợi: cho dù
chúng ta xử dụng
đời sống của mình đầy đủ
ý nghĩa hay không,
thời khắc vẫn bị tiêu mòn từng giây phút.
Thế cho nên chúng ta phải
thực hành Giáo Pháp, vì nếu
chúng ta để
thời gian trôi qua, nói rằng , “tôi sẽ làm điều này và điều này…” rồi thì, như được nói ở đây:
Trước khi ngày mai đến để
thực hành Giáo Pháp,
Có một hiểm họa của cái chết đang đến hôm nay,
Vì thế đừng tự lừa dối
tâm thức chính mình,
Nếu muốn
thực hành Giáo Pháp, hãy tiến hành ngay hôm nay.
Thí dụ,
chúng tôi đang lừa dối chính mình nếu nói rằng
chúng tôi sẽ
tận tâm cho việc
thực hành Giáo Pháp khi tôi đến 50 hay 60 tuổi.
Hiện tại chúng tôi đang ở độ 30 và
chúng tôi không thể đặt nổ lực
duy nhất vào trong
Giáo Pháp.
Chúng tôi cũng có những thứ khác để
suy nghĩ đến,
đặc biệt trách nhiệm lớn lao khi mang lấy
danh hiệu Đấng
Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma (His Holiness the Dalai Lama). Nhưng nếu
chúng tôi tiếp tục đổ thừa như thế
chúng tôi đang tự lừa dối mình. Ngay cả cho một ngày hay một giờ, nếu
chúng tôi không thể đặt mình vào trong sự
thực hành mà không chần chừ thế thì đấy là
lỗi lầm của chính
chúng tôi.
Dĩ nhiên,
chúng ta không thể
thực hành 84 nghìn
pháp môn ngay một lúc. Thầy trò của
Long Thọ và
Thánh Thiên Mã Minh, anh em của
Vô Trước và
Thiên Thân,
Đề Bà, 80 vị
Đại Thành Tựu (Mahasiddha), v.v… không thể
thực hành Giáo Pháp một cách
hoàn toàn từ ngày đầu tiên. Khởi đầu các ngài phải gieo trồng
hạt giống trong
tâm thức của các ngài rồi mới đến
thực hành Giáo Pháp. Các ngài
dần dần gia tăng sự
thực hành và khi
thực hành như thế khả năng cho sự
thực hành cũng
tăng trưởng lên, do thế,
cuối cùng các ngài
trở thành những
học giả và
hành giả không biết mõi mệt.
Các ngài không phải sinh ra là liền
tự do với những
phiền não cấu uế, cũng không phải được
ban cho tất cả những phẩm chất không biết mệt nhọc là gì. Các ngài giống như
chúng ta, như được nói trong Hướng Dẫn
Lối Sống của
Bồ Tát (Bodhicharyavatara), do vậy,
chúng ta nên phát triển
động lực để
thực hành và không
cảm thấy yếu đuối. Ngay cả những con ruồi và ong mật cũng
sở hữu Phật tính,
thế cho nên nếu chúng có thể phát sinh
năng lực nhiệt tình
kiên nhẫn chúng cũng sẽ có
thể đạt đến
giác ngộ.
Do vậy, vì
chúng tôi sinh ra là một
con người và nếu
chúng tôi có thể phát sinh
năng lực nhiệt tình
kiên nhẫn thì điều gì ở đó ngăn trở
chúng tôi đạt đến tình trạng giác ngộ tối thượng?
Chúng ta sẽ
đạt đến sự
tin tưởng vững chắc nếu
chúng ta thông hiểu Phật tính một cách
chính xác, như được
giải thích trong ‘Ba la mật’. Có cơ hội
đạt đến tình trạng tối thượng của
giác ngộ khi
chúng ta có những
nhân duyên đúng đắn. Điều ấy
tùy thuộc trên mỗi
cá nhân của
chúng ta có
lựa chọn để xử dụng những
nhân duyên ấy một
cách thông tuệ hay không; nếu
chúng ta làm đúng như thế,
chúng ta sẽ
đạt đến tình trạng giác ngộ tối thượng một cách
chắc chắn. Đây là cách để phát sinh sự
tin tưởng vững vàng.
Nếu
chúng ta có thể đem đến sự thay đổi trong
tâm thức chúng ta,
chúng ta có thể
chuyển đổi một khối lượng nào đấy của những
hành vi mà
chúng ta đã từng sai phạm phải từ
ba nghiệp thân, khẩu,
ý thành những hành động
đạo đức. Bất cứ điều gì thông thường được
xem như là không
đạo đức hay
bất thiện trong
quần chúng phổ thông có thể
chuyển đổi thành những
hành vi đạo hạnh, và
trở thành nguyên nhân tích lũy công đức rộng rãi, bằng
năng lực của
sức mạnh nội tâm. Những
hành vi trung tính biểu lộ bởi những người
bình thường cũng có thể được
chuyển biến thành những
hành vi đạo đức nếu được tiến hành bởi một người có
năng lực trung bình. Do thế,
dần dần thay đổi và
cải thiện tâm thức của
chúng ta và sự
thực hành Giáo Pháp sẽ trỉu quả cùng là
nguyên nhân của
sự tích tập
công đức.
Nói một cách
rộng rãi,
Phật Pháp có hai cổ xe, được biết là cỗ xe
Tiểu Thừa và
Đại Thừa. Cả hai
Kinh Thừa Hiển Giáo và Mật Thừa Tantra thuộc vào những đặc trưng của
Đại Thừa và
Giáo Pháp rộ nở ở
Tây Tạng là một sự
phối hợp của
kinh điển hiển giáo và
mật điển tantra. Để
thực hành loại
Giáo Pháp này
chúng ta phải
thông hiểu nó. Để
thông hiểu nó
chúng ta phải lắng nghe. Do thế, hôm nay
chúng tôi sẽ
tiếp tục với sự
truyền khẩu Ba Mươi Bảy Điều
Thực Hành của
Bồ Tát, và quý vị nên lắng nghe
giáo lý này của
Bồ Tát Thogmed Zangpo với
thái độ của một người hướng dẫn tất cả
chúng sinh đến
trình độ giác ngộ tối thượng mà đấy là
tự do với khổ đau và
nguyên nhân của chúng, hãy nghĩ: “Không có cách nào khác để hổ trợ người khác bằng việc
đạt đến trình độ giác ngộ tối thượng. Nguyện cho con
đạt đến trình độ giác ngộ tối thượng qua việc
thực hành con đường của những vị
Bồ Tát,
hoàn toàn tận diệt tất cả những
ám chướng và
thích ứng với tất cả những phẩm chất
thánh thiện.
Bây giờ
chúng tôi tiếp tục với sự
giảng giải về
việc làm thế nào nương tựa với
đạo sư. Những vị thầy một cách tổng quát nên có những phẩm chất này: các vị phải có phẩm hạnh và
kiến thức,
bản chất từ bi với một năng khiếu to lớn cho việc dạy dỗ học trò, và
sở hữu một tâm
tư thông cảm. Một
vị thầy tâm linh ngưởi hướng dẫn
chúng ta đến một
mục tiêu căn bản phải có những phẩm chất
siêu việt với những điều này, như khả năng
ban cho người khác sự hướng dẫn
đúng đắn và là một tầm
gương sáng cho học trò.
Như được nói trong kinh Alankara: “Vị thầy
tâm linh nên có một tâm
thuần hóa, tĩnh lặng, và
bình an, một
kiến thức đặc biệt và nhiệt tình; vị ấy nên
phong phú trong việc
truyền khẩu với một sự
thông hiểu hoàn toàn như thật; vị ấy nên có một năng khiếu
giảng giải Giáo Pháp, tính
từ bi tự nhiên và
từ bỏ danh lợi. Hãy tìm cầu (một vị thầy phẩm hạnh như thế).”
Chúng ta thỉnh cầu một
vị thầy tâm linh đạo hạnh thế này, phú cho mười phẩm chất, và
chúng ta nên nương tựa một vị thầy như thế qua chín
thái độ tinh thần (3). Trên tất cả,
chúng ta nên tạo một sự
bảo đảm với
vị đạo sư của mình, hình thành nên sự thân cận giữa tâm tư
chúng ta và vị ấy.
Chúng ta nên lắng nghe một cách tập trung đến những gì vị ấy nói, và nếu đấy là một
vị đạo sư phẩm-hạnh xứng đáng vị ấy sẽ đưa
chúng ta đến sự
an lạc tạm thời và
con đường sẽ
lợi lạc cho
chúng ta trong tương lai. Vị ấy sẽ không đưa
chúng ta trong một hướng đối nghịch, làm
nguyên nhân cho
chúng ta sụp đổ
hiện tại và tương lai. Giống như thế,
chúng ta sẽ
tiếp nhận lợi lạc tùy theo sự
liên hệ gần gũi
tâm thức chúng ta với
vị đạo sư của mình như thế nào.
Như được nói rằng điều cực kỳ quan trọng cho
đạo sư và
đệ tử phân tích lẫn nhau. Vị thầy nến trắc nghiệm đấy là một
giáo lý thích đáng đến người
đệ tử hay không,
đặc biệt là những pháp
quán đảnh, và có
thích hợp để nói về
mật điển tantra hay không. Như là
đệ tử,
chúng ta không nên
phán đoán vị đạo sư theo
dư luận xã hội, chẳng hạn vị ấy có một
vị trí cao hay một
tên tuổi nổi bật hay không, là một vị
hóa thân hay một vị
trụ trì. Đúng hơn,
chúng ta nên trắc nghiệm là vị ấy có
phù hợp để là
vị đạo sư của
chúng ta không và niểm tin của
chúng ta có phát sinh trong vị ấy hay không.
Cho dù vị thầy có một
danh hiệu là
lạt ma, geshe, khenpo hay một vị
hóa thân tulku hay một chuỗi dài của những
hóa thân trước đây – hay ngay cả một vị với nhãn hiệu
Đạt Lai Lạt Ma –
chúng ta không nên đặt
niềm tin của mình trên vị ấy chỉ vì
lý do này. Đấy là nói về nội dung
Giáo Pháp, không phải là
dư luận xã hội trên vị thế
cá nhân.
Giáo Pháp có nghĩa là tìm cầu
niết bàn,
hoàn toàn tự tại, vì thế,
phương tiện để tiếp cận đến
tình trạng tự do này phải được
lựa chọn một cách
tự do. Không
đúng đắn cho ai đấy
đi theo con đường ấy dưới một sự
cưỡng bức. Trong
con đường Tiệm tiến Lamrim
Tổ Sư Tông Khách Ba nói rằng, “Hãy có một tâm tư như một người con tốt,” có nghĩa là những người
đệ tử nên đặt
tâm thức của họ nương tựa trên
vị đạo sư. Một người con tốt không khăng khăng rằng
ý kiến của người ấy là đúng; người ấy sẽ làm bất cứ điều gì người cha
yêu cầu người con làm. Giống như thế,
đệ tử nên hành động một cách
vâng lời như được hướng dẫn bởi
vị đạo sư của mình.
Giáo Pháp được làm cho có
giá trị bởi
lý trí, do thế, bất cứ điều gì
chúng ta nói nên căn cứ trên
lý trí mà không phải là trên sự
tin tưởng mù quáng và mệnh lệnh. Vì
Giáo Pháp được
gieo rắc bởi sự
vụng về này, có nghĩa bị
thúc đẩy nhưng bị
chỉ dẫn sai, giống như một mũi tên bắn trong đêm tối, và sẽ không thể
tồn tại trong
thế giới hiện đại.
Phật Pháp căn cứ trên
lý trí, và có một nền tảng
vững vàng, điều ấy là tại sao tia sán rực rở này đã lan rộng khắp
thế giới và đã không bị làm
lu mờ.
Do thế,
tóm lại, trước khi đặt
niềm tin của chính mình đến
vị đạo sư
chúng ta nên phân tích một cách
cẩn thận; sau khi tìm được
vị đạo sư rồi sự
tin tưởng của
chúng ta vào vị ấy nên
vững vàng. Đây là
chúng ta nên tìm cầu một
vị thầy tâm linh như thế nào.
Bây giờ
chúng ta tiếp tục chủ đề nói về
quy y.
ĐIỀU THỨ BẢY
Làm thế nào chư vị
thiên thần, chính họ
bị giam hảm trong lao tù của
luân hồi,
Có thể
bảo vệ cho bất cứ ai? Nhưng đấy là sự
thực hành của
Những vị
Bồ Tát nương tựa Ba Ngôi Tôn Quý, là điều
Sẽ chẳng bao giờ lừa dối người
quy y Tam Bảo.
Dịch kệ:
7.
Quy yChư thiên cõi này chưa hết lo,
Vẫn phải
luân hồi, một ngày kia.
Vướng bận như ta, sao che chở?
Trong tù còn
giải thoát ai khỏi?
Nhưng Phật, Pháp, và bậc sống nương,
Tự tại cứu độ - chẳng phụ lòng.
Hãy đến
quy y cùng
Tam Bảo -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Câu hỏi được đưa ra là,
chủ đề quy y nào là cần thiết?
Chúng ta bị giam hảm trong lao tù của
sinh tử luân hồi và bị sự
chế ngự của
vọng tưởng nghiệp báo. Nếu
chúng ta nhìn vào những vị vua chúa trần gian,
a tu la,
thổ địa, hay những
thần linh,
chúng ta sẽ
tìm thấy nhiều
câu chuyện về những khổ đau mà họ đã giáng xuống cho
con người. Nếu họ hành động một cách
tích cực họ có thể làm
lợi lạc cho
chúng ta một ít, nhưng không đáng chú ý. Nếu họ là những loại
chúng sinh mà
con người cảm thấy cần phải tế lễ bằng sự giết
súc vật nhầm để tránh gánh chịu sự
phẩn nộ của vị ấy, thế thì họ không phải là đối tượng xứng đáng để nương tựa.
Thiên thần và
ma quỷ tương tự như
chúng ta trong điều là họ cũng bị khống chế bởi
nghiệp báo và những sự
nhiễm ô khác. Họ thiếu
thô tướng của một
thân thể nhưng giống với
chúng ta trong sự
quan tâm của người khác. Họ là những kẻ tôi tớ của
phiền não giống như
chúng ta, được gọi là
vướng mắc, thù hận, và
vô minh si ám. Do thế, thật
vô nghĩa nếu
chúng ta nương tựa vào
thiên thần,
a tu la và những
chúng sinh khác, những kẻ phải chịu những
phiền não giống như
chúng ta.
Chúng ta quy y tìm kiếm cho một sự đầy đủ những điều
mong đợi của
chúng ta. Những đối tượng nào của
quy y sẽ không bao giờ làm
chúng ta thất vọng? Có ba điều: tôn quý và
tối thượng Phật Bảo,
Pháp Bảo, và
Tăng Bảo. Để
quy y từ chiều sâu của trái tim
chúng ta đến
Tam Bảo,
hiểu rõ giá trị Tam Bảo như cội nguồn của
quy y qua
lý trí, được biết như là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát.
Điều được gọi là
quy y là điều làm sự
phân biệt giữa những người
Phật tử và không
Phật tử.
Chúng ta trở thảnh
Phật tử khi
chúng ta tin tưởng từ trong chiều sâu của
tâm hồn rằng
Tam Bảo là nguồn gốc
chân thật để nương tựa;
trái lại những người thiếu một sự
tin tưởng trong
Tam Bảo và
không chấp nhận
Tam Bảo là cội nguồn thật sự của
quy y thì
không thật sự là những
Phật tử, ngay cả nếu họ biết nhiều điều về
Phật Pháp.
Tính
tự nhiên của
Tam Bảo -
Phật Bảo,
Pháp Bảo, và
Tăng Bảo - là gì? Phật là những ai
hoàn toàn tự do với tất cả những
sai lầm, đã
diệt trừ chúng. Những
sai lầm bị
trừ khử không phải bên ngoài nhưng là bên trong, và nói một cách
rộng rãi,
chúng ta có thể nói rằng chứa đựng trong môi trường và
chúng sinh khởi lên từ
năng lực của
nghiệp báo.
Nghiệp báo này đến
từ tâm thức không
thuần hóa và
phiền não. Những
phiền não này cấu thành bất cứ loại
tư tưởng nào, mà khi nó khởi lên quấy động
tâm thức chúng ta và
quấy rầy sự
an bình nội tại. Do thế,
sở hữu phiền não là khổ đau. Những
phiền não mang lấy tên gọi như kết quả của những kiểu thức hành động của chúng.
Phiền não cấu thành cả
vướng mắc (
ái luyến) và
ác cảm (ghét bỏ), và cội rể của tất cả chúng là
vô minh si ám đồng mình với
tâm thức đóng kín. Qua
năng lực của những
nghiệp báo phiền não tích tập, và qua
năng lực của
nghiệp quả chín muồi, khổ đau
hiện hữu. Những
phiền não chính cần được
phá hủy là
vướng mắc, thù hận, và
vô minh, cũng như những
tư tưởng tiêu cực bất thiện, kể cả những
chướng ngại ngăn trở
chúng ta nhận diện những
hiện tượng vi tế của
tự nhiên.
Tâm thức chúng ta trở nên
toàn thiện toàn giác toàn trí do vượt thắng tất cả những
trở lực này. Một
con người được phú bẩm những phẩm chất như thế của
tâm thức được biết như một
Đức Phật Thế Tôn.
Ngay cả
Đức Phật cũng không thường còn, và cũng
không tồn tại một cách cố hữu.
Phật tử cũng không tin rằng
Đức Phật giác ngộ từ
ban sơ, và rằng
chúng ta, những
chúng sinh phải
duy trì mãi mãi trong
tình trạng hiện tại.
Đức Phật người đã biểu hiện những
hành vi giác ngộ tại
Đạo Tràng mang tên
Giác Ngộ này là một người
bình thường như
chúng ta lúc
ban đầu. Ngài
trở thành Phật do
từ bỏ những
sai lầm và phát sinh những phẩm chất
thánh thiện, từng
bước một. Do thế,
chúng ta cũng không phải ở mãi trong
thân phận chúng sinh mang
kiếp luân hồi nếu
chúng ta noi theo gương của Ngài.
Có một sự
tin tưởng thông thường trong
thế gian và trong
quan niệm Tiểu Thừa răng
Đức Phật là một vị
Bồ Tát trong buổi
ban đầu của
cuộc đời Ngài và
đạt đến giác ngộ trong khi
thiền tọa dưới gốc cây Tất Bát La ở
Đạo Tràng Giác Ngộ.
Quan điểm của
Đại Thừa là tất cả những
Đức Phật không bao giờ lay động
từ Pháp thân và những sự
thị hiện khác nhau của
hóa thân là
xuất hiện một cách
liên tục, một cách
dần dần hay
đột nhiên, trong các
cõi tịnh độ và
uế độ. Trong những
hóa thân này
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni là thứ tư, đã
thị hiện trong
thế giới chúng ta.
Ngài đã sinh ra như một vị hoàng tử trong một
hoàng gia, đã được chuẩn bị để cai trị vương quốc nhưng rồi thì đã quấn y và
trở thành một
sa môn. Trong sáu năm ngài đã
thực hành khổ hạnh. Sau đấy ngài vượt thắng
Ma vương và
đạt đến giác ngộ. Đấy là ngài đã
giác ngộ lần đầu tiên và đã
tiêu trừ một cách
hoàn toàn tất cả những
nhiễm ô của
vọng tưởng nhị nguyên,
đơn thuần là một sự
thị hiện.
Đức Phật có
ba thân tự nhiên:
Pháp thân là tâm
quan sát hai chân lý đông thời và cũng phú cho với hai sự
thanh tịnh (4).
Thân thể được phú cho với
Pháp thân là thân
vi tế và chỉ
xuất hiện với những thành viên là
thánh giả (Arya).
Báo thân, được phú cho năm sự
vững vàng (5),
duy trì cho đến khi
vòng sinh tử luân hồi trống rỗng. Những
hóa thân như Phật
Thích Ca và Phật
Ca Diếp thị hiện từ
báo thân.
Giáo Pháp thật sự có hai khía cạnh: phẩm chất
viễn ly, điều
siêu việt và tôn quý trong
Giáo Pháp bao gồm mọi thứ từ sự nhỗ gốc bất cứ khía cạnh
sai lầm nào của
tâm thức đến
chân lý của sự
chấm dứt (
diệt đế) là điều trừ tiệt
hoàn toàn tất cả hai chướng (6) trong tâm một vị Phật. Rồi thì có phẩm chất của sự
thực chứng, có nghĩa là sự
thông hiểu tính không một cách trực tiếp,
sự thật của
con đường (
giác ngộ). Những ai có thể phát sinh những phầm chất
thực chứng và
viễn ly trở nên
tự tại với mỗi nguồn gốc đơn lẻ của
sợ hãi, và vì thế
Giáo Pháp có thể được
xem như một đấng
hộ vệ chân thật.
Tăng Bảo bao gồm những người được phú cho
kiến thức về
viễn ly và
thực chứng. Do thế,
Phật Bảo,
Pháp Bảo và
Tăng Bảo tối tôn là
chủ đề cho sự nương tựa
quy y của
Phật tử. Như minh chứng là những bậc
hộ vệ,
Phật Bảo,
Pháp Bảo và
Tăng Bảo hiện tại là riêng biệt với
chúng ta và là những đối tượng cho lòng
tín cẩn của
chúng ta. Giống như một
tội phạm tin tưởng vào
luật sư của mình, tâm tư
chúng ta nên tìm cầu sự
bảo vệ nơi ba ngôi tôn quý này bằng việc
tiếp nhận sự
quy y.
Điều gì được
liên hệ đến trong tiến trình tìm cầu sự
bảo vệ từ Tam Bảo? Đấy là việc xua tan những
sai lầm và phát triển những phẩm chất
tốt đẹp của
chúng ta làm cho
chúng ta có thể
tự do với những khổ đau và được phú cho
an lạc hạnh phúc. Để
đạt đến điều này,
chúng ta phải
chấm dứt việc tích tập
bất thiện nghiệp và chỉ tạo tác những
thiện nghiệp mà thôi. Nhầm
mục tiêu cho việc này,
chúng ta phải
tiêu diệt tâm thức vọng tưởng không
thuần hóa là điều làm
cản trở chúng ta với
sự tích tập
thiện nghiệp và việc
chấm dứt sự phát triển
bất thiện nghiệp.
Căn bản cho việc xua tan tất cả những
lỗi lầm và phát sinh những phẩm chất
tốt đẹp là
tâm thức.
Tâm thức có nhiều khía cạnh
bao gồm năm thức của mắt, tai, mũi, lưỡi,và thân để nắm bắt những đối tượng của chính chúng là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Trọng điểm mà sự nắm bắt những đối tượng
gặp nhau là
tâm thức chính, được biết như là
ý thức hay
giác quan tinh thần.
Giác quan tinh thần ấy có những khía cạnh khác nhau, một trong những khía cạnh ấy là
chức năng trong khi
chúng ta thức. Có một loại
vi tế hơn đây là
chức năng trãi qua khi ngủ và khi
chúng ta uể oải.
Tại thời điểm
lâm chung,
giác quan tinh thần hay
ý thức thô
dần dần tan biến và
chúng ta trãi qua một
tâm thức vi tế hơn, điều ấy do chính tính
tự nhiên của nó chẳng bao giờ
tiếp xúc với bất cứ
phiền não nào. Những
phiền não chỉ
tồn tại trong
ý thức thô mà thôi, và không
hiện hữu trong
tâm thức thật
vi tế này. Do vậy, tính bản nhiên của tâm là
tự do với những
phiền não. Đấy là khi
tâm thức thô hay
ý thức thô
sinh khởi thì
vướng mắc, thù hận, và v.v…
hiển hiện từ lúc này qua lúc khác. Nhưng những điều này không
ảnh hưởng đến tính bản nhiên của tâm.
Thí dụ, ngay cả một người rất ít giận hờn thì
tâm thức của người ấy sẽ không luôn luôn đầy ấp bởi
giận dữ. Nếu tính bản nhiên của
tâm không tự do với
giận dữ, người ấy sẽ trãi qua sự
giận dữ một cách
liên tục cho đến khi nào mà
tâm thức người ấy vẫn
hiện hữu.
Cũng thế, nếu
phiền não không thể tách rời
tâm thức, thế thì
tâm thức không thể
uốn nắn hay
rèn luyện được.
Chúng ta tìm cầu
từ bỏ hay ngưng dứt
phiền não của
tâm thức chứ không phải
từ bỏ chính tâm thức.
Bản chất vướng mắc với một đối tượng và
hiện trạng đẩy lùi một đối tượng khác là hai
trạng thái khác nhau
hoàn toàn của
tâm thức và không thể
tồn tại cùng một lúc. Những
phiền não chẳng hạn như
vướng mắc và
ác cảm sinh khởi qua
vô minh si ám là điều thấy những
hiện tượng như
tồn tại một cách thật sự. Cũng có những khía cạnh
tích cực của
tâm thức, mà chúng
vận hành như sự
đối trị đến những biểu hiện này của
vô minh trong
tâm thức.
Chẳng kể
tâm thức phiền não mạnh mẽ hay
kiên cố như thế nào, nếu
chúng ta truy tìm nó và phân tích nó một cách
thiện nghệ chúng ta thấy rằng bất cứ nó biểu hiện cho
chúng ta được thấy trên một sự
giả dối và giống như
bong bóng nước chợt bùng lên.
Chúng ta tin rằng những
hiện tượng hiện hữu một cách
chân thật, nhưng nếu chúng thật sự như thế,
chúng ta có thể minh chứng sự
hiện hữu đúng đắn của chúng khi
chúng ta khảo sát chúng. Thay vì thế, sự khảo sát của
chúng ta phơi bày rằng chúng không
hiện hữu một cách thật sự trong thực trạng của chính chúng. Một khi
chúng ta khám phá ra điều này, thì không thể
tin tưởng những
hiện tượng hiện hữu chân thật sinh khởi.
Theo
lý do này, những
tâm thức sai lầm tạm thời không có cơ sở
vững vàng bởi vì nó được
tìm thấy trong
vô minh si ám,
trái lại những
phương diện tốt đẹp của
tâm thức có một sự hổ trợ
trân trọng.
Tâm thức sai lầm vọng tưởng tồn tại trong một
trạng thái suy thoái và nếu
chúng ta làm chính
chúng ta thân quen với những
phương diện tích cực của
tâm thức là những điều có sự hổ trợ
đáng giá,
chắc chắn tâm thức vọng tưởng đó sẽ trở nên càng ngày càng
yếu kém hơn. Giống như nóng tăng thì lạnh giảm, ngược lại lạnh tăng thì nóng giảm; hay tựa như ánh sáng xua tan bóng tối ngày càng lan rộng cùng khắp khi
năng lực của nó ngày càng được
tăng trưởng.
Do thế, khi những phẩm chất
tích cực của
tâm thức được phát triển, những khía cạnh
sai lầm sẽ mất đi
năng lực và
cuối cùng biến mất. Nhưng nếu trong
thời gian thực tập những khả năng của
tâm thức tích cực bị
suy giảm những khía cạnh
tiêu cực sẽ
gia tăng một lần nữa, một số người
rèn luyện trong
tâm giác ngộ (bodhicitta)
liên tục vài tháng và thấy một số điều
cải thiện nhưng khi hờ hửng sự
tư duy trên
tâm giác ngộ (bodhicitta) một lúc, người ấy sẽ ngừng thấy bất
cứ sự cải thiện nào. Điều này là bởi vì người ấy không có sự hổ trợ
vững vàng và
trân trọng của
tuệ trí là điều
thực chứng tính không.
Sự hổ trợ càng trở nên
vững vàng hơn nếu
chúng ta thực hành trong sự
phối hợp với
phương pháp và
tuệ trí.
Do bởi những phẩm chất này
tùy thuộc trên
tâm thức,
chúng tăng trưởng một cách vô hạn khi
chúng ta thực hành và
rèn luyện trong
chủ đề này một cách
liên tục; trong cách này
chúng ta chắc chắn tăng trưởng những phẩm chất
tốt đẹp và
giảm thiểu những
sai lầm của
chúng ta. Sự
thành tựu này về những phẩm chất
tốt đẹp và
giảm thiểu trong những phẩm chất
hư vọng của
tâm thức được biết như là
Phật quả.
Cuối cùng chúng ta phải phát sinh sự
chân thật của
con đường (
giác ngộ) trong sự
tiệm tiến liên tục tinh thần của
chúng ta. Đây là
Giáo Pháp siêu việt. Như một kết quả,
chúng ta đạt đến những phẩm chất ngừng dứt từng
phiền não riêng lẻ của
tâm thức. Rồi thì
chúng ta sẽ được
tự do với khổ đau và sẽ
thụ hưởng niềm
hoan hỉ không thể
phá hủy được.
Chúng ta nên
thực tập dần dần trong cách này.
Nếu không,
đơn giản nhận thức rằng như
hiện tại chúng ta là
thực thể tách biệt với
Tam Bảo không thể làm nguôi những khổ đau của
chúng ta. Trong thực trạng
hiện tại thật khó khăn
đạt đến phẩm chất của
Giáo Pháp tối thượng (7).
Tuy nhiên,
chúng ta nên
cố gắng đạt đến trạng thái này của phẩm chất
Giáo Pháp siêu việt bằng việc quyết làm
dần dần những sự
thực hành chuẩn bị mở đầu trước khi tiến vào
con đường (
tu tập).
Cánh
cửa chính trên
con đường loại bỏ những
lỗi lầm và thu thập những phẩm chất
tốt đẹp là sự
thực tập từ bỏ mười
bất thiện nghiệp. Trong những điều này, ba
hành vi bất thiện nghiệp hay ba việc không
lành mạnh của
thân thể là giết hại,
trộm cắp, và hành dâm bất chính.
Không giết hại
Sự giết hại bất cứ sinh vật nào từ
loài người đến những côn trùng, nên được tránh. Nếu
chúng ta giết hại, hành động này
tổn hại đến
thân thể và
đời sống của kẻ khác và vì thế là
nguyên nhân để phải trãi qua sự
hành hạ của khổ đau. Đấy là tại sao nói rằng giết hại
liên hệ chúng ta trong
hành vi bất thiện cực kỳ
dữ dội. Một hành động như vậy hoặc là do động cơ
giận dữ, như trong việc giết hại
kẻ thù, hay bởi sự
vướng mắc trong việc giết hại
thú vật để
ăn thịt của chúng.
Một
số luận điển
Đại Thừa Phật Giáo nói rằng
ăn thịt tốt thôi, trong khi một số khác thì cho rằng
hoàn toàn không đúng. Trong
Luật tạng, hay những
tài liệu về nguyên tắc, nói rằng những loại thịt nào đó thì bị cấm đoán, nhưng tự chính việc
ăn thịt thì không
hoàn toàn không được phép. Trong sự
thực hành thông thường, điều
xem như ổn thôi để
ăn thịt mua từ chợ và nó được
xem như là
thanh tịnh trong ba khía cạnh, hơn là
ăn thịt mà
chúng ta đặt hàng một cách
đặc biệt để con vật
bị giết cho
mục đích ăn thịt này.
Chủ đề này được được bao hàm trong “Bản Chất Trung Đạo”, cùng những luận bản khác.
Thực tế rằng một số người thề chừa
ăn thịt là
tuyệt diệu.
Tuy thế, nếu
chúng ta bỏ việc
ăn thịt lại
ảnh hưởng bất lợi đến
sức khỏe và
đe dọa cho chính sự
tồn tại của
chúng ta trong khi
thực hành Giáo Pháp, thế thì
chúng ta phải
cân nhắc điều nào quan trọng hơn và
phán đoán trong mỗi
trường hợp riêng lẽ. Sự giết hại
thú vật đặc biệt vì thịt của chúng là một hành động
bất thiện và điều ấy làm
chúng ta đau buồn. Điều
gì nữa, có một tập tục
kinh khủng về việc
sát sinh để cúng tế, mà động cơ từ sự
vô minh si ám. Thật là
kỳ diệu nếu không có ai trong
hội chúng ở đây
thi hành việc
sát sinh để cúng tế trong
truyền thống văn hóa của mình. Nhưng nếu có một số ở đây theo
truyền thống này, thế thì khi quý vị
trở về nhà nên nói với những người
của quý vị rằng Đức
Đạt Lai Lạt Ma cấm việc
sát sinh cúng tế. Nếu bằng việc nói lên điều này quý vị có thể kêu gọi việc dừng lại những
thực hành như thế trong
cộng đồng quý vị, thì điều ấy rất tốt.
Nếu quý vị có một số vị
thần linh cần thịt
thú vật khi cúng tế, hãy nói với họ rằng mặc dù quý vị có
ý định thể hiện việc cúng tế này đến họ, nhưng quý vị đã được Đức
Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu đừng làm thế và
vì vậy quý vị không tự
lo liệu được. Trong cách này, quý vị có thể đổ
trách nhiệm lên
chúng tôi. Mặc dù
chúng tôi không có bất cứ
năng lực nào của
thực chứng, nhưng
chúng tôi đang nói điều này trong khi tìm cầu sự nương tựa
quy y trong luận điển của
Đức Phật Thế Tôn, và vì thế đấy là điều
hợp lý để
tuyên bố như thế. Nếu một số trong quý vị ở đây có tập tục
sát sinh cúng tế như vậy, bây giờ quý vị đã
tiếp nhận lễ quán đảnh Thời luân (Kalacakra) quý vị phải
chấm dứt việc
thực hành đó
ngay lập tức. Điều này giống như một sự
liên kết thiêng liêng hay
chí nguyện, căn cứ trên những
thuyết giảng tâm linh này.
Những kẻ mà
con người cúng tế thịt
thú vật giống như
ma quỷ, là những kẻ cso một lòng
tham muốn máu và thịt. Những kẻ ấy không xứng đáng để cúng tế bởi vì họ không có
năng lực để lấy mạng sống những
chúng sinh khác, do thế, họ đã tìm cơ hội để ăn những
thực phẩm như thế
dựa trên con người.
Không
trộm cắpHành động
bất thiện tiếp theo phải
từ bỏ là
trộm cắp, hay lấy những thứ mà không được
cho phép, và điều này
bao gồm bất cứ điều gì từ những đồ trang súc quý gia
cho đến những thứ
linh tinh nhỏ nhất.
Trộm cắp xâm phạm quyền
sở hữu của người khác. Mặc dù nó không bị
trừng phạt giống như sự
tổn hại đến sinh mạng kẻ khác,
tuy thế, nhưng người tước đoạt
sở hữu của người khác phải
kinh nghiệm khổ đau.
Trôm cắp có nhiều khía cạnh:
thí dụ,
chúng ta có thể thấy và rồi giữ một
sở hữu mà người náo đấy bị mất. Mặc dù
chúng ta không trực tiếp đánh cắp, tuy vậy, người chủ của nó đã không cho đi hay bỏ đi vật ấy trong
tâm niệm. Do thế, có một sự khả dĩ hay một cơ may rằng
chúng ta sẽ
tích lũy những việc
tiêu cực giống như những người đã mang lấy
nghiệp quả do việc thực sự lấy cắp đồ vật như vậy. Theo
quan điểm của
Giáo Pháp, nếu
chúng ta thấy một đồ vật của người nào đấy
chúng ta nên tìm và đưa lại cho người chủ thực sự của nó.
Không
tà dâmCó nhiều loại
tà dâm. Trong
hình thức những người
cư sĩ hành dâm bất chính thông thường
liên hệ đến sự ăn nằm với những người khác không phải là người
hôn phối của nhau. Đây là nguồn gốc chính của những mối tranh cải và
xung đột trong những
con người từ những bậc
trí thức ở những xứ phát triển
cho đến những người
bán khai ở những vùng đất chưa mở mang. Do thế, những sự
xung đột như vậy sẽ không xãy ra nếu
con người từ bỏ loại
tà dâm này.
Không nói những
ngôn ngữ không
lành mạnhTiếp theo chúng ta đi đến những
ngôn ngữ không
lành mạnh là điều
liên hệ đến
nói dối, nói lời
hiểm độc, nói
lời thô tục, và nói lời
vô ích.
--Nói dối có nghĩa là nói rằng
chúng ta đã từng thấy việc gì đấy mà
chúng ta không thấy hay, ngược lại nói rằng chúng đã không thấy điêu gì đấy mà
thực tế chúng ta đã thấy. Điều này bị
thúc đẩy do bởi mong muốn thay đổi
quan điểm của người khác và đấy là
thái độ cực kỳ
bất thiện, bời vì nó
lừa đảo và
gian dối người khác. Điều quan trọng là luôn luôn nói
sự thật.
--Nói lời
hiểm độc nghĩa là nói những điều làm tan vở mối quan hệ hòa hiệp giữa những
con người với nhau. Điều đó làm
tổn hại đến
toàn bộ xã hội và đánh cắp niềm
hạnh phúc cùng
tâm hồn thoãi mái của
cá nhân, do thế nó rất là tệ hại. Những bậc
đạo sư lớn của dòng Kadampa đã từng nói: “Hãy
lưu tâm đến lời của bạn nói, khi bạn ở trong đám đông và hãy chú ý đến tâm tư của bạn khi bạn chỉ có
một mình. Chỉ bằng việc mở miệng của bạn, bạn có thể bị vướng vào những
thế giới thấp hơn.” Đây là một
sự thật. Bằng sự nói năng trong một cung cách nào đấy,
chúng ta có thể làm cho những người khác bị
phê bình khiển trách hay lãnh lấy
trách nhiệm và vì thế có một hiểm họa tích tập những
bất thiện nghiệp trong cách đó, do vậy
chúng ta luôn luôn
chú tâm đến
lời nói của
chúng ta.
--Nói
lời thô tục liên hệ đến những
ngôn ngữ lỗ mãng hay
gay gắt. Khi
chúng tôi nói chuyện với người khác
thỉnh thoảng dường như những
ngôn ngữ sắp vụt ra khỏi miệng
chúng tôi, thế nên
chúng tôi cũng cần
cẩn thận với
ngôn ngữ của
chúng tôi. Khi
cơn giận nổi lên,
chúng ta không nên dùng những
ngôn ngữ thô tục với người khác, bằng việc nói những lời như, “Ngươi chẳng làm nên trò trống gì!” (You good-for-nothing) hay “Ngươi thật là ngốc” (You idiot!).
Lời nói thô tục làm
ưu phiền tâm tư người khác và nên
từ bỏ, như những tiếng lóng hay tùy tiện, như, “Ê, tên kia!” (Hey, you!) và “Ê, ông kia!” (Hey, man!) khi dùng để làm giảm
giá trị của người khác.
Thí dụ, Đức
Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm luôn luôn gợi sự chú ý của người khác bằng cách kêu tên của họ lên.
--Nói lời
vô ích liên hệ đến sự nói năng không có bất cứ
mục đích gì và
sinh khởi từ
vọng tưởng. Những
thí dụ bao gồm nói chuyện về những thứ nhơ bẩn vì những
lợi lạc ấy, hay
thảo luận về chiến tranh và
xung đột.
Tóm lại,
chúng ta nên
chấm dứt sự say sưa trong tán gẩu
hay nói năng bắt nguồn từ
vọng tưởng những thứ như dính mắc và giận hờn đối với chính
chúng ta và người khác. Hãy nói bất cứ điều gì cấn thiết để nói và những lúc khác thì nên giữ
im lặng. Điều này thật là
tuyệt hảo.
Bây giờ
chúng ta có thể
thảo luận về
hoạt động không
lành mạnh của
tâm thức, những điều ấy gồm ba loại, mang tên là sự
tham lam,
ý chí bệnh hoạn và
quan niệm sai lầm.
Sự
tham lam (tham)
liên hệ đến việc tập trung trên những
sở hữu vật chất của những người khác và
hy vọng cùng
cầu nguyện chúng ta có thể thu được những thứ ấy.
Ý chí bệnh hoạn (sân) nghĩa là tập trung vào những người khác với tâm tư tương phản và một
xu hướng làm
tổn hại .
Quan niệm sai lầm (si)
bao gồm tư tưởng không có
đời sống sau khi chết, không có
nhân quả cũng không có
Tam bảo, và được
xem như đeo mang một điều
trọng yếu tiêu cực rất nặng nề.
Nhận thức mười điều không
lành mạnh này và
từ bỏ chúng được gọi là sự
thực hành của
mười điều thiện (
thập thiện nghiệp).
Lối vào sự
thực hành Giáo Pháp bắt đầu từ nơi này.
Dần dần, có
tâm thức phát triển,
chúng ta phát sinh nguyện ước
giải thoát chúng ta khỏi
vòng sinh tử luân hồi cũng như
phát khởi xu hướng vị tha để giúp đở những người khác.
Tương tự như thế, từng bước từng
bước một chúng ta có
thể đạt đến
con đường của
chân lý trong chính
chúng ta với tất cả những đặc trưng của chúng – thấy tính
tự nhiên của
vô thường trong những đối tượng, tính
tự nhiên của
vô ngã trong những
hiện tượng và tính
tự nhiên của khổ đau trong
phiền não của
chúng sinh.
Chúng ta tạo dựng
an lạc hạnh phúc và
giải thoát khỏi khổ đau bằng việc nương trên
con đường ngừng dứt (
diệt đế) và của
chân lý. Do thế,
Giáo Pháp được những người
Phật tử biết như sự nương tựa
quy y chân thật.
Tăng Bảo cũng rất quan
trọng như một
gương mẫu để noi theo, và
chúng tôi thấy điều này rất hữu ích. Không kể những người
hiện hữu trong ‘Kỷ nguyên Hoàn thành’ (8),
chúng ta cũng bắt gặp trong
thời đại ngày nay những người ít
quan tâm đến những
vấn đề thế tục và được chuẩn bị để hy hiến trong những công tác
xã hội nhầm để
thực hành yêu thương,
từ bi,
tâm giác ngộ một cách
chân thật, và những tầng bậc
vững vàng bao quát thẳng đến chính cốt tủy của
con đường (
giác ngộ). Khi
chúng tôi gặp gở những người như thế,
chúng tôi tự nghĩ, “Tại sao
chúng tôi đã không
hoàn tất điều họ đã làm? Điều gì đang
ngăn cản chúng tôi để
hoàn thành điều ấy?
Chúng tôi khẳng định sẽ
hoàn tất điều ấy.” Những
tư tưởng thế ấy
phát khởi trong tâm tư
chúng tôi tùy thuộc lợi ích và sự
ân cần của những người bạn
tâm linh,
Tăng già. Do thế, những người như thế nên được
xem như là những đối tượng
gương mẫu và những
thiện hữu tri thức tâm linh, cho dù họ có là một
thành phần thật sự của
Tăng Bảo hay không. Và
chúng ta nên
thực hành Giáo Pháp noi theo những mẫu mực ấy.
Theo
giáo huấn Đại Thừa, những thành viên nào thật sự của
Tăng già tôn quý đã trau dồi
tâm giác ngộ (bodhicitta) trong sự
tiệm tiến liên tục của họ và được hổ trợ bởi
tâm giác ngộ (bodhicitta) đã
đạt đến sự hiệp nhất của
tịch tĩnh bất động và
tuệ giác nội quán tam muội bằng sự
thực chứng tính không một cách trực tiếp. Đã
đạt đến phầm chất của lĩnh vực thứ nhất (
sơ thiền) và trên nữa, họ
can trường và có thể
hoạt động vì những
lợi ích của những người khác một cách
thành công. Họ có nội lực
phi thường, được phú cho một
kiến thức tinh khiết và không thể đánh bại. Do vậy
chúng ta có thể thấy rằng
Phật Bảo là Đấng
thủ hộ và giống như là một vị y sư,
Pháp Bảo là sự
chân thật và giống như là y dược, và
Tăng Bảo tâm linh giống như là y tá, chăm sóc
chúng ta như những người bạn tốt.
Những vị
Bồ Tát nào đang tìm cầu
vị trí cao nhất của
giác ngộ nhầm để làm
lợi ích cho những người khác dang
thực hành để tìm cầu sự
quy y trong
Tam Bảo.
Tiếp nhận sự
quy y là sự
thực hành của những vị Bồ Tât, và đoạn kệ thứ bảy được
kết luận với lời
tuyên bố này.
ĐIỀU THỨ TÁM
Như được nói bởi
Đức Thế Tôn rằng những khổ đau không thể
chịu đựng nổi
Của những cõi thấp là
kết quả của nghiệp báo
bất thiện,
Do vậy, điều những vị
Bồ Tát thực hành là chẳng bao giờ tạo nên
Nghiệp báo bất thiện, ngay cả bằng cái giá
đời sống của họ.
Dịch kệ:
8. Ngưng
ác hànhĐức Phật dạy, khổ phải
đa mangCủa người kiếp sống lắm
đau thươngLà quả
bất hạnh do tai ác
Hại người trong nhiều đời
kiếp trước.
Không muốn về sau khổ
kinh hoàng,
Chớ nao núng dù phải
thiệt thân,
Ngưng dứt mọi
ác hành nguy hại -
Chư
Bồ tát trọn hành cách ấy.
Sự khổ đau của những
chúng sinh lưu chuyển trong những cõi thấp là cực kỳ khó khăn để
chịu đựng, chẳng hạn như
chúng sinh ở
địa ngục khổ đau với nóng và lạnh cùng cực, bị đun sôi, thiêu đốt, và đóng băng. Rồi thì có những khổ đau kéo dài trong những loại
địa ngục khác, như
địa ngục phụ và những cõi gần
địa ngục.
“Bất cứ điều gì ngươi đã
thi hành, một sự
đáp ứng hay kết quả đi kèm sẽ
tiếp theo sau.” Điều này dường
như không thể hiểu được đối với tâm
nhận thức của
chúng ta,
tuy nhiên tự sự
nhận biết là vô hạn và vì thế
chúng ta không thể nói rằng điều này là
đáng ngờ; có rất nhiều thứ vượt ngoải
tâm thức của người thường. Có nhiều
khổ não của những cõi thấp mà kết quả từ những hành động
nhiễm ô,
Đức Phật đã nói: “Tất cả những điều này phát sinh ra
từ tâm vọng tưởng.” Đúng như lời Ngài nói vì thế dường như rằng những môi trường khác biệt và những
chúng sinh của những cõi thấp
biểu lộ ra
từ tâm vọng tưởng.
Chúng tôi không biết có phải tất cả những điều
hiện hữu này căn cứ trên sự lượng định từ
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận hay không, hay từ Kho Tàng
Kiến Thức (Alaya), nhưng
chắc chắn những
thế giới địa ngục là thật sự
hiện hữu.
Chúng ta chứng kiến toàn bộ sự đa dạng của
chúng sinh ngay trong
thế giới nhân sinh của trần gian này, với những khía cạnh khác nhau của
thân thể,
cách sinh nhai và
lối sống, và những sự
hiện hữu khác ngoài sự tưởng tượng của
chúng ta. Căn cứ trên điều này,
chúng ta có thể
liên hệ rằng những
điều kiện hiện hữu như thế cũng có trong hàng trăm
thế giới khác của những
cõi trần gian (
tam giới).
Hãy để
chúng ta lưu tâm đến những quỷ đói (
ngạ quỷ),
thí dụ: họ khổ sở
chính yếu vì sự
thiếu thực phẩm và
thức uống. Vì những
ma quỷ hung ác ấy mà người ta
sát sinh động vật để cúng tế ngay trong
thế giới này. Họ sinh ra kiếp quỷ đói vì họ đã tích tập những
ác nghiệp. Trong số ấy một số có nhiều
năng lực hơn và họ đẩy những kẻ khác vào trong một vị thế
thấp kém; những kẻ khác
hệ thống này là bất trị, hay
nổi loạn.
Tiếp theo chúng ta hãy nhìn vào sự
đau khổ của loài vật trong
thế giới chúng ta. Có những con vật như mèo, chó, lừa, và ngựa là những thứ
chúng ta chăm sóc, và những thứ khác như cừu và dê là những thứ mà
chúng ta nuôi để giết lấy thịt. Nếu
chúng ta nghĩ về chúng và
nhận thấy rằng
đời sống của chúng không thuộc về chúng. Chúng không có
ý định làm
tổn hại chúng ta, chúng ăn cỏ, uống nước, và
đần độn cùng
ngu dại. Đó là những
điều kiện của
đời sống của chúng. Do vậy, điều gì
cho phép con người cái quyền để ăn
thân thể chúng?
Khi những
thú vật đó được cho một ít
thực phẩm, chúng
tranh giành và chiến đấu
với nhau để có
thức ăn, vì tham đắm và
giận dữ. Thêm nữa, chúng phải
chịu đựng khổ đau vì bị đánh đập bằng roi vọt. Nhìn
cẩn thận những thứ này sẽ đưa
chúng ta cảm thấy sự đau buồn về khả năng nhỏ nhoi mà những
thú vật đó có.
Cuối cùng chẳng có ai để
bảo vệ và hổ trợ chúng, và chúng phải tự đi tìm
thức ăn cho chúng.
Con người chúng ta đã
xây dựng trường học cho việc
tìm kiếm kiến thức, nhà thương để
cải thiện sức khỏe và vệ sinh, cùng nhiểu nhà máy để sản xuất hàng hóa và để cho công nhân một
kế sinh nhai.
Chúng ta cũng tạo dựng những nông trại để
cung cấp lương thực cho cung cách
lưu chuyển của
đời sống.
Tuy thế, những bệnh viện thú y, có nghĩa là giành cho
thú vật, một cách
chính yếu lại
phục vụ cho
mục tiêu của
con người, những kẽ đã xử dụng
thú vật để
cung ứng cho họ một
kế sinh nhai. Những nơi như thế đã không được
xây dựng nên vì
cảm xúc thương hại và
từ bi cho chính
thú vật.
Con người chúng ta bàn thảo về những
lo lắng và
vấn nạn của
chúng ta, chẳng hạn như
thiếu thốn một cơ hội cho học tập, hay không nhận được thuốc men
tốt lành hay cho vào một bệnh viện với
điều kiện tốt đẹp. Nhưng nếu một khi đã sinh ra trong
hình thức thú vật, thì chúng sẽ
phàn nàn với ai về những
vấn đề này?
Thí dụ, nếu một con cừu, một con dê, hay một con gà mái bị bị xe đụng phải, không ai mang chúng đến bệnh viện vì chúng đã bị gảy chân. Trong
thực tế, ai đấy có thể giết chúng. Do vậy,
thú vật không có ai để
bảo vệ và hổ trợ.
Chúng ta có thể
chịu đựng điều ấy nếu
chúng ta sinh ra như một con mèo, con chó hay con heo, không có ai hổ trợ hay
bảo vệ, không có
thân quyến để chăm sóc
chúng ta hay không?
Những
tình cảnh cực kỳ khốn đốn cho những
chúng sinh trong
cõi địa ngục và quỷ đói, cũng như
súc sinh.
Hiện tại chúng ta đạt được kiếp
nhân sinh, nhưng
chúng ta không có
lựa chọn nào để kiếp sống tới
chúng ta có phải sẽ sinh ra trong
cõi địa ngục,
ngạ quỷ, hay
súc sinh hay không.
Chúng ta sẽ đi bất cứ nơi nào mà
nghiệp lực dẫn
chúng ta đến.
Nếu
chúng ta có những
hành vi đạo đức mạnh mẽ, được tích tập toàn hảo, thế thì
chúng ta có thể có sự vững tin biết rõ rằng
chúng ta sẽ
không sinh ra trong những
thế giới thấp (
địa ngục,
ngạ quỷ, hay
súc sinh).
Trái lại thật dễ dàng để rơi vào
những cảnh giới thấp kém, ngoại trừ
chúng ta có cơ hội để
sám hối cho
sự tích tập những hành động
bất thiện, và
thể hiện một
chí nguyện vững vàng trong khuôn khổ của bốn
năng lực (9) để không liên lụy vào những
việc làm tiêu cực như vậy
một lần nữa.
Thánh Thiên bình luận:
Đại đa số con người đi theoCon đường của những kẽ không
thánh thiện, và vì thế
Hầu hết những
chúng sinh phàm phu chắc chắn Đọa vào những cõi
luân chuyển thấp hơn.
Do thế, điều sẽ
đi theo là
đại đa số những người đến đây cho lễ
truyền pháp Thời Luân (Kalachakra) sẽ đọa vào những
cảnh giới lưu chuyển thấp. Do vì thật khó khăn để
đạt đến sự
tái sinh tốt đẹp, những ai không
thực hành Giáo Pháp chắc chắn sẽ
đi xuống thế giới thấp. Nếu quý vị
đọa lạc đến
tình cảnh thấp ấy, quý vị có thể
chịu đựng nổi khổ đau không? Và bây giờ quý vị có
tin tưởng rằng quý vị sẽ không
tái sinh trong
những cảnh giới thấp hay không?
Nếu không, quý vị phải
cẩn trọng và
thực hành không chậm trể.
Hãy tìm cầu nương tựa
quy y nơi
Phật Bảo,
Pháp Bảo, và
Tăng Bảo bằng sự
thông hiểu những phẩm chất thật sự của
Tam Bảo. Nhầm để
trở thành Phật Bảo,
Pháp Bảo, và
Tăng Bảo của chính mình,
chúng ta phải
từ bỏ mười điều
bất thiện, với một
niềm tin mạnh mẽ đông thời trong
luật nhân quả.
Căn bản trên điều này,
trì niệm mật ngôn lục tự (
Án Ma Ni Bát Di Hồng)
thường xuyên nhất mà
chúng ta có thể, cùng
đảnh lễ, và
nhiễu Phật kinh hành. Tu niệm
rèn luyện chúng ta trong
viễn ly, và
tâm giác ngộ (bodhicitta) và
dần dần cải thiện sự
tiệm tiến tinh thần chúng ta.
Tối thiểu chúng ta nên
rèn luyện chính mình
từ bỏ mười điều
bất thiện, và thêm nữa
chúng ta phải
đảnh lễ phủ phục, và
nhiễu Phật kinh hành.
Đức Phật luôn luôn nói điều
chân thật, nói rằng kết quả của hành động
bất thiện là khổ đau
vô cùng tận. Nếu
chúng ta biết điều này bằng
năng lực lý trí của mình,
chúng ta sẽ không
tham dự vào những
hành vi tiêu cực ngay cả bằng giá mạng sống của mình. Đây là điều
thực hành của một vị
Bồ Tát.
Thế là
chúng ta đã
thảo luận về
phạm vi nhỏ hay
mục tiêu bậc tiểu của
con người.
Tiếp theo chúng ta sẽ
lưu tâm đến
con đường phổ biến và
phạm vi vừa hay
mục tiêu bậc trung của
con người.
ĐIỀU THỨ CHÍN
Hạnh phúc của
ba cõi, như những giọt sương trên đầu của một
Ngọn cỏ, có tính
tự nhiên biến mất trong giây phút
Do vậy, sự
thực hành của những
Bồ Tát là
cố gắng Vì
tình trạng tuyệt vời của
sự giải thoát không thay đổi.
Dịch kệ:
9. Cầu
giải thoátNhư sương mai đọng trong phút giây
Trên đầu ngọn cỏ, sớm tan ngay,
Thú vui
tìm thấy trong đời tục
Chẳng lưu tồn, thoáng qua khoảnh khắc.
Trong khi
thành Phật được
tự tại,
An lạc tuyệt vời chẳng đổi thay.
Tận lực đạt
cứu cánh siêu diệu -
Chư
Bồ tát trọn hành cách ấy.
Sự khoái lạc và những phẩm chất
tốt đẹp của cõi
luân hồi này – điều được
bao gồm trong
ba cõi hiện hữu duyên sinh –có thể được
so sánh với những giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Một khoảnh khắc có một giọt sương lấp lánh, và
thời khắc tiếp theo nó tan biến không còn dấu vết. Giống như vậy, tất cả những vui thú khoái lạc và
hạnh phúc của
ba cõi hiện hữu duyên sinh không có cơ sở
vững chắc và được
mô tả đặc điểm bằng sự không
chắc chắn; tính
tự nhiên của nó là tàn lụi trong chốc lát.
Niết bàn là
tình trạng không
biến đổi của
an lạc hạnh phúc
vĩnh cửu, và tìm cầu
niết bàn là sự
thực hành của một vị
Bồ Tát.
Không phải chi
ba cõi lưu chuyển (
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sinh) là chứa đựng những khổ đau
vô cùng. Nếu
suy nghĩ một cách
cẩn thận,
chúng ta có thể thấy rằng chẳng có một thứ
hạnh phúc nào cả
cho đến khi
chúng ta hoàn toàn giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi.
Hiện thời chúng ta đạt được kiếp
nhân sinh, đấy là
hình thức tuyệt vời nhất trong cõi
luân hồi. Nhưng hãy đề
chúng ta nhìn lại
điều kiện nhân duyên hiện tại. Không biết chắc chốn nào
chúng ta sẽ
tái sinh,
chúng ta trãi qua
lo âu bức rức liên tục. Sự
tự do hiện tại tạm thời của
chúng ta khỏi ba cảnh khổ (
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sinh) không có gì
vững chắc, và sẽ không có gì
bảo đảm cho đến khi
chúng ta có thể
tin chắc ở sự
hoàn toàn thoát ly sinh tử luân hồi. Đây là
con đường hay phương thức mà mọi thứ là (
chân thực như thế).
Qua khảo sát
chúng ta có thể thấy rằng tính
tự nhiên của
thân thể con người là khổ đau. Có thể nói rằng không có
cảm giác mạnh mẽ nào
thú vị và khổ đau trong vài tuần đầu của
đời sống,
ngay lập tức sau khi
nhập thai. Nhưng rồi thì
bào thai bắt đầu
cảm thấy an lạc và khổ đau một cách sâu sắc. Khi nó chuyển động trong
tử cung, nó cũng không
cảm thấy vui thích mà phát ra một
cảm giác của không
thoải mái, bởi vì nó không thể
duy trì sự yên tĩnh và thư giản trong khi bị
hạn chế trong dạ con. Và nó phải
duy trì tình trạng đó trong mười tháng ở bụng mẹ, không phải là vài ngày hay vài tuần. Sauk
hi sinh ra, đứa bé phải trãi qua một
thời gian nếm mùi khổ đau giống như một con côn trùng, vì mặc dù nó có một
hình thức của
con người, nhưng nó không thể hành động một cách
tự do. Trong cách này
đời sống bắt đầu với sự khổ đau.
Trong
thời gian chuyển tiếp giữa lứa tuổi 15 hay 16 và 40 hay 50,
nữ nhân được
xem như là
quyến rũ và nam giới là
hấp dẫn và mạnh mẽ. Trong cấp độ này của
đời sống chúng ta nghĩ rằng
chúng ta có thể
đảm đương bất cứ việc gì, không cần
tin cậy nương dựa hay
tìm kiếm một sự hổ trợ từ bất cứ ai khác do vì
chúng ta có thể dùng đến sự
thông minh của chính mình.
Tuy nhiên, như
chúng tôi đã
lưu ý trước đây, luôn luôn có một
cảm giác nào đấy không
hài lòng trong đời sống của
chúng ta.
Chúng ta có thể
đi vào thương trường và thấy rằng nó chẳng
tốt đẹp cho lắm; hay
chúng ta đến học đường nhưng không thể học tập
hoàn toàn thích đáng và nhận những điểm xấu trong thi cử;
chúng ta có thể
tìm kiếm một nghề nghiệp nhưng nhận lương bổng thấp; một sự đau buồn đem đến khi không có con cái, thế là người ta đi đến thỉnh ý những
tu sĩ cầu đảo để được mang thai và sinh con. Hay có những đôi vợ chồng có quá nhiều con cái, họ
lo lắng không biết có nên
kiểm soát sinh sản hay không, và nếu họ thực sự
kế hoạch hóa, chẳng biết nó có hợp với
luật nhân quả hay không.
Nếu không kiểm soát sinh sản, làm thế nào họ có thể nuôi nấng tất cả con cái của họ?
Suy nghĩ theo những dòng này cũng là
nguyên nhân làm cho khổ đau.
Rồi thì nếu
chúng ta không có
tiền của,
chúng ta có thể làm gì? Nếu
chúng ta ăn những
thức ăn như - thế - như - thế năm nay, năm tới
chúng ta sẽ ăn thứ gì? Nếu
chúng ta hài lòng và đấy đủ những thứ
cần thiết cho chính
bản thân,
chúng ta sẽ nghĩ đến việc
chúng ta có thể giúp đở gì cho
thân quyến chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng chắc cho vay tiền là tốt, nhưng nếu làm thế,
chúng ta sẽ có lời lãi tốt hay không? Giữ tiền trong ngân hàng không thu thập lời lãi nhiều, thế là
chúng ta có thể
quyết định cho những người buôn bán vay tiền. Rồi
chúng ta lo âu trong việc
tìm kiếm một người
đáng tin cậy, thế là
chúng ta đi
bói toán và khẩn cầu cho việc ấy. Tất cả những điều này có nghĩa rằng
chúng ta trở thành một kẻ
nô lệ cho
đồng tiền của
chúng ta thay vì gặt hái những
lợi lạc từ đấy.
Một người đàn ông không có vợ thì
đau khổ vì việc ấy. Nếu ông ta có vợ, ông lại
âu sầu vì
phu nhân mình không
xinh xắn và hợp thời trang. Nếu nội tướng ông
xinh đẹp như một người mẫu, ông lại
lo âu về
việc làm sao có thể
cung cấp cho
phu nhân một cách tương xứng.
Chúng ta đau khổ vì không có
thân quyến hay bè bạn, nghĩ rằng không ai hướng dẫn và chỉ lối đưa đường cho
chúng ta;
chúng ta cô đơn.
Chúng ta lại cũng bị khổ sở vì có bè bạn và
thân quyến mà không thể sánh vai với họ.
Rồi thì vào cuối của
cuộc đời, như một kết quả
chúng ta trở nên già cả và ốm yếu cùng
kinh nghiệm khổ đau. Và cuộc sống
chấm dứt với cái chết, mà chính nó là tính
tự nhiên của khổ đau.
Biết trước cái chết làm
sinh khởi sự
sợ hãi và băn khoăn, do thế hầu hết người ta
thỉnh mời tu sĩ cầu nguyện cho họ sống lâu và
giải thoát họ khỏi bệnh tật. Nhưng ngay cả nếu họ
cố gắng để
ngăn ngừa bệnh hoạn bằng việc
ăn uống một khối lượng
thực phẩm vừa phải và
giữ gìn vệ sinh rất tốt, sự khổ đau của cái chết sẽ vẫn đến với họ mặc dù có những sự
đề phòng này.
Sự khổ đau được biết như cái chết xãy ra từ việc cạn kiệt
thiện nghiệp hay
phước đức của
chúng ta, hoặc
tùy thuộc vào những
điều kiện (
nhân duyên)
bất thiện. Ngày ấy đến, khi
chúng ta nằm trên giường, sống nhờ
thân thể này lần
cuối cùng. Mặc dù
chúng ta vốn có một
thân thể khỏe mạnh nhờ luyện tập, nhưng ngày ấy
chúng ta ngã đổ xuống như một thân cây
mục nát và không thể lăn trên giường
nếu không có người
phụ giúp. Khi
chúng ta nằm đấy với chính mình,
chúng ta nếm mùi
khổ não trong
hình thức đau đớn, và nếu
chúng ta ở trong bệnh viện
chúng ta phải nhờ y tá đở qua đở về.
Nếu
chúng ta cần giải phẩu ngắn ngủi trước khi chết, những phần
thân thể nào đấy sẽ bị mỗ xẽ và thậm chí
chúng ta có thể có những bộ phận hay
vật chất mới lồng vào. Nếu điều ấy
cần thiết cho sự sống còn của
chúng ta để tiến
hành giải phẩu trên tay của
chúng ta, điều ấy sẽ được
hoàn tất;
nếu cần cưa đi chân điều ấy sẽ
hoàn thành; và
nếu cần thiết thay những bộ phận nội tạng họ sẽ làm như thế.
Mọi người chung quanh
chúng ta sẽ bận rộn hướng đến sự
cần thiết của
chúng ta vào
cuối cùng ấy trong khi
chúng ta nằm đấy và
suy nghĩ: “Bây giờ tôi sắp chết,” và nếm mùi đau buồn
thương tiếc. Cung cách mà
chúng ta đã tiêu phí
cuộc đời trong năm, sáu mươi năm qua đến lúc này dường như giấc mơ của đêm qua.
Chúng ta đối diện sự chia ly
vĩnh viễn trong
cuộc đời này với những
thân quyến,
thân hữu thân cận và
thân ái.
Chúng ta phải chết để đi qua
đời sống kế tiếp, trong khi họ phải ở lại trong
thế giới nhân gian này. Thế là vì
sự kiện này
chúng ta khóc lóc và
tỏ ra một sự
biểu lộ đau buồn vô hạn, và
thân quyến và
thân hữu chúng ta cũng đầy nước mắt. Lẫm bẫm những lời
đau khổ đìu hiu, nhưng
chúng ta phải
đi theo những
con đường ly biệt.
Mặc dù những người
Tây Tạng chúng tôi đã bị chia cách
với nhau, nhưng
ít nhất chúng tôi có thể gặp lại nhau;
trái lại sự chia ly bởi chết chóc không phải là kết quả của nước này
bóc lột nước kia mà là do sự
chấm dứt nghiệp quả của
chúng ta.
Chúng ta không thể
trình diễn một sự mặc cả với bất cứ ai để
chúng ta ở lại bằng việc dùng bất cứ
phương pháp nào chẳng hạn như cách hối lộ hay sự xảo quyệt bẩm sinh.
Một số
đệ tử của
chúng tôi có thể chuẩn bị để
hy sinh mạng sống của họ vì
chúng tôi do sự
tin tưởng mạnh mẽ ở
Giáo Pháp.
Tuy nhiên, khi ngày chết của
chúng tôi đến,
chúng tôi phải ra đi
một mình.
Chúng tôi không thể mang ai theo với
chúng tôi, bằng cách nói rằng, “Người ấy là bạn tôi,” hay , “Người ấy là
thị giả của tôi,” hay rằng đấy là người mà
Đạt Lai Lạt Ma tin cậy. Những
đệ tử của
chúng tôi phải ở lại phía sau, và tất cả quý vị cũng phải ở lại. Như đã được nói rằng: “Quốc vương phải rời
thế giới này, bỏ lại Vương quốc của mình; kẻ
hành khất phải rời
thế giới này, bỏ lại cây gậy của ông ta.”
Chúng ta bị dày dò bởi nổi khổ khốc liệt khi
chúng ta nói ra lời
cuối cùng trên giường bệnh vào ngày
quyết định, và nó đòi hỏi
chúng ta một nổ lực để nói tất cả.
Chúng ta có thể có một sự khó khăn
vô cùng trong
việc làm chúng ta thấu hiểu
do bởi môi miệng
chúng ta khô khốc, và
nếu thế, thân bằng
quyến thuộc chúng ta trở nên tan nát cõi lòng, bất lực và
phiền muộn.
Trước thời điểm này
chúng ta thường bày tỏ một cách
tự do. Như một
thí dụ nhỏ,
chúng ta sẽ
phàn nàn to tiếng nếu
thực phẩm chúng ta ăn không được nấu nướng một cách
thích hợp.
Chúng ta chắc chắn sẽ vung lời nếu chúng quá nóng và làm bỏng miệng
chúng ta.
Chúng ta sẽ
gắt gỏng kẻ có
trách nhiệm nếu
chúng ta ở
vị trí quyền thế, và sẽ nguyền rũa sau lưng nếu
chúng ta không thể thách thức
trước mặt.
Chúng ta đã
thường dùng cảm xúc trong sự
kiềm chế hay điểu khiển kiểu này, nhưng tại thời điểm của cái chết
chúng ta thậm chí không thể ăn.
Đây là một
thí dụ khác nữa: nhiều người
Tây Tạng đeo vật
hộ thân hay bùa, là những thứ mà họ nói là chứa đựng
xá lợi như-thế-và-như-thế hay thịt như-thế-và-như-thế của những
Đức Phật hay
Bồ Tát. Vì
lý do này họ
chống lại việc giao những thứ ấy cho những người khác mà luôn đeo chúng trên cổ của họ. Vào ngày
cuối cùng, những người khác sẽ mở gói bùa ấy ra và hòa lẫn những thứ ấy với nước, và rồi những
vật chất thiêng liêng và tro tàn hay
xá lợi ấy được đặt vào trong miệng của người sắp chết như bửa ăn
cuối cùng. Nhưng thường thì người ấy không
đủ sức để nuốt, vì thế những thứ
vật chất vẫn còn bên trong miệng của người ấy ngay cả khi họ đã chết.
Tại thời điểm
lâm chung âm thinh
hơi thở chúng ta thay đổi một cách
chậm chạp, giống như dây đờn vĩ cầm đứt, và những
cảm giác thú vị mà
chúng ta đã trãi qua trong
cuộc đời mình sẽ đi đến
chấm dứt với lúc chết của
chúng ta, một
năng lực bất thường,
hơi thở ra, sau khi tất cả sự
hô hấp ngừng dứt.
Tất cả những
phương pháp mà
chúng ta có thể đã được dùng trong bệnh viện
cố gắng để sống còn sẽ không có
lợi ích gì khi
nghiệp quả chúng ta đã cạn dứt. Cũng không có giúp đở gì thêm ngay cả nếu sự giải phẩu cho
chúng ta một lá phổi hay trái tim mới, hay nếu
chúng ta được tiếp dưỡng khí để hổ trợ thêm cho
hơi thở chúng ta.
Chúng ta hoàn toàn bất lực. Ở tại
hoàn cảnh mà:
Bác sĩ bó tay với
chúng ta và nguyện cầu không qua được
chướng ngại;
Thân quyến mất
hy vọng với sự sống còn của
chúng ta.
Chúng ta cảm thấy bất lực và không biết phải làm gì.
Đấy là
thời gian cho
đạo sư tôn quý,
Thánh Quán Tự Tại,
thủ hộ chúng ta và đưa
chúng ta khỏi cõi
luân hồiNhư được nói ở đây trong “Sự
Thủ Hộ Từ Bi”, tại thời điểm
lâm chung đấy là Bổn tôn là những đấng mà
chúng ta giao phó sự
hồi hướng và
năng lượng với điều mà
chúng ta đã từng
thực tập Giáo Pháp là điều sẽ làm cho
tâm thức chúng ta an lạc và nhẹ nhàng. Các Bổn tôn sẽ
ban cho chúng ta sự ổn định và an ủy. Không điều gì khác có thể giúp
chúng ta bởi vì không có đấng
bảo vệ và hổ trợ nào khác.
Khái quát những gì
chúng tôi vừa
thuyết giảng:
chúng ta trãi qua khổ đau khi
chúng ta trẻ trung và khỏe mạnh cũng như khi
chúng ta trở nên già yếu và tàn tật.
Chúng ta khổ đau khi
đời sống chúng ta đầy đủ cũng như khi
chúng ta đối diện với những
hoàn cảnh thiếu thốn.
Chúng ta bị chế ngự bởi nhiều thứ khổ đau từ lúc bắt đầu của
đời sống cho đến giây phút
lâm chung.
Thế thì
mục tiêu của
tái sinh là gì? Nếu
chúng ta trở thành một kẻ
nô lệ cho sự
giàu sang hay
tài sản và chỉ
đơn thuần là kẻ chăm sóc cho ngôi nhà của mình, điều ấy thật là
vô nghĩa. Ngôi nhà có nghĩa thật sự là để
cung cấp cho
chúng ta nơi cư trú, vì thế nó là
tốt đẹp nếu
chúng ta cảm thấy ấm cúng và thoãi mái trong ngôi nhà của mình. Nhưng nếu
chúng ta quá bận rộn để
lo lắng cho nó,
chúng ta trở thành kẻ
tôi đòi hay kẻ quản gia.
Tương tự như thế, sự
giàu sang và
tài sản phải làm
lợi ích cho
con người, nhưng nếu
chúng ta không biết xử dụng chúng một cách
thích đáng chúng ta trở thành kẻ
nô lệ của chúng.
Mặc dù dường như giống như
thảo luận một đề tài nhơ bẩn, vì
mục tiêu chính của
thực phẩm và áo quần dường như chính là sản xuất phẫn.
Thực phẩm là cội nguồn thực sự của phẫn, và phẫn thông thường được hình thành bởi
tiếp nhận một khối lượng
vừa phải thực phẩm và
ăn mặc áo quần
thích hợp.
Tuy thế, chọn lựa để trui rèn
tâm thức chúng ta trong
Giáo Pháp cho
chúng ta ý nghĩa để
duy trì trong sự
hiện hữu của
con người bởi vì
chúng ta trở nên tĩnh lặng và nhẹ nhàng một cách tạm thời cũng
tiếp nhận lợi ích về lâu về dài.
Chúng ta không nên nói rằng
đời sống này không có
thực chất gì cả. Nếu
chúng ta nói rằng
cuộc đời này là
vô nghĩa và
chúng ta dự tính tự tử,
chúng ta phải
tiếp nhận một kiếp sống khác, nhưng không
hài lòng; bằng sự
chấm dứt đời sống này không có nghĩa là
chúng ta sẽ
chấm dứt sự sinh.
Bản chất của sự
sinh không phải là
vấn đề muốn hay không muốn –
chúng ta phải
tiếp tục chịu sinh
cho đến khi
chúng ta có thể làm cạn dứt
hành nghiệp và
tư tưởng phiền não của
chúng ta. Do thế, ngoại trừ
chúng ta có thể
lìa bỏ gốc rể của
tái sinh, bằng không thì
vô ích.
Chúng ta sẽ không bao giờ
tìm thấy an lạc hạnh phúc và thoãi mái
thường hằng cho đến khi nào
chúng ta vẫn còn phải
tiếp nhận sự sinh (ra), mà thay vì thế phải dành
thời gian chúng ta trong
đau khổ.
Nguyên nhân nào làm nên tất cả những
khổ não này? Đấy là những chứa nhóm (hay
năm uẩn) mà
chúng ta đã
mang theo, đã tạo nên bởi những hành động và
vọng tưởng. Tại sao
chúng ta tiếp nhận sự sinh (ra) này? Không chỉ bởi vì cha và mẹ của
chúng ta, mà bởi vì
sự tích tập những hành động của
chúng ta.
Chúng ta có thể làm ngưng vòng
tái sinh này lại, bằng cách
khám phá và nhổ gốc rể của sự
tiếp diễn của những hành động. Điều
cần thiết để làm cạn dứt kho chứa những
hành nghiệp nhầm để ngưng dứt việc
tiếp nhận sự sinh (ra), và làm cạn dứt những
hành nghiệp tích tập đấy là
chúng ta phải làm cạn dứt
vọng tưởng của
chúng ta. Ngày mà
chúng ta chế ngự để cạn dứt những
hành nghiệp và
vọng tưởng của
chúng ta chính là lúc
chúng ta đạt đến giải thoát.
Nói cách khác, một khi
chúng ta đã làm cạn dứt
phiền não là điều tạo nên
nghiệp báo và
hoàn toàn hết sạch chính khuynh hướng của
chúng ta dính mắc với sự
tồn tại thật (bị
quan niệm một cách
sai lầm), và một khi
chúng ta đạt đến sự ngừng dứt (
diệt đế) của mỗi
phiền não và
hành nghiệp, thế thì
chúng ta đạt đến niết bàn. Vì thế,
Pháp giới, là điều được
đạt đến như một kết quả của sự
chấm dứt hành nghiệp và
phiền não, được biết như
sự giải thoát cũng như sự ngừng dứt (
diệt đế).
Sau khi
đạt đến giải thoát, cái “tôi”
tục đế (
quy ước) của một
con người vẫn
tồn tại. Nó không có nghĩa là
chúng ta bị biến mất một cách
hoàn toàn, mặc dù đúng thật rằng
chúng ta không bị
năng lực thúc đẩy để
tái sinh nữa
do bởi nghiệp báo và
vọng tưởng của
chúng ta. Có những sự
diễn dịch sai lầm trong nhiều sách vở
Tây Phương về
Phật Giáo, đấy là khi họ viết rằng khi một người
đạt đến niết bàn người ấy sẽ
chấm dứt hiện hữu và
chúng ta không phải nương dựavào bất cứ ai, mặc dù điều này không
liên hệ đến sự những thứ ngoại tại (11).
Chúng ta phải
khám phá khả năng của
chúng ta đạt đến niết bàn qua
thực hành nếu
chúng ta muốn tiếp cận
tình trạng của
chúng sinh như thế.
Giận dữ và dính mắc (
chấp trước)
sinh khởi trên căn cứ trên chính khuynh hướng gốc rễ của
chúng ta bám lấy sự
tồn tại cố hữu. Trong Hướng Dẫn
Trung Đạo (Madhyamikavatara) nói rằng:
Trước nhất là sự
bám víu tự ngã như cái “tôi”, rồi đến sự
bám víu vào những
sở hữu như cái “của tôi”, những
chúng sinh lang thang trong cõi
luân hồi bị vướng trong bẩy rập của cõi
luân hồi sinh tử, như guồng cối xay đi
quay cuồng quẩn quanh mà không có
tự do. Hãy
quy mạng từ bi.
Hành giả càm thấy qua
tuệ trí của họ rằng tất cả những trở ngại của
phiền não sinh khởi từ
nhận thức của tập hợp tạm thời của (năm) uẩn như “tôi” và “của tôi”; họ thấy rằng tự họ chỉ là một tập hợp tạm thời của (năm) uẩn, và vì thế phản
bác sự tồn tại cụ thể của cái “tôi”.
Chúng ta bắt đầu với khuynh hướng này để
suy nghĩ về cái “tôi”, và từ đấy
chúng ta kết luận rằng cái “tôi” này là khác biệt với những thứ khác một cách
hoàn toàn. Trên
căn bản này, ở đấy
sinh khởi lên
cảm giác về “thân quyến của tôi” và “tài sản của tôi” và rồi thì
giận dữ sinh khởi từ những
tư tưởng chiếm hữu như thế.
Chúng ta nên
khám phá gốc rễ của những
quan niệm sai lầm, để thấy làm thế nào cái “tôi”
xuất hiện trong
tâm thức chúng ta, làm thế nào
tâm thức chúng ta cảm thấy cái “tôi” và nó có thật sự
hiện hữu như được
cảm thấy hay không.
Chúng ta phải khảo sát sự
liên hệ giữa những
quan niệm này, bằng việc xử dụng
lý trí của
chúng ta như được
giải thích trong
Trung Quán Luận:
Nó
không sinh khởi từ chính nó cũng không phải từ thứ khác;
Không phải từ hai điều này, cũng không phải
từ không nhân.
Bất cứ đối tượng là gì
Nó chẳng bao giờ sinh ra ở bất cứ nơi nào
(
Chư pháp bất tự sinh,
Diệc bất tùng
tha sinhBất cộng bất
vô nhânThị cố tri
vô sinh.)
Như được nói trong luận bản gốc,
chúng ta phải khảo sát để thấy có hay không một sự
liên kết giữa việc
chúng ta cảm nhận những
hiện tượng thế nào và
chúng hiện hữu như thế nào và
tâm thức chúng ta khao khát chúng thế nào.
Chúng ta sẽ có một cái nhìn
rõ ràng về tính
tự nhiên của
thực tại nếu
chúng ta quả quyết sự thật ở một cấp độ nào đấy của sự khảo sát như thế, và từ đấy
chúng ta có thể thu được sự
tin tưởng trong việc
đạt đến giải thoát trong tương lai.
Tuy nhiên, tầm quan trọng và quý giá ở một
con người là người ấy chi là một, một
đơn độc;
trái lại những
chúng sinh khác là
vô lượng và
vô biên, và cùng chia sẽ sự khao khát
hạnh phúc an lạc và tránh xa khổ đau. Tất cả
chúng ta đều
sẳn có và
sở hữu cùng
quyền lợi để loại trừ khổ đau khỏi
đời sống chúng ta và để
tiếp nhận hạnh phúc, và
chúng ta có cùng khả năng cho điều này. Do thế, nếu
chúng ta so sánh tầm quan trọng của chính mình và với những người khác,
chúng ta có thể thấy rằng người khác là cực kỳ quan trọng.
Chúng tôi đã
đạt đến thân người, và trong những
con người,
chúng tôi là một
con người tin tưởng nơi
Giáo Pháp,
chúng tôi là một người
thực hành Giáo Pháp. Trong đặc trưng ấy,
chúng tôi là một người
thực hành Giáo Pháp Đại Thừa.
Vị trí của
chúng tôi là một
tu sĩ cụ túc giới, là một người thọ
Bồ Tát giới cũng như
thệ nguyện của mật thừa tantra. Vì thế,
chúng tôi có thể nói rằng
chúng tôi là một người
thủ hộ tuệ trí và ba
thệ nguyện. Do vậy,
chúng tôi đã
đạt đến một vị thế
tương đối quý giá và quan trọng.
Tuy nhiên, nếu so sáng chính mình với những
chúng sinh khác, tầm quan trọng của
chúng tôi vô cùng nhỏ nhoi trong sự
so sánh với họ.
Chúng tôi chỉ là một người
cảm thấy cả
an lạc lẫn khổ đau và
chúng tôi sẽ vẫn là một
con người nếu
chúng tôi lang thang trong cõi
luân hồi từ
vô thủy kiếp
cho đến tương lai xa xôi. Do thế, điều gì quá
đặc biệt về
chúng tôi trong việc
đạt đến giải thoát ngay bây giờ? Nhưng nếu
chúng tôi có thể làm
lợi ích cho những người khác và hiến tặng cho họ thậm chí một niềm
vui thích nho nhỏ, điều ấy sẽ có
giá trị thế nào đấy. Sự
lợi lạc lan rộng một cách thật sự đến
vô lượng chúng sinh.
Đúng ngay lúc
chúng ta có thể
hy sinh hạnh phúc tam thời vì
mục tiêu đạt đến niềm
an lạc tối thượng của
niết bàn, thế thì
chúng ta có thể
thệ nguyện chọn lựa để tiến hành một sự hy hiến
giá trị hạnh phúc chính mình nhầm để làm
lợi lạc cho những người khác. Điều được xem là thông thường để khước từ những điều nhỏ bé của
thế giới này nhầm để
đạt đến điều gì ấy to lớn hơn.
Tương tự như thế, người
thông tuệ hy sinh chính mình nhầm để làm
lợi ích cho người khác.
ĐIỀU THỨ MƯỜI
Điều gì là việc xử dụng
hạnh phúc của chính
chúng ta khi tất cả các bà mẹ là những người đã từng
Ân cần tử tế đến
chúng ta từ
vô thủy kiếp (chịu) khổ đau?
Do thế, đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát để phát sinh
Tâm giác ngộ (bodhicitta) nhầm để
giải thoát tất cả
chúng sinh.
Dịch kệ:
10.
Phát Bồ đề tâmMỗi lần
đầu thai, bao kiếp đời,
Lại được
cưu mang bởi mẫu từ.
Bấy nhiêu bà mẹ còn luân lạc,
Nhẫn tâm sao đành, riêng ta thoát!
Muốn
độ tha nhân, nhiều khôn lường,
Cứu các bà mẹ khổ thân thương,
Phát Bồ đề tâm, nguyện
thành Phật -
Chư
Bồ tát trọn hành
chân thậtChúng ta phải phát sinh nguyện vọng tìm cầu
Phật Quả tối thượng và
hoàn toàn nhầm để
giải thoát vô lượng chúng sinh khỏi khổ đau và
nguyên nhân của nó.
Chúng ta nên phát sinh
xu hướng này nếu nó chưa từng được phát sinh, và
tăng cường nó nếu nó đã phát sinh. Đây là sự
thực hành của một vị
Bồ Tát.
Từ đây
trở về sau của
luận giải, sự
thực hành của
tâm giác ngộ (bodhicitta) được chia sẽ. Để
học hỏi lý do tại sao
chúng ta phải hoán đổi chính mình với những người khác,
chúng ta nên đọc:
ĐIỀU THỨ MƯỜI MỘT
Như tất cả khổ đau sinh ra từ sự khát khao
hạnh phúc của
con người,
Và những
Đức Phật sinh ra
từ tâm niệm làm
lợi ích cho những người khác,
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát để dấn thân trong một sự
Hoán đổi thực sự
hạnh phúc của họ vì khổ đau của những ngưởi khác.
Dịch kệ:
11. Hoán
vị ngã tha
Mọi khổ ta mang, chẳng biệt trừ,
Đến từ
ước vọng vui riêng tư;
Còn khi hành, ý cho tha lợi
Sẽ sanh vào
tối thượng Phật vị.
Thế, nên hoán đổi
tư dục tham
Chớ quên cảnh khổ của chúng nhân,
Chuyển lòng
ích kỷ thành quan thiết –
Chư
Bồ tát trọn
hành không khác.
Trong Hướng Dẫn Phương Thức của
Đời Sống Bồ Tát (Bodhicharyavatara) viết rằng:
Tất cả khổ đau trong
thế gianSinh khởi ra từ sự mong muốn
hạnh phúc cho tự ngã;
Tất cả
hạnh phúc trong
thế gianSinh khởi ra từ mong muốn
hạnh phúc cho người khác.
Và:
Có điều gì khác được nói nữa? Quá nhiều điều.
Người thông tục hành động vì
hạnh phúc của chính họ,
Trong khi Đại
Mâu Ni hành hoạt vì kẻ khác
Hãy nhìn sự khác biệt giữa hai loại này.
Gốc rễ của tất cả
hạnh phúc là
do nơi sự mong muốn
hạnh phúc của những người khác. Nguồn gốc của tất cả những
chướng ngại là
do nơi sự mong muốn
hạnh phúc cho riêng mình. Như cũng được
tuyên bố trong ‘Gurupuja’:
Tất cả những cánh cổng đến nhược điểm là thông qua việc tự yêu mến (
tự ái),
Tất cả những phẩm chất
tích cực căn bản là
Thông qua việc yêu mến những bà mẹ của
chúng ta.
Hiện trạng của
chúng ta trong
hiện tại là một kết quả của sự tự yêu mến chính mình một cách mãnh liệt và sự
bỏ rơi những người khác. Bây giờ
chúng ta đang
đi theo Đức Phật thứ tư,
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, và
chúng ta đã gặp
giáo huấn Đại Thừa. Một cách
đặc biệt nhất,
chúng ta đã được
giới thiệu con đường hoán đổi chính mình vì người khác, được trao truyền bởi
Tôn Giả A Xà Lê Long Thọ, căn cứ trên sự hướng dẫn được Ngài
Văn Thù Sư Lợi chỉ dạy cũng như từ
truyền thừa của
Tôn Giả Tịch Thiên (Shantideva).
Vì thế, ngay bây giờ,
chúng ta nên nhìn lại những
chướng ngại từ mỗi góc cạnh và
từ bỏ thái độ tự yêu mến của
chúng ta.
Chúng ta nên nhìn ở những phẩm chất yêu mến người khác từ mỗi khía cạnh và
thực tập nhiều như mình có thể để luyện tập
tâm thức chúng ta trong việc hoán đổi chính mình vì kẻ khác. Nhầm
tăng trưởng động lực của
chúng ta để hoán đổi chính mình cho kẻ khác trong
hình thức của
thực tập,
Hãy
rèn luyện để cho và nhận
luân phiên nhau;
Chuỗi nối tiếp của sự nhận nên bắt đầu từ chính mình.
Hãy
sắp đặt cả hai trong
hơi thở của mình
Điều
liên hệ cho sự
thực tập này là từ ‘Hướng Dẫn
Lối Sống của
Bồ Tát trong Cuộc Đời’:
Chúng ta nên
thực tập điều
bí mật thánh thiện ấy.” Như được nói rằng
chúng ta nên suy tư về nổi khổ đau không ai muốn ấy của
chúng sinh, và nên nguyện ước, bằng
lời nói và
cảm xúc, để mang lấy khổ đau của kẻ khác qua
lòng từ bi.
Chúng sinh thiếu
hạnh phúc trong
hiện tại, mặc dù họ khao khát nó, do thế
chúng ta nên
rèn luyện tâm mình để dâng
hiến thân thể,
tài sản, và tất cả những hành động
lành mạnh của ba cánh cửa – đúng ra là, bất điều gì
chúng ta có – với lòng
yêu thương đến những
chúng sinh tàn tật và
thiếu thốn hạnh phúc. Đây là điều được biết như là sự
thực hành tong-len. Trong ‘Gurupuja’, nói rằng:
Đạo sư từ bi, nguyện tất cả những khổ đau,
Chướng ngại và
hành vi tiêu cực của bà mẹ (của)
Chúng sinh được
chín muồi trong tôi một cách
hoàn toàn.
Bằng sự
ban cho hạnh phúc và những hành động
lành mạnh của tôi đến cho những kẻ khác,
Nguyện cho tất cả
chúng sinh được
gia hộ trong
an lạc.
Và như được nói trong ‘Tràng Hoa Quý Báu’:
Nguyện cho tôi được
chín muồi bằng sự khổ đau của họ.
Nguyện cho những
hành vi thánh thiện của tôi được
chín muồi trên họ.
Chúng ta phải
rèn luyện trong cách này và vì thế nên
học hỏi theo những dòng này:
Điều
thực hành của
Bồ Tát là để dấn thân trong sự hoán đổi thật sự
an lạc của họ vì khổ đau của kẻ khác.
Chúng ta đạt được không chỉ
an lạc cơ bản mà cũng là
hạnh phúc trong ngắn hạn qua
rèn luyện trong
tâm giác ngộ (bodhicitta) và
thực hành sự
trao đổi chính mình cho kẻ khác.
Trái lại nếu
chúng ta khăng khăng giữ lấy trong
thái độ tự yêu mến và không
thực hành sự hoán đổi chính mình cho kẻ khác,
chúng ta sẽ không
đạt được bất cứ
an lạc tạm thời nào, không nói chi đến
đắc nhập niết bàn và
trạng thái toàn giác. Nhầm để
chứng minh chân lý này, điều đã được nói rằng:
Nếu một người không hoán đổi
an lạc của mình
Cho khổ đau của người khác, kẻ ấy sẽ
Không
trở thành bậc
giác ngộ và sẽ không nếm được
An lạc ngay trong cõi
luân hồi này.
Chú thích:
(3) Một người con
thông tuệ, như
kim cương, nền tảng như chỗ tựa của một quả núi
vững vàng, một người
phụng sự, một cầu thang, một con chó
giữ nhà, một cây chỗi, một người bạn tốt.
(4)
Tự tại với
phiền não và
sở tri chướng.
(5) Năm điều
vững chắc là năm đặc trưng xác định của
Báo Thân Phật có tên là:
1- Về
vị trí: các ngài này luôn luôn ngự trong
Phật giới trang nghiêm rực rở được biết là ‘vô thượng giới’.
2- Về
thân thể: các ngài luôn luôn
trang nghiêm với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
3- Về
thời gian: các ngài sống
cho đến khi nào cõi
luân hồi vẫn còn có
chúng sinh.
4- Về
giáo lý: các ngài luôn luôn giảng dạy
Giáo Pháp Đại Thừa.
5- Về
đệ tử: các ngài giảng dạy không thay đổi trong một sự vây quanh của hàng Thánh
đệ tử Bồ Tát.
(6)
Phiền não chướng và
sở tri chướng.
(7) Những phẩm chất không
ô nhiễm của những bậc
Thánh giả.
(8)
Thời đại hiện hữu khi
chúng sinh sống đến 80.000 tuổi.
(9) 1-
năng lực của
hối quá; 2-
năng lực của sự
tin tưởng Tam Bảo; 3-
năng lực của
sức mạnh đối lập (đến
phiền não, chẳng hạn như
kinh hành nhiễu Phật, lạy phủ phục, và trì tụng
chân ngôn); 4-
năng lực của hứa nguyện (promise) hay
chí nguyện (commitment) - - - { thứ ba là
thệ nguyện(vow)}.
(10)
tam giới(11)
Niết bàn hay
trạng thái giải thoát đem đến sự
tự do nội tại, nhưng những
cá nhân giác ngộ tiếp tục thực hiện chức năng trong sự
liên hệ với những
hiện tượng bên ngoài, cả
chúng sinh và những đối tượng.