Phần 2

21/07/201112:00 SA(Xem: 10924)
Phần 2

11. ĐÔNG THẤT THIỀN SƯ VÀ TÂY THẤT THIỀN SƯ

Này các huynh đệ,

 Hôm nay đây, Thầy kể câu chuyện này để các con suy ngẩm, rồi đem áp dụng trên đường tu tập của mình. Câu chuyện ngụ ý khuyên ta thúc liễm thân tâm, không màng dính mắc sai lầm danh lợi. Câu chuyện này của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu kể cho Thầy nghe năm xưa. Câu chuyện ấy như thế này:

Từ ngày kế vị vua cha, bốn năm liền bận rộn việc triều chính quốc sự, vua Lý Thái Tôn không có thì giờ để đi vãng cảnh, hành hương viếng chùa lễ Phật.

Tuy vậy, nhà vua lúc nào cũng nhớ đến Viên Chiếu Quốc Sư, bậc thầy đạo hạnh đã dạy dỗ mình từ thuở bé, khi còn là Thái tử. Mặc dù giờ đây nhà vua ở trong cung điện ngai vàng, ngày ngày kẻ hầu người hạ, kẻ bái người tâu, kẻ quỳ người mọp. Mỗi bước đi có tiền hô hậu ủng. Hằng ngày nhà vua thưởng thức những thứ cao lương mỹ vị không thiếu món gì.

Khi mới lên ngôi, mỗi lần ngự triều, ngồi trên ngai vàng, bá quan văn võ hầu chào, xưng hô vạn tuế, vua Lý Thái Tôn cảm thấy oai vệ thích thú. Nhưng cái cảm giác thích thú này sau đó chẳng bao lâu chai dần, rồi từ từ nhường chỗ cho ý niệm nhàm chán. Tuy sống trong những ngày vàng đêm ngọc, chăn êm nệm ấm, lâu đài cung điện nguy nga, cung phi mỹ nữ hát xướng múa ca, nhưng lắm lúc nhà vua vẫn cảm thấy mình bị ràng buộc bởi nghi lễ, phát sanh cảm giác tù túng, tưởng chừng như bị giam hãm ràng buộc bởi triều nghi áo mão cân đai.

Nhà vua nhớ tiếc thời kỳ trẻ thơ, thuở còn là Thái tử ở chùa theo học với thiền sư, ngày ngày luyện văn tập võ, thong dong với núi rừng hoa lá, vui với cá lội hồ sen, tươi cười với chim muông ca hát trên cành cây cổ thụ, gió mát hiu hiu tuỳ thích nằm ngủ ngon lành dưới gốc cây, trên vườn cỏ, dưới hiên chùa, bất cứ chỗ nào. Ngày ngày sống bên cạnh sư phụ uy nghi từ bi điềm đạm với những lời khuyên nhủ hiền hòa mát dịu gọt ngào. Những lời dạy dỗ như rót chảy sâu vào tâm cang huyết quản, cho đến bây giờ tuy đã làm vua mà vẫn còn ghi nhớ rõ ràng. Mỗi lần nhớ đến thuở thiếu thời nơi chốn thiền môn, nhà vua cảm thấy tâm hồn êm đềm mát dịu làm sao!

Đã bốn mùa Phật Đản, nhà vua không thu xếp nổi thì giờ để thân hành đến dự lễ, lòng cảm thấy như thiếu sót một điều gì lớn lao nhất trong đời mình. Nên Phật Đản năm nay, nhà vua quyết định thế nào cũng phải thu xếp việc triều chính, để lên chùa lễ Phật, thăm sư phụ mình mới được. Nhà vua thèm sống lại cái cảnh trí không khí thanh thản của thời niên thiếu lắm. Nhưng làm sao con tìm được cái tâm trí thanh thản của thời xa xưa trước đây nữa!

Lòng đã quyết, dù việc triều chính bận rộn, nên hôm ấy khi mới vừa rạng đông, khí trời cuối xuân đầu hạ trong lành mát dịu của ngày Phật Đản, nhà vua cùng đoàn tùy tùng ra khỏi hoàng thành, hướng về núi Yên Tử tiến bước. Sở dĩ nhà cua đi chùa sớm như vậy, là vì muốn đến chùa trước khi các thập phương Phật tử đến, để có thì giờ hầu chuyện với Viên Chiếu thiền sư, bậc thầy đã tận tụy đào tạo hướng dẫn mình. Tuy thân ở triều đình, mà lòng lúc nào cũng hằng mong ước được gặp lại sư phụ để hầu chuyện, thỉnh ý về cách trị quốc an dân. Đồng thời nhà vua cũng muốn mình như bao Phật tử khác đến đúng giờ tham dự lễ chánh thức Phật Đản.

Trải suốt mấy dặm đường, tiếp đó phải theo triền núi ngoằn ngoèo đường dốc, nhà vua đã đến núi Yên Tử như thời gian dự định. Nhà vua gặp thiền sư với niềm hoan hỷ trong đạo tình sư đệ, trong chén trà đạo vị, trong tinh thần tri kỷ, trong cùng ý nghĩa thương nước thương dân, thương đạo. Tuy bây giờ là vua, nhưng đối với Viên Chiếu thiền sư, nhà vua lúc nào cũng một niềm tôn kính là bậc thầy.

Nhà vua và thiền sư trong tình sư đệ qua câu chuyện, thiền sư bày tỏ tâm sự với nhà vua : "Tôi không còn bao lâu nữa, thân tứ đại này sẽ hoàn trả lại bổn nguyên của nó. Việc đạo việc đời đều nhờ ở vua". Vua vừa nghe lời ấy, lấy làm bùi ngùi xúc động vô cùng, như cây cổ thụ xum xê muông chim đoàn tụ ngày ngày hót vui, nay bỗng nhiên khô cành trốc gốc. Như mặt trời sắp lặn, hoàng hôn kéo về phủ lên vạn vật tối tăm.

Thế rồi chẳng bao lâu sau đó, vào một đêm mùng tám trăng lưỡi liềm, ánh trăng mờ bạc trải trên vạn vật, thiền sư gọi hai người đệ tử tâm phúc vào tịnh thất căn dặn: "Thầy sắp trở về nguyên quán. Thầy hòa đồng vạn thể pháp thân. Sự nghiệp hoằng pháp độ sanh của Thầy, nay trao lại cho hai con. Giờ đây thầy trao cho hai con, mỗi người một ngọn đèn tuệ, để soi sáng bản tâm, đi trọn hành trình trở về bản thể". Căn dặn xong, thiền sư trao tận tay hai người đệ tử của mình mỗi người một cây đèn và căn dặn: "Các con nhận lấy đèn tuệ này, mỗi khi tọa thiền nên để ngay trước mặt, nhìn thẳng vào ngọn đènquán tưởng thì một ngày nào đó tuệ tâm khai ngộ". Căn dặn xong, Viên Chiếu thiền sư ngồi kiết già an nhiên viên tịch.

Chẳng mấy chốc tin viên tịch của Quốc sư Viên Chiếu đồn ra muôn nẻo đường. Khắp đó dây, từ vua cho đến quan dân đều tựu tề về núi yên Tử để dự lễ trà tỳ. Sau lễ trà tỳ sư phụ xong, hai người đệ tử nhất mực từ chối không chịu nhận chức vị viện chủ trụ trì kế nghiệp thầy mình để lo cơ sở già lam cổ tư. Mỗi người xin được tĩnh tu ở hai tịnh thất phía Đông và phía Tây triền núi, hầu có nhiều thì giờ chuyên tâm thiền quán. Được người thời bấy giờ thường gọi là Đông thất thiền sư và Tây thất thiền sư.

Mỗi lần ngồi thiền, nhớ lời thầy di chúc, Đông thất thiền sư cũng như Tây thất thiền sư đều để ngọn đèn dầu trước mặt làm đúng như lời trước khi thầy nhắm mắt viên tịch căn dặn. Từ đấy, Đông thất cũng như Tây thất thiền sư đều giữ vẻ trầm lặng, ngày ngày chìm sâu vào núi rừng tịch mịch. Trong cái không khí thanh tịnh tĩnh lặng, dứt bặt âm thanh của người trần thế, ngày ngày không một bóng người lai vãng, cuộc sống thanh bần nhưng thật êm đềm giải thoát của hai tăng nhân có lúc như hòa mình cùng với vũ trụ. Đêm đến, các loài thú rừng từ các nơi tựu về, quấn quít bên tịnh thất của hai ngài. Có những đêm trăng sáng hươu nai đến quào cửa tịnh thất của Đông thất thiền sư và Tây thất thiền sư, chúng kêu ư ứ hòa với những tiếng kêu ríu rít của loài hươu nai thỏ vượn, như để mời mọc hai thiền sư ra cùng vui chơi với chúng.

Biết rõ điều đó, thiền sư xả thiền, dịu dàng đỡ cánh cửa lá bước ra. Lạ thay, vừa thấy thiền sư, loài thú rừng vẫy đuôi kêu ríu rít. Có lúc những thớt cọp beo rằn rện hiền lành nằm mọp, vẫy đuôi với đôi mắt sáng như lằn điện xẹt. Thiền sư vuốt nhẹ lên lưng những con vật. Giữa cảnh đất trời bao la, giữa tình người và muôn loài hoang dã cùng hòa điệu, thật là thân mật hữu tình "tình dữ vô tình đồng viên chủng trí".

Có những đêm tối trời tuyết sương băng giá phủ đầy, thiền sư vẫn nghe có tiếng động nhẹ bên ngoài. Sáng hôm sau khí trời quang đãng, thiền sư mở cửa bước ra, thấy ở trước sân thiền thất còn lưu lại những dấu chân của những thú rừng cùng với những trái cây rừng ngon ngọt.

Đông thất thiền sư và Tây thất thiền sư lặng lẽ tĩnh tu gội rửa tâm tư, chuyên tu tịnh nghiệp. Trải thời gian tháng năm, phần lớn nhờ trái cây rừng của loài thú mang đến cúng dường mà hai thiền sư độ nhật qua ngày.

Hai thiền sư chuyên tu tịnh nghiệp thâm sâu, phước đức cao dầy đã cảm hóa đến muôn loài. Tiếng đồn xa, ngoài nhân gian người người kính ngưỡng. Trong triều nội vua chúa thần quan ai nấy cũng đều mến mộ đạo hạnh của hai ngài.

Để cho vua và đình thần chiêm ngưỡng đức tướng, nghe đạo thiền thấm nhuần pháp nhủ, nhà vua cho sứ giả tìm đến tận núi, gõ cửa tịnh thất thỉnh thiền sư về triều. Đông thất thiền sư im lặng bất động, khéoléo chối từ. Tây thất thiền sư trước những lời ca ngợi đức hạnh, tha thiết thỉnh cầu của sứ giả, đã nhận lời vua thỉnh, về triều thuyết pháp, đàm thiền cho vua, hoàng tộc và quần thần nghe. Tây thất thiền sư nhờ tu mà được chút huệ, nên thông đạt lý đạo lẽ thiền, thuyết pháp hóa duyên được vua và triều thần trọng vọng. Từ đó, thỉnh thoảng nhà vua cho sứ giả lên núi thỉnh Tây thất thiền sư về triều thuyết pháp cúng dường

Vì cung nhơn mến mộ thỉnh cầu, nên có những lúc Tây thất thiền sư lưu lại trong triều thời gian suốt tháng. Những thời gian lưu lại này, thiền sư được trọng vọng hầu hạ cúng dường rất mực. Thiền sư lại có dịp tiếp xúc với nhiều bá quan văn võ đại thần và hoàng hậu.

Sau những thời gian ngắn lưu lại hoàng cung như vậy rồi. Tây thất thiền sư trở về tịnh thất tiếp tục việc tu hành. Cũng theo như thời khắc hành thiền đã định. Cũng vẫn ngồi thiền đối diện trước ngọn đèn của thầy Bổn Sư truyền trao khi viên tịch. Nhưng bây giờ tham thiền, tâm không còn kiên cố định tỉnh phẳng lặng như dòng nước trong mát quán chiếu cội nguồn tâm linh như những ngày trước nữa. Trái lại, sự tĩnh lặng của dòng tâm thức bị đứt quãng bởi những hình ảnh cung miếu triều vua, lâu đài lộng lẫy, vua quan đại thần, cung phi mỹ nữ diễm lệ hát xướng, yến tiệc thịnh soạn linh đình, kẻ hầu người hạ dưng cúng trịnh trọng v.v..., những hình ảnh này cứ phút chốc hiện lên rõ rệt, xen tạp vào dòng tâm thức niệm Phật thiền quán của thiền sư. Thiền sư muốn dứt bỏ tức khắc, bỏ hết tất cả những hình ảnh tạp loạn đó, để cho dòng tâm thức niệm Phật thiền quán thật phẳng lặng trong mát như ngày trước. Nhưng không dễ gì! Thiền sư ngồi hối tiếc suy nghĩ bâng khuâng, muốn tìm lại sự phẳng lặng của tâm hồn thuở trước, nhưng khó quá!!! Rồi ngày lại qua ngày, thiền sư tiếp tục phấn khởi nhận lời cung thỉnh của nhà vua về triều giảng kinh luận đạo.

Sau mỗi lần ở triều về lại tịnh thất, thiền sư cũng vẫn tiếp tục cố gắng tĩnh tâm niệm Phật tham thiền. Nhưng hình ảnh phú qúy của triều đình chiếm mất sự an lành thanh tịnh trong mát của dòng tâmniệm Phật thiền quán. Cứ thế, hai trạng thái động tĩnh trong cùng một con người của Tây thất thiền sư, cùng một cõi lòng muốn tịnh mà cứ động, tự nhiên dằng co xung đột. Trong lúc đó, Đông thất thiền sư vẫn im lìm trong tịnh thất, tinh tấn chuyên cần, tâm trí mỗi ngày một khai thông, huệ tâm tăng trưởng.

Rồi vào một đêm nọ, trời đất bỗng nhiên mịt mù, lớp lớp mây đen tối tăm bao phủ, mưa giông sấm sét, chốc chốc làn chớp sáng lòe như xé tan màn tối dầy đặc bao phủ trời đất, tiếp theo những tiếng gầm sấm sét như nổ tung tư thế tham thiền, thân thể bất động, nhưng nội tại tâm tư rộn ràng, đang cố tìm lại dòng tâm thức thanh tịnh tĩnh mát lành năm xưa. Trong lúc đang tịnh tâm thiền quán, bỗng Tây thất thiền sư mơ màng thấy trong bóng tối lù lù hiện ra một con quỷ lông lá dựng ngược, mắt to đỏ ngầu như máu, nhe răng nhảy đến vồ lấy thiền sư. Thiền sư hoảng hốt, đứng dậy, tung cửa tịnh thất vụt chạy ra ngoài làm cho ngọn đèn dầu ngã đổ, lửa theo vết dầu loang phừng cháy, không mấy chốc tịnh thất tranh lá thiêu rụi thành tro.

Giữa cơn mưa đổ, giông tố sấm sét, lửa cháy phừng phừng, Tây thất thiền sư hoảng hốt một mình cắm đầu chạy, thỉnh thoảng ngoái cổ nhìn lại phía sau, vẫn thấy con quỷ dữ nhe răng miệng máu hùng hổ rượt theo, như muốn ăn tươi nuốt sống mình. Do đó, Tây thất thiền sư lại càng sợ hãi, cố chạy trốn. Nhưng càng chạy càng thấy phía sau con quỷ cứ rượt đuổi nạp theo. Kiệt sức mệt lả cả người, áo quần ướt át tả tơi, thiền sư hết đường, liền chạy chui vào núp giữa mấy hàng lu tương lớn của một ngôi chùa này vừa mới bị trộm. Tăng chúng trong chùa thức dậy đang lùng tìm bắt kẻ gian. Nhưng kẻ gian đã mau chân co giò chạy thoát từ lúc nào rồi. Mà nhà chùa sợ kẻ trộm còn ẩn núp đâu đây, nên tăng chúng trong chùa phân chia nhau từng toán đi lục soát kỹ, trước khi đi ngủ lại.

Thì bất ngờ, một vị tăng thấy một người áo quần ướt tả tơi, ngồi co ro trong hốc tối giữa mấy hàng lu tương. Một tiếng tri hô: Kẻ trộm đây rồi! Nó đây! Mọi người tay sẵn cầm cây, gậy, chổi, thùng, đổ xô đến chỗ có tiếng tri hô, nhanh như chớp dùng thế quyền bắt trói đánh đập nhừ tử, rồi mang nộp lên quan. Quan tra hỏi, Tây thất thiền sư tình thật, nhứt mực khai không có. Tự nói mình chính là Tây thất thiền sư, thầy của vua. Thế rồi quan huyện nhứt mực cho kẻ gian dám phạm thượng hổn láo đáng chết, nên lại càng ra lệnh tra tấn nặng nề. Bấy giờ thân thể của Tây thất thiền sư bầm sưng nhức nhối. Sau đó quan huyện trình tâu tự sự lên vua. Vua lấy làm lạ cho đòi mang kẻ gian về triều xét xử.

Mới nhìn, nhà vua thấy kẻ trộm mình mẩy mặt mày sưng bầm, áo quần bụi bặm rách nát tả tơi, thật là thê thảm! Nhìn hồi lâu nhà vua rất đổi ngạc nhiên, nhận ra phạm nhân này không ai khác, chính là Tây thất thiền sư! Không cầm lòng xúc động, nhà vua cũng như thiền sư hai cõi lòng cùng một nhịp thông cảm xúc động xót xa. Bốn mắt nhìn nhau im lặng, nước mắt tuôn trào thành dòng trên má cả hai. Nhà vua càng nhìn thân hình tồi tàn của thiền sư, càng ngạc nhiên không hiểu nỗi do nguyên cớ nào đưa đẩy nhà tu đến nông nỗi này.

Nhà vua càng nhìn thiền sư với đôi mắt tìm hiểu, thương hại, thì sự hổ thẹn sâu kín tự đáy lòng lại càng chế ngự cả tâm não thiền sư. Lúc đó, Tây thất thiền sư chỉ còn biết cúi mặt xuống đất im lặng lắc đầu xấu hổ tự trách, như để dòng tâm tư xuôi chảy về quá khứ. Quãng đời tu học đã qua, trải từng giai đoạn, từng giai đoạn hiện ra rõ rệt, từ thuở thơ ấu xuất gia theo thầy học đạo, được thầy trao truyền đèn tuệ cho đến ngày nay phải ra nông nỗi này! Tất cả những hình ảnh đó đều rõ ràng hiện ra trong tâm não, sống động như mới ngày nào đây, và chưa bao giờ rõ rệt như lần này. Rồi nghĩ đến người sư đệ của mình, Đông thất thiền sư bây giờ vẫn sống an lành tĩnh lặng tịnh tâm niệm Phật tham thiền. Tây thất thiền sư vô cùng hối hận, mình đã vọng tâm vướng mắc lợi danh mà không hay biết, để thân phải đọa đày, lặn sâu vào hố thẳm như thế này!

An tĩnh trong tịnh thất tham thiền, Đông thất thiền sư biết rõ hết mọi việc xảy ra của người sư huynh mình. Thiền sư chỉ còn biết thương xót nguyện cầu cho Tây thất thiền sư sớm hồi đầu tỉnh giác, dừng chân xa dần liên hệ với chỗ phú quý quyền uy, để trở lại đời sống thanh bần lạc đạo.

Sau khi nghe Tây thất thiền sư kể hết đầu đuôi sự tình đã xảy ra, nhà vua cảm động thương tâm, Tây thất thiền sư được giải oan và nhà vua mời lưu lại triều đình để lo thuốc thang chữa trị những vết thương trên mình, và cũng để cúng dường y áo đồ dùng, rồi đưa thiền sư về núi. 

Khi trở lại núi, Tây thất thiền sư nhìn tịnh thất của mình bây giờ chỉ còn là đống tro tàn! Thiền sư nhìn trời, nhìn đất, hướng vọng nhìn về ngôi già lam cổ tự của thầy mình, nơi đó ghi dấu hình bóng của thầy. Cũng chính nơi đó, vào những năm trước đây, ngày ngày mình hầu thầy học đạo, sớm chiều thời khóa tụng niệm, sống vô tư vô lự, vui với hoa lá cỏ cây chim muông thú rừng. Tâm hồn giải thoát làm sao!

Dòng tâm tư cứ tiếp tục như cuộn phim hiện về mỗi lúc một rõ ràng, thiền sư ngồi trên tảng đá trầm tư. Giờ đây, thân thể tâm niệm mình đã xa đạo ngàn dặm lắm rồi! Lời thầy căn dặn năm xưa trong đêm sắp viên tịch như phai mờ trong tâm thức! Đèn tuệ của thầy trao cho, giờ đây đã cháy thành tro! Mất hết tất cả! Tất cả đều không! Thiền sư khẻ lắc đầu than thở, nhìn đống tro tàn tự trách do mình quá ám muội nên mới ra nông nỗi, tịnh thất bỗng chốc thành đống tro bụi! Bản tâm mông muội thiêu rụi hết công đức giải thoát. Con đường giác ngộ hẳn còn chơi vơi mịt mù. Đối với đường tu thua xa sư đệ ta quá rồi!

Trời chưa tối hẳn. Trăng rằm vào cuối tiết hạ sang thu, ánh trăng trải sáng khắp trên cành cây ngọn cỏ núi đồi. Rồi đột nhiên thiền sư đứng phắt dậy, đi về hướng tịnh thất của người sư đệ, Đông thất thiền sư. Tịnh thất vẫn im lìm. Hàng trúc vẫn đứng nên thơ như thuở nào, thỉnh thoảng lay nhẹ theo chiều gió. Bên trong tịnh thất, Đông thất thiền sư vẫn tĩnh tọa tham thiền. Tây thất thiền sư cảm thấy không khí nơi đây thanh tĩnh lạ thường, như đang thấm sâu vào lòng mình làm tăng thêm cảm giác mát nhẹ thư thới.

Không dám kêu cửa, Tây thất thiền sư đi vòng quanh tịnh thất của Đông thất thiền sư mấy lượt, lòng Tây thất thiền sư bồi hồi nôn nao, rất mong sao sớm được diện kiến với người sư đệ mình.

Đông thất thiền sư đang tham thiền biết rõ tâm trạng của sư huynh xao xuyến, nên xả thiền, đỡ nhẹ cánh cửa lá bước ra trước hiên tịnh thất, với gương mặt thanh thoát hân hoan đón chào người sư huynh của mình, lâu ngày mới gặp.

Tình huynh đệ gần nhau trong ánh sáng đạo, dưới ánh trăm rằm tháng tám, trong làn gió mát dịu của núi rừng, giữa khoảng trời bao la tịch tĩnh, Tây thất thiền sư hướng tâm hồi quang phản chiếu, nguyện sống đời lạc đạo bần tăng.

Để kết luận câu chuyện trên đây, xin mượn lời vua Trần Thái Tôn, một vị thiền tổ Việt Nam đời Trần:

"Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách

nhứt vãng gia hương vạn lý trình".

Tạm dịch:

"Một thuở ra đi trong cát bụi

Ngàn năm mất dấu bóng về quê".

Vậy các huynh đệ phải nên cẩn trọng giữ mình trong từng giây phút. Nếu sai một ly sẽ đi xa ngàn dặm. nên thận trọng giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, như thận trọng giữ gìn đôi mắt mình để không bị rác bụi làm xốn xang.

 

 

 

12. CỘI NGUỒN KHỔ LỤY

Kính thưa quý Phật tử,

Đạo Phật là đạo cứu khổ. Nếu đời không khổ thì không có đạo Phậtthế gian này. Cũng như nếu mọi người sanh ra đều biết đọc biết viết hết thì không cần có nhà trường thầy giáo làm gì. Vì muốn hết dốt nên phải có thầy giáo, trường học. Cũng vậy, vì muốn chúng sanh giác ngộ giải thoát an vui mà Đức Phật mới ra đời. Vậy cội nguồn khổ lụy của kiếp người từ đâu?

Lần đầu tiên tiếp xúc với đời, Thái tử Tất Đạt Đa đã chứng kiến cảnh khổ của kiếp người bị bao bọc bởi bốn bức tường kiên cố muôn đời : Sinh, già, bệnh, chết ràng buộc chặt chẽ suốt cả kiếp sống.

Đã có thân thì phải lăn lộn với đời tìm kế sinh nhai để nuôi dưỡng xác thể. Dù cho bất cứ loài nào trong chúng sanh, hễ đã mang thể xác theo nghiệp thức của nhịp tim bóp thắt, tình cảm vui buồn, đều phải khổ lụy buộc ràng với xác thân theo nỗi thăng trầm buồn vui với bốn bức tường sanh, già, bệnh, chết.

Mãi lo cơm ăn áo mặc nhà ở, danh lợi, ái ân cũng là bắt đầu của sự thắt gút buộc ràng khổ lụy. Ngày tháng trôi qua, theo với thời gian năm tháng, thân này tàn tạ già nua suy yếu là khổ. Một khi thân thể mình cũng như thân hình của những người mình thương mến tàn tạ, già nua bệnh hoạn, thì mình cũng mang một tâm trạng buồn tiếc lo âu.

Sanh con là khổ. Khi chúng còn nhỏ phải lo chăm sóc bú mớm, thay tã, đút cơm, giặt giũ cho chúng. Lúc chúng đau ốm, hay nổi chướng nghịch ngợm, thì cha mẹ buồn khổ. Khi lớn lên phải lo sắm sửa cho chúng ăn học. Kịp đến khi chúng khôn lớn nên người thì dù trong hoàn cảnh nghèo khó, cha mẹ vẫn phải chạy lo dựng vợ gả chồng. Khi được hạnh phúc thì chúng hưởng, nhưng khi cơm chẳng lành, canh chẳng ngon thì cha mẹ phải lo âu sầu sầu não. Lo cho con chưa hết, tiếp đến lo cho cháu. Cứ thế lo mãi lo hoài suốt tháng năm, suốt trọn cả cuộc đời, cho đến hơi thở cuối cùng vẫn còn lo. Nỗi lo lắng cho con cho cháu, lắm lúc quên cả nỗi cơ cực của chính bản thân mình. Con người vì quá lo âu cho tình thân máu mủ, lo âu đủ thứ việc ân tình mà xa dần bản tánh thiện tâm của mình. Nhà thơ đã nói về sự lo âu đắm đuối ân tình lợi danh ràng buộc của người đời:

Luyến luyến mê mê chuyện thế gian,

Lợi danh tình ái khéo đa mang,

Bao giờ dứt bỏ tình danh lợi,

Là bước gần bên ánh đạo vàng.

Nếu con người quả quyết dứt khoát sự ái ân ràng buộc tình đời, thì ngay lúc đó, con người được sống trong thảnh thơi giải thoát. Con người cảm nhận được cái thanh tịnh ngọt ngào của giòng suối mát thanh lương của tâm hồn, giờ nào dứt khoát trừ bỏ lo âu ân tình là giờ đó sống trong ánh sáng bình minh giác ngộ tự tại. Nhà thơ đã nói người dứt bỏ được cái đam mê chìm đắm dục lạc của đời, là người mở cửa giải thoát, tiếp nhận được nguồn sống thanh thản của đạo vàng giác ngộ:

Đắm đắm say say chuyện thế trần,

Lợi danh tình ái buộc ràng thân,

Bao giơ dứt bỏ tình danh lợi,

Cửa đạo mừng ai đã đến gần.

Lại có những bậc cha mẹ, ngoài cái khổ thân xác làm lụng chụp bắt vất vả ra, còn phải tranh đua giành dụm, luồn cúi để cho con mình có được bằng cấp nọ, chức vụ kia, việc làm tốt. Thậm chí vì những thứ danh lợi này mà cha mẹ phải nhịn ăn nhịn mặc, tạo đất mua nhà để của cho vợ con. Mãi suốt đời lo cho chồng, cho vợ, cho con, cho cháu, đến giờ phút quờ quạng trút hơi thở cuối cùng vẫn còn lo. Lo cơm nước. Lo áo quần. Lo bằng cấp. Lo danh vọng. Lo con hết đến lo cháu. Ôi thôi trùng trùng lớp lớp lo âu! Lo mà quên đi đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, thân đã kiệt sức! Nhưng cuối cùng được đền đáp lại bằng những gì? Chắc quý vị đều biết rõ hơn ai hết!

Nước bao giờ cũng chảy xuống. Con mình thường thì nó thương lo cho vợ, cho chồng, cho con, cho bạn bè. Phần đông là chúng nó bỏ phó mặc cho cha mẹ già sống sao thì sống. Có được mấy người con trên đời bỏ vợ để ở gần phụng dưỡng mẹ cha? Có ai trên đời bỏ lợi danh bạn bè để về phụng dưỡng cha mẹ già? Phần đông con cháu nếu chúng còn nhờ cậy được cha mẹ thì còn thân thiết với mẹ cha. Bằng không chắc gì nhà của con, cha mẹ được yên ổn nương thân lâu dài. Suốt trọn một đời lao tâm khổ trí hy sinh tất cả cho con cháu. Đến khi con cháu có bằng cấp sự nghiệp, lúc đó cha mẹ đã già, chỉ còn là những tấm thân tàn tạ, ngày ngày mong mỏi sự an ủi từ những món quà, những cánh thư của những đứa con, nhưng những hy vọng này thật là mỏng manh! Kết quả lòng cha mẹ héo mòn theo năm tháng đợi trông! 

Lại có những bậc cha mẹ già nua yếu gầy, sống qua ngày bằng những niềm tin cầu nguyện, chỉ mong con mỗi cuối tuần chủ nhựt nghĩ tưởng về giúp đỡ phương tiện chở đi chùa viện nghe kinh thuyết pháp, hầu để tu bồi phước đức, an ủi tuổi già, nhưng niềm ước ao nhỏ này cũng chỉ mong manh, khi có khi không.

Cha mẹ già yếu, thỉnh thoảng nhờ con giúp đỡ chút ít tiền bạc gọi là an ủi báo hiếu, thì được con đáp rằng, lúc này "kẹt quá" đi thôi! Trong lúc đó chồng vợ con cái chúng nó sắm sửa ăn mặc se sua! Chủ nhật nhờ chở ông bà già đi chùa nghe kinh cầu nguyện kiếm phước thì nó bảo rằng bận việc, mắc hẹn, kẹt lắm! Muốn đi thì tự lo lấy mà đi. Trong lúc đó chồng vợ con cái thì hồ hỡi dẫn đi shopping mua sắm, đi núi, dạo biển, rong phố. Cha mẹ già muốn cúng dường Tam Bảo, làm việc phước thiện, in kinh ấn tống, mua thú vật phóng sanh để vun trồng cội phúc, thì con cháu lại thấy vậy bất bình rầy la cho là ông bà già phung phí lẩm cẩm! Cha mẹ già có phát tâm niệm Phật ăn chay tu tâm dưỡng tánh, thi con cháu cho là mê tín lỗi thời, nói xa nói gần, hạch sách nặng nhẹ châm biếm phá phách làm cho cha mẹ không yên tâm.

Tóm lại, từ khi con còn bé thơ trong tay mẹ, cho đến khi lớn khôn lập thành gia thất, lúc nào cha mẹ cũng lo sợ con buồn, chìu con. Đến khi con khôn lớn, nhièu khi cha mẹ muốn làm việc phước thiện, cúng dường Tam Bảo mà phải lén lút dấu con. Quý vị thấy bao nhiêu nỗi khổ của tâm của thân mình, sanh già bệnh chết lúc nào cũng thúc bách ép ngặt trước mặt. Thêm vào đó, những nỗi buồn lo thưong ghét của con cháu quyến thuộc trói buộc lấy mình. Nội tâm phiền lo, ngoại cảnh thúc bách. Đức Phật gọi đó là khổ khổ. Nghĩa là nỗi khổ bên trong của bản thân và nỗi khổ bên ngoài của hoàn cảnh chất chồng lên, mà con người vẫn bằng lòng nhận chịu, không muốn tìm một cuộc sống an lành trong chốn già lam thanh tịnh, dưới hào quang Phật đài để được giải thoát!

Mặc dù đang phải sống trong tình trạng phó mặc của con cháu, nhưng thật tội nghiệp các bậc cha mẹ không muốn để người ngoài biết cười chê. Cha mẹ lúc nào cũng khoe khoang với mọi người, nào là con tôi mấy đứa học Tây học Mỹ, có bằng cử nhân tiến sĩ, hiện giờ chức nọ chức kia. Con tôi có hiếu lắm! Thật là tội nghiệp cho những bậc cha mẹ khi thốt ra những câu nói giả tạo trong cảnh ngộ sự thực phủ phàng! Nói khoe khoang như thế để đỡ hổ thẹn với mọi người, để đỡ khổ tâm với chính mình! Nhiều lúc an ủi với những hư danh đó, mà thật sự trong lòng âm thầm chua xót cho thực trạng tình cảnh của mình!!!

Suốt đời vì lo cho mình, vì lo cho gia đình con cháu mà phải lam lũ, nhịn ăn nhịn mặc, lắm lúc dối gạt để dành dụm tiền bạc cho con. Nhưng được gì, thưa quý bậc cha mẹ già? Thực tế, con cháu hưởng mà nghiệp tội riêng mình mang. Khi sống thì con cháu lơ là. Đến khi chết, nếu may mắn gặp những đứa con biết nghĩ đến cha mẹ thì còn đến chùa làm tuần thất trai chay để cầu siêu độ. Bằng như vô phước gặp phải những đứa con vô đạo, không có niềm tin, hoặc theo ngoại đạo, thì cha mẹ vừa chết, chúng chỉ nghĩ đến tiền của, tranh lợi. Đem cha mẹ đi chôn là rồi việc!

Một bà mẹ, một ông cha có thể nuôi một đàn con năm bảy đứa, lo cho chúng ăn học nên người, thành danh phận, chức vị giàu sang, lập thành gia thất. Nhưng một bầy con giàu có danh phận, không chắc gì nuôi nỗi cha mẹ, tuy chúng có thừa dư tiền bạc! Những đứa con này chỉ biết có sung sướng với vợ con, bỏ lơ cha mẹ trong cảnh thiếu thốn, cô đơn tẻ lạnh!

Cho dù gia đình có phước được con thảo cháu hiền hiếu thuận đi nữa, cảnh hạnh phúc đâu có thường thấy mãi. Cổ đức dạy: "Nhứt đán vô thường vạn sự hưu". Một khi con qủy vô thường đến thì mọi việc của đời người đều chấm dứt tan rã. Các bậc thiền đức cũng cảnh tỉnh người đời:

Cha mẹ ân sâu rồi cũng cách,

Vợ chồng nghĩa nặng cũng chia lìa,

Tình đời chẳng khác chim chung ngủ,

Sáng sáng đàn nào nấy tự bay.

Nỗi khổ phiền lụy đè nặng lên kiếp người, trói buộc suốt cuộc sống của chúng sanh đều do ái ân tham luyến. Cha mẹ già yếu bệnh chết là khổ. Con cái bất hiếu vô đạo là khổ. Óan thù không ưa thích mà phải gặp nhau là khổ. Vợ chồng không hạnh phúc là khổ. Bà con không hòa thuận là khổ. Cầu mong điều gì không toại nguyện là khổ. Mình thương người mà người không thương lại là khổ. Làm ơn mà bị trả oán là khổ. Đói cơm khát nước là khổ. Đau yếu tật nguyền là khổ. Chiến tranh tàn khốc là khổ. Thua kém người là khổ. Thân tâm không được thư thái là khổ v.v... khổ là khổ.

Rõ ràng vui ít khổ nhiều. Cái khổ đè nặng lên suốt kiếp người nói sao cho hết? Cái khổ hiện đời là khổ xác thân và tinh thần. Nếu không biết tu tỉnh, vun trồng phước đức, mà lại còn tạo thêm ác nghiệp cho ân ái thân thuộc, cho tham vọng lợi danh, thì chắc không tránh khỏi quả báo nghiệp ác khi bỏ xác thân này. Như thế còn phải chịu khổ và tiếp tục chịu khổ suốt những đời kế tiếp tới trong ba nẻo khổ đau địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh.

Đức Phật nói, nỗi khổ của chúng sanh trong cõi trần thế, nếu có hình tướng thì có thể chất đầy cả địa cầu này. Nước mắt của chúng sanh nếu dồn lại chắc phải nhiều hơn nước trong bốn biển đại dương. Ôn Như Hầu đã chẳng diễn tả nỗi khổ của con người triền miên tiếp diễn tả nỗi khổ của con người triền miên tiếp diễn tự thuở lọt lòng mẹ cho đến hơi thở cuối cùng đó ư? Thi nhân đã nói lên sự thật phủ phàng của kiếp người:

Thảo nào khi mới chôn nhao,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra

Khóc vì nổi thiết tha sự thế

Ai bày trò bãi bể nương dâu

Trắng răng đến thuở bạc đầu

Tử sanh kinh cụ làm đau mấy lần.

Báo hiệu cuộc sống của kiếp người nơi trần thế bằng tiếng khóc chào đời: "Khổ quá, khổ quá" ngay thuở ban đầu lọt lòng mẹ. Và tiếp theo đó là chuỗi dài của những ngày tháng thăng trầm phiền muộn, lo âu dập dồn không biên giới, như khói sóng mù tỏa trên biển cả ngút ngàn, với sóng dồi gió dập man man vô tận, mà con người lặn hụp trong đó không biết bao giờ yên nghỉ. Thi sĩ Đoàn Như Khuê đã hình dung nỗi khổ của kiếp người trần thế qua bài thơ:

Bể khổ mênh mông sóng ngập trời

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi!

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió

Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi!

Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi!

Nổi chìm, chìm nổi biết bao người

Kiếp người nghĩ cũng lênh đênh quá

Qua cánh bèo trôi mặt nước thôi!

Suy ngẫm cho cùng thì kiếp người quá long đong, khác nào như chiếc thuyền nan bé bỏng bồng bềnh trên biển cả, nổi chìm theo lượn sóng đại dương. Con người sống trên cõi đời này thăng trầm dồn dập như thuyền nan trôi trên bể cả. Đời người đã bao lần thăng trầm buồn khổ, và cũng chẳng biết trước từ giả cuộc đời lúc nào. Hơi thở ra mà không thở vào là qua đời khác. Mạng sống đã mong manh lẽ tất nhiên dẫn theo sự nghiệp mong manh, địa vị mong manh, vợ con thân bằng quyến thuộc mong manh, tất cả đều tan hợp như sương sớm đầu cành. Kinh Bát Đại Nhân Giác, điều giác ngộ thứ nhứt của bậc đại nhân, Đức Phật nói: "Thế gian vô thường, nước nhà nguy biến, thân thể khổ không, tâm thức vô ngã ..." Vậy tất cả có gì chân thật đâu?

Phật nào Phật nấy, Bồ Tát nào Bồ Tát nấy tiếp tục xuất thếthường xuyên hóa hiện trong cõi đời khẩn thiết khuyến hóa độ sanh, những mong người đời tỉnh ngộ tu tâm dưỡng tánh để sớm hồi đầu về bến giác, để thoát khỏi luân hồi sanh tử. Nhưng người đời vì vô minh, tham ái, lấy giả làm chơn, nhận giặc làm con, sống theo tình thức ngũ dục, đuổi bắt lợi danh tình ái thế gian bẩn nhơ mộng huyễn, cảnh còn thì vui, cảnh mất thì buồn, mà vẫn mông muội chẳng ý thức cảnh đời vốn đã không thật. Buồn vui theo cảnh trần hợp tan, sống chết trôi lăn theo nghiệp thức dẫn dắt. Thánh nhơn nói: "Lưới lủng chim bay, thần thức theo nghiệp". Kinh Kim Cang, Đức Phật đạy:

Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điển

Ưng tác như thị quán.

Tạm dịch:

Xưa nay vạn vật trên đời,

Bọt bèo mộng huyễn có rồi hoàn không,

Kìa xem điện chớp trên không,

hạt sương buổi sớm đem lòng quán xem.

Người muốn đắc đạo giải thoát, muốn thoát ly đắm nhiễm thế tình khổ lụy thì cần phải quán sát lời Phật lời tổ dạy mà hành trì để thúc liễm thân tâm, phát huy tự tánh, giác ngộ tự tại giải thoát để cùng thể nhập với đại thể Phật tâm.

Luận về khổ, thuở Đức Phật còn ở đời, có bốn vị tỳ kheo mới phát tâm tu học. Một hôm nọ bốn vị tỳ kheo ngồi dưới gốc cây thảo luận về nỗi khổ của kiếp nhân sinh. Một thầy tỳ kheo nói:

- Theo tôi, cái họa hoạn khổ đau nhứt của con người không gì bằng sắc dục. Nếu tâm không đọan trừ ái dục thì không thể nào nhập lý thể đạo chơn thường.

Vị tỳ kheo khác nghe nói thế, liền phát biểu ý kiến rằng:

- Nỗi khổ tâm lo âu của kiếp người, không gì bằng chạy lo ăn uống. Một khi lâm vào cảnh đói khát bức bách, thì không làm được việc gì cả.

- Vị tỳ kheo thứ ba lại bảo rằng: "Lòng sân hận là họa hoạn to lớn nhứt của kiếp người. Một niệm tâm sân khởi lên có thể cháy rụi trí huệ, theo đó muôn ngàn cửa nghiệp chướng đều tung mở. Như thế sân hận làm cho con người chịu vô lượng tội khổ".

- Vị tỳ kheo thứ tư cho rằng: "Nỗi lo khổ của chúng sanh trong thế gian này là sợ hãi. Mỗi ngày sống trong hồi hộp lo âusợ hãi, không có chút an ổn, thì còn gì khổ hơn".

Đang lúc bốn vị tỳ kheo biện luận hăng say về nỗi khổ của kiếp người, thì Đức Phật hiện đến. Vì mỗi người quan niệm về sự khổ khác nhau, nên không có một giải pháp nào rốt ráo cho vấn đề thảo luận về khổ, do đó các vị vẫn còn thắc mắc. Đức Phật rõ tâm ý của các thầy tỳ kheo nên lân mẫn ân cần hỏi:

- Này các tỳ kheo! Các thầy đang thảo luận về vấn đề gì vậy? Bốn vị tỳ kheo theo thứ lớp tường thuật lại việc vừa rồi. Đức Phật nghe xong, lòng Ngài thương xót liền thuyết minh đính chánh chỗ kiến giải cho các tỳ kheo. Ngài giảng rằng: "Phàm người tu hành thường hay tụ hội một chỗ như thế này, để kiểm thảo về sự tu học của mình, đấy là điều lợi ích an vui lớn lao. Như vừa rồi Như Lai nghe các vị lý luận về sự khổ đau theo chỗ kiến giải của mình. Tuy các vị đều có lý, nhưng không có lý nào hợp với đạo lý một cách rốt ráo cả. Giờ đây ta vì các vị để nói rõ cội nguồn của sự khổ lụy họa hoạn của chúng sanh:

"Chúng sanh khổ vì cái thân ngũ uẩn (*) giả hợp này. Sắc thân ngũ uẩn tạo thành tất cả tội khổ. Do đó, ta có thể nói thân là công cụ của sự phiền khổ. Đói khát lạnh nóng, phiền não sợ hãi, sắc dục, oán hờn, họa hoạn, đều do thân thể cảm thọ mà có. Lao tâm khổ trí, nhọc xác như trâu, lo sợ đa đoan, chúng sanh tàn hại nhau, cho đến sanh tử đắm chìm trong sáu nẻo luân hồi không dứt đều do thân thể này tạo thành. Muốn thoát ly khổ não thì phải biết lợi dụng cái thân tâm ngũ uẩn này chuyên cần tinh tấn tu hành, làm cho ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh thì sẽ đạt đạo giác ngộ giải thoát, liền ngay đó được hết khổ. Ngược lại, nếu buông thả theo sở thích nhục dục của thân ngũ uẩn thì vĩnh viễn kiếp trầm luân khổ lụy.

Người tu học Phật phải biết nhận rõ như thế mới thực sự chân chánh lìa khổ, mới được an vui thanh thoát".

Khi ghe Đức Phật giảng nói như thế rồi, các vị tỳ kheo rất lấy làm hổ thẹn, không còn ngồi lý luận suông nữa, phát tâm cầu tinh tấn dõng mãnh tu hành, chẳng bao lâu au đó, cả bốn vị đều chứng thành quả giác ngộ.

(*) CHÚ THÍCH:

Ngũ uẩn: Còn gọi là ngũ ấm tức là năm thứ tích tụ che lấp chân tánh. Năm thứ đó là:

1) Sắc: Chỉ cho năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Năm trần cảnh là sắc chất, âm thanh, mùi vị, xúc chạm, và các sự việc có thể dùng giác quan thấy biết.

2) Thọ: Đối với trần cảnh sanh ra cảm thọ vui sướng, khoái lạc hay buồn khổ sau khi tiếp xúc

3) Tưởng: Nghĩ tưởng đến cảnh trần đen trắng, lớn nhỏ, ngắn dài, đực cái, nam nữ, tốt xấu sau khi tiếp xúc.

4) Hành: Dòng tâm thức duy trì mạng sống, như mạch nước dưới lòng đất, sóng ngầm dưới đại dương, đặc tánh chấp có, sanh ra lòng ham muốn.

5) Thức: Đối với cảnh trần sanh ra hiểu biết phân biệt. Năm thứ này tích tụ giả hợp thành thân tâm chúng sanh. Một khi ngũ uẩn tan hoại thì thân tâm giả hợp của chúng sanh không còn. Chính do mê chấp năm thứ ngũ uẩn này mà nó xui khiến chúng sanh làm những điều lầm mê, sanh ra vô vàn tội lỗi. Nếu người trí nhận biết năm uẩn này giả hợp làm thân, khéo biết dùng thân tâm ngũ uẩn này mà hành đạo, thì sẽ được giác ngộ giải thoát.

 

 

 

13. NHÂN QUẢ BÁO ỨNG HIỆN TIỀN

Kính thưa quý vị,

Người sống trên đời, nhất là Phật tử, muốn có đời sống thảnh thơi tiến bộ, chúng ta không thể nào coi thường nhân quả báo ứng.

Ngày xưa, khi tôi còn trẻ thơ, ở cái tuổi học trò tập tểnh làm quen với vần quốc ngữ A, B, C. Mỗi lần tôi ăn cơm, mẹ tôi theo dõi chăm sóc lo cho tôi. Khi nào đà cơm vào miệng, lỡ có hạt cơm rơi rớt ra ngoài, mẹ liền ngọt ngào bảo : "Con ơi! Con nên nhặt lấy những hạt cơm rớt lên ăn đi con. Đừng bỏ mà mang tội. Kiếp sau sẽ bị quả báo ăn dòi". Mẹ tôi cũng thường căn dặn chị tôi: "Này con! Đừng phung phí đồ ăn. Khi nấu cơm, lúc rửa chén, con phải cẩn thận đừng để gạo rơi cơm rớt. Hạt cơm là hạt ngọc trời cho, phải khó nhọc lắm mới có được, không khéo quí tiếc giữ gìn thì đời sau sẽ phải bị làm người bần cùng nghèo đói đó con!".

Những lời mẹ dạy như vậy, thường lập đi lập lại không biết bao lần nhắc nhở căn dặn kẻ ăn người ở trong nhà. Có những lúc mẹ tôi lấy cơm nguội đã có mùi thiêu đem phơi khô rồi hấp lại, hoặc đem trụng nước sôi để ăn. Bà làm như vậy tính đã không biết bao lần mỗi khi cơm còn thừa dư hư mốc. Không phải nhà tôi nghèo thiếu, mà thực ra mẹ tôi sợ tạo nhơn phung phí, sẽ phải chịu quả báo đói nghèo ở ngày mai.

Mẹ tôi tin Phật rất là thuần thành. Nhưng bà không có nghiên cứu kinh điển nhà Phật bao giờ. Những lời mẹ tôi dạy con cái trong nhà thường là những điều tự nhiên xuất khẩu thành lời. Những lời khuyên dạy này hàm chứa ý nghĩa sâu xa về triết lý nhân quả luân hồi của nhà Phật. Bà thường nói: "Sống ở đời phải nên biết ăn ở hiền lành. Làm lành tránh dữ. Làm thiện thì được phước. Làm ác thì phải mang họa. Cây nào quả nấy. Các con phải nên biết tội phước. Biết ăn ở có nhân có đức mặc sức mà ăn".

Những lời nói bao hàm ý nghĩa nhân quả luân hồi tội phước báo ứng này, không chỉ riêng được nghe thấy trên miệng mẹ tôi, mà bất cứ miền thôn quê chốn đô thị, nơi nào trên đất nước Việt Nam, chúng a cũng đều nghe thấy phát ra tự nhiên từ miệng các bà mẹ Việt Nam lam lũ chân lấm tay bùn. Vấn đề luân hồi nhân quả báo ứng đối với người Việt Nam quá đổi quen thuộc, nên ai cũng biết. Nhưng không mấy ai để ý nhiều đến đạo lýtác dụng của nó đối với sự việc trên đời. Cũng như không khí rất cần cho sự sống. Thiếu không khí thì sự sống không thể tồn tại. Nhưng hằng ngày không mấy ai để ý đến đặc tính quan trọng của không khí đối với sự sinh tồn của vạn vật sinh linh. Tuy nhiên, ta cũng phải thừa nhận rằng, tư tưởng về nhân quả luân hồi của nhà Phật đã thấm sâu vào buồng tim lá phổi huyết quản thịt xương của mọi tầng lớp người dân Việt nói riêng, người Á Đông nói chung. Triết lý nhân quả luân hồi thấm sâu vào tâm thức người dân Việt Nam, như không khí thấm sâu vào tận thịt da, tràn qua buồng tim lá phổi xương tủy của mọi người, nuôi trọn kiếp sống.

Thường ngày, chúng ta sống không thể trong một phút giây thiếu không khí. Nếu thiếu không khí trong giây lát, mạng sống của ta liền theo đó kết thúc, thân xác của ta trở nên ghê tởm vô dụng. Không khí rất trọng yếu cho mạng sống như thế đó. Nhưng hằng này có mấy ai để ý đến không khí đâu? Có mấy ai tỏ ra tha thiết quí mến không khí đâu?

Cũng vậy, tin nhân quả nghiệp báo có thể làm cho con người có một cuộc sống an lành, tiến đến chơn thiện mỹ. Lẽ phải điều thiện có khả năng đưa con người ngày thêm được cuộc sống an lành thánh thiện tiến bộ. Nhưng thử hỏi được mấy người thực lòng thiết tha với điều hướng thiện? Thói thường thì, khi người ta dùng thì giờ để làm việc nghĩa, cứu giúp người, đi học đạo, nghe thuyết pháp giảng kinh, làm những điều lành thiện thì người ta cảm thấy khó khăn, bận kẹt! Người ta bảo là không có thì giờ. Nhưng đi coi hát, ăn tiệc, dạ hội, shopping, dạo phố, suốt ngày thâu đêm miệt mài trong sòng bạc rượu chè, bè bạn giỡn cười, nói nhảm, với những việc này thì lúc nào cũng có thì giờ và còn sốt sắng nữa là đằng khác.

Ta thử hỏi đã được mấy ai xin nghỉ phép để làm việc thiện, học đạo, tụng kinh, tọa thiền, đến chùa làm công quả bòn phước cầu tiến? Nhưng người ta sẵn sàng xin nghỉ phép để đi chơi, dự tiệc, đánh bạc. Có mấy người mượn tiền để làm việc phước thiện, bố thí, xây chùa, đúc tượng Phật, in kinh ấn tống? Nhưng người ta hăng hái mượn tiền để đánh bạc, để làm đám cưới, đãi bạn bè, để đi du lịch, để cho người khác vay lấy lời, để buôn bán. Đi nhảy đầm, ciné, hát xướng được cái vui ồn ào tạm bợ nhất thời của cảm giác. Nhưng liền sau đó mệt mỏi, lòng cảm thấy trống trải cô đơn như trước, thế mà người ta vẫn đắm đuối phung phí thời giờ, tiền bạc để lăn vào. Nghe thuyết pháp, tụng kinh, tọa thiền, làm việc đạo đức phước thiện, được người kính mến nể vì, tạo công đức cho mình, đồng thời để đức cho con cháu, làm gương mẫu hướng dẫn con cháu, thì người ta lơ là không mấy quan tâm. Làm việc đạo đức tiến thân thì lại uể oải đợi người mời thỉnh, được nài nỉ khuyến khích mà lòng vẫn e dè từ chối! Muốn suốt đời phục dịch cho con, cho cháu, tuy con cháu đã lớn khôn, chúng nó chẳng cần màng đến mà vẫn cứ thích lo, thích phục dịch. Người đời còn thích làm mai làm mối, tuy không ai nhờ cậy, cũng chẳng được lợi lộc gì, nhưng lại muốn lăn vào, để rồi khi giàu có hạnh phúc chúng chẳng biết ơn, thiếu đầm ấm chúng án trách. Ưa thích tham dự tiệc tùng, hè hội đình đám, ưa nói chuyện thị phi, hiếu kỳ tìm tòi mọi chuyện của người chẳng có liên quan gì đến mình, đó là thói đời tánh người kém phước vụng tu, nên tiêu phí thời giờ quý báu vào việc phàm tục.

Lại có kẻ vì nể bạn bè khuyến dụ, hoặc nhận được ít tiền lẻ, vật dụng cũ hư, liền bỏ chánh đạo, theo tà ma ngoại đạo, say mê đến tán gia bại sản, điên khùng mất mạng. Đó là những kẻ hình người mà tâm đã bị tà ma nhập. Những người này hoặc họ mới vừa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ra, hoặc mới từ thế giới yêu ma đầu thai làm người. Nên phí mất thời giờ, oan uổng một đời cho việc tà ngụy, hậu quả chỉ tạo thêm nghiệp ác, để rồi đọa lạc trở lại vào chốn tối tăm. Đến với đời bằng tâm niệm bất chánh, hành động vụng dại. Ra đi cũng chẳng để lại công đúc danh thơm gì cho đời, chẳng làm được chút công đức gì cho mình. Thật đáng tội nghiệp cho những kiếp chúng sanh nặng nghiệp như thế.

Chúng ta thử ngồi tỉnh tâm tính nhẩm xem. Từ ngày cha mẹ sanh ra cho đến ngày ta thực sự biết đời, phát tâm học đạo, biết tu tâm dưỡng tánh, suốt quãng thời gian mấy mươi năm trước đó, ta đã lăn lộn bon chen với đời, lo học tập, lo ái tình chồng vợ, con cháu, danh lợi, đủ thứ lo. Đến khi biết học đạo tu tâm, làm việc nghĩa, thì tuổi đời đã lớn già sức yếu, mà tâm đạo chưa vững, chưa có chuyên cần tinh tấn, chưa hiểu ngộ được lý vô thường: "Sớm còn tối mất". Suốt tuần lễ bảy ngày (7 x 24 = 168 giờ), ta chỉ lo cho cái sống bản thân gia đình, chồng vợ con, trong ích kỷ tham sân si. Họa hoằn lắm chỉ một vài giờ của ngày chủ nhật, hoặc ngày rằm, vía, đi học đạo, nghe giảng mà ta cũng không thực hành đều đặn thuần nhất.

Càng tội nghiệp hơn, có những người thân tuy chưa đến chùa viện, mà tâm vẫn nghĩ đến việc nhà, lo âu việc đâu đâu, nên trông cho khóa lễ cầu nguyện, thời thuyết pháp cho mau chấm dứt, để bươn bã về lo việc nhà hoặc đáp ứng hò hẹn với bạn bè. Đó là chưa kể có những người khi đến chùa gặp bà con bạn bè đem bàn chuyện thế tục thị phi, không để ý đến việc tụng kinh, niệm Phật, bái sám, học đạo. Họ coi nhẹ sự nghe thuyết pháp, niệm Phật, tọa thiền, xem thường sự tu dưỡng của chính mình. Lại còn có người lúc hứa cúng dường việc này, góp phần công đức kia, nhưng rồi không thực hiện theo lời hứa của mình. Lại có người phát nguyện rằng, khi con tôi lớn khôn, hoặc khi gia đình sum họp, hoặc lúc tôi vào tuổi nào đó, hoặc khi gặp thầy chân tu thật học thì tôi quy y, vào chùa làm công quả tu tập, ăn chay, xuất gia, nhưng rồi lần lựa hẹn rầy hẹn mai, không thực hiện, cho đến ngày đậy nắp quan tài, đem ra ngoài gò hoang, mà vẫn chưa thực hiện lời hứa.

Phật xưa có dạy: "Ngày nay trôi qua, mạng sống giảm dần, như cá hết nước, nào có vui chi. Các ngươi phải luôn luôn nghĩ nhớ như thế, để chuyên cần tinh tấn, gấp rút tu tĩnh, như gấp rút cứu lửa cháy trên đầu".

Ngày tháng trôi qua quá mau chóng. Ta không sớm phản tĩnh tự tâm, mà cứ mãi chìm đắm với ái ân dục tình, thù tạc bạn bè, với những ảo tưởng danh lợi, lạc thú hư huyễn của thế gian, cứ tưởng mình sống đời đời với của cải, tiền tài, vợ con, thì thật là mê muội đáng thương! Cổ nhân đã chẳng từng nhắc nhở:

Mấy ai sống được đến trăm,

Lòng người thế sự ngàn năm chẳng vừa.

Người đời khổ lụy hơn thua,

Việc tu xem nhẹ, nặng lo đua đòi.

Ngày tháng như thoi đua! Hạnh phúc như sương sớm đầu cành! Mạng người mong manh như hoa phù dung buổi sáng! Hiện trạng vô thường như thế đó. Sao chúng ta không la lớn, gào thét to lên để cùng nhau cảnh tĩnh đồng tu, tìm về nơi an lạc giải thoát. Thiền tổ nói: "Thế gian vô lượng khổ, sao không khuyến đồng tu".

Đáng buồn thương thay, có kẻ tự xưng mình là Phật tử, quy y từ thuở bé, khoe khoang ăn chay, niệm Phật, đi chùa đã mấy mươi năm, tụng kinh Đại thừa, trì chú Lăng Nghiêm, hiểu biết giáo lý, quen biết những bực danh tăng, Hòa thượng này, Thượng tọa kia, cứ ảo tưởng mình hơn người khác. Nhưng lòng tham sân, tánh ngã mạn kiêu căng, thích phê bình chỉ trích thêu dệt chuyện của người khác không giảm chút nào. Họ phán đoán người khác là xấu là dở. Nhưng họ quên đi chính họ. Họ không tự xét, không bao giờ có lấy một lời phê bình chính mình. Nếu ai không dằn được hành vi trái tai gai mắt với Phật pháp của họ, mà có lời chân thật khuyên nhắc thì họ giận hờn. Ca dao có câu:

Tham sân nghiệp chướng không chừa, 

Bo bo mà giữ tương dưa làm gì.

Tu là phải sửa tâm tánh, cố gắng dứt sạch giận hờn đố kỵ tham sân si, để đạt đến vô tâm, thể hiện từ bi hỷ xả. Việc gì qua rồi thôi, đừng nên luyến tiếc. Luyến tiếc thì đưa đến trạng thái tâm lý mơ mộng khổ đau, buồn thương tủi hờn. Vô tâm thì không chấp trước. Không chấp trước thì mới có được cái thanh thoát của từ bi hỷ xả, mới đạt đạo. Hương Hải thiền sư đã khuyên vua Lê Dụ Tôn, tu Phật thì phải nên vô tâm:

Tìm trâu, tìm dấu chân trâu,

Dấu còn trâu, trâu chẳng mất đâu bao giờ.

Xin ai học đạo chớ ngờ,

Vô tâm thì đạo có cơ dễ tìm.

Học đạovô tâm thì dễ đạt đến giác ngộ giải thoát. Vô tâm thì không còn dính mắc buộc ràng, mới tiến xa, biết rộng hiểu nhiều. Vô tâm mới mong thấy được tất cả những tinh hoa của vũ trụ, cái đẹp của lòng người. Chừng nào đạt đến vô tâm, thì chừng đó mới đạt đạo giác ngộ giải thoát.

Ngày xưa mẹ tôi lo cho con cái, dạy dỗ chúng tôi, bận rộn suốt ngày, nhưng không bao giờ bà quên trọng nể lễ nhân quả luân hồi. Tất cả việc làm, tâm niệm của bà đều tin vào lý luân hồi nhân quả báo ứng. Bà chẳng bận tâm lo lắng. Nên ngày mẹ tôi qua đời trong một bình minh trời thu trong sát mát dịu. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ba an nhiên căn dặn: "Các con biết ráng tu. Tu bồi phước đức mặc sức mà ăn. Như thế là các con hiếu với mẹ rồi đó. Chớ nên buồn khóc theo thường tình thế gian. Có làm tuần thất siêu độ cho mẹ, con nên theo hạnh hiếu của đức Mục Kiền Liên, là mẹ vui lòng rồi".

Mẹ tôi khi còn ở đời thường khuyên con cháu: "Việc gì qua để cho nó qua, đừng nhớ tưởng làm chi thêm nặng lòng mệt óc. Mọi việc ở đời thiện ác, tốt xấu, thăng trầm, vinh nhục không ngoài nhân quả. Các con phải nhớ, phải sợ".

Kẻ không sợ nhân quả là kẻ không còn lương tâm đạo đức. Không còn lương tâm đạo đức thì dễ tạo thành tội ác khủng khiếp. Chắc ai cũng nhớ Tết Mậu Thân 1968, khi cộng sản tấn công chiếm đóng các làng mạc đô thị miền Nam, đặc biệt là thành phố Huế, quân đội cộng sản dưới quyền chỉ huy của một viên tướng tên là Lê Lý. Không biết vì oan gia nghiệp báo đã gây từ đời nào, hay tên Lê Lý này đã được đào tạo kỹ lưỡng từ lò chủ nghĩa vô thần thú tánh vô lương tâm, mà tướng họ Lê này đã ra lịnh bắt thanh niên xứ Huế lao công gánh vác rồi sát hại tập thể. Mặt khác lại ra lịnh bắt giết tập thể những đồng bào vô tội lên đến hơn hai ngàn người. Điều này tạo cho thành Huế, xứ cố đô trầm lặng, cái không khí kinh hoàng, tang thương bi thảm xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Báo chí và dư dư luận thế giới đã bàng hoàng xúc động xôn xao trước cái thảm trạng tàn ác tày trời của cộng sản. Vì thế, tên tướng cộng sản họ Lê này chẳng bao lâu sau đó cũng bị cách chức tư lịnh và bị thuyên chuyển về Hà Nội giáng chức làm thanh tra trung tiểu học! Làm thanh tra quèn, không còn cái uy phong lẫm liệt quyền thế dưới trướng có hàng vạn quân của một viên tướng ở trận mạc nữa.

Một hôm đi thanh tra, có lẽ ông ta cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ, mỏi mệt trên những đoạn đường dốc sỏi đá gồ ghề của xứ Bắc bị bom đạn tàn phá nghèo nàn, trên không trung thỉnh thoảng bất thần từng đoàn máy bay, khổng lồ ồ ạt dội bom, những cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp uy hiếp mạng sống bất cứ lúc nào, làm cho viên tướng thất sủng này khủng hoảng tinh thần. Bằng chiếc xe đạp, trên con đường dài liên tỉnh đi công tác thanh tra, chắc ông ta đã chán nản mỏi mệt với chiếc xe đạp, nên giữa đường đã xin đi nhờ trên một chiếc xe be chở đầy gỗ nặng. Chiếc xe đang trên đà lên dốc, bỗng nhiên đứt thắng, xe tuột thẳng xuống hố đổ nhào. Tên tướng thất sủng Lê Lý này đã bị gỗ đè, thân xác tan nát như một quả cà chua chín mùi. Thế là xong một đời! Trong lúc đó, viên tài xế xe và vài người lơ phụ cũng như những người tùy tùng của Lý chỉ bị thương nhẹ thôi.

Cổ nhân thường dạy: "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu. - Lưới trời lồng lộng không trông thấy, nhưng không một mảy lông thoát khỏi". Nhân quả báo ứng nhãn tiền biết bao lần diễn ra trước mắt mọi người, mà chúng ta đã từng chứng kiến. Nhưng người đời vì quá dễ dãi tha thứ cho mình, bởi vô minh dục vọng che lấp chân tánh trí tuệ, kém phân định chánh tà, mà dễ quên đi điều hướng thiện. Do đó, con người mãi sống theo tình thức, trần duyên lôi cuốn để rồi đi sâu dần vào tội lỗi. Thiền đức dạy: "Nghiệp quả sở khiên thành nan đào tỵ.- Một khi nghiệp quả đã kéo lôi rồi, khó mà trốn thoát được".

Tên tướng Lê Lý thất sủng kia đã tạo tội giết người tập thể, sau đó phải chịu cái chết banh xác thảm thế Câu chuyện trên đây do một tên cộng sản LKN cùng đi trên chiếc xe be đó còn sống sót kể lại. Sau năm 1975 cộng sản chiếm Saigon, tên LKN này vào Saigon làm việc trong chỗ thân tình bè bạn, kể lại chuyện trên.

Tại miền Nam trước năm 1963, ai cũng biết danh tiếng của Ngô Đình Nhu cố vấn tổng thống Ngô Đình Diệm là một con người đầy tham độc ác kế, để rồi sau đó ông ta nhận lấy quả báo thảm thương! Cổ đức Thánh hiền nói: "Mưu thâm họa diệt thâm". Nhà Phật nói: "Nhân nào quả nấy".

Cổ nhân dạy: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Nghĩa là việc thiện ác đã gây ra, thì chậm mau trước sau gì rồi cũng nhận chịu, không thể chạy tránh được. Người đời bởi mây mù tham lam sân hận si mê ích kỷ che phủ lương tri, nên quá dễ dãi với mình, hoặc liều lĩnh vì cái lợi trước mắt, hoặc cuồng vọng vì muốn được hưởng thụ, mà khinh thường nhân quả báo ứng, rồi buông lung hành vi tạo tác hằng ngày gây không biết bao là tội lỗi.

Nhân quả báo ứng là luật công bằng không dành riêng cho bất cứ một ai. Để kết luận bài này, tôi xin mượn bài thơ của thi hào Nguyễn Du:

Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

 

 

 

14. CÂY NÀO QUẢ NẤY

Thưa quý vị,

Mỗi tuần quý vị về Phật Học Viện Quốc Tế để nghe giảng kinh thuyết pháp tu tập, chắc quý vị cảm thấy lòng vơi nhẹ đi bao nỗi nặng nhọc suốt tuần lặn lội với đời vì kế sinh nhai. Những lời giảng kinh Phật là những liều thuốc bổ tinh thần vô giá. Tôi còn nhớ một đoạn trong kinh Bách Dụ, Đức Phật nói:

"Xưa có một thanh niên, lúc nào cũng tỏ vẻ hiên ngang hào hiệp, lịch thiệp để cho mọi người chú ý tán khen. Một hôm trên đường ngao du, bụng đói, đói lắm, anh đến tiệm bánh mua một lượt sáu cái, ăn luôn một hơi mà vẫn chưa thấy đã no. Anh lại mua thêm một cái bánh nữa, nhưng chỉ ăn mới một nửa thôi, anh cảm thấy quá no, lại ngán không cách nào nuốt thêm được nữa. Lúc đó lòng anh sanh buồn não, thầm trách mình, rồi tự lấy tay đánh lên đầu mà nói rằng: Sao ta ngu quá không biết tính toán tiết kiệm gì hết. Nếu như ta biết nửa cái bánh cuối cùng mà có thể làm cho ta no như vậy, thì ta chỉ cần mua nửa cái bánh ấy thôi, ăn đủ no rồi, cần gì phải mua chi đến sáu cái cho tốn kém tiền bạc!"

Câu chuyện trên nhắc nhở cho những ai thường hay trách trời oán người, lòng luôn luôn so đo thắc mắc. Ở đời có hạng người thắc mắc oán trách so đo với người khác mà không xoay lại kiểm điểm quán xét mình. Họ trách rằng tại sao các nhà tu hành được mọi người kính trọng, cúng dường, ủng hộ? Khi nói vậy nhưng họ có biết đâu những vị này, trước đã nhiều đời tu phước, và ngày nay khi mình chưa quen biết, thì họ cũng đã trải qua bao nhiêu năm tháng hành đạo khắc khổ, thức khuya dậy sớm, tương chao đạm bạc, công quả, tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền. Họ đã chuyên tâm âm thầm tích lũy phước đức. Nhờ công đức hành đạo đó, họ mới được mọi người kính ngưỡng bái phục vâng theo.

Rồi lại thấy có người hiện đời làm điều bất chính, bất lương, mà lại vẫn được sung sướng giàu sang danh vọng. Điều đó nào phải tự nhiên giàu sang danh vọng như vậy đâu! Hiện đời tuy họ có thể hưởng giàu sang danh vọng, có thể hưởng một giai đoạn nào đó trong đời họ, hoặc có thể hưởng suốt đời họ đều tùy theo phước đức họ đã gieo trồng từ bao đời trước nhiều hay ít. Còn hành vi tâm niệm xấu ác của họ ngày nay thì họ sẽ phải trả đời họ ngay trong đời này, hoặc đời sau.

Do đó, xã hội này mới có người giàu kẻ nghèo, người đẹp kẻ xấu, người sang kẻ hèn, người khôn kẻ dại, chứ nào phải tất cả những người giàu sang danh vọng là bất chính bất nhân hết đâu? Và có ai dám chắc mình hưởng giàu sang suốt đời? Như người làm vườn, ta thấy vườn anh A hoa trái sum sê, nhiều người đến mua, tiền bạc vô hằng ngày. Anh và vợ con anh áo quần mới mẻ, nhà xe tốt đẹp, chúng ta đâu có biết cách đây bảy năm, anh đã cùng vợ con ngày ngày dãi dầu mưa nắng, chân lấm tay bùn, cần mẫn canh tác, ăn cơm nguội canh lạnh, áo quần cũ rách bụi nhơ, làm việc đầu tắt mặt tối. Lúc đó tất cả tâm huyết năng lực của anh dồn cho khoảnh vườn, nên ngày nay khoảnh vườn của anh hoa trái xanh tươi. Sự giàu sang của anh ngày nay là kết quả của bao lam lũ công phu vun trồng trong những năm trước.

Cũng vậy, chân giá trị của vị bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, nhà khoa học, nhà bác học đâu phải cố gắng một ngày, một tháng, một năm mà thành đạt? Ngày nay họ được đời trọng vọng, chúng ta đâu có biết những vị này đã trải qua bao năm tháng nhịn ăn nhịn ngủ, đói khổ nhọc nhằn chuyên cần học tập nghiên cứu mới được văn bằng chức phận ngày nay. Bởi thế, kinh Phật dạy rằng:

"Dục tri tiền thế nhơn, kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị".

Có nghĩa là:

"Muốn biết đời trước họ tạo nhơn gì, thì cứ nhìn đời nay họ được hưởng.

Muốn biết đời sau họ chịu quả báo như thế nào, thì xem việc làm của họ đời nay".

Muốn thành công trên đường đời hay đường dạo, phải kiên trì bền chí một lòng theo đuổi lý tưởng của mình với suốt tháng năm, mới mong được như ý nguyện. Nhưng người đời thiếu trầm tĩnh suy tư, nên thường thấy hai hiện trạng tâm lý:

1) Thấy người người ác mà được giàu, người lành mà phải nghèo, rồi sanh ra chán nản oán trách. Nào có biết sự tương quan nhân quả suốt cả ba đời quá khứ, hiện tạivị lai.

2) Khi nghèo khổ thì có lòng nghĩ về đạo đức, lo làm việc thiện, tu phước, sống đời sống khiêm tốn, ít bạn bè, lo nghe kinh thuyết pháp, tụng niệm. Nhưng khi khá giả giàu sang thì lại lo làm giàu thêm, lơ là việc tu học, làm phước đức. Ngày ngày đâm đầu bận kiếm cho được nhiều tiền, đuổi bắt danh vọng, thù tạc bạn bè. Do đó, dần dần tâm đạo sa sút, xa Phật xa Thầy. Khi cực khổ vun phân tưới nước thì cây phước được xanh tươi. Đến khi cây ra hoa kết trái, thì lại chỉ lo ngồi hưởng thụ, không biết tiếp tục săn sóc bón phân tưới nước, thì cây phước phải cằn cỗi, hoa trái phước lộc phải xơ xác điêu tàn là lẽ tất nhiên. Cũng vậy, khi còn nghèo khó còn thì giờ để tâm làm phước đức. Đến khi khá giả giàu có thì mãi miết lo làm giàu thêm, kết bạn hưởng thụ, đuổi bắt lợi danh, xa dần việc phước thiện. Rồi khi tai nạn xảy đến lại đi cầu khẩn Phật trời thánh thần! Thật là tội nghiệp cho người đời lẩm cẩm! Không muốn trồng cây mà chỉ muốn ăn quả. Không chịu ra công vun sới bón phân tưới nước nhổ cỏ, mà cứ muốn hái trái tốt hoa đẹp. Chẳng khác nào kẻ nấu cát muốn thành cơm.

Để kết luận bài này, tôi xin xác quyết rằng: "Đời người sáng sủa hay tối tăm, đều do chính con người trọn quyền quyết định lấy, chứ không ai khác". Khéo sử dụng bàn tay và khối óc của mình với cõi lòng rộng mở, thì đời mình trở nên sáng sủa an lành.

 

 

 

15. XẢ THÂN CẦU ĐẠO

Kính thưa quý vị,

Tu hành mà không phát tâm Bồ đề, không hy sinh thời gian, thân tâm tài sản để cầu đạo, thì khó đạt thành đạo quả giác ngộ giải thoát.

Thuở đời quá khứ vô lượng vô lượng kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thế giới Ngài thuyết pháp giáo hóa chúng sanh tên là Thế Giới Ta Bà.

Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên nghèo, đến nhà người bạn thăm chơi, nghe nói Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang giảng thuyết kinh Đại Niết Bàn cho đại chúng nghe ở một tịnh xá cách đó không xa. Chàng thanh niên nghèo này vừa nghe nói như vậy, lòng vui mừng phấn khởi, muốn phát tâm cúng dường Phật, nghe thuyết pháp. Nhưng bụng nghĩ rằng, phận mình nghèo khổ túng thiếu chẳng biết làm sao bây giờ. Suy đi nghĩ lại đã bao lần mà chẳng tìm ra phương cách nào để có ít tiền vật đem đến cúng dường Phật. Cuối cùng chàng nảy ra ý nghĩ, chỉ còn có một cách là đem thân mình bán để lấy tiền cúng dường Phật, hầu mong trồng chút phước đức.

Lòng chàng đã quyết, dù phải bán thân chịu đọa đày cơ cực đến đâu, miễn sao thực hiện được tâm nguyện cúng dường Phật, được nghe thuyết pháp là quý hóa rồi.

Sau khi lòng đã quyết, chàng lội bộ khắp đó đây để rao bán thân mình hoặc được ở đợ. Nhưng phận hèn bạc phước không ai chịu nhận mua cả. Mỏi mệt, buồn bã, chàng quay trở về nhà.

Trên đường về nhà, bỗng gặp một người đang đi với vẻ mặt buồn rầu lo âu, chàng chạy đến hỏi: "Tôi muốn bán thân tôi, ông có thể mua dùm được không?

Người kia thật là bất ngờ mừng quá, vội đáp rằng: "Tôi đang có việc khẩn cấp nan giải, không ai làm nổi. Nếu như làm được thì tôi mới mua thân chú".

Chàng nghèo hỏi: Việc gì khẩn cấp mà chẳng làm được vậy?

Người kia đáp: Tôi đang mắc phải chứng bệnh ngặt nghèo. Thầy thuốc bảo mỗi ngày phải ăn ba lạng thịt người. Nếu như chú mỗi ngày có thể đem ba lạng thịt nơi thân chú mà cung cấp cho tôi, thì tôi sẽ trả cho chú năm thẻ vàng.

Chàng nghèo nghe xong, lòng vui mừng khôn xiết, thầm nghĩ rằng, ước nguyện cúng dường Phật, nghe thuyết pháp của ta sẽ đạt thành. Liền nói rằng: "Vậy thì xin ông có thể đưa tiền vàng cho tôi, hẹn trong vòng bảy ngày, sau khi tôi sắp đặt việc xong, tôi sẽ lập tức lại nộp thân hầu ông".

Người kia đáp: Bảy ngày lâu quá. Bệnh tôi trầm trọng cấp bách, cần ăn thịt người gấp mới mong cứu sống được mạng của tôi. Nếu chú thấy có thể làm được, tốt nhất trong vòng một ngày thôi.

Chàng nghèo đồng ý, nhận tiền, lòng mừng rỡ, vội vàng tìm đến chỗ Phật Thích Ca. Vừa thấy Phật, đầu mặt năm vóc anh sát đất thành kính lạy Phật, có bao nhiêu vàng trọn dâng cúng dường rồi ngồi nghe Phật giảng kinh thuyết kinh Đại Niết Bàn. Nhưng vì tâm địa mờ tối, nghe Phật thuyết pháp xong, mà lòng dạ anh chỉ còn nhớ vỏn vẹn có bốn câu kệ:

Như Lai chứng Niết Bàn.

Dứt trọn vòng sanh tử.

Nếu ai chí tâm nghe,

Thường được vô lượng lạc.

Sau khi nghe xong, chàng nghèo mừng quá, miệng đọc bài kệ mãi không thôi, đồng thời giữ đúng lời hẹn, vội vã về nhà người bệnh kia, mỗi ngày cắt ba lạng thịt của thân mình để cho bệnh nhơn ăn mà không chút than thở ân hận.

Nhờ lòng chí thành chí kính với niềm tin sâu sắc hướng về Đức Phật, lòng hân hoan được nghe Phật thuyết pháp, dạ vui mừng nhớ được bài kệ trên. Nhờ tâm niệm chuyên ròng luôn luôn nghĩ đến Phật, nghe Phật thuyết pháp, miệng lúc nào cũng đọc kệ, nên trải hơn một tháng cắt thịt thân mình để cho bệnh nhơn ăn mà chẳng thấy đau đớn chút nào.

Cứ như vậy, ngày ngày cắt thịt mình cho bệnh nhơn ăn, trải đã suốt tháng, người nghèo lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm nhớ Phật, nguyện cầu cho bệnh nhơn sớm được bình phục. Đồng thời anh nghèo ngày đêm thành tâm đọc kệ, niệm Phật khấn nguyện cho thân tâm mình và thập phương chúng sanh được an vui tự tại.

Do tâm thành nguyện cảm của anh mà người bệnh được lành. Anh nghèo sau một đêm chuyên ròng tâm trí tưởng Phật đọc kệ, với giấc ngủ an lành trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Khi thức giấc bất ngờ nhìn lại thân mình nguyên vẹn như xưa, không thấy có một vết thẹo nào. Lòng chàng nghèo vô cùng cảm kích, nói sao cho hết nỗi lòng hân hoan. Chàng quỳ giữa sân, ngước mặt lên hư không thành khẩn khấn nguyện: "Ta nguyện rằng, về sau tiếp tục tu hành thành đạo giống như Đức Phật kia, ta cũng được tên là Thích Ca Mâu Nithế gian ta hóa độ chúng sanh cũng tên là Ta Bà".

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trên kia là vị Thích Ca Cổ Phật, còn bệnh nhơn ăn thịt người là tiền thân Đề Bà Đạt Đa. Chàng thanh niên nghèo kia chính là tiền thân của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta ngày nay. Ngài đã ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ, xứ Ấn Độ, và Ngài đã đem trọn đời Ngài cống hiến cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh đến hơi thở cuối cùng. Và Ngài nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na, rừng Ta La Song Thọ.

Thưa quý vị, 

Các Đức Phật, các vị Bồ Tát cũng là con người như chúng ta. Nhưng các Ngài đã lìa phàm nhập Thánh, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi là do các Ngài phát Bồ đề tâm, chí thành nghe pháp, khẩn thiết hành đạo, xem nhẹ xác thân giả tạm, xem thường tài sản lợi danh, nhất tâm quyết chí tu hành mà được thành Phật thành Bồ Tát. Còn chúng ta mãi mê ngũ dục thế gian, lười tu kém niệm Phật, nên mãi mê chìm đắm phàm tình.

Nay ta biết Phật, ta được thấy nghe giáo pháp, ta nên cố gắng tu tập để khỏi cô phụ hoài mong của Phật, để khỏi mất đi Phật tánh chơn tâm của ta. Có như thế mới là chơn Phật tử.

 

16. CÂU CHUYỆN ĐẠO LÝ

Thưa quý vị!

Nhà Phật mỗi câu chuyện đạo đều có bao hàm cái đạo lý dạy đời, cái triết lý để cho người nương theo đó mà được đời sống thánh thiện hóa thân tâm.

Vài năm gần đây, sống trên đất khách quê người, sau những ngày làm việc mệt mỏi, quý bà con thường tìm về Phật Học Viện Quốc Tế để nghe thuyết pháp, được hướng dẫn niệm Phật, tọa thiền. Lúc đó tinh thần ai nấy đều cảm thấy an vui thanh thản vô hạn. Trong những bài thuyết pháp, trong những lúc dạy niệm Phật, tọa thiền, tôi thường có dẫn chứng những mẫu chuyện đạo ngắn. Qua những mẫu chuyện đạo đó, đã giúp cho bà con dễ thâu nhận hiểu được ý nghĩa của lẽ sống. Một trong những câu chuyện đạo bà con còn ghi nhớ đậm nét trong trí óc, và chính câu chuyện này đã làm cho nhiều bà con Phật tử suy ngẫm về thật tướng giá trị của vợ chồng, tình đời, tình thân bằng quyến thuộc, những thứ này đều là cội nguồn xa gần của sanh tử luân hồi. Nay tôi xin lược kể dưới đây để hầu chuyện cùng qúy vị:

Đức Phật Thích Ca có một người đệ tử tên là A Nan. A Nan vốn là em chú bác của Phật. A Nan còn có tên là Khánh Hỷ. Sở dĩ có tên này là vì khi ông ra đời đúng vào ngày Thái tử Tất Đạt Đa chứng thành đạo qủa Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Nhơn đó mà A Nan còn có tên là Khánh Hỷ.

Sau khi Phật độ A Nan cho xuất gia, con người của A Nan bản chất vốn thông minh, tánh tình thuần hậu, nên được chọn làm thị giả hầu cạnh Phật. Khi thuyết pháp, lúc tọa thiền, mỗi mỗi sinh hoạt cử động của Phật, A Nan đều luôn luôn bên cạnh. Kinh điển còn ghi rành rành, sức thông minhtrí nhớ của Đức Phật, cũng giống như nước từ bình này rót sang bình khác, không rơi rớt một giọt nào. Những kinh điển nay còn lưu truyền, hầu hết đều do A Nan thuật lại trong thời kiết tập đầu tiên.

A Nan vốn thông minh đẹp trai lại thích học rộng hiểu nhiều, nhưng yếu về đường tinh chuyên tu tập, nên đạo lực công đức có phần kém, do đó mà nghiệp duyên không thể cùng lúc đọan trừ sạch.

Một hôm Đức Phật đang ở tinh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt, nhân ngày kỷ niệm húy nhật của tiên vương vua Ba Tư Nặc, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của nhà vua. Phật cùng đại chúng vào hoàng cung vua để thọ trai, cầu nguyện siêu độ. Riêng A Nan vì đã riêng thọ nhận lời mời trước của tín chủ ở xa, nên chưa về kịp để cùng dự vào đoàn tăng chúng đi thọ trai với Phật. Nên khi A Nan trở về tinh xá, thì Phật và tăng chúng đã vào thành nội vua Ba Tư Nặc rồi. Giờ Ngọ đã đến, A Nan một mình, đem tâm bình đẳng, bưng bát đi khất thực từng nhà, với một lòng vị tha, thầm nguyện: "Tam Bảo là ruộng phước điền cho tất cả chúng sanh". Trong tướng mạo uy nghi với chiếc thân mặc y vàng giải thoát, A Nan vô tâm lần lượt bước đến trước cửa từng nhà để khất thực, thọ nhận thức ăn của người hảo tâm cúng dường.

Cách đó không xa, một thiếu nữ trẻ đẹp, trang sức yêu kiều diễm lệ, từ nãy giờ đã bưng cơm và thức ăn đứng chờ sẵn trước nhà lặng lẽ đợi A Nan. Như bao nhà khác, A Nan khoan thai nhẹ bước đến đứng trước cửa đưa bình bát, đôi mắt nhìn xuống đất, thầm chú nguyện cho thí chủ được nhiều phước đức lợi lạc. Thiếu nữ trẻ đẹp Ma Đăng lòng trần xúc động mỉm cười nhìn thẳng vào A Nan, nàng cố lấy sức trầm tĩnh, thi hành cử chỉ như sự huấn luyện chỉ dẫn kỹ lưỡng của các thầy ngoại đạo chú thuật. Tay cô chầm chậm để cơm vào bình bát. Miệng cô thầm đọc chú Ca Tỳ Ta La Phạm Thiên để mê hoặc A Nan.

Cơm và thức ăn vừa đầy bình bát, A Nan cũng bắt đầu mê man bất tĩnh như kẻ dại khờ mất trí. Thiếu nữ Ma Đăng quay lưng chậm rãi bước vào nhà. Bị mê hoặc, A Nan bấy giờ cũng bước theo sau thiếu nữ. Thiếu nữ Ma Đăng đắc ý đi thẳng vào phòng, thầm nghĩ rằng, A Nan bây giờ đã nằm trong vòng tay mình, phen này quyết không để mất cơ hội ái ân!

Lúc bấy giờ Đức Phậtđại chúng đang thọ trai ở trong hoàng cung vua Ba Tư Nặc. Thường thì mỗi khi thọ trai xong, Phật thuyết pháp cho thí chủ nghe, để người thí chủ tinh tấn phát tâm Bồ đề kiên cố, được nhiều lợi lạc. Nhưng lần này, khác hẳn mọi lần, Ngài thọ trai xong, cáo từ nhà vua, liền cùng đại chúng trở về tinh xá, lên pháp tòa phóng ra muôn nghìn đạo hào quang. Trong mỗi đạo hào quang lại có muôn ngàn Đức Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh. Trong mỗi Đức Phật lại phóng ra muôn ngàn đạo hào quang đủ muôn màu sắc. Trước những hiện tượng kỳ diệu lạ lùng xưa nay chưa từng thấy, đã gây xúc động kinh ngạc sâu xa trong lòng đại chúng.

Đức Phật cùng với muôn ngàn đức hóa Phật ẩn ẩn hiện hiện trong muôn ngàn đạo hào quang cùng nói thần chú Thủ Lăng Nghiêm, đồng thời bảo ngài Văn Thù Bồ Tát cấp tốc đem thần chú này đến nhà cô Ma Đăng để giải thoát cứu A Nan đang mắc nạn

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vâng lời Phật, liền vận dụng thần thông bay đến nhà cô Ma Đăng định thần lực đọc chú Thủ Lăng Nghiêm. Ngay khi đó chú Ca Tỳ Ta La Phạm Thiên của ngoại đạo mê hoặc A Nan liền bị tiêu tan. A Nan tỉnh lại thấy mình đang ngồi trong phòng với một thiếu nữ, cảm như sét đánh vào đầu, nhìn Văn Thù Bồ Tát mà lòng A Nan cả thẹn. Văn Thù Bồ Tát khuyên nhủ an ủi rồi dắt A Nan về gặp Phật.

Khi Văn Thù Bồ Tát dắt A Nan đi, thì cô Ma Đăng tự thấy cơ mưu đã đổ vỡ, mất người yêu quý nhất trên đời, mà bao tháng ngày cô đã toan tính chờ đợi dịp tốt như hôm nay, bỗng nhiên như cơn gió trốc mạnh cào hốt đi hết. Bao tháng ngày xây mộng đẹp, chỉ trong khoảnh khắc tan tành! Cô la khóc, mắng nhiếc, đòi Văn Thù Bồ Tát trả A Nan lại cho cô. Văn Thù Bồ Tát khuyên cô nên theo A Nan về tinh xá gặp Phật, thì cô sẽ thỏa mãn ước mong.

Vừa thấy Phật, A Nan hối hận quỳ khóc nức nở, than bạch với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, từ lâu con lầm tưởng học rộng, nghe nhiều có thể liễu đạo chứng quả. Con cũng nghĩ rằng, con là em của Phật, hằng ngày hầu cạnh Phật, chắc thế nào rồi Phật cũng thương tình ban cho con một qủa vị nho nhỏ. Nào ngờ hôm nay con bị mắc nạn. Con mới hiểu rằng, học mà không tu như đãy chứa sách, khó có thể liễu đạo. Ai tu nấy chứng, chứ không thể tu dùm, không thể nhờ cậy, cũng không ai có thể cho ai quả vị tu chứng được". Nói xong A Nan sụp lạy, hối hận khóc lóc thảm thiết

Đức Phật từ bi khuyên nhủ A Nan. Bấy giờ nàng Ma Đăng càng lúc càng tỏ ra ăn năn tha thiết với đạo, nàng lo ngại sợ mất A Nan. Lòng xốn xang không yên, không còn cầm lòng trầm tĩnh được nữa, nàng liền bước đến trước Phật quỳ bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là bậc đại từ đại bi đại hỷ đại xả. Ngài hãy cứu giúp muôn loài. Ngài chưa bao giờ làm cho bất cứ ai đau khổ. Thế mà hôm nay, Ngài lại nỡ lòng nào làm cho con quá đau khổ, thất vọng như thế này. Bạch Ngài, Ngài có biết không? A Nan là người yêu quý nhất của đời con. Suốt bao tháng ngày con chờ dịp tốt để được thân gần A Nan. Ngày hôm nay sắp được gần, thì Ngài và đệ tử Ngài đã cướp mất người yêu nhất đời con. Ân ái chưa thực hiện, thì đệ tử Ngài đã đến phá vỡ cơ hội ngàn vàng của con, dẫn A Nan về đây. Giờ này, con cúi mong Ngài thương xót cho con được sống gần A Nan trọn đời, để thỏa lòng thương nhớ. Như thế Ngài mới thật là đại từ bi đại hỷ xả".

- Đức Phật từ hòa hỏi Ma Đăng: Con hãy thành thật cho ta biết. Con thương A Nan là bởi vì đâu? Những cái gì làm cho con thương nhớ sâu xa nhất?

- Ma Đăng khóc lóc thưa: Bạch Ngài, con thương A Nan là thương đôi mắt trong xanh, cái mũi dọc dừa, cái miệng có duyên, gương mặt trắng trẻo anh tuấn, dáng người cao ráo trượng phu.

- Đức Phật lại hỏi: Khi con mắt của A Nan chảy ghèn vàng; lỗ tai chảy mủ nhờn; cái mũi chảy nước tanh hôi; cái miệng ngủ dậy không xúc, chảy nước dãi, nước miếng, khạc đờm; cái mặt mọc mụt lở v.v... Rồi một ngày kia A Nan sẽ như thế đó, có đẹp nữa không?

- Ma Đăng nhăn mặt nhíu mày, thưa: Khi đã như thế rồi, bạch Đức Thế Tôn, ghê tởm lắm, có còn gì đẹp nữa đâu!

- Đức Phật giảng dạy, thân này là do tinh cha huyết mẹ hợp lại mà thành. Vốn là tanh hôi bất tịnh. Thân này là giả tạm mộng huyễn, đau bệnh, già chết vô thường. Thân này là đãy da thúi, bọc lấy đồ bất tịnh, nên ngày ngày chảy ra đồ bất tịnh. Thân này có khác gì cầu tiêu lưu động đâu!?

Sau khi nghe Phật giảng dạy xong, nàng Ma Đăng nhận chân được lẽ vô thường, bất tịnh, ô uế của thân người, nên đã xin Phật xuất gia tu học. Đức Phật hoan hỷ nhận lời. Rồi Ngài xoay lại hỏi A Nan:

- A Nan, ông vì sao xuất gia với ta?

- Bạch Đức Thế Tôn! Vì con thấy tướng mạo của Thế tôn trang nghiêm, lại nghe Thế Tôn thuyết pháp âm điệu rất là vi diệu, nghĩa lý rất là sâu xa, nên con thích xuất gia để gần Phật.

- Phật lại hỏi: Ông lấy cái gì để thấy, dùng cái gì để nghe và cái gì để thích?

- Bạch Đức Thế Tôn, con dùng mắt để thấy, tai để để nghe và lấy tâm phân biệt để thích.

- Phật tiếp tục gạn hỏi A Nan tâm ở chỗ nào? Trải qua bảy lần Phật gạn hỏi, và A Nan bảy lần đáp về tâm.

Mỗi lần hỏi như vậy là mỗi lần Đức Phật đưa A Nan trở về cội nguồn tâm linh, phá trừ từng lớp vô minh nghiệp chướng. Cuối cùng A Nan đã nhận chân được tâm mình, đã thành bậc thánh thiện giác ngộ.

A Nan đã khóc lóc buồn than với Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tu mà thiếu bậc minh sư hướng đạo, thiếu bạn tri thức đồng tu, chẳng khác nào con cua không càng không chân; con cọp đui, con rùa mù ở biển khơi; như chiếc thuyền không địa bàn, không tay lái, mãi muôn vạn kiếp sóng dập gió dồi, nổi trôi trên biển khổ luân hồi sanh tử lụy kiếp.

Câu chuyện A Nan mắc nạn Ma Đăng được Phật cứu thoát, sau nhờ Phật khai đạo, A Nan mới thật sự thể nhập vào biển chánh pháp thanh lương, mới thật sự nếm hương vị giải thoát. Câu chuyện này được gói trọn trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm. Người học Phật mà không tìm đọc nghiền ngẫm bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm là một điều thiếu sót lớn lao trên bước đường học đạo tìm về bản thể chân tâm. Không đọc bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm thì khó mà phân định thế nào là chân tâm, thế nào là vọng tâm, tâm ở đâu, tâm là cái gì, và các vị A La Hán Bồ Tát tu thế nào để chứng quả. Nếu không đọc được bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm thì ít nhất cũng nên đọc quyển Triết Lý Thủ Lăng Nghiêm. Không thọ trì kinh này thì khó có thể nhập vào Phật tánh của mình, và cũng không cảm thấy cái thâm diệu của Phật lý, cũng như không biết được cái thú vị của người nhai mía, hay ăn mật ong chính tự tay mình bẻ bắt từ cành cây. Người tu Phật không đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng như người đến thành phố mà không có bản đồ, người thủy thủ không có hải bàn.

Có những người tin Phật mà không muốn học hiểu lời dạy của Phật. Hạng người này chẳng khác nào tín đồ của các thần giáo, tin một cách mù quáng, mê tín. Phật đã từng dạy: "Kẻ tin ta mà không hiểu ta, trước sau gì cũng sẽ hủy báng ta:. Lại có hạng người học hiểu đôi chút giáo lý Phật, rồi nói bô bô ồn ào, phê bình người này, chỉ trích người nọ, vấn nạn người kia. Hạng người này chẳng khác dây đờn reo lên muôn điệu, kẻ khác thưởng thức âm điệu của đờn, nhưng chính dây đờn mòn đứt mà không tự biết thưởng thức được gì. kẻ đó có khác nào con vẹt biết nói tiếng người. Lại còn có kẻ chỉ biết ngồi nhà tụng kinh Đại thừa, ăn chay, tự mò đọc, biết lếu láo vài ba câu kinh kệ, rồi tỏ vẻ bệ vệ tự mãn, tự đắc, tưởng mình thông hiểu kinh điển, nghe ngóng lời đồn chẳng biết thực hư, liền bạo miệng hủy báng khinh chê người này kẻ khác. Thậm chí còn khuyên người khác hủy báng Tăng Bảo, bỏ chùa này theo chùa nọ. Đây là hạng người mà Đức Phật gọi là "Sư tử trùng, thực sư tử nhục". Nghĩa là con vi trùng núp trong lông con sư tử, hút máu sư tử. Theo lời huyền ký của Đức Phật trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, khi tôn giả A Nan hỏi Phật "đời sau nên đem phương pháp nào dạy người tu hành", và trong kinh Đại Tập, thì hạng người trên đây là hiện thân của yêu ma ác quỷ mang lớp người, ngụy làm đệ tử Phật. 

Trên đường hoằng pháp, phát triển đạo đức, xây dựng niềm tin thường gặp nhiều chưóng ngại, phần đông cũng do hạng người tâm địa yêu ma, mà giả trang ngụy tướng là đệ tử Phật, miệng đọc kinh Đại thừa, mà tâm phá hoại Tam Bảo. Miệng ăn chay, nhưng lòng dạ còn hơn rắn độc, thú dữ.

Lại có hạng người vào cửa Tam Bão mượn đạo tạo đời. Lấy đạo tạo uy tín cá nhân, để cho có tiếng tăm dễ hoạt đầu danh lợi. Họ ở nhà thì sợ vợ, sợ con, sợ chồng. Nhưng vào chùa thì muốn sai khiến các nhà tu hành. Hoặc giảcúng dường, giúp đỡ chút ít tiền của cho chùa cho thầy, rồi muốn các thầy phải nghe theo ý mình. Không nghe thì giận thì hờn, tìm cách hại thầy, chống phá chùa, bày đặt chuyện ác để khuyến dụ người bỏ chùa, hùa theo kẻ tà ma xưng phật xưng Thánh. Hạng người này gọi là ma đầu. Nghĩa là muốn hướng đạo người vào con đường mê tín yêu ma. Muốn tục hóa đạo, muốn tạo sóng gió cửa thiền.

Trước khi vào Niết Bàn, Đức Phật có lời dạy: "Trong thời kỳ chánh pháp, thời Đức Phật còn ở đời, chúng sanh phước huệ tu chứng kiên cố. Người ở thời chánh pháp này, nói ít làm nhiều, tín tâm sâu sắc, hễ tu thì phần nhiều được chứng, Trong thời thời kỳ tượng pháp, thời sau Đức Phật nhập Niết Bàn khoảng chừng ba trăm năm đến ngàn năm, chúng sanh trong thời này thiền định kiên cố. Người tu thích thiền định và vui sống trong thiền địnhchứng quả nhưng số lượng ít hơn thời Phật còn tại thế. Trong thời mạt pháp, thời tiếp sau Phật nhập Niết Bàn ngàn năm về sau, chúng sanh trí thức kiên cố, nhiều nghi hoặc, nhiều cố chấp, ít tu hành thích lý luận kém chứng quả. Thời đại mạt pháp này là thời đại chấp tướng, tà tâm, chánh tà lẫn lộn, đem điều tà ngụy để mê hoặc người chánh tâm, đem việc đời làm hoen ố đạo. Thời mạt pháp thường có loài tinh ma hiện hình là để tử Phật, chúng ngụy xưng là Phật hiện, là Bồ Tát hóa thân, nói lời Phật để mê hoặc lòng người tin theo, với ý đồ làm ô uế Phật Pháp để cho Phật Pháp sớm hoại tiêu diệt. Người tà niệm tin theo họ cũng nhiều. Đồ đệ chúng cũng tự xưng chứng thánh. Chúng ma này cũng tạo thành thế lực. Thế nên người tu học Phật thời mạt pháp này phải hết sức sáng suốt, hết sức kiên nhẫn, mới mong khắc phục chướng ngại ngoại cảnhnội tâm. Phải cần nương nhờ tha lực của Phật".

Thưa quý vị, tôi đã trình bày những hiện tượng đã xảy ra và đang sẽ xảy ra trong câu chuyện đạo. Những mong sao quý vị về đây tu tập vào những cuối tuần, chắc đã hiểu được thế nào là người con Phật, đã tìm ra định hướng cho chính mình, là đệ tử Phật cần phải luôn luôn sống lại nội tâm, kiểm điểm hành vi tâm niệm hằng này, theo gót chân Phật; phải luôn luôn cảnh tỉnh mình và thức tỉnh bạn đạo, người có tâm học Phật trên đường giác ngộ; phải luôn luôn phát lời nguyền theo chân Phật, sớm tìm minh sư học đạo, sống đời sống từ bi hỷ xả, mang tâm nguyện vị tha, sống cho ý nghĩ đạo pháp cao siêu, cho từ bi vô lượng. Sống cho mình và người ngày một thêm rạng ngời tình thươngtuệ giác.

 

 

 

17. PHƯỚC BÁO NHIỆM MẦU

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về phước báo. Người đời vì không hiểu không tin nhân quả phước báo, nên không xả bỏ nổi tâm tham lam bỏn sẻn, không cố gắng làm việc từ thiện bố thí cúng dường, nên phải chịu quả báo khổ sở bần cùng.

Thuở Đức Phật Thích Ca còn tại thế giáo hóa độ sanh ở thành Xá Vệ nước Ấn Độ, có vị vua tên là Ba Tư Nặc. Nhà vua vốn là một Phật tử thuần thành, tánh tình thuần hậu, nhân ái, lấy đức trị dân. Đối với các nước láng giềng, nhà vua lúc nào cũng giữa thái độ hòa mục hữu nghị. Nhà vua không thích thấy cảnh binh đao chém giết. Là một bậc minh quân đức độ như vậy, nên chẳng những dân chúng trong nước tin tưởng kính mến, mà các nước lân bang cũng đều kính phục.

Vua Ba Tư có ba vị công chúa. Công chúa thứ nhất tên là Kim Cương, thân hình xấu xí, từ bé đến lớn ở ẩn trong thâm cung, không mấy khi lộ diện, để tránh tiếng người đời bình phẩm cười chê. Công chúa thứ hai tên là Thiện Quang. Công chúa thứ ba tên là Bà Đà, vị công chúa này sớm đã sống xa Quốc vương và Hoàng Hậu.

Riêng về Thiện Quang công chúa không những sắc đẹp tuyệt trần, nhất là về đêm toàn thân sáng rỡ lại đẹp thùy mị nết na, thông minh lanh lẹ, lễ độ bặt thiệp dịu dàng. Đối với mọi người, công chúa Thiện Quang lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn nhã nhặn, thương người giúp kẻ hoạn nạn, nên được dân chúng ngưỡng mộ kính mến.

Một ngày nọ, nhân lúc rãnh việc triều đình, nhà vua cùng gia thuộc và cận thần đến vườn ngự uyển thưởng hoa ngắm cảnh. Thiện Quang công chúa theo hầu cạnh bên vua cha. Nhân lúc xem hoa thưởng nguyệt, nhà vua cao hứng hỏi công chúa văn thơ thi phú, lý sinh tồn của tinh tú vạn vật, mỗi mỗi công chúa đều đáp ứng thông suốt. Nhà vua đắc ý gật đầu về sự thông minh tuyệt vời của con mình. Rồi nhà vua nói với công chúa rằng: Này con, Phụ vương con làm vua một nước, trị dân thanh bình, trăm họ trên dưới đều kính mến. Con nương nhờ phước đức Phụ vương nên được trăm họ mến mộ. Điều này chỉ riêng con mới được phước thù thắng như vậy. 

Vừa nghe qua lời của vua cha nói, công chúa Thiện Quang từ tốn thưa:

- Tâu Phụ Vương, con đã nương nhờ thân thể của Phụ Vương và Mẫu Hậu đầu thai vào làm con gái Phụ Vương. Đương nhiên con phải kính hiếu để đền đáp công ơn sanh dưỡng rộng sâu như trời biển. Nhưng con được mọi người quý mến đâu phải nhờ Phụ Vương, mà đó là do phước báo chính nơi con đã tạo từ nhiều đời trước bằng sự tu nhân tích đức. Uy tín của chính mình tạo mới thật bền lâu, chứ còn nhờ cậy ảnh hưởng của cha mẹ hay người khác thì rất ít và đâu có chắc thật lâu bền. 

Vừa nghe, vua Ba Tư Nặc không hài lòng, nghĩ rằng: Thiện Quang, con gái mình từ lâu tánh tình vốn là hiền dịu hiếu thuận, không khi nào làm cho ai phật lòng. Nhưng tại sao hôm nay bỗng nhiên đổi tánh dám nói với ta những lời đại ngôn, tự cho mình là có phước báo mà không phải nhờ ta. Phải chăng phước vận nó đã hết. Nó sẽ chịu khổ? Nghĩ vậy rồi, sắc mặt nhà vua sa sầm, lòng nhà vua trầm buồn nghiêm khắc. Gọi Thiện Quang công chúa mà phán rằng:

- Này con! Con nói chính do con đời trước có tu hành mà nay được hưởng phước báo quả tốt. Vậy nay đây ta thử coi phước báo của con to lớn đến bực nào. Nhà vua phán xong, bảo công chúa lui về hậu cung.

Vua Ba Tư Nặc liền gọi một vị cận thần tâm phúc đến bảo nhỏ rằng: "Ta giao cho ngươi nội trong bảy ngày, ngươi bí mật ra ngoài thành kiếm cho ta một chàng trai đẹp khỏe, tuổi trẻ độ chừng Thiện Quang công chúa, tức cố vô thân, nghèo đói ăn xin, không nơi nương tựa, bí mật đem vào vườn sau cho Trẫm. Việc này tuyệt đối không được tiết lộ cho ai biết cả, ngoài ngươi và ta".

Ba ngày sau, vị cận thần này đã tìm dắt về một chàng trai áo quần cũ rách, làm nghề hành khất. Nhà vua được báo tin, liền đổi áo thường dân lặng lẽ một mình ra vườn sau, vừa thấy chàng ăn mày dáng mạo trẻ khỏe hiền từ, áo quần rách rưới, vua Ba Tư Nặc rất bằng lòng phán rằng:

- Nhà ngươi còn trẻ quá, chắc chưa có vợ con chi? Nếu chưa có mà nhà ngươi thật tình muốn vợ, thì ta có thể tặng cho nhà ngươi một thiếu nữ trẻ đẹp để làm vợ, và cho phép nhà ngươi tùy ý dắt đi ngay.

Trước sự bất ngờ, chàng ăn mày tưởng chừng như mình nằm chiêm bao không biết đây là thực hay mộng. Vì đã từ bé đến giờ sống trong hoàn cảnh đói khổ thiếu ăn thiếu mặc, chàng nào có bao giờ dám nghĩ đến chuyện vợ con. Vừa nghe nhà vua nói như vậy rồi, anh mừng không kể xiết, quên cả chính bản thânhoàn cảnh của mình. Anh vội gật đầu lia lịa thưa:

- Bẩm Ngài! Ngài có lòng nhơn từ thương xót kẻ tiểu nhân hạ tiện thì thật là quý hóa, tiểu nhân xin đời đời kiếp kiếp ghi ân không hết, nào dám chối từ.

Vua Ba Tư Nặc liền gọi Thiện Quang công chúa đến phán rằng:

- Này con! Con nói ngày nay con được đẹp đẽ phú quý, được mọi người kính mến là chính tự phước báo của con. Để xem phước báo của con đến độ nào, nên nay cha đồng ý gả con cho chàng trai khốn cùng này. Vậy con hãy gấp rút ra khỏi thành nội ngay bây giờ, không được mang theo một thứ gì, để đi sống với nó.

Tuy bất ngờ, nhưng công chúa Thiện Quang chẳng những không buồn hận vua cha, mà còn không tỏ ra mảy may lo âu cho tương lai số phận mình. Nàng tin tưởng mãnh liệt vào nhân quả tội phước. Nên nàng thản nhiên từ giã đời sống công chúa nhung lụa giàu sang, không chút tiếc nuối. Nàng đổi áo hoa lệ cao quý của đời sống công chúa để mặc lên mình chiếc áo vải thô sơ, thường dân, không đem theo bất cứ một thứ gì. Nàng thản nhiên lạy vua cha từ biệt, rồi cùng với chàng ăn mày bước ra cửa sau vườn ngự uyển, lặng lẽ rời hoàng cung.

Công chúa Thiện Quang lòng không chút nao núng lo âu, thản nhiên cất bước. Đi một quãng đường xa, gối mỏi, chân cảm thấy đau, nàng hỏi chàng ăn mày:

- Thưa chàng, chàng ở nơi nào. Cách đây còn bao xa. Có nhà cửa gì để nương thân không?

Chàng ăn mày lòng áy náy ấp úng đáp:

- Không dấu diếm gì cô. Khi tôi vừa mới sinh ra, nhà tôi còn giàu có lắm, gia sản rất nhiều. Nhưng sau khi cha tôi trả áo từ quan, buồn lo thế sự không làm việc gì. Sau đó không mấy năm, gia đình sa sút hẳn. Cha tôi già lại buồn vì thân phận gia cảnh, nên sanh bệnh rồi chết sớm. Mẹ tôi cũng bị ảnh hưởng nỗi buồn của cha tôi rồi chết theo luôn. Lúc đó cha mẹ tôi bỏ lại cõi đời đứa con hãy còn thơ ấu là tôi. Tôi không còn cha mẹ nương náu hướng dẫn. Dần dần nhà cửa đổ nát với thời gian. Vườn nhà tuy rộng, nhưng không người chăm sóc, nên hoang phế. Ngôi nhà hoang phế của tôi cách đây không xa lắm cô à.

Thiện Quang công chúa nghe xong, lòng vui mừng bảo chàng ta rằng: Như vậy tốt lắm. Chúng ta trước hết nên đi đến nơi đó thăm nhà để nghỉ ngơi, rồi sẽ tính sau.

Không mấy chốc, công chúa Thiện Quang theo sau chàng ăn xin, vừa bước vào cổng lớn, một cảnh tượng nhà cửa phòng ốc cũ kỹ xiêu vẹo đổ nát, vườn đầy cỏ dại hoang tàn. Cả hai cùng đi xem khắp vườn một lượt. Khi đến một góc vườn, công chúa Thiện Quang thấy có loại cỏ hương thơm ngạt ngào. Công chúa linh tính nghĩ rằng, thứ cỏ này chắc là cỏ thuốc có thể trị bệnh được. Nhân đó, một nguồn hy vọng vui vui nảy sanh trong lòng Thiện Quang. Đến một góc vườn khác, thấy bày ra một đống ngói đá gạch vụn cao như gò núi, không mọc một cây cỏ nào, công chúa lấy làm lạ, trèo lên ngồi nghỉ chân, nhìn quanh ngắm cảnh nguy nga hoa lệ của quan phủ ngày trước, nay đã hoang tàn.

Công chúa ngồi lấy tay bươi gạch đá vụn để khuây khỏa theo dòng tâm tư nghĩ vể thân phận mình. Bỗng phát hiện một tấm đá hoa cương bằng phẳng tuyệt đẹp. Thiện Quang kinh ngạc, mừng gọi nhỏ chàng ăn mày giúp sức với nàng để đỡ lấy tấm đá tinh mỹ kia lên dùng làm ghế ngồi. Thật lạ thay, vừa lật tấm đá hoa lên, nào ngờ tấm đá hoa cương kia chính là cái nắp đậy của một hàm vàng châu báu hiển hiện sáng chói. 

Chàng ăn mày chưa từng thấy châu báu bao giờ. Nên vừa thấy, chàng ta kinh ngạc vui mừng vỗ tay nhảy nhót reo hò cười to khoái chí!

Để tránh người đời dòm ngó, công chúa Thiện Quang đưa tay ra hiệu khuyên chàng trầm tĩnh ngồi xuống để nhặt lấy của quý. Thiện Quang cùng chàng ăn mày quyết định ở lại khu vườn hoang phế. Sau khi bất ngờ được hầm vàng, Thiện Quang công chúa đã gọi nhiều tay thợ giỏi đến, y theo ý tưởng của nàng phác học xây cất nhà cửa lâu đài. Chẳng mấy thời gian, những tòa lâu đài nguy nga tráng lệ hoàn thành. Mọi người xa gần đều tán thưởng khen ngợi. Tiếng khen đồn khắp, không mấy chốc đồn vào cả hoàng cung, đến tai vua.

Vua Ba Tư Nặc khi nghe tin đồn rất đổi ngạc nhiên, bán tín bán nghi, nghĩ rằng công chúa ra đi không đem theo một vật gì, kể cả nữ trang áo quần quí giá đều bỏ lại. Chàng ăn mày thì đói khổ rách rưới. Đúng ra thì cuộc sống của chúng nó phải khốn khổ lắm chứ. Sao mới đây lại được giàu sang, xây cất lâu đài huy hoàng không thua gì cung điện của ta? Lạ thật!

Nhà vua rất đổi kinh ngạc, nghĩ không ra. Thật công chúa Thiện Quang con ta có được phước báo lớn vậy sao? Mà phước báo từ đâu đến? Không tự giải đáp nổi về cội nguồn của phước báo, nên vua Ba Tư Nặc phải đến cầu thỉnh Đức Phật giảng giải về nhân duyên phước báo đời trước của công chúa. Đức Phậtxót thương tâm địa vô minh ám chướng của vua Ba Tư Nặc, Ngài khai thị:

- "Này Đại Vương, thuở đời quá khứ có một vị Quốc Vương tên là Bàn Đầu. Vương hậu là một người rất mực sùng kính Tam Bảo, thích làm việc từ thiện bố thí.

Lúc bấy giờ Đức Phật Tỳ Bà Thi ra đời thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Sau khi Phật thị hiện tịch diệt Niết Bàn, Vương hậu nhớ tưởng đến Đức Phật, cho mời thợ giỏi khéo nhất trong nước vào cung để khắc tượng Phật tôn thờ cho đỡ bớt nhớ. Đồng thời để tỏ lòng tôn kính Đức Phật Tỳ Bà Thi, Vương hậu đêm đêm kính lễ tượng Đức Phật. Do lòng tin sùng tôn kính Đức Phật Tỳ Bà Thi Như Lai của Vương hậu với tâm nguyện đem tất cả châu báu dâng cúng Phật, bố thí người nghèo, sau đó Vương hậu còn phát nguyện rằng, trong tương lai đời đời được sanh vào nhà giàu, tin kính Tam Bảo, tiếp tục làm việc phước thiện, thân đẹp hương thơm.

Rồi đến thời Đức Phật Ca Diếp ra đời, giáo hóa chúng sanh, Vương hậu cũng sanh vào trong gia đình giàu có. Đối với việc bố thí từ thiện, bà lại càng tinh tấn phát tâm hơn. Nhứt là việc cúng dường phát tâm, không một chút lẩn tiếc. Có một lần nọ, Bà cung thỉnh PhậtChư Tăng đến nhà để cúng dường thọ trai, nhưng chồng bà keo kiết lẩn tiếc cho rằng bố thí cúng dườngviệc làm uổng của tốn tiền vô ích. Chỉ riêng một mình bà hiểu tin công đức bố thí được phước báo vô lượng thôi.

Nếu các đời trước không làm việc bố thí, thì đời nay không thể nào được phước báo như vậy. Trên đời này biết bao kẻ bần khốn? Bởi do những đời trước có tâm lượng hẹp hòi tham lam bỏn xẻn. Nên biết rằng, bố thí không những chỉ đem vật bố thí, mà thấy người khác làm hạnh bố thí, mình cũng nên khởi tâm vui mừng khen thưởng. Được như vậy, thì cũng sẽ tiêu trừ ác duyên tội chướng, tăng trưởng nhiều phước báo.

Hoàng hậu không những tinh tấn vui thích làm việc bố thí, mà còn hết lòng tìm cách khuyên chồng. Sau đó người chồng cũng tỉnh ngộ sửa sai, phát tâm cùng bà đồng làm việc thiện, bố thí, cúng dường, hộ đạo, tạo nhiều chùa viện tăng xá.

Phu nhân kia chính là tiền thân Thiện Quang. Người chồng keo kiết chính là chàng thanh niên khốn khổ ăn mày ngày nay vậy. Chỉ vì một niệm tham sân cua chàng ngày trước mà ngày nay phải chịu thống khổ suốt hơn nữa cuộc đời làm kiếp ăn mày".

Phật nói tiếp: - Tâu Đại vương, thiện ác nhân quả báo ứng như bóng theo hình, quyết không sai sót. Một lần trồng, mười lần ăn. Đó là chân lý. Một hạt ổi được gieo và săn sóc kỹ thì nhất định sẽ hưởng được trăm ngàn trái ổi. Công đức bố thí cũng vậy!

 

 

 

18. TỂ TƯỚNG ĐẦU PHẬT

Kính thưa quý vị,

Đạo Phật là đạo tùy tâm sở nguyện, hành thiện tu đức xuất phát từ tâm thành. Tuyệt đối không có cảnh dụ hoặc a dua. Bởi mục đích của Đức Phật là đưa người đến giác ngộ giải thoát nỗi khổ sanh tử luân hồi. Còn danh lợi quyền thế là còn hệ lụy phiền não khổ đau. Vì thế, người nào chân chánh thực hành lời Phật dạy thì sẽ cảm nhận ngay hạnh phúc cho mình và đem lại an lạc cho người.

Khi Đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly thuyết pháp, dân chúng ở đây hâm mộ nô nức tiếp rước Ngài, ai nấy đều phát tâm tinh tấn tu hành. Những nhà phú hộ, các vị đại thần thi nhau phát tâm mua vườn xây cất tinh xá thỉnh Phật ở, để Phật thuyết pháp giảng đạo hướng dẫn hoặc tu hành.

Mọi cõi lòng người dân ở đây hâm mộ Phật pháp, phát tâm học đạo, hộ trì Tam Bảo, khuyên nhau làm việc thiện, tạo nên cái không khí vô cùng hân hoan cho thành Tỳ Xá Ly, mà trước đây chưa từng thấy bao giờ. Ngoài việc làm ăn sanh sống hằng ngày, ai nấy đều hăng hái đến nghe Phật thuyết pháp. Những quán rượu, những sòng bạc, những dạ hội truy hoan trụy lạc đã vắng khách. Trẻ già cô độc không nơi nương tựa; người nghèo tàn tật bệnh họan thiếu thốn thuốc thang, thiếu người hỏi han chăm sóc, từ bấy lâu kéo lê cuộc sống hẩm hiu trong cái xã hội nặng nề giai cấp thiếu tình thương, thi đua hưởng thụ, mạnh được yếu thua, khôn hiếp dại, mạnh ai nấy sống, thì nay đều được Phật và hàng đệ tử của Ngài thân đến thăm viếng an ủi giúp đỡ. Phật còn khuyên hàng đệ tử nên đào giếng thí nước, cất bệnh xá cho thuốc, săn sóc người quan quả cô đơn, tổ chức hội bố thí, lập thành những đoàn người từ thiện thăm viếng kẻ tật nguyền côi cút v.v... 

Sau khi Đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly thuyết pháp giáo hóa thì cảnh cô đơn tủi phận đã vắng bóng, thay vào đó mọi cõi lòng đều được sưởi ấm bởi giáo Pháp của Phật và tình người biết tu hành làm thiện, xem nhau như tình huynh đệ, không còn trạng huống giai cấp trọng khinh nặng nề nữa.

Về phương diện tinh thần không phân biệt hạng người nào, Đức Phật bình đẳng dùng mọi phương tiện thuyết pháp về lý nhân quả luân hồi, khuyến hóa mọi người hướng thiện dưỡng tánh tu tâm. Ai nấy đều hoan hỷ tinh tấn tu học, tiêu đi bao nỗi buồn phiền sầu muộn. Trên mặt mọi người đều lộ vẻ hân hoan như cây nắng hạn lâu ngày được mưa, trăm hoa gặp mùa đua nở.

Lúc bấy giờ có vợ của quan Tể tướng, thấy vợ các quan đại thần hân hoan rủ nhau đi nghe Phật thuyết pháp trong cái không khí sinh hoạt hân hoan của dân chúng rộn rả vui tươi, khắp đó đây trên mặt mọi người dân đâu đâu cũng lộ vẻ hoan hỷ tin tưởng. Khắp trong cung nội ngoài thành, người ta dụm năm tụ bảy nói về Phật. Tán thưởng công đức của Phật và khâm phục sự kỳ diệu giáo lý của Ngài.

Để thỏa mãn lòng hiếu kỳ, thừa lúc quan Tể tướng vào tướng phủ lo việc quan, bà Tể tướng phu nhơn cùng với vợ các đại thần và đoàn thị nữ đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, để xem thực hư ra sao mà người ta hân hoan đến thế. Bởi bà chưa từng bao giờ thấy mọi người hân hoan trong niềm tin tưởng, tạo thành cái sinh khí hân hoan cho cả cảnh vật trong nội ngoài thành như vậy. Bà thấy sao mà khi Phật đến thuyết pháp, mọi người sống gần nhau hơn, thân tình nhau hơn và vui vẻ giúp đỡ nhau hơn. Mọi người không còn rủ nhau bài bạc, không còn bận tâm chưng diện áo quần, mà chỉ nói về Phật, lo làm việc cúng dường Tam Bảo, rủ nhau làm việc phước thiện, và bàn đến chuyện tu tâm, việc công đức. Cái không khí sinh hoạt khác hẳn đó đã làm cho Tể tướng phu nhân rất đổi ngạc nhiên, dù không muốn nhưng trong lòng cũng thấy có sự lôi cuốn. Bà vốn ghiền chơi bạc, nhưng giờ đây vợ các quan đại thần đều tìm cách từ chối khéo không ngồi chơi với bà nữa. Hỏi thì họ bảo rằng bây giờ bận lo việc Phật Pháp được lợi ích an vui hơn. Tể tướng phu nhơn cảm thấy chưa bao gìờ bị lẻ loi như thế này. Thấy vậy, bà cũng đi theo vợ các quan đến ra mắt Phật. 

Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Tể tướng phu nhơn đã hiểu được lý đạo, tâm trí mở mang. Bà tinh tấn phát tâm quy y Tam Bảo. Từ đó mỗi ngày thừa lúc Tể tướng vào triều lo việc quan, bà không những cùng các thị nữ thường đi nghe Phật thuyết pháp, mà còn khuyến khích các đại thần phu nhân khác cùng tinh tấn phát tâm tin Phật, làm việc thiện.

Viêệ sốt sắng hộ đạo của bà đã làm cho quan Tể tướng và các con bực mình. Họ đã dùng hết cách ngăn cản, nhưng lòng mộ đạo, tâm hộ pháp của Tể tướng phu nhơn chẳng những không lay chuyển, mà còn tinh tấn hơn nhiều. Bà thường thầm tự nhủ rằng, Phật dạy: "Trên con đường tu hành để đạt đạo, dù vấp phải trở ngại lần thứ một trăm, cũng phải mạnh dạn đứng đậy tiếp tục như lần đầu". Do đó, quan Tể tướng phu nhơn và các công tử tìm đủ cách ngăn giữ bà trong tướng phủ, không cho đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, đều vô hiệu quả.

Quan Tể tướng lại bày ra đủ thứ tiệc tùng dạ hội, những cuộc du sơn ngoạn thủy để cho bà lãng quên việc hộ đạo đi nghe Phật thuyết pháp, nhưng bà không màng đến. Cuối cùng, quan Tể tướng cùng với các công tử đã có lần thành khẩn khuyên bà ở nhà tu cũng được, tu đâu cho bằng tu nhà. Họ khuyên bà ở nhà tu để còn có thì giờ cùng chồng con hưởng lạc thú phú quý vinh hoa. Bà đã nói vói quan Tể tưóng và các công tử rằng: "Phú quý giàu sang mà ta hưởng ngày nay đây phải tự nhiên bay đến cho ta. Mà nhờ đời trước ta đã khéo vun trồng phước đức, nên nay ta mới được quả tốt. Như trồng cây ăn trái, nếu chỉ biết hái hoa bẻ trái để dùng, mà không tiếp tục gia tâm gắng sức bón phân tưới nước, thì cây kia sẽ sớm khô tằn cằn cỗi. Phước đức của con người cũng như cây trái vậy. Phú quý giàu sang liên quan mật thiết với việc tu bồi phước đức, như bóng với hình. Người đời chỉ biết tu, biết làm phước đức khi nghèo thiếu tật nguyền hoạn nạn. Nhưng khi giàu có lành mạnh được danh vọng bạc tiền, thì chỉ biết hưởng thụ, quên đi việc tu hành. Nên cứ mãi quanh quẩn thăng trầm rồi lại phải nghèo, nghèo rồi giàu, vui rồi lại khổ, khổ lại vui, ràng buộc trong vòng lục đạo luân hồi sanh tử. Hưởng hết phước, rồi phải trở lại nghèo khổ đói rách. Đó là do thích hưởng thụ, vụng đường tu hành".

Tâm giải thoát hiểu đạo cùng với sự quyết tâm tinh tấn tu hành của Tể tướng phu nhơn, đã làm cho quan Tể tướng và các công tử của bà không còn cách khuyên ngăn nữa. Bà càng tinh tấn tu hành thì những người này càng ghét Phật, lòng ích kỷ, keo kiết, tánh không thích bố thí của các công tử và quan Tể tướng càng tăng gia, họ rất đổi bực tức sân hận. Nước đã tràn, không còn cầm lòng được nữa, một bữa nọ, quan Tể tướng dẫn đoàn cận vệ hùng hổ gấp rút đến tinh xá để bắt ép Phật, cấm đừng cho Tể tướng phu nhơn đến nghe Phật thuyết pháp hộ đạo nữa. Khi đến nơi, quan Tể tướng thấy mọi người cùng với Tể tướng phu nhơn đang thành kính quỳ gối đảnh lễ Phật cầu xin hỏi đạo, lòng quan Tể tướng càng thêm bất mãn, quan Tể tướng bước sấn vào hỏi Phật:

- Này ông Phật! Ông có biết sự cao quý và linh thiêng của cái đầu người ta không! Có biết trong đám người đang sụp quỳ lạy ông đó có Tể tướng phu nhơn của ta không! Cớ sao ông để người ta cúi đầu sát đất đảnh lễ như vậy?

- Đức Phật im lặng một hồi, rồi với giọng từ hòa bình thản, Ngài nói: "Có bao giờ người ta lạy quan Tể tướng một cách thành khẩn mà không có một sự cầu xin điều gì chưa? Có bao giờ mọi người cùng lạy một người hoặc một đấng thần linh mà không có cầu xin ân huệ hay bởi một quyền uy hiệu lệnh chưa? Hơn nữa, ta tuyệt nhiên không phải là một đấng thần linh, cũng không có một lợi lộc để ban thưởng và cũng không có quyền uy để giáng phạt ai. Ta cũng chưa hề bảo ai phải tuyệt đối nghe ta mà thiếu sự hiểu biết ta. Tể tướng bảo rằng đầu người cao quý linh thiêng. Vậy xin Tể tướng thử đem đầu người, đầu heo, đầu gà, đầu cá v.v... ra chợ treo bán xem, người ta sẽ chọn mua đầu nào? Đầu nào được người mua thì có giá trị.

- Vậy Ngài đã ban ân huệ gì cho người đời, mà được người đời tâm thành nô nức đem cúng dường đất, vườn, giảng đường, tịnh thất, vật thực hàng ngày? Tể tướng hỏi.

- Đức Phật đáp: Ta chưa từng thấy cho ai một điều gì, và cũng không thấy ai cho ta. Ta đến với đời và mọi người đến với ta đều do tâm nguyện.

- Quan Tể tướng: Lạ thật! Ngài bảo không thấy ai cho. Vậy vườn cây, giảng đường, Ngài thọ dụng từ đâu mà có!

- Ta đã nguyện dẫn đường cho đi. Ta chỉ thuốc trị bệnh. Ta đánh trống Bát Nhã để người đời tỉnh thức ra khỏi mê mộng. Đường giải thoát người đời đã thấy. Thuốc trị bệnh người đời đã biết. Trống Bát Nhã người đời đã nghe. Chỉ còn có việc người đời chịu đi, chịu uống, và chịu nghe để tỉnh thức thế thôi.

Đức Phật tiếp, ta mang tâm nguyện vào đời. Người đời mang tâm nguyện đến với ta. Tâm nguyện vốn là vô giá để thánh thiện hóa cuộc sống của mọi người. Tâm nguyện của mọi người do mọi người định đoạt lấy. Người xuất gia là người thoát ra ngoài ân oán, cá nhân. Người xuấy gia chỉ biết đem từ bi giác ngộlợi tha để trang trải cho đời. Gia tài của người xuất gia chỉ có chiếc áo cà sa, cái bình bát để độ nhật qua ngày. Lấy trời làm nhà. Lấy đất làm giường vá lấy gốc cây làm gối. Nơi nào chúng sanh cần thì đến. Chúng sanh hết cần thì đi. Đến đi với cõi lòng vị tha thênh thang rộng mở. Đời sống của người xuất gia là sống cho đạo pháp cao siêu, cho từ bi vô lượng, cho tình thương trải rộng thấm sâu vào lòng người và cho lẽ sống giác ngộ.

Tam Bảoruộng phước điền. Người đời muốn vun trồng cội phước, nên đem phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Cúng dường là đem hạt guống lành gieo vào ruộng phước. Cũng như vậy, vườn, chùa, thiền thất, giảng đường có ra là để người đời gieo trồng cội phước, nơi thanh tịnh tu học, chỗ nương tựa tinh thần. Tam Bảo có là vì đời và cho đời. Khi người đời đã giác ngộ thì không còn Tam Bảochúng sanh. Nên người nào thực hành cúng dường bố thí thì được phước lợi trước.

Tể tướng nói: Nhưng thưa Thế Tôn, tôi không muốn Ngài khuyên Tể tướng phu nhơn của tôi tu quá nhiều, mất cả thì giờ lãng quên bổn phận đối với gia đình.

- Bổn phận cho trí tuệ cao siêu, cho từ bi cứu đời, cho lợi tha giác ngộ, đó là bổn phận của kẻ đại nhân cứu thế. Ngược lại, bổn phận chỉ biết cho chồng con cháu chắt, đầu tắt mặt tối cho tình cảm ái ân, quanh quẩn cho hạnh phúc cá nhân, quanh năm suốt tháng lo cho mình no ăn dư để, bo bo giàu có, giữ của, mặc cho đời thiếu thốn đói rách, không biết tu bồi phước đức giúp đỡ người đời, đó là thứ bổn phận ích kỷ hại nhơn. Đó là hiện thân của những kẻ vừa mới thoát kiếp ngạ quỷ, hoặc sắp sa vào ba đường ác. Những người như vậy cho dù sống ở đời đến trăm năm cũng chẳng có lợi ích gì cho chính bản thân của họ. Nghiệp lực của tham lam bỏn xẻn sẽ lại dẫn họ trở vào đường tăm tối. Khổ nghiệp sẽ đeo đuổi theo họ đời đời. Đạo của ta là đạo thanh tịnh giải thoát, là đạo của từ bi hỷ xả. Đạo của ta là cửa giác ngộ giải thoát.

Ta đến với đời bằng tâm nguyện độ sinh. Người đời đến với ta cũng bằng tâm nguyệnchí hướng thánh thiện lẽ sống. Ta chưa từng gõ cửa bất cứ nhà người nào để bảo người ta tin ta. Ta cũng chưa từng sai bảo bất cứ người nào trong hàng đệ tử của ta làm việc như vậy. Những ai dùng tiền bạc, danh vọng, thực vật, thế lực để dụ dỗ người khác tin theo đạo ta là những kẻ muốn phá hại ta. Những ai tin ta mà không hiểu ta là những kẻ sẽ bội phản ta. Đạo của ta là đạo như thật. Thật như không khí, như ánh sáng mặt trời, như nước, như đất. Muôn vật tự đó mà sanh trưởng. Không khí, ánh sáng, mặt trời, đất, nước không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào nơi vạn vậtcon người, mà chỉ mang nguồn sống, nắng ấm và ánh sáng cho muôn loài. Con người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho chính hành vi và tâm niệm của mình. Ta đã từng nói điều thiện, việc ác, thăng hoa hay trầm luân của con người là do chính con người tự tạo lấy. Sự đến cõi đời này của con người do tội và phước đưa đẩy. Và khi ra đi với con người cũng cũng chỉ có tội và phước đi theo. Những gì ta có ở cõi đời này ta sẽ trả lại cho đời. Dù ta có luyến tiếc đến đâu, vợ con nhà cửa tiền bạc cũng phải bỏ lại sau lưng, khi ta nhắm mắt từ giã cõi đời. Ngay đến con ta sinh ra, vợ chồng thân cận cũng không thay thế sự đau nhức bệnh hoạn cho ta được.

Cho nên, mọi việc thiện ác thăng trầm của đời ta chính ta tạo ra, thì ta phải nhận lấy trách nhiệm. Ta là một con người như bao nhiêu con người. Ta là một chúng sanh như muôn ngàn chúng sanh. Ta nhờ rõ biết cảnh đời là vô thường, con người bị trói buộc trong sanh, già, bệnh, chết, dày vò bởi tham sân, si, đọa đày trong ân oán, nên ta đã sớm dứt khoát ra đi tu hành tìm chân lý mà được giác ngộ thành Phật, thoát khỏi sanh tử luân hồi, vượt ngoài thị phi đố kỵ đa đoan của trần thế.

Tể tướng hỏi: Bạch Thế Tôn, nếu Ngài nói thế thì tất cả mọi người tu đều có thể giác ngộ thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi hết sao?

- Đức Phật đáp: Ta đã từng nói, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, với điều cần yếu là phải thực tâm tinh tấn tu hành. Đạo của ta là đạo như thật. Cho nên người tu hành phải nói lời chân thật. Phải nghĩ những ý nghĩ chân thật, và làm những việc làm chân thật với tinh thần từ bi hỷ xả, sống đời vị tha thì người đó sẽ thành Phật. Khả năng thành Phật của chúng sanh thật là dồi dào. Hoàn cảnh của kiếp người không khổ quá cũng không sướng quá, rất thuận duyên cho việc tu hành thành đạo. Cảnh trời quá sung sướng, nên người nơi đó chỉ lo hưởng phước giàu sang sung sướng mà quên đi việc tu hành. Cõi địa ngục quá khổ đau tăm tối không còn có tâm thầnthời gian để tu tập. Địa ngục cũng như cõi trời lại không có Phật Pháp, khó có thiện duyên để phát tâm tu hành. Vì thế hột giống Bồ Đề khó phát triển.

- Quan Tể tướng hỏi: Bạch Thế Tôn, như tôi có thể tu hànhthành đạo được không?

- Đức Phật đáp: Chúng sanh trong cảnh giới Ta Bà ác trược này chẳng khác nào như sen ở trong đầm bùn nhơ nước đọng. Sen trong đầm có cái đã được vượt lên khỏi bùn nhơ nước đọng, nở hoa tô điểm cho đời ngát hương sắc thắm. Có cái vừa vượt khỏi lớp bùn nhơ. Có cái còn ngập dưới nước ao đầm, đang cố vươn lên khỏi mặt nước để nở hoa. Có cái còn chôn dưới lớp bùn đang cố vươn lên để cùng theo những hoa sen đã ra khỏi mặt nước. Cảnh đời ngũ trược nào khác bùn nhơ nước đọng của ao tù đầm sen. Sen trong đầm nào khác chúng sanh ở cõi đời này. Có cái đã vươn lên mặt nước trổ hoa. Có cái còn ngập trong nước. Có cái còn cựa đọng dưới lớp bùn để cố vươn lên. Có cái vừa mới nẩy mầm ra khỏi gốc sen. Chúng sanh trong cõi đời này cũng vậy. Có người đã tu hành giác ngộ giải thoát. Có ngưòi học hành thông minh tinh hiểu Phật Pháp, tin sâu nhân quả luân hồi, cầu đạo giác ngộ. Có kẻ đang ngu si đắm chìm trong dục vọng vô minh, hủy báng Tam Bảo, không tin nhân quả luân hồi. Lại có chúng sanh đang còn đọa lạc trong ba đường địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Nhưng tất cả đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật, nếu biết tu tỉnh. Quan Tể tướng là một trong những người đời trước đã có thiện duyên trồng nhiều cội phước, nên nay mới được danh vọng giàu sang. Nếu không biết tiếp tục vun bồi phước đức, thì cây phước đức kia sẽ cằn cỗi héo khô.

Sau khi nghe Phật dạy, quan Tể tướng đã giác ngộ, đảnh lễ Đức Phật cầu sám hối, và xin được quy y Phật làm đệ tử tu học đạo Ngài. Từ đó về sau quan Tể tướng đã hết lòng phụng sự Tam Bảo, nghe Phật thuyết pháp, cố gắng tu hành, và được Phật thọđời sau sẽ gặp hội Long Hoa của Đức Phật Di lặc ra đời, được làm quốc vương, thuần thành làm đệ tử của Phật, hết lòng hộ đạo.

Từ ngày quan Tể tướng quy y Phật, trong nhà vợ chồng con cái hòa vui trong niềm tin Phật Pháp. Những việc tiệc tùng dạ hội, những sòng bài nhậu hút náo nhiệt thâu đêm suốt sáng lãng phí tiền bạc lẫn thời gian không còn liên tục bày ra nữa. Giờ đây quan Tể tướng biết dùng thời gian vào việc nghe Phật, niệm Phật, tọa thiền. Ông biết dùng tiền bạc vào việc cúng dường, bố thí giúp đỡ nghười nghèo, mà trước kia ông không có để tâm đến. Tể tướng còn nhiệt tâm khuyên bạn đồng liêu cùng gấp rút tu học Phật "mau lên kẻo trễ".

Tánh tình của quan Tể tướng đổi hẳn, trở nên dịu dàng hơn xưa. Điều này khiến cho các vua trong triều không còn e ngại lấn quyền soán ngôi, ngoài dân chúng trước đây thay vì ghét sợ uy quyền hống hách của Tể tướng, thì nay họ đều kính mến thân cận phục tùng. Tiếng đồn "Hổ chúa biết tu".

 

 

 

19. Ý NGHĨA LÁ CỜ PHẬT GIÁO

Thưa quý vị,

Hiện nay quý vị thấy cờ Phật giáo 5 sắc tung bay phất phới khắp nơi. Tôi xin lược nói về ý nghĩa lá cờ Phật giáo này.

I. Nguyên nhân:

Sau hai trận thế chiến đã để lại cho nhân loại cái hậu quả tàn phá vô cùng khủng khiếp thê thảm do vũ khí nguyên tử gây ra.

Trước đà phát triển của khoa học về phương diện vũ khí, mà thực tế không có sự kềm chế hữu hiệu nào về lòng ích kỷ tham vọng hận thù của con người, thì vũ khí chiến tranh sẽ không bao giờ ngừng chế tạo, với tiến trình ngày một tinh vi, với sức hủy diệt vạn triệu lần hơn.

Sự tiến bộ của khoa học về phương diện chế tạo vũ khí nguyên tử, với sức tàn phá sát hại ngày một tăng theo số nhân. Mà sự giáo dục con người về lòng nhân đạo, chỉ mới như số cộng. Lương tâm phát triển kém xa khoa học. Tham vọng khống chế nhân loại là một thứ tham vọng hão huyền, nhưng con người vẫn nuôi mộng đeo đuổi. Mưu đồ chinh phục từng khối lớn nhân loại để lệ thuộc vào ảnh hưởng thế lực của mình là một hiện trạng thực tế. Chính tham vọng mưu đồ này đã gây nên hai cuộc thế giới đại chiến hiện đang không ngừng tiếp tục gây tang tóc khổ đau cho nhân loại, và sẽ khó có thể ngăn chận được đệ tam thế chiến nguyên tử đưa đến hủy diệt nhân loại.

Thấy rõ hiểm họa trước mắt điều đó, các nhà đạo đức học, các nhà giáo dục, các nhà tâm lý học, các tổ chức từ thiện nhân đạo, nhân quyền, các nhà tôn giáo đã nghiên cứu phương thức, đã khẩn thiết kêu gọi lương tri nhân loại, trách nhiệm lương tâm, nhưng hầu như không hiệu quả. Con người đã không ngừng phát minh vũ khí tàn phá hủy diệt nhân loại. Nhưng trong lúc đó cũng chính con người đã tỏ ra bất lực phát triển tình người, lòng nhân đạo để xây dựng hạnh phúc cho nhau.

Với niềm thao thức về tiền đồ sinh tồnhạnh phúc của nhân loại, với hy vọng lòng người rộng mở tình thương của đạo từ bi hỷ xả vị tha, để cho sóng tình thương tràn ngập mọi tâm hồn, để tránh khỏi hiểm họa chiến tranh đẩy nhân loại vào vực thẳm hủy diệt, ông Henry Steele Olcott, một đại tá hải quân, một học giả, một chuyên gia quân sự Hoa Kỳ, đã từng chứng kiến cảnh tượng thảm khốc thương tâm trong hai cuộc thế chiến I và II, lương tâm ông bừng tỉnh, ông đã tuyên bố: "Chỉ có phương thuốc từ bi hỷ xả của đạo Phật mới mong cứu nổi được ích kỷ tham vọng của nhân loại". Để biểu tượng cho phương thuốc cứu trị tinh thần này, ông đã nghĩ ra cách làm lá cờ Phật giáo đầu tiên và đã được Thượng Tọa Tiến Sĩ Sumangala Thera, Giám Đốc Đại Học Đường Phật Giáo Tích Lan chứng minh.

Vào ngày 25-5-1950, trong Đại Hội Phật Giáo Quốc Tế gồm 26 phái đoàn của 26 nước khắp trên thế giới về họp tại Colombo, thủ đô Tích Lan, đã công nhận lá cờ năm sắc dọc và một sắc tổng hợp ngang này, chính thức là lá cờ Phật Giáo Quốc Tế, tượng trưng cho ngày lịch sử Phật Giáo Quốc Tế kết hợp thống nhứt. Kể từ đó, cờ Phật giáo tung bay khắp nơi trên địa cầu.

II. Ý nghĩa:

1) Cờ Phật giáo gồm 5 sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, và vàng cam là tượng trưng năm đạo hào quang của Đức Phật. Tất cả các Đức Phật trong khắp mười phương thế giới cũng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Ta Bà này, khi thiền định cũng như lúc thuyết pháp, thường ở nơi Ngài phóng ra năm đạo hào quang sáng chói. Năm đạo hào quangtượng trưng cho đức tánh viên mãn.

* Màu xanh: Tượng trưng cho thiền định.

* Màu vàng: Tượng trưng cho trí huệ.

* Màu đỏ: Tượng trưng cho tinh tấn.

* Màu trắng: Tượng trưng cho thanh tịnh.

* Màu vàng cam: Tượng trưng cho từ bi.

Năm màu nhỏ tổng hợp nằm ngang là tượng trưng cho sự tổng hợp dung thông tổng trì bất động. Hàm ý nghĩa biểu tượng cho con người tu hành đạt thành quả vị chánh đẳng chánh giác, phải là con người có tròn đầy năm đức tính thiền định, trí tuệ, tinh tấn, thanh tịnh, và từ bi dung thông.

2) Tượng trưng cho năm căn: Năm căn gồm có: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định cănhuệ căn. Đây là 5 đặc tính tinh thần tạo thành sức mạnh khiến cho hành giả có đủ nghị lực và khả năng thẳng tiến trên đường giác ngộ.

Ngoài ra còn bao hàm ý nghĩa tượng trưng cho 5 phù trần căn. Ấy là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Bình diện sinh hoạt của mỗi con người đều nương vào năm căn hay nói cách khác là năm giác quan. Năm căn tiếp xúc với năm trần (màu, sắc, âm thanh, mùi vị, chạm xúc) sanh ra năm thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thứcthân thức).

* Nhãn căn: Mắt nhìn thấy màu sắc sanh ra phân biệt cái này đẹp, vật kia xấu. Tùy theo cảnh sắc xấu, mà sanh thương ghét, thích chán v.v... 

* Nhĩ căn: Tai nghe âm thanh sanh ra phân biệt. Chẳng hạn tôi thích chim hót, tôi ghét quạ kêu. Tôi thích giọng hát ca sĩ này, ghét tiếng cười của chàng kia, nhàm chán nghe tiếng nói của bà nọ v.v... 

* Tỷ căn: Mũi ngửi mùi sanh ra nhận thức phân biệt. Ưa thích mùi thơm. Chán ghét mùi tanh hôi v.v... 

* Thiệt căn: Lưõi nếm vị sanh ra phân biệt, thích ngọt, ghét đắng, thèm chua v.v... 

* Thân căn: Thân thể xúc chạm với vật sanh ra nhận thức phân biệt. Thích chạm xúc mềm mại trơn láng. Không ưa chạm xúc đồ vật cứng nhám, sần sùi v.v... Do năm căn tiếp xúc năm trần mà sanh ra năm thức phân biệt. Từ đó, con người bị lôi cuốn vào ngũ dục lạc (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ). Vì năm căn thức này thường hay đắm trước dục lạc, thúc đẩy con người đua đòi, tìm kiếm, mưu đồ thành bại. Được thì hỷ hả mừng vui tự đắc. Mất thì sầu khổ, thất chí chán chường tuyệt vọng. Cứ thế con người phải nô lệ năm căn, cuốn hút vào năm trần, đọa lạc nổi trôi theo năm thức, đắm trước vào năm dục lạc tạo thành tham vọng, ích kỷ, tam, sân, si. Nếu không khéo điều phục năm căn trong chiều hướng tĩnh tu tri túc, thì chúng ta sẽ gây ra muôn ngàn đau khổ đổ vỡ cho chính mình và người, vật.

khác với phàm phu chúng sanh, Đức Phật cùng chư vị Bồ Tát khi còn là phàm nhơn hành đạo tu tập, các ngài đã không ngừng vận dụng ngũ căn tạo thành ngũ lực để điều phục năm căn, khéo léo hướng dẫn năm thức sở thích của mình theo chiều hướng chánh thiện, đạt thành phước trí giác ngộ tròn đầy.

3) Tượng trưng cho năm châu nhân loại: Nhân loại sống trong năm châu, chủng tộc tuy có khác, nhưng màu da, xương máu không ngoài năm sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và vàng cam.

Cờ Phật giáo mang năm màu sắc ngoài ý nghĩa tượng trưng năm đạo hào quang của Đức Phật sáng soi vào mọi cõi lòng sâu thẳm thầm kín của muôn loài, để nhân loại khắp năm châu được soi sáng ánh từ quang, thấm nhuần tinh thần từ bi hỷ xả của Phật Đà, dứt trừ tham vọng ích kỷ tham, sân, si, ngõ hầu tạo cho thế giới nhân loại trường tồn thanh bình hạnh phúc.

 

 

 

20.NGUỒN GỐC VÕ THIẾU LÂM

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về nguồn gốc võ Thiếu Lâm. Bởi có sự nhận thức sai lầm về nguồn gốc của môn võ nghệ này liên quan đến Phật giáo, nên tôi muốn minh định cho rõ ràng từ đâu có sự nhận định sai lầm.

Khi nói đến võ nghệ cao cường của Trung Quốc, thường thì người ta liên tưởng đến "võ Thiếu lâm", và cho rằng môn võ này xuất phát từ Thiếu Lâm Tự. Nói đến võ Thiếu Lâm, người ta lại liên tưởng đến Đạt Ma Tổ Sư, và nghĩ rằng chính Đạt Ma Tổ Sư là người truyền dạy môn võ công tuyệt diệu này.

Không ít người lầm tưởng cho rằng, sau khi Lương Võ Đế thỉnh Đạt Ma Tổ Sư vào cung để cúng dường hỏi đạo, Tổ nhận thấy vua Lương là người rất sùng mộ đạo Phật, nhưng chỗ kiến giải lại rất thường, chưa thoát khỏi tâm thức chấp trước, nên không thể lãnh hội nỗi ý chỉ siêu việt của Thiền Tông "ấn tâm hiển tánh". Do đó Đạt Ma Tổ Sư lặng lẽ rời hoàng cung Lương Võ Đế để đến chùa Thiếu Lâm, xoay mặt đối vách tĩnh tọa suốt 9 năm liền. Người đời cho rằng chính trong thời gian 9 năm trầm lặng này, Đạt Ma Tổ Sư đã bí mật truyền võ nghệ cho môn đệ. Nghĩ tưởng như thế thật là một điều ngộ nhận rất ư sai lầm. Lại chẳng may quan niệm sai lầm to lớn này ngày nay đã tràn lan khắp cả các nước Âu Á. Quan niệm sai lầm oan uổng này được lan truyền rộng lớn như sự rộng lớn của nền văn hóa Trung Hoa, ảnh hưởng từ nước này tới nước khác. Quan niệm sai lầm này đã hình thành không những chỉ bằng truyền miệng, sách báo, mà cả phim ảnh truyền hình, hành hoạt phổ biến như là một sự thật. Tầm vóc lớn lao của vấn đề đến nỗi người Âu Mỹ họ quan niệm bất cứ ai mặc tràng rộng của Tăng sĩ Phật giáo hầu hết đều là công phu Master! Những phim ảnh nào về võ công kiếm hiệp, có chút liên quan đến Thiếu lâm Tự để quảng cáo, thì ôi thôi là ăn khách quá chừng chừng!

Nhưng theo các bộ sử Thiền Tông, nghiên cứu từ cội nguồn truyền thiền đến ngày nay, Đạt Ma Tổ Sư là người Ấn Độ đem thiền truyền vào Trung Hoa, và được suy tôn là Sơ tổ dòng Thiền xứ này. Người được vua Lương Võ Đế trọng vọng tôn kính thỉnh vào hoàng cung để cúng dường hỏi đạo. Nhưng chưa gặp người có chí đạo liễu thoát lưới chấp, nên Đạt Ma Tổ Sư đã từ tạ cung vàng điện ngọc, sự cung phụng rất mực nồng hậu của triều đình vua Lương để ra đi không một mảy may vướng bận. Người ra đi nuôi chí hóa đạo độ đời, truyền thiền giác thế.

Dưới mắt thiền sư, danh lợi phồn hoa của cuộc đời như mây chiều sương sớm. Thân này do đất nước gió lửa giả hợp hình thành. Cảnh đời vô thường mộng huyễn. Một lời còn không muốn thốt ra, hà huốngvăn tự trọn chẳng màng đến. Khí khái dứt khoát, tư tưởng siêu việt, xem nhẹ việc đời như cát bụi. Mang tâm nguyện siêu việtđại thế đó, Đạt Ma Tổ Sư đã xa lìa xứ sở, vượt biển cả muôn vạn sóng gió trùng dương, trùng trùng hiểm nguy, dứt khoát từ tạ tôn sùng ngưỡng mộ của vua chúa, để rồi có thể thu mình làm cái việc dạy võ công ở chốn thiền môn Thiếu Lâm Tự ư? Hỏi tức là trả lời. Thế mà người đời, sách vở, báo chương, điện ảnh, lại cứ rao truyền cho Đạt Ma Tổ Sư chính là vị tổ truyền dạy võ, nguồn gốc của môn võ Thiếu Lâm?

Trên thực tế, thật có chùa Thiếu Lâm ở núi Cao Tung, tỉnh Hà Nam huyện Đăng Phong. Thật có môn võ Thiếu Lâm. Và thật có việc Bồ Đề Đạt Ma từ tạ vua Lương Võ Đế để đến ở chùa Thiếu Lâm Tự 9 năm ngồi xoay mặt đối vách tĩnh tọa thiền quán.

Nhưng nguyên nhân nào mà người đời truyền rao Đạt Ma Tổ Sư chính là vị tổ truyền dạy môn võ Thiếu Lâm?

Nguyên là vào thời Bắc Ngụy có ngài Phật Viện Thiền Sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa truyền Thiền. Lúc bấy giờ vua Ngụy Hiếu Minh Đế (Tây Lịch 515-528) kính mến đạo đức của Ngài, nên lập ngôi chùa Thiếu Lâm trong dãy núi Cao Tung để Ngài tu hành truyền đạo. Chùa Thiếu Lâm nằm trên một trong năm ngọn núi cao tên là Lộc Sơn Thiếu Thất. Sau đến đời Lương Võ Đế (Tây Lịch 501-549), nhơn Sơ Tổ Đạt Ma truyền tâm ấn cho Nhị Tổ Huệ Khả cũng chính ngôi chùa Thiếu lâm này, từ đó tông phong Thiền chấn hưng. Do từ đấy, tự nhiên Thiếu Lâm Tự trở thành thánh địa của Thiền Tông. Chứng tích hiện còn, chứng tỏ nơi già lam Thiếu Lâm Tự này vang bóng một thời với diện tích rộng chừng 3 cây số vuông, trang nghiêm hùng vĩ, thịnh đạt vô cùng. Đặc biệt đồ biểu luyện tập võ công vẫn còn hằng sâu dấu tích nơi vách cỏ rêu phong trong khuôn viên chùa.

Thiếu Lâm khởi nguyên từ thời Tam Quốc, khi Hoàng Cấn làm loạn. Lúc bấy giờ, lũ người theo giặc Hoàng Cấn lợi dụng tình thế loạn lạc, kết bè lập đảng thành từng bọn, thường vào chùa Thiếu Lâm tác yêu, tác quái, uy hiếp cướp phá nhiễu nhương. Tăng chúng không an tâm tu hành. Đang lúc tâm tình phân vân, tăng chúng người nào cũng tính chuyện tản lánh vào rừng núi để ẩn tu. Một hôm đang lúc giặc cướp vào, tăng chúng bối rối, khiếp sợ, bỗng nhiên, từ nhà trù, tức nhà bếp chùa, chạy lên một người to lớn khỏe mạnh, vốn xưa nay âm thầm làm công quả, bửa củi, gánh nước, lo việc ăn uống cho chúng tăng, không mấy ai để ý. Người to lớn này tay cầm búa, cất tiếng rằng: "Xin đại chúng đừng lo. Lão tăng sẽ dùng búa này đánh tan lũ giặc cướp". Nói dứt lời, nhanh như chớp, lão tăng vung búa như điệu múa, xông thẳng vào đám giặc. Không mấy chốc lũ giặc thất kinh, hồn bay phách tán, chạy tán loạn. Từ đó, chùa trở nên yên tĩnh, sinh hoạt bình thường. Mọi người thở phào nhẹ nhỏm như trút được gánh nặng ngàn cân đè nặng đang đi trong bãi gai dưới nắng sa mạc.

"A Di Đà Phật. Thầy Tri Khố! Từ lâu nay, ngày ngày Thầy lo việc gạo củi nấu ăn cho tăng chúng. Không ngờ Thầy có võ nghệ tuyệt vời, cứu được ngôi Già Lam thoát qua cơn đại nạn. Tăng chúng huynh đệ còn được xum họp tu hành. Thật là vạn hạnh, vạn hạnh! Công đức của Thầy thật là vô lượng", Thầy Tri Sự nói.

Qua cơn hãi hùng, Tăng chúng chùa Thiếu Lâm vô cùng vui mừng vây quanh vị lão tăng Tri Khố, khác miệng một lời, đua nhau xít xoa mừng rỡ ca tụng: "Thầy Khố tài quá! Chúng tôi muốn học võ công. Mong Thầy hoan hỷ cho chúng tôi để phòng thân hộ đạo, gìn giữ ngôi Tam Bảo".

Từ đó về sau, vị lão tăng Tri Khố được người trong chùa chiếu cố, không còn nhiều thì giờ yên tĩnh để tham thiền niệm Phật như trước nữa. Trước kia, ngoài công việc nấu ăn dọn cơm, rửa chén, bửa củi gánh nước, còn lại chút thì giờ nào, thầy tọa thiền bái sám niệm Phật tụng kinh. Giờ đây, với sự thành khẩn nài nỉ xin học võ của tăng chúng, lão tăng Tri Khố trước thế chẳng đặng đừng, không còn cách nào yên lặng thối thác được, nên đem tất cả tuyệt kỷ võ công dạy hết.

Sau khi Tăng chúng đã thuần thục võ nghệ, lão tăng Tri Khố vào một đêm trăng rằm tháng tám Trung Thu, âm thầm lặng lẽ rời chùa Thiếu Lâm, nhẹ bước vân du sơn thủy, tham bái các Đại Tòng Lâm danh lam thắng cảnh, không để lại tông tích, cũng không ai biết người tên họ là chi, ngoài cái tên Thầy Tri Khố do tăng chúng gọi.

Để tri ân người đã hộ trì chốn Già Lam thanh tịnh, tăng chúng đã tạc tượng thờ kỷ niệm. Từ đấy truyền ra, người ta tạc tượng Ngài mặt đen, tay cầm búa, thường tôn trí ở nhà trù hoặc là ở trai đường trong các chùa viện và tôn xưng là Giám Trai sứ giả. Cũng còn tôn xưng danh hiệu Ngài là Khẩn Na La Vương Bồ Tát. Chùa Thiếu Lâm hiện vẫn còn thờ Khẩn Na La Vương Bồ Tát với đôi liễng:

"Trai đường mộc bảng tăng vân tập,

Lũ giặc kinh hồn búa sắt bay"

Vào thời sơ Đường, chùa Thiếu Lâm có mười ba vị tăng võ nghệ cao cường. Đó là sư Chí Thảo, Huệ Thang, Đàm Tông v.v... đã từng da ngựa bọc thây, gian khổ xông pha trận mạc giúp vua Đường Thái Tông dẹp Vương Thế Sung, tên lãnh chúa có thế lực nhất, tung hoành miền Bắc Trung Hoa thời bấy giờ. Kịp đến khi vua Đường Thái Tông thống nhất sơn hà, lập nên đế nghiệp, phong quan ban lộc cho 13 vị tăng hữu công này, thì chỉ riêng sư Đàm Tông nhận chức Đại tướng quân, còn lại tất cả đều từ chối công hầu khanh tướng, lui về Thiếu Lâm Tự tiếp tục tu hành. Nhà vua cảm mến ân khai quốc công thần, nên cấp ruộng cho tiền để các Thầy về chốn thiền môn thanh tịnh an tâm tu hành.

Đến thời Minh mạt Thanh sơ, các vua triều nhà Thanh hầu hết là tin Phật. Hễ ai phạm tội mà biết hối cải xuất gia thì được triều đình xá miễn không truy cứu phạt tội. Triều đại nhà Minh tuy mất, nhưng còn có số các trung thần tướng lãnh nhà Minh vẫn còn sống sót. Họ trốn vào chùa Thiếu Lâm xuống tóc làm tăng. Họ lợi dụng tình thế, bí mật kết nạp đồng liêu, lập đảng, luyện tập võ nghê. Họ đã khéo léo tuyên truyền khuyến dụ kết hợp những môn phái Võ Lâm họp thành một tổ, lấy tên là "võ Thiếu Lâm" với danh nghĩa "phản Thanh Phục Minh!". Và lấy chùa Thiếu Lâm làm cứ điểm. Nhân đó, võ Thiếu lâm lừng danh khắp cả nhân gian Trung Hoa.

Nói về Đạt Ma Tổ Sư. Nếu muốn nói cho đủ là Bồ Đề Đạt Ma, có nghĩa là giác pháp. Ngài là người Nam Ấn Độ. Vào thời đại Trung Quốc Nam Bắc triều phân tranh, nhà Lương thế lực ở Hoa Nam, thủ đô tại Nam Kinh. Bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đi thuyền tới Quảng Châu. Quan Thứ sử Quảng Châu tên là Vĩnh Xương thấy nhà sư ngoại quốc, tướng kỳ dị liền tâu về thủ đô Kim Lăng, tức Nam Kinh ngày nay. Vua Lương Võ Đế vốn là người sùng kính Phật Pháp. Vua nghe có cao tăng từ Ấn Độ đến, nhà vua liền sai sứ giả Tề Chiêu đi thỉnh về kinh đô để cúng đường học đạo. Sau lần đàm đạo với vua Lương Võ Đế, Bồ Đề Đạt Ma thấy nhà vua không có đủ căn duyên với thiền cơ, nên từ tạ Nam Triều Lương Võ Đế, ra đi về phương Bắc đến chùa Thiếu Lâm Tự.

Khi qua sông, gặp lúc vắng đò sang ngang, mọi người đang đợi chờ ở bến đò, Đạt Ma bẻ cành trúc quăng xuống nước, nhẹ nhàng bước đứng lên trên, cành trúc phớt nhẹ lướt mặt sóng nước đưa Ngài qua bên kia bờ sông. Đến miền Hoa Bắc, Ngụy Hiếu Minh Đế lại càng không hiểu yếu nghĩa chân truyền của Thiền tông "giáo ngoại biệt truyền", nên Bồ Đề Đạt ma gấp rút lánh biệt vào núi Cao Tung.

Quan sát thời cơ, chưa tới, người đời căn duyên chưa thuần, nên Đạt ma thẳng tới chùa Thiếu Lâm, mặt đối vách, trầm lặng tĩnh tọa suốt 9 năm liền.

Thần Quang Huệ Khả nghe danh Ngài đến xin cầu đạo. Trải suốt bao tháng năm chịu đựng không màng nắng mưa sương tuyết, Thần Quang một lòng dũng cảm tinh chuyên với tâm nguyệnniềm tin kiên cố, sau cùng đã được Đạt Ma ấn tâm truyền Thiền, đời xưng là Nhị Tổ (xin xem bài Huệ Khả tầm đạo cũng trong sách này).

Tinh hoa Thiền của Bồ Đề Đạt Ma là dạy người triệt ngộ cội nguồn tâm linh, quay lại sống với chính mình, quên ngoại cảnh, tức nhập lưu vong sở, mói có cơ hướng thượng, chuyên tâm nhất ý quán sát bản lai diện mục bằng cách tự truy vấn mình: "Khi cha mẹ chưa sinh ta, bản lai diện mục của ta là gì? Ta là ai? Có nỗi ưu tư buồn khổ, vì không thấu rõ cội nguồn của chính mình, để phải lưu linh trôi nổi sanh tử luân hồi. Khi nào cảm nhận nỗi bâng khuâng buồn khổ sanh tử luân hồi bằng như nỗi buồn của con thơ bị cảnh cha mẹ cùng lúc qua đời, là khi dụng tâm hồi quang phản chiếu, liễu ngộ Phật tánh".

Thế thì con người chuyên hội tụ tâm tư cho việc quang tâm duy lý, thoát ly sanh tử như Bồ Đề Đạt Ma, mà lại phải bận tâm luyện tập võ nghệ ư?

Lại nữa xét cho cùng võ công Thiếu Lâm, bất luận nội công hay ngoại công; nhu công hay cương công; kinh công hay khí công; tay chân các thế; khí cụ vận dụng mỗi mỗi đều là sản phẩm của Trung Hoa. Ta đâu có thấy dấu tích khí thế võ công nào của Ấn Độ đâu? Nếu bảo là võ Thiếu lâm do Đạt Ma Tổ Sư truyền, sao không thấy sách vở nào lưu truyền? Không thấy người đời nhắc nhở đến nguồn gốc võ Ấn Độ? Thậm chí cho tới bây giờ cũng không thấy bóng hình võ nghệ của Ấn Độ đâu cả. Ngay chính cả trên xứ Ấn Độ?

Xem khắp sách vở chánh thống Thiền Tông, những sách đáng giá nhất như "Trung Quốc Thiền Tông Sử; Truyền Đăng Lục; Đạt Ma Truyện; Trung Quốc Lịch Đại Thiền Tông Tổ Sư v.v... chưa từng thấy ghi chép Đạt Ma Tổ Sư luyện công dạy võ. Mà chỉ có ghi Bồ Đề Đạt Ma 9 năm trầm tư diện bíchThiếu Lâm Tự. Ngài đã truyền Thiền cho Nhị Tổ Thần Quang Huệ Khả nơi ngôi chùa lịch sử này. Ngài là người đem ngọn đuốc Thiền đến Trung Hoa. Về sau này, Lục Tổ Huệ Năng là người làm rực sáng ngọn đuốc Thiền ở đất Khổng lão, chỉ thế thôi!

 

21. KỶ NIỆM CHƯA QUÊN

Kính thưa quý vị,

Lần đầu tiên tôi đến Chicago, trên đường hoằng pháp. Bờ hồ Michigan bao la, mà tình con người Phật ở đây chưa thật sự chan hòa, tâm Bồ đề thật sự chưa mở rộng. Do đó, ngôi chùa còn thiếu nhiều tiện nghi cho quý vị tu tập. Tôi hy vọng quý vị mở rộng tâm Bồ đề để nhìn rõ kiếp sống của mình.

Đời sống con ngưòi nối tiếp bằng chuỗi thời gian, sau đó để lại hoặc ta những kỷ niệm vui buồn thấm thía. Từ đó con người nhận ra chân được ý nghĩa cuộc sống nhơn sanh. Khi con người trực diện với cuộc đời, thực sống với cuộc đời và sống đích thực với hoàn cảnh của kiếp người bằng đầy đủ ý thức về cuộc đời trong mọi trạng huống, thì lúc đó con người mới thể nghiểm được tính chất của cuộc đờivô thường mộng huyễn, chuyển biến không ngừng, có rồi không! Thế mà con người vẫn giong ruổi, vẫn đuổi đeo để tiến lên chụp bắt bóng hình hư ảo, kéo dài cho trong kiếp người.

Trong dòng sinh thức đó, được thể hiện qua trạng thái có không, thăng trầm, để vương lên và tiến tới với hy vọng có lấy một tương lai sáng sủa, một kết quả tốt đẹp, trong nụ cười sau bao phấn đấu cực nhọc và nước mắt. Chùa Quang Minh Chicago này cũng được hình thành trong quá trình tiến triển cùng với chuỗi thời gian liên tục đó.

Sau ngày 30-4-1975, quốc gia đại nạn, đưa toàn dân Việt Nam vốn có đặc tánh hiền hòa vào cảnh nồi da xáo thịt lầm than! Không cách nào hơn, người dân Việt đành phải ngẹn ngào tức tưởi bỏ nước ra đi trong cảnh sinh ly tử biệt bất ngờ gấp rút! Người dân hoảng hốt kinh hoàng không còn kịp thời gian quay lại nhìn lại quê hương đất mẹ, nơi chôn nhau cắt rún lần chót. Bằng mọi ngã và trôi dạt khắp nơi, thì nơi Chicago này là một trong trăm ngàn chốn đất lạ quê người, mà người Việt nam tỵ nạn chọn lấy để định cư hầu lập lại cuộc sống.

Nơi xứ lạ quê người này, vật chất dẫy đầy, lầu đài tráng lệ nguy nga, đường sá thênh thang dày như mắc cửi, xe cộ, máy bay dập dìu. Nhưng trong cái phồn hoa văn minh vật chất đó, người tỵ nạn cảm thấy một điều thiếu vắng, mà điều đó đối với người Việt Nam không thể thiếu được trong đời sống. Đó là tình người và nơi gởi gấm niềm tin. Thiếu nơi gởi gấm niềm tin là thiếu tất cả hương vị cuộc sống, khiến cho người tha hương phải sống trong nỗi nhớ niềm thương, sống trong bất ổn tinh thần, sống trong quẫn bách tâm lý, lúc nào cũng thấy bơ vơ.

Quê hương Việt Nam tuy nghèo, tuy chiến tranh triền miên kéo dài suốt hơn ba mươi năm đổ nát lầm than, nhưng nhìn đâu đâu cũng thấy dạt dào tình người đùm bọc ấm cúng, nơi nào cũng thấy mái chùa hiền hòa, tiếng hát câu hò, đồng lúa xanh tươi, có người trao gởi tâm tình. Dù cho đất nước Việt Nam vật chấtthiếu thốn, nhưng tinh thầnnơi nương tựa, niềm tin có nơi gởi gấm, tình người có cơ phát triển. Vì vầy đất mẹ Việt Nam dù cho có đói nghèo manh cơn tấm áo, nhưng mái chùa cô đọng tình thương Phật đài vẫn làm cho tinh thần người dân Việt cảm thấy đầy đủ thoải mái.

Nhờ cái giá trị tinh thần được nuôi dưỡng bởi niềm tin truyền thống đạt dào đó, cho nên người dân Việt Nam dù có khó nghèo vật chất mà vẫn cảm thấy tâm hồn thoải mái với ngôi chùa khiêm tốn, với tiếng chùa hôm sớm nhẹ ngân, với ánh trăng rằm thanh thoát. Nếu phải ra đi vì kế sinh nhai, hay vì tai nạn quốc biến, thì cũng vẫn mãi mãi thương nhớ quê hương với bao kỷ niệm êm đềm, với mái chùa ánh trăng, với nỗi lòng bâng khuâng lưu luyến:

Mai này tôi bỏ quê tôi,

Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ chùa.

Quê tôi có gió bốn mùa,

Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.

Chuông chùa gió sớm trăng rằm,

Chỉ thanh đạm ấy âm thầm thế thôi.

Với tinh thần yêu quê hương tha thiết, yêu đạo truyền thống nhiệm mầu, với niềm tin sâu sắc, với cõi lòng chất phác nhưng keo sơn với quê hương mái chùa, nhưng vẫn giữ vững nếp sống hiền hòa luân lý với đạo từ bi. Thế cho nên khi phải làm kẻ tha hương, dù trước mắt và chung quanh trực diện với hào quang của nền văn minh vật chất có sức hấp dẫn lôi cuốn, thì những hào nhoáng đó chẳng làm cho người Việt vốn nặng tình tha thiết với quê hương giống nòi và niềm tin đạo truyền thống của dân tộc chẳng những không lay chuyển đổi thay, mà trái lại nhờ có niềm tin kiên cố nền đạo tổ tiên truyền thống, nên vẫn có được nguồn sống an lành với sắc thái Việt Nam. Ngoại trừ những kẻ vong bản đem thân phục vụ cho ngoại bang để kiếm danh vọng, để được sống trên sự chết của đồng loại. Và ngoại trừ những kẻ đã bán đứng lương tâm để được sung sướng bạc tiền hưởng thụ trên sự nghèo đói của chiến sĩ và đồng bào ruột thịt, tiếp tay làm rách nát quê hương.

Vì thiếu vắng hình bóng quê hương, vì thiếu thốn tình người, vì nhu cầu bù đắp khỏa lấp chỗ trống của tinh thần, vì vắng bóng mái chùa hiền hòa, vì để niềm tinnơi nương tựa, nên người Việt yêu nước thương nòi, dù với hai bàn tay trắng với thân phận tỵ nạn, nhưng với cõi lòng chân thành tha thiết, ngàn người như một, chung sức chung lòng, nên vào năm 1980, tìm mua được căn nhà cũ mục, sau bao tháng ngày ra công, đồng sức sửa sang chỉnh trang lại làm thành nơi thờ phượng mà kẻ Tỳ kheo Quê Mùa này có thiện duyên được mời đến làm chủ lễ an vị Phật và đặt tên cho chùa là Quang Minh.

Từ đấy người dân Việt tỵ nạn Chicago cảm thấy lòng được an ổn, có nơi nương tựa tinh thần, nhứt là vào những ngày rằm, ngày vía, Phật Đản, Vu Lan v.v... có nơi về chiêm bái, có cơ duyên gặp lại người đồng hương với tâm hồn hướng thượng, trong tiếng chào tình tự dân tộc, quê hương, chan hòa trong tiếng niệm Phật, bắt tay nhau xiết chặt sưởi ấm niềm tin và tình người ly hương.

Từ ngày có ngôi chùa Quang Minh đến nay, mọi người dân tỵ nạn ở Chicago cảm thấy mình tuy sống tha hương, nhưng còn giữ được gốc nguồn văn hóa đạo đức của ông cha, duy trì đời sống tinh thần như những ngày còn ở quê nhà, nên mọi cõi lòng áy náy cũng cảm thấy bớt đi nỗi thiếu thốn bơ vơ, không như những ngày chưa có chùa trước đây.

Cũng từ ngày có chùa mà nguồn sống của niềm tin truyền thống dân tộc dạt dào thấm sâu vào khắp mọi cõi lòng người dận Việt Chicago. Ngôi chùa đối với dân Việt như quê hương đất mẹ. Đất mẹ thì che chở con mẹ. Ngôi chùa thì bao dung chan chứa tình người, nuôi dưỡng niềm tin, phát triển văn hóa đạo đức, giữ gìn giềng mối kỷ cương luân lý đạo đức truyền thống của ông cha. Còn đạo đức văn hóaniềm tin truyền thống là còn tình tự dân tộc, còn có ngày quang phục tổ quốc nhìn lại quê hương:

Dù cho giông tố bão bùng,

Quê hương còn vững tượng đồng Thích Ca,

À ơi bến cũ cây đa,

Ngôi chùa còn đó, thì ta còn mình.

Tinh tự dân tộc được nuôi sống bằng niềm tin truyền thống và nhờ chất liệu của niềm tin mà dân tộc được kết hợp để tạo thành sức mạnh cho ngày về quê hương, đem tình thương xây dựng xứ sở. Chính sự phát triền lớn mạnh của niềm tin mà hình thành sự đoàn kết keo sơn. Ngôi chùa Quang Minh ọp ẹp chật hẹp cũng theo đó không còn chỗ dung chứa những người Phật tửđồng hương nữa.

Đề đáp ứng nhu cầu, nên vào ngày 12-11-1986 toàn thể Phật tử Chicago chung lòng góp sức mua được một nhà mới khác, khang trang hơn, ở vào khu phố thanh tịnh hơn, để làm ngôi chùa Quang Minh mới, thay cho ngôi chùa cũ ọp ẹp xiêu vẹo. Chính do niềm tin truyền thống của dòng máu tổ tiên truyền lại, nên dù ở đâu, hễ có người Việt là có chùa. Chùa là nơi gửi gấm tâm hồn, là nơi chan chứa tình người, là nơi nung đúc tinh thần yêu đạo, yêu quê hương. Nên bất cứ người Việt còn mang dòng máu chính thống của ông cha thì không thể xa lìa chùa. Dù ngôi chùa không có nguy nga đồ sộ, nhưng vẫn tượng trưng tinh thần bao dung của đất mẹ quê hương, của tình thương đồng bào dân tộc ruột thịt, của sức sống tự chủ mãnh liệt của giống nòi Lạc Việt Hùng Vương.

Như vậy, từ hai bàn tay trắng của người Phật tử Việt Nam tỵ nạn Chicago này, với sự hướng dẫn của tôi, tức tỳ kheo quê mùa Thích Đức Niệm này, đã liên tục suốt bao năm, ai nấy đều đã cố gắng công chung lòng góp sức không ngừng, từ sự tạo dựng được ngôi cùa cũ chật hẹp để quy tụ lòng người, nuôi dưỡng niềm tin, bắt nhịp cầu thông cảm tình đồng hương, để rồi chưa đầy sáu năm săm sau, đưa đến ngày hôm nay lại tạo được ngôi chùa mới khang trang về trang trí, diện tích rộng rãithích nghi về cảnh trí thanh tịnh của một ngôi chùa, để cùng nhau trưởng dưỡng tinh thần và niềm dân tộc vững mạnh.

Ánh sáng của đất mẹ quê hương, khí thiêng hiền hòa của đạo tình thương từ Đức Phật đã sưởi ấm và nung nấu tình thân yêu nước đạo của người Việt tự do. Nguyện cầu mặt trời chân lý tự do của ngày hồi hương sớm ló dạng.

Tiếng chùa chùa lại ngân. Dân tộc được sống hiền hòa ấm no hạnh phúc.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

 

 

22. NÀO NGỜ

Nhớ thời còn là chú điệu ở chùa quê, sau mỗi buổi công phu chiều, tôi gánh nước tưới hoa trong vườn chùa cho mãi đến xẩm tối, mới được vào nghỉ để chuẩn bị lên điện Phật đi thời tịnh độ.

Chùa ở đồng quê, những buổi chiều muôn chim về tổ, tiếng gọi nhau ríu rít trên cành cây cổ thụ trong sân chùa, dường như chúng reo hò mặt mừng chào nhau sau một ngày lặn lội khắp nơi tìm mồi. Cũng như những buổi sáng thức dậy, trước khi lìa cành bay đi khắp ngã tìm miếng ăn, chúng cũng đã một chập nhảy nhót líu lo rộn rả để tạm biệt. Ngày ngày nghe chim hót líu lo, lòng cảm thấy vơi nhẹ nỗi buồn lo nghĩ nhớ, an vui trong cảnh chùa tịch mịch nơi thôn dã.

Hằng ngày, cảnh họp tan sáng chiều của muôn chim, khiến cho tôi liên tưởng đến hiện tượng tụ tán vô thường của kiếp người, nhớ lời cổ đức đã thống thiết nhắn gởi người trần thế:

Cha mẹ ân sâu rồi cũng cách

Vợ chồng nghĩa nặng cũng chia lìa

Tình đời chẳng khác chim chung ngủ

Mỗi sáng đàn nào nấy tự bay.

Rồi có những buổi chiều, khi mặt trời khuất bóng sau rặng núi thẫm xanh, ánh sáng mỗi lúc mỗi yếu ớt dần, hoàng hôn phủ lên vạn vật lớp mỏng mờ sương, trên không trung hiện lên những bức tranh vân cẩu đủ màu hồng tía. Trước cảnh tượng đó, đã lắm lần tôi say mê ngắm nhìn những bức tranh vân cẩu linh hoạt tuyệt diệu ấy, mà lòng ngây ngất quên đi cảnh vật chung quanh, quên cả mình đang chấp tác công quả. Rồi nào ngờ có những hôm, thầy tôi bắt gặp, người mỉm cười với giọng nói hiền hòa:

"Chú Đăng! (Lúc đó ở trong chúng, tôi làm tri đăng) Con đang làm gì đó mà đứng trân trân bất động như tượng đá vậy?" Thật bất ngờ! Tôi giật mình, hơi sượng, lúng túng ấp úng:

'Dạ mô Phật! Bạch thầy, không có chi!". Rồi tôi lặng lẽ tiếp tục công tác gánh nước tưới cây mà lòng tiếc nuối bức tranh vân cẩu tuyệt vời đang treo lơ lửng ở phiá trời tây!

Thầy tôi đi thăm vườn cây hoa kiểng một lượt, cắt xén những cành héo hoa tàn, rồi người thản nhiên yên lặng trở về phương trượng.

Tôi nhìn lại bức tranh vân cẩu tuyệt vời ban nãy, thì giờ đây đã tan biến thành những mảnh mây vụn rã rời không ăn nhập vào đâu. Mỗi lần như vậy, hiện tượng vô thường huyễn ảo khắc sâu nơi lòng. Tôi nghĩ đến vạn vậtkiếp người vô thường, sao mà mong manh quá, chẳng khác nào bức tranh vân cẩu trên trời xanh, bèo trôi dòng nước, sương sớm đầu cành! Bất chợt, tôi nhớ đến lời thơ của thi nhân:

Mây tương cẩu trắng xanh xanh trắng

Trắng rồi xanh cuộc thế thể chiêm bao

Hoa hải đường tươi héo héo tươi

Tươi lại héo người đời như ngọn gió.

Tâm người biến đổi, thế cuộc vần xoay. Tình đời mỏng như trang giấy lộn. Mạng người như thể chỉ mành treo chuông. Thật vậy, có ngờ đâu ngày đi du học của tôi là ngày ra đi ngàn dặm xa khơi, đã hơn hai mươi năm trời mà ngày về quê hương đất mẹ vẫn còn xa xôi dịu vợi như thế này!

Tôi còn nhớ cái ngày ra đi ấy, ngày 22-9-1969, chiếc máy bay Cathay Pacific mang tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất Sàigòn. Ngồi trên máy bay, tôi nhìn quê hương đất mẹ mỗi lúc một lùi xa, mờ dần trong sương mù mây khói. Lòng tôi nao nao xao xuyến ngổn ngang bao mối lo mừng. Lúc đó, niềm hy vọng trào dâng, mong sao hai năm du học thật mau kết thúc, để trở về phục vụ xứ sở đạo pháp, gần thầy gần bạn.

Nào ngờ! Con tàu mang tôi bay bỗng lên không trung, xa lìa xứ sở quê hương vượt trùng dương, để rồi cho đến ngày giờ này, lòng thương nhớ ước mơ năm xưa vẫn chưa có dịp để trở lại trực tiếp đem hết cõi lòng trang trải trên đất mẹ hiền lành.

Tội nghiệp đất mẹ hiền lành đã bao năm hằn sâu lắm vết đau thương, bởi do những đứa con vong nô, thân xác là người Việt mà tâm địa đã mất gốc truyền thống của ông cha, nên đã nghe theo ngoại nhân ban cho chút quyền lợi cặn bã, mà vội bội bạc tình nghĩa đồng bào ruột thịt, không biết thương tiếc giữ gìn đất mẹ!

Ngày được đi du học, tôi cố tránh tiệc tùng tiễn đưa rộn ràng, cũng như cố thúc liễm thân tâm, không muốn vận động hô hào để kiếm sự giúp đỡ rộng rãi của hàng Phật tử, vì lòng tự nghĩ: Mình sẽ làm được gì đây cho đạo pháp xứ sở, mà bây giờ thọ nhận của tín thí nan tiêu, chỉ thêm nặng nợ, không khéo thì thật nguy cho đạo hạnh bản thân, vốn dĩ phước mỏng nghiệp dày. Vô phước sanh ra trong một đất nước triền miên ngập đầy binh đao khói lửa, với tài hèn sức mọn, chỉ còn biết mong được góp phần với núi sông bằng cách cố gắng tu học.

Những bậc Thầy mà tôi được phước duyên gần gũi theo học hầu hạ như: Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Trí Hữu, Hòa thượng Thiện Minh v.v..., lòng những mơ ước sau khi học xong trở lại quê hương, phụng sự đạo pháp, phục vụ xứ sở dưới sự chỉ giáo của các Ngài.

Nào ngờ! Nay quê hương vẫn còn bị những đứa con vong bản mù quáng đang tung hoành làm thêm rách nát, tổ chức của đạo pháp cũng theo đó tan hàng, các bậc thấy kính thương dường như chán chường nhân thế, đã vội giũ sạch trần duyên sang bên kia thế giới Niết Bàn! Cõi trần gian giờ đây vắng bóng các Ngài hành đạo hoằng dương chánh pháp. Tăng tín đồ khắp nơi mất đi những tàng cây đạo hạnh che mát, khô cạn những dòng pháp nhủ hương vị ngọt ngào. Đất mẹ cũng thiếu vắng đi những bàn tay cần mẫn đắp xây. Vườn hoa đạo hạnh cũng theo đó mất đi những đóa hoa tinh khiết. Mà ngày về quê mẹ của tôi lại vẫn còn xa xôi!

Nay đây chỉ còn biết đem tâm thành với hết năng lực của mình, nguyện tiếp nối sự nghiệp hành đạo, phụng sự chánh pháp của các Ngài, để hầu mong báo đáp thâm ân pháp nhủ.

Đời người đã không biết bao lần với chữ "ngờ"! Lục tổ Huệ Năng , sau khi bừng ngộ, đã thưa với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn: "Nào ngờ tự tánh vốn đã thanh tịnh. Nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt. Nào ngờ tự tánh vốn có đầy đủ ...". Đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ, đã nói: "Nào ngờ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt". Sau khi thái tử Tất Đạt Đa bỏ hoàng cung xuất gia, vua Tịnh Phạn đã than thở với quần thần: "Nào ngờ con ta xem vương vị quyền uy phú quý như rác trên mặt, như bụi trong mắt, tìm cách xa lánh, để chọn lấy đời sống tu hành thanh bần lạc dạo, nặng mang tâm hạnh vị tha, trải lòng thương bình đẳng đi khất thực hóa độ từng nhà!"

Hễ còn vần xoay trong kiếp vô thường thì còn thương nhớ vấn vương. Nhưng thương nhớ vấn vương mà không biết theo con đường chân chánh của Đức Phật, của các bậc Thầy đã vạch sẵn để đi, thì thương nhớ chẳng ích lợi gì. Y nương gần gũi mà không chánh tâm chuyên cần hành đạo để tạo cho mình một đời đạo hạnh, thì chẳng bằng thân tuy xa mà lòng vẫn kính nhớ phụng thờ, bằng cách chân thành noi theo tâm hạnh của các Ngài mà hành trì. Đức Phật nói: "Dù ta có ở đời hằng vạn triệu năm đi nữa, mà các đệ tử của ta không y giới pháp tu hành thì sự hiện diện ở đời của ta cũng chẳng lợi ích gì".

Mặt trời hiện có trên không trung, nhưng người mù không thấy sáng. Kẻ phá giới, lợi dụng mặc áo giải thoát, sống trong nhà Như Lai tạo đủ chuyện phiền khổ cho người khác và gây rối Phật Pháp thì không xứng đáng là đệ tử Phật. Câu chuyện hai vị tỳ kheo đồng đến ra mắt Phật: Một vị nửa đường bị khát nước giữ giới mà mà chết. Còn vị kia được sống đến gặp Phật. Phật quở rằng: "Thầy tỳ kheo thà chết mà giữ trọn giới kia, nay tuy không thấy ta bằng thân thể này, nhưng đã gặp ta bằng tâm linh. Vị Ty kheo ấy đã an vui trong cảnh giới Niết Bàn. Còn ngươi phá giới, nay tuy gặp ta bằng xác thể này, nhưng đã cách xa ta nghìn muôn kiếp rồi".

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Tà Chánh thứ chín Phật dạy rằng: "Sau khi ta nhập Niết Bàn, khoảng bảy trăm năm về sau, những ma vươngđồ đệ quyến thuộc của chúng muốn chánh pháp của ta sớm hoại diệt, nên chúng hóa hiện làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ, có những hành vi ô uế độc ác gian tà nhằm làm tổn thương hủy diệt chánh pháp của ta".

Cứ như lời huyền ký của Phật, thì nơi nào không luận là chùa viện hay đạo tràng, có hạng tăng sĩ, cư sĩ bất lương bất hạnh, manh tâm thích được quyền danh lợi dưỡng, tự xưng là Phật là Thánh, hoặc làm điều quấy, thì nơi đó chính là hiện thân của ma vương. Chùa đó là chùa chứa ma, thờ ma. Hình thức phương cách hành hoạt của kẻ ma ngụy làm đệ tử Phật này, hoặc lộ liễu kín đáo, nhằm mục đích gây đổ vỡ hàng ngã tử chúng đệ tử Phật, làm mất thanh đanh đạo pháp đến chỗ suy tàn.

Thế nên kinh Đại Niết Bàn cũng như kinh Đại Tập, Đức Phật nói: "Nơi nào tôn trọng thọ trì giới pháp là còn chơn chánh đạo pháp. Những ai còn nghiêm chỉnh gìn giữ giới pháp, biết sống tri túc, mới chánh thật là đệ tử ta".

Rất mong quý vị khởi đi từ những "nào ngờ" này và những nào ngờ của chính bản thân quý vị, lấy đó suy ngẫm kỹ để sớm hồi tâm phản tỉnh, hướng đời mình trên đường thánh thiện, để xây dựng hạnh phúc hiện tại và tương lai.

 

 

 

23. PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về pháp môn tu Tịnh Độ. Rất không ít người xem thường pháp môn này. Nay quý vị cùng tôi tìm hiểu xem.

Đức Phật ra đời với tâm nguyện độ sanh. Chúng sanh căn tánh vô lượng bất đồng, nên Đức Phật cũng tùy theo đó mà mở bày vô lượng pháp môn tu để cho thích hợp với căn tánh của chúng sanh. Trong tất cả pháp tu chỉ có pháp môn Tịnh Độthích hợp nhất, dễ tu nhất, dễ chứng nhất, viên mãn nhất và cũng khó tin nhất. Nên kinh A Di Đà, Đức Phật nói: "Nan tín chi pháp" nghĩa là pháp khó tin.

Dễ tu là bởi pháp môn Tịnh Độ có đặc tánh phổ cập, ai tu cũng được, đi đứng nằm ngồi trong mọi thời, mọi lúc, khắp mọi hoàn cảnh đều có thể tu trì danh niệm Phật, nhất tâm nhiếp niệm.

Dễ chứng là bởi hành giả đem tâm nương theo danh hiệu Phật, niệm Phật, tưởng nhớ Phật, thừa nương Phật lực gia hộ độ trì. Chuyên tâm nhiếp niệm tưởng nhớ Phật. Phật và tâm đồng nhất thể. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tâm, Phật, và chúng sanh cả ba không khác. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Tâm loạn động là tâm mê, là tâm chúng sanh. Tâm chuyên nhứt niệm là tâm thanh tịnh, tâm giác, tâm Phật. Giờ nào chuyên tâm nhiếp niệm trì danh hiệu Phật là giờ đó gần Phật, tâm ta thể nhập tâm Phật, sống trong đại thể của tâm Phật.

Dễ viên mãn là bởi hiện đời tin theo lời Phật nói, nương theo lời Phật dạy, chuyên cần gắng sức tu tâm hành thiện, chuyên trì danh hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật" không rời niệm, để đến chỗ nhiếp niệm. Bên trong tự lực tâm nhiếp niệm, bên ngoài tha lực Phật hộ trì, tự tha viên mãn. Khi lâm chung, do nhờ lúc sống ngày ngày trì danh hiệu Phật, quán tưởng hình tượng Phật mà được huân tập chủng tử danh hiệu Phật, hình ảnh Phật, tâm thức bám vào chặt chẽ hình ảnh trang nghiêm của Phật, với lòng tin thâm sâu nơi oai thần năng lực Phật, nên tâm thần không rối loạn hoảng hốt. Tâm không rối loạn hoảng hốt, một lòng nhớ Phật, tức thì cảm ứng đến Phật và thánh chúng hiện tiền tiếp độ. Kinh A Di Đà, Đức Phật nói:"Nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn lâm mạng chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ". Nghĩa là người sắp lâm chung mà biết nhất tâm niệm Phật tâm không tán loạn, thì được thấy Phật A Di ĐàThánh chúng hiện tiền, như thế tinh thần người lâm chung không điên đảo, liền đó được vãng sanh về cảnh giới Tây phương Cực Lạc cõi nước Đức Phật A Di Đà.

Hơn nữa trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có thuật lại lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà rằng: "Nếu có chúng sanh nào muốn sanh về cõi nước của ta, mà vui thích chí thành tin niệm danh hiệu ta mười niệm, ta không tiếp dẫn chúng sanh đó về cõi nước Cực Lạc thì ta thề không thành Phật". (Nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ chánh giác).

Như thế, hành giảcõi Ta Bà tu đã được viên mãn tâm nguyện vãng sanh. Sau khi được Phật tiếp độ vãng sanh về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, thấy Phật nghe Phật, chứng bất thối chuyển, tiến tu đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề, không còn luân hồi thối đọa nữa, đó là viên mãn quả vị cảnh giới Tịnh Độ.

Thế nào gọi là Tịnh Độ? Tịnh là thanh tịnh, trong sạch. Độ là cõi nước, là thế giới. Vậy Tịnh Độ là cõi nước trong sạch, là thế giới thanh tịnh. Nghĩa là thế giới không có chiến tranh ly loạn, không có hiện tượng sanh già bệnh chết, không có bát nạn khổ (1), ba đường ác (2). Người ở cảnh giới Tịnh Độ là người hành thiện, với ý chí hướng thiện tinh tiến tu lên quả vị bất thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề.

Cảnh giới Tịnh Độ không có hiện tượng chen lấn tranh giành. Người ở cảnh giới Tịnh Độ không phải bận tâm về vật dụng ăn ở. Mà chúng sanh nơi đó, khi khởi tâm ước muốn điều gì thì những thứ ngon lành mỹ diệu liền hiện tiền như ý. Điều này có được là do khi còn là phàm phu chuyên tâm tu hành gieo trồng căn lành, mà được sanh về Tịnh Độ, hưởng phước báo đặc thù, không phiền não lo âu, đất nhà cây cảnh hoa lá đều do ngọc ngà châu báu tạo thành. Không có hiện tượng sanh già bệnh chết. Không có trạng huống vô thường thành trụ hoại không. Ở đó các vị Bồ Tát Thanh Văn là bạn của hành giả tu tịnh nghiệp. Ở cõi Cực Lặc tuyệt đối không có kẻ tâm phàm tâm ác ý, không có hiện tượng suy tàn biến đổi. Do công đức của Phật A Di ĐàThánh chúng trang nghiêm tạo thành thế giới tuyệt vời thanh tịnh, nên gọi là thế giới Cực Lạc.

Làm thế nào để được về cảnh giới Cực Lạc? Người muốn được sanh về thế giới Cực Lạc thì phải dốc lòng quyết chí nhứt tâm trì danh hiệu Phật, nghiêm chỉnh chấp trì ba điều quan trọng là tín, nguyện và hạnh. Đây là ba điều tiên quyết để được vãng sanh. Thế nào là tín, nguyện, hạnh?

Tín: Tín ở đây là lòng tin thâm sâu như mũi dùi khoan sâu vào gỗ, như đinh đóng chặt vào cột. Lòng tin chuyên ròng trong sạch, như ánh trăng rằm, như nước hồ thu, như pha lê trong suốt, không ngờ vực, cũng không nay tin ông này, mai tin bà kia. Đem lòng tin thanh tịnh trong suốt thâm sâu như vậy để trọn tin lời Đức Phật Thích Ca dạy có thật cảnh giới Cực Lạc ở phương Tây, nơi đó Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và hiện nay đang ngày đêm thuyết pháp. Tin đức Phật A Di Đà có 48 lời nguyện độ sanh, nguyện nào nguyện nấy cũng tha thiết đặc biệt hướng về chúng sanhthế giới Ta Bà để tiếp độ, như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng hướng về vạn vật trên quả địa cầu này.

Chí thành chí thiết tin lời dạy của Đức Phật Thích Ca là, cảnh giới Cực lạc thanh tịnh an lành tuyệt đối, tâm nguyện từ bi, năng lực độ sanh của Đức Phật A Di Đà vô biên, như mẹ hiền đối với con dại. Lại tin chính ta có khả năng thành Phật, như Đức Phật Thích Ca đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh" – "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Khi ta tin chắc lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca, thấu hiểu tâm nguyệnnăng lực của Phật A Di Đà, tin tưởng mãnh liệt ở khả năng Phật tánh của chính ta, ta phát nguyện chuyên tâm tu trì trong niềm tin tự lựctha lực viên mãn, thì ta nguyện ta nhất định thành. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Lòng tin là mẹ sanh các công đức. Lòng tin hay trưởng dưỡng các pháp lành. Lòng tin đưa người siêu thoát ba đường khổ địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Lòng tinnăng lực đưa người đến quả vị giác ngộ giải thoát". Sau khi tin chắc rồi, nên phát nguyện.

Nguyện: Sau khi đã tin có cảnh giới Cực Lạc, có Đức Phật A Di Đà từ bi tiếp độ, tin chính mình có khả năng Phật tánh rồi, thì nên phát nguyện vãng sanh về cảnh giới Cực lạc để được cùng sống với Đức A Di ĐàThánh chúng ở đó. Đem trọn lòng mà phát nguyện một cách chân thành chí thiết, nhứt tâm thiết tha duy nhất vào một việc vãng sanh. Phát nguyện chân thành chí thiết như dòng nước chảy xiết ngày đêm không ngừng một giây phút nào. Tâm nguyên, hơi thở, giờ giờ khắc khắc nhớ nghĩ ước mong được vãng sanh thấy Phật A Di Đà. Để cho nguyện viên thành thì phải lập hạnh.

Hạnh: Sau khi đã tin thâm sâu, nguyện tha thiết, tiến đến là thực hành. Chính sự thực hành này là yếu kiện quyết định cho sự thành tựu của tín và nguyện. Nếu chỉ tin và ước nguyện suông thôi, không chuyên cần thực hành thì không thể nào đạt thành nguyện vọng. Cũng ví như người tin chắc nước Hoa Kỳ là xứ tự do no ấm, rất ước mong được đến Hoa Kỳ sinh sống. Có tin có ước nguyện, nhưng lại không chịu khó chạy lo tạo điều kiện kiếm tiền đóng thuyền, hoặc lo giấy thông hành để đi thì nhất định không bao giờ đến được Hoa Kỳ. Người tu tịnh nghiệp cầu sanh về Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà cũng giống như thế. Chỉ tin và nguyện suông thôi, không chịu chuyên tâm thực hành thì không cách nào vãng sanh về nước Cực lạc được. Thế thì thực hành bằng cách nào?

Muốn được sanh về nước Cực Lạc, ngoài việc tin sâu, nguyện chí thiết ra, hành giả còn phải ngày đêm trong lúc đi đứng nằm ngồi phải luôn luôn niệm danh hiệu Phật, tưởng nhớ đến Phật. Câu Nam Mô A Di Đà Phật không ngớt trên miệng, hình bóng Đức Phật A Di Đà không dứt trong tâm. Đồng thời phải đặt định thời khóa để lạy sám hối, tụng kinh, niệm Phật. Phải cố gắng sửa tâm tánh, bỏ các tật xấu cố hữu. Dứt trừ chuyện thị phi. Xả bỏ ân tình ái dục. Cổ đức dạy: "Ái bất trọng bất sanh Ta Bà. Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh Độ". Nghĩa là do lòng ái dục mà ta phải sanh ra trong cõi Ta bà khổ lụy này. Niệm Phật không nhất tâm thì không thể nào sanh về Tịnh Độ được.

Không phải chỉ niệm Phật tụng kinh sám hối suông thôi là đủ. Hành giả tu tịnh nghiệp, trong tâm phải luôn luôn nhớ Phật, sửa tâm tánh để được thanh tịnh. Ngoài thân phải đem hết khả năng tụng kinh bái sám, niệm Phật, làm những việc lành. Như bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v... Chớ nên lầm tưởng ăn chay, niệm Phậttụng kinh với hình thức bên ngoài mà trong lòng còn đầy tham sân si, mạn nghi, ái dục, ích kỷ là được vãng sanh đâu! Kinh A Di Đà, Đức Phật nói: "Không thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyêncầu vãng sanh về cõi nước Cực Lạc kia. (Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên đắc sanh bỉ quốc). Cổ đức khuyên:

Xem ra niệm Phật dễ mà không.

Ý khẩu buông lung niệm chẳng đồng.

Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn.

Dù cho bể cổ vẫn là không.

Vậy, tín nguyện hạnh là ba yếu kiện tiên quyết, là tư tưởng chánh để hành giả được vãng sanh về cảnh giới Cực lạc.

Có ai niệm Phật được vãng sanh chưa?

vô số người niệm Phật được vãng sanh Cực Lạc. Xin quý vị tìm đọc ở các sách Hương Quê Cực Lạc, Đường Về Cực Lạc, Pháp Môn Tịnh Độ, Niệm Phật Thập Yếu, Lá Thư Tịnh Độ v.v... Các sách nói về pháp môn Tịnh Độ có ghi rõ. Nay đây xin lược nêu những hành giả tu pháp môn Tịnh Độhiệu quả biết trước ngày giờ lâm chung, được vãng sanh, như ở Việt Nam, Huế có Ngài Tường Vân, Ngài Nhất Định v.v... Ở Bắc Việt có Ngài Tế Xuyên, ông Phó Kinh v.v... Ở Nam Việt có ông chủ Thời, cô Lưu Thi Yến pháp danh Như Xuân Huyền, ông Xã Tòng v.v... và gần đây nhất có Ngài hành Trụ. Trước ngày viên tịch, Ngài đi thăm từ giả các Thầy, các chùa và an nhiên tạ thế.

Ở Trung Hoa hành giả tu Tịnh Độ nhiều vô số kể. Các Ngài tu đều kết quả, nối tiếp nhau đã hệ thống hóa thành dòng Tịnh Độ Tổ Sư. Quý vị nếu đọc các sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Niệm Phật Thập Yếu, Quê Hương Cực Lạc, Đường Về Cực lạc, Lá Thư Tịnh Độ, Pháp Môn Tịnh Độ v.v... thì qúy vị sẽ thấy vô số người tu pháp môn trì danh niêm Phật được kết quả ngay trong hiện đời.

Đến như Nhật Bản, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Mã Lai Á v.v... Các nước theo hệ phái Đại thừa Phật giáo thì mười người hết bảy tám người tu pháp môn niệm Phật.

Các Ngài nêu trên, đều biết trước ngày giờ khi lâm chung. Các Ngài an nhiên tự tại khi xả phàm thân để chứng pháp thân. An nhiên tự tại giống như người có chí xuất gia bỏ nhà cửa, y phục, những thứ dục lạc của trần gian tục lụy để sống đời đạo hạnh thanh đạm an lạc giải thoát của tăng sĩ,

Đặc biệt các Tổ sư Tịnh Độ phần độ trước đó vốn là những Thiền sư danh tiếng, nhưng sau chuyển hướng tu Tịnh Độ mà được đắc quả. Như sách Tịnh Độ Chỉ Qui của Phổ Hạnh khi nói về "pháp môn niệm Phật tổng trì vạn pháp thông lợi ba căn" và sách lý Bát Nhã Tịnh Độ của cư sĩ Bổn Nguyên cũng xác định rằng: "Thiền tông tự xưng là trực chỉ chơn tâm, minh tâm kiến tánh hay là giáo ngoại biệt truyền mà mười một vị Tổ tông có đến sáu vị nguyên trước vốn là Thiền sư chánh truyền. Như Tổ thứ ba là Thừa Viễn Thiền sư, Tổ thứ sáu là Vĩnh Minh Thiền sư, Tổ thứ tám là Phật Huệ Thiền sư, Tổ thứ chín là Ngẩu Ích Thiền sư, Tổ thứ mười là Tĩnh Am còn gọi là Thực Hiền Thiền sư, Tổ thứ mười một là Triệt Ngộ còn gọi là Tế Tĩnh Thiền sư. Các vị này trước tu thiền cũng đã nổi danh, nhưng sau chuyển tu Tịnh Độcực lực hoằng truyền pháp môn niệm Phật". Đặc biệt là Ngài Nhất Biến thượng nhơn (1239-1289) vốn là một Thiền sư nổi tiếng, sau chuyển tu Tịnh Độ sáng lập phái Thời Tông Tịnh Đô, rộng truyền pháp môn niệm Phật.

Không những các Thiền sư danh tiếng trước tu thiền về sau chuyển tu Tịnh Độ cầu sanh Cực Lạc, mà đến như các vị đại Bồ Tát cũng phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Như Bồ Tát Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm đã phát nguyện: "Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vãng sanh an lạc quốc". Nghĩa là: "Con nguyện khi sắp qua đời, tất cả nghiệp chướng đều dứt trừ, được thấy Phật A Di Đà, ngay khi đó sanh về Cực lạc". Bồ Tát Phổ Hiền còn nguyện, Ngài ở trong đời giáo hóa chúng sanh cũng dùng phương pháp Tịnh Độ để cho chúng sanh dễ tu hành được sanh về cảnh giới Cực lạc. Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền, Ngài nói: "Năng ư phiền não đại khổ hải trung, bạt tế chúng sanh linh kỳ xuất ly, giai đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới". Nghĩa là Phổ Hiền Bồ Tát thường hay ở trong biển khổ phiền não của cõi đời cứu vớt chúng sanh, khiến cho chúng sanh được giải thoát, vãng về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát trọng tâm là xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Ngài Văn Thù Bồ Tát, nguyện sau khi tu hành mãn, xa lìa cõi Ta Bà sanh về cảnh giới Cực Lạc, như kinh Văn Thù phát nguyện nói rằng: "Nguyện ngã mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, vãng sanh Cực Lạc quốc. Sanh bỉ Phật quốc dĩ, thành mãn chư đại nguyện, A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ký ngã, cứu cánh Bồ Tát hạnh". Nghĩa là: "Ngài Văn Thù Bồ Tát nguyện khi mạng chung, diệt trừ hết chướng ngại, được thấy Phật A Di Đà, vãng sanh về nước Cực Lạc. Được sanh về cõi nước ấy rồi, tròn đầy các đại nguyện, Đức A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ký cho tôi, cứu cánh hạnh Bồ Tát.

Kinh Quán Tam Muội, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng: "Trong tất cả các pháp môn tu hành, không có pháp môn nào vượt qua pháp môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả pháp môn". Trong kinh Đại Tập Đức Phật xác quyết rằng: 'Vào thời mạt thế, ức ức người tu hành, không có lấy được một người đắc đạo giải thoát, chỉ còn có cách là nương theo pháp môn niệm Phật mới ra khỏi vòng luân hồi sanh tử".

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình bày với Đức Thích Ca Mâu Ni về chỗ sở đắc của mình rằng: "Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai kiến Phật". Nghĩa là: "Con nhờ nghĩ đến Phật, niệm Phật, đời này hoặc đời sau được thấy Phật. Bồ Tát Đại Thế Chí do nhờ nhớ Phật, niệm Phật, mà thấy được Phật, vãng sanh về Tịnh Độ, chứng vô sanh pháp nhẫn, hiện ở đó cùng với Bồ Tát Quán Thế Âm trợ giúp Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn người tu niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình bày với Đức Phật về pháp môn tu hành thành đạt đạo quả của mình rằng: "Con nhớ hằng sa số kiếp trước, Đức Phật Siêu Nhựt Nguyệt Quang dạy con tu pháp môn niệm Phật tam muội. Vậy chỗ nhơn địa tu hành của con là do niệm Phật mà ngộ vô sanh nhẫn, nguyện ở cõi này để nhiếp hóa người phát tâm niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Nay Phật hỏi chỗ viên thông, con vốn không chọn lựa, chuyên thâu nhiếp sáu căn, khiến cho tịnh niệm nối tiếp luôn, được vào tam ma địa, ấy là thứ nhất". (Ngã bổn nhơn địa, dĩ nhiệm Phật tâm, nhập vô sanh nhẫn, kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhơn, qui ư Tịnh Độ. – Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí Viễn Thông).

Trong hầu hết những kinh điển Đại thừa Phật giáo, cho thấy các vị Bồ Tát đều cầu vãng sanh về Tịnh Độ. Như kinh Pháp Hoa nói: "Nếu người tâm tán loạn, bước vào nơi chùa tháp, nhứt niệm nam mô Phật, thì đều được thành Phật". (Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhứt niệm nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo). Kinh Pháp Hoa còn nói rõ rằng: "Nếu người nào y theo kinh Pháp Hoa dạy mà tu hành, thì khi mạng chung liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, nơi đó được Đức Phật A Di Đà và chúng đại Bồ Tát vây chung quanh khen mừng, người đó từ hoa sen sanh ra và ngồi trên bảo tòa". (Nhược hữu nhơn văn thị kinh như thuyết tu hành, ư thử mạng chung tức vãng sanh an lạc thế giới, A Di Đà Phật đại Bồ Tát chúng vi nhiễu trụ xứ, sanh liên hoa trung bảo tòa chi thượng).

Thái Hư đại sư khi luận về pháp môn Tịnh Độ, Ngài nói: "Kinh A Di Đàkinh Pháp Hoa lược nói. Kinh Pháp Hoakinh A Di Đà giảng rộng". Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng: "Nếu ai nghe nói đến Đức Phật A Di Đàtrì niệm danh hiệu hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì người đó khi sắp lâm chung, được Phật A Di ĐàThánh chúng hiện ra trước mắt, người ấy khi chết tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nưóc Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà". Kinh còn nói: "Người nghe kinh A Di Đà này, mà phát tâm thọ trì và nghe danh hiệu của Phật, thì được tất cả các Đức Phật nghĩ nhớ hộ niệm, rốt sau được đạo quả bất thối chuyển vô thượng Bồ Đề".

Không những Đức Thích Ca Mâu Ni khuyên chúng sanh nên tu pháp môn Tịnh Độpháp môn chắc chắn nhất, bởi nhờ uy lực 48 đại nguyện độ sanh của Đức Phật A Di Đà, mà chính nNgài khi thâu thần tịch diệt Niết Bàn cũng hoàn nguyên trở về cảnh giới Thường tịch quang Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà Như Lai, như kinh Đại Bát Niết Bàn phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên thứ hai mươi bảy nói: "Giờ sắp nhập Niết Bàn, Đức Phật đã thuận nghịch ba lần nhập thiền định xong, từ sơ thiền đến diệt tận định, cuối cùng nhập siêu việt thiền định, Ngài nói: Vô minh không có cội gốc, nên lão tử cũng không, mười phương tất cả pháp đều giải thoát. Nay ta an trụ nơi Thường Tịch Diệt Quang gọi là Đại Niết Bàn".

Đức Phật A Di Đà ngày đêm hướng về chúng sanh, như mặt trời hướng về vạn vật, như mẹ hiền trông ngóng con về. Đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát vừa nêu trên, tuy khi ra độ sanh theo căn tánh của mỗi loài thấp cao mà mở bày đủ các pháp môn phương tiện, nhưng khi hoàn nguyên thì trở về an trụ nơi tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ trong cảnh Thường tịch quang tịnh độ của đức A Di Đà Như Lai.

Để cho quý vị nhận địnhhiệu năng của pháp môn Tịnh Độ, nay tôi xin lược thuật câu chuyện do Ngài Trí Giả đại sư nói trong bộ Thập Nghị Luận và được dẫn trong sách Tịnh Độ Chỉ Qui như sau:

"Ba vị Bồ TátVô Trước, Thế ThânSư Tử Giác cùng phát nguyện tu Duy Thức Quán để cầu mong được vãng sanh về cõi trời Đâu Suất nội viện hầu được diện kiến Đức Di Lặc Bồ Tát. Ba Ngài đồng giao hẹn với nhau rằng, nếu ai được lên gặp Đức Di Lặc trước thì phải nhớ về báo tin cho biết là mình đã gặp được rồi. Chẳng bao lâu sau đó Ngài Sư Tử Giác viên tịch. Trước giờ Sư Tử Giác viên tịch, hai Ngài Thế ThânVô Trước đến bên cạnh căn dặn nên nhớ lời giao hẹn. Sư Tử Giác gật đầu hứa chắc.

Nhưng sau khi Sư Tử Giác qua đời đã lâu, hai Ngài Thế ThânVô Trước đợi mãi mà không thấy tin tức đâu cả. Ba năm sau, đến lượt Thế Thân viên tịch. Lúc Thế Thân sắp viên tịch, Ngài Vô Trước đến căn dặn bốn năm lần rằng, dù thế nào cũng phải nhớ về báo tin cho biết chớ đừng như Sư Tử Giác. Mãi đến hơn ba năm sau, Thế Thân mới về báo tin cho Ngài Vô Trước hay. Vô Trước hỏi tại sao phải lâu đến hơn ba năm mới về cho hay?

- Thế Thân nói: Tôi đến Đâu Suất nội viện nhằm ngay lúc Đức Phật Di Lặc thuyết pháp, chỉ nghe được Ngài thuyết có một thời rồi liền bái biệt về ngay đây.

- Vô Trước lại hỏi: Còn pháp hữu Sư Tử Giác đâu?

- Thế Thân nói: Sư Tử Giác mới đến ngoại viện, bị ngũ dục lôi cuốn, mãi đến nay vẫn chưa vào được nội viện diện kiến Đức Di Lặc.

Vô Trước nghe xong như tỉnh mộng, nhận thấy phương pháp tu tự lực tư duy quán quá nguy hiểm, liền cải đổi tu theo pháp môn Tịnh Độ cầu sanh Cực Lạc.

Ngũ dục lạc trần gian đã nhận chìm bao kẻ anh hùng thế gian, cũng như đã cuốn lôi làm cho rơi rụng không biết bao kẻ đi trên đường ánh đạo vàng. Người tu hành phải khốn khó lắm mới khắc phục nổi ngũ dục. Huống nữa là tu thiền thì phải trải qua bốn cõi thiền, tám cõi định, mới đến cõi diệt tận định để bước vào quả vị đẳng giác. Ngũ dục của các cõi trời thiền trùng trùng điệp điệp vô cùng mỹ diệu siêu trần tuyệt thế, đạo lực như Bồ Tát Sư Tử Giác mà còn phải ngây ngất lặn lội chưa khắc phục nổi sự quyến rủ để vào Đâu Suất nội viện bái kiến Đức Di Lặc kia, huống hồ là phàm phu như chúng ta, đạo lực đến bực nào mà dám tự hào khắc phục nổi dục lạc bốn cõi thiền? Thế nên các bực cổ đức kinh nghiệm mới minh mẫn có lời ân cần nhắn nhủ: "Tu thiền như con mọt trong ống tre phải đục từng mắt tre mới ra khỏi. Tu Tịnh Độ như con mọt đục ngang ống tre mau lẹ thoát ra ngay". Kinh Đại Bản Di Đà nói: "Tu các pháp môn khác như kiến bò lên núi. Tu pháp môn niệm Phật như thuyền buồm thuận gió xuôi nước. (Dư môn học đạo du nghị tử thượng ư cao sơn. Niệm Phật pháp môn tợ phong phàm hành ư thuận thủy).

Cũng trong ý nghĩa này, người tu thiền hay tu các pháp môn khác để đạt đạo quả Bồ Đề chẳng khác nào như người nương theo bản đồ tự mình đến thành phố lạ. Tu Tịnh Độ giống như người đến thành phố lạ có bản đồ lại có người hướng dẫn đường đi. Người tu thiền hay các pháp môn khác giống như cậu bé ba tuổi tự một mình lần theo đường đã chỉ tìm về quê cha đất tổ. Người tu Tịnh Độ cũng giống như cậu bé theo đường đã chỉ lại có mẹ đi bên cạnh, nên vững tâm mạnh dạn phấn khởi trở về quê hương không sợ hầm hố chông gai, lại cũng không ngại lạc lối. Sự hiểu biết của đứa bé ba tuổi so với kiến thứckinh nghiệm của bà mẹ, có khác gì khả năng kiến thức của chúng sanh so với trí tuệ giác ngộthần lực của Phật?

Người không tin pháp môn niệm Phật hoặc chê bai pháp môn niệm Phật là tầm thường, chẳng khác nào đứa bé lên ba tuổi sanh ở nơi tha hương, nay muốn về quê cha đất tổ mà lại không cần cha mẹ dẫn đường. Đây mới thật là kẻ đáng thương vậy. Như kinh Thanh Tịnh Giác nói: "Nếu người nào đối với pháp môn Tịnh Độ nghe như không nghe, biết như không biết, tất nhiên kẻ ấy mới vừa ở trong ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ra, hoặc còn nhiều tội chướng, nên không sanh được lòng tin tưởng pháp môn này. Như Lai nói kẻ ấy kém phước duyên trên đường giải thoát". Kinh lại nói: "Nếu người nào nghe pháp môn Tịnh Độ liền khởi tâm thương mừng rơi lệ, cảm động đến các chân lông nơi thân đều dựng đứng, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng nghe, tin và tu tập pháp môn Tịnh Độ này. Nếu kẻ ấy chánh niệm tu hành thì nhất định vãng sanh".

Pháp môn niệm Phậtpháp môn bao gồm tự lựctha lực, gọi tắt là Pháp tu tự tha viên mãn. Là pháp môn rất dễ tu, rất dễ chứng, rất hoàn bị, rất khó tin. Nên trong kinh A Di Đà, Đức Phật kêu Ngài Xá Lợi Phất nói: "Này Xá Lợi Phất ơi! Ông nên biết ta đang ở trong đời ngũ trược xấu ác này làm việc thí pháp khó làm, mà được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Ta vì tất cả chúng sanh trong thế gian mà nói pháp môn Tịnh Độ, là pháp môn khó tin, đối với họ thật là khó tin".

Ngẩu Ích đại sư nói, có được vãng sanh hay không là do hành giảchuyên tâm chí thành tu niệm hay không. Phẩm vị cao hay thấp là tùy thuộc lòng tin của hành giả cạn hay sâu:

Được vãng sanh cùng chăng,

Tín nguyện có hay không,

 Phẩm vị cao cùng thấp,

Tùy niệm Phật cạn sâu.

Ngài Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát khuyên hành giả tu tịnh nghiệp rằng:

Ít nói một câu chuyện,

Nhiều niệm một câu Phật,

Đánh chết được vọng niệm,

Pháp thân người hiển lộ.

Đức Văn Thù Bồ Tát đối trước Đức Phật nói kệ khuyến lệ người tu Tịnh Độ rằng:

Khi đi đứng nằm ngồi,

Thường niệm công đức Phật,

Ngày đêm chớ tạm quên,

Nên siêng tu như vậy.

Hoằng Nhất đại sư khuyên ông bạn nên phát tâm quy y Tam Bảo, niêm Phật để tạo tư lương trên đường về Tây Phương Cực Lạc. Ông bạn hẹn chừng nào thu xếp xong việc rồi sẽ tính sau. Đại sư liền nói:

Ngay giờ quyết dứt liền thôi dứt,

Chớ hẹn cho xong chẳng lúc xong.

Thưa qúy vị, người đời có thói quen thường hay khất hẹn, nhất là đối với việc làm phước thiện và việc tu hành. Khi được mời khuyên đóng góp phần công đức vào việc thiện như bố thí, cúng dường thì kêu than "kẹt, túng". Khi được khuyến khích tu tâm niệm Phật thì "khất hẹn" chừng nào thu xếp xong hãy tính.

Xin quý vị thử nghĩ, việc đời biết chừng nào mới hết "kẹt, túng", đến bao giờ mới "thu xếp xong"? Nên cổ đức có lời khuyến giác:

Chớ đợi đến già mới niệm Phật,

Đồng hoang mồ trẻ thiếu chi người.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
25/05/2011(Xem: 20770)
19/07/2020(Xem: 5478)
03/08/2010(Xem: 37207)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.