YẾU LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, Phan Châu Pha và Tiểu Nhỏ Việt dịch
Nội dung gồm có ba phần: Dẫn nhập Giảng giải Chánh văn Phụ lục: Các bản dịch Anh ngữ khác của phần Chánh văn
Dẫn Nhập: Hôm nay có khá nhiều người thuộc mọi thành phầnxã hội cùng tề tựu ở đây, kể cả một số người đến từ Tây Tạng. Hôm nay, chúng ta tề tựu về đây không phải để nghe kể chuyện này, chuyện nọ, mà là để lắng nghe Phật pháp. Việc chuyển hóa thân, khẩu, ý của quý vị là điều quan trọng, để thẳng tiến đến giác ngộnếu có thể. Do đó, ít nhất là trong các buổi giảng Pháp này, quý vị hãy cố gắng hướng tâm vào việc tu tậptâm linh. Hãy cố gắng ghi nhớ bất kỳ ý nghĩa nào mà quý vị tiếp nhận được từ các buổi giảng Pháp này và nỗ lựcthực hành theo đó cho thuần thục. Nghe giảng Pháp không chỉ là để trau dồi học thuật, mà mục đích chính là để thuần phục và chuyển hóa tâm. Do đó, điều quan trọng là sau khi nghe giảng Pháp, chúng ta phải đạt được kết quả là có sự chuyển hóa trong cuộc sống của mình.
Thông thường, trước một buổi giảng Phápchúng ta tụng các bài kệquy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng-già) và phát tâm Bồ-đề, vốn là tinh túy của Phật pháp. Hai dòng kệ đầu tiên là: “Con nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng từ nay cho đến khi đạt giác ngộ.” Quy y nghĩa là từ trong sâu thẳm lòng mình đã đặt niềm tin và phó thác [cuộc đời mình] cho Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng-già). Quý vị chỉ trở thànhPhật tử khi đã giao phó chính bản thân mình cho Phật, Pháp, Tăng. Điều quan trọng là phải có sự nhận hiểu rõ ràng về bản chất của Phật, Pháp và Tăng-già. Sự nhận hiểu đó được thực hiện thông qua việc học hỏinghiên cứu (văn), suy ngẫm (tư) và thực hành thiền định (tu). Người đời không có sự nhận hiểu rõ ràng như trên và chỉ đơn giản làm theo thói quentruyền thống từ xưa mà tụng đọc: “Con xin quy y Lạt-ma, con xin quy y Phật, Pháp, Tăng” nhưng không hề hiểu rõbản chất của Phật, Pháp và Tăng, nên họ sẽ không thể quy y một cách sâu xa. Họ chưa đạt đếnlòng tin thực sự thông qua sự suy luận hay học hỏinghiên cứu. Do đó, có thể có nhiều mức độ quy y khác nhau, tùy thuộc vào sự quan tâm, nghiên cứuhọc hỏi và trí thông minhcủa quý vị.
Phương cáchquy ychân thật nơi Phật, Pháp, Tăng là noi gương Tam bảo. Quý vị phát nguyện tự mình sẽ là Phật, là Pháp, sẽ khơi dậy Chánh pháp ngay trong tâm thức của chính mình. Khi nói về quy y, có nhiều cách để tiến hành điều đó. Thông thường, chúng ta nương tựa vào người nào có khả năng bảo vệ, che chở cho ta. Về một phương diện, nếu ai đó có khả năng loại bỏ khổ đau và giúp đỡ chúng ta, ta sẽ nương tựa vào người đó. Mặt khác, nếu quý vị có khả năng tự chu toàn mọi trách nhiệm của mình, quý vị có thể sống tương đốiđộc lập và không cần thiết phải nương tựa vào ai cả.
Do đó, có hai mức độ quy y Phật, Pháp, Tăng. Mức độ thứ nhất là tự xem mình thuộc hạng thấp kém hơn và chẳng bao giờ nghĩ đến việc thành Phật. Mức độ thứ hai là quy y Phật, Pháp, Tăng với tâm nguyện tự mình sẽ thành Phật và khơi dậy Chánh pháp trong tâm thức của mình. Cách quy y này là sâu sắc hơn và dũng mãnh hơn nhiều. Tất cả đều tùy thuộc vào tầng bậc tâm linh của mỗi người.
Sau đó, quý vị sẽ phát tâm Bồ-đề. Hai dòng cuối trong bài kệtruyền thống nói lên rằng: “Nhờ công đứctích lũy được bằng cách bố thí, trì giới, v.v... nguyện rằng con sẽ đạt đến quả Phật vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh.” Điều này chỉ rõ rằng, mục đích của việc tu tậpPhật pháp không phải chỉ vì lợi ích riêng cho bản thân quý vị, mà là để đạt đếngiác ngộ vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Đó là một khuynh hướng vô cùngkỳ diệu và cao quý và là điều mà tất cả chúng ta đều nên hướng đến. Nếu quý vị có được một tâm Bồ-đề như vậy, thì đó sẽ là nguồn gốc của tất cả những thiện hạnhtuyệt hảo.
Khi quý vị tụng đọc bài kệquy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng-già) và phát tâm Bồ-đề như trên, quý vị phải hồi hướng mọi công đức đã tạo về cho lợi lạc của tất cả chúng sinh. Vị thầy phải giảng Pháp với động cơ như thế, và người nghe Pháp cũng phải lắng nghe với động cơ như thế. Cho dù hành trìpháp môn nào, cho dù là lễ lạy hay cung kính đi nhiễu, quý vị cũng đều phải thực hành với một động cơ như thế. Được vậy thì tất cả thiện hạnhcủa quý vị sẽ trở thành nhân để đạt đếngiác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Nếu quý vị suy ngẫm về ý nghĩa của chỉ một bài kệ này khi tụng đọc, thì sự tu tậpcủa quý vị cũng sẽ trở nên sâu sắc. Hãy suy ngẫm theo cách sao cho quý vị thực sự có thể khởi phát một cảm xúc mạnh mẽ trong tâm.
Thường thì chúng ta tụng bài kệ này ba lần. Như vậy là để đảm bảo rằng chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa của bài kệ, và thông qua việc suy ngẫm nhiều lần về ý nghĩa của bài kệ, ta sẽ có sự thay đổi cảm xúc trong tâm. Do đó, có những lúc cần tụng đọc lên đến mười lần cũng là hữu ích, chứ không chỉ ba lần. Đôi khi, quý vị có thể chỉ tập trung vào hai dòng kệ đầu tiên, quy y Phật, Pháp và Tăng. Hãy chú tâm vào ý nghĩa của hai dòng kệ này. Khi quý vị có thể khởi phát một cảm xúc thực sự mạnh mẽ thì chỉ cần tụng đọc 2 dòng kệ phát tâm Bồ-đề mà thôi. Hãy nhớ rằng quý vị đang tu tập tất cả các pháp này để đạt đếngiác ngộ vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Điều đó có thể tăng thêm hiệu quả cho việc tạo ra chuyển biến trong tâm quý vị.
Khi quý vị thực hành bất kỳ một pháp lành nào, nếu ngay từ đầu mà quý vị có sự suy ngẫm về ý nghĩaquy y Tam bảo và phát tâm Bồ-đề, thì tất cả các pháp tu của quý vị đều sẽ trở nên hết sứchiệu quả. Nếu không thì việc tụng đọc những lời nguyện nào đó sẽ chẳng khác gì việc phát băng ghi âm. Việc thực hànhPhật pháp, cũng giống như tất cả các truyền thốngtôn giáo khác, là nhằm chuyển hóa tâm. Trong Phật giáo, điều này được thực hiện thông qua thiền tập hay luyện tâm. Các pháp tu tậpliên quan đến tâm ý thì tinh tế và khó khăn hơn so với các pháp tu tậpliên quan đến các cảm thọ khác. Do đó, cho dù quý vị có phát âm một cách thanh nhã khi tụng đọc những lời nguyện, nhưng nếu không có một thái độtinh thầnđúng đắn thì đó không thực sự là thực hànhPhật pháp.
Đặc biệt là khi chúng ta có cơ hội để thực hànhPhật pháp, điều quan trọng là phải hiểu rõđộng lực chính trong Giáo pháp. Phật pháp được thực hành thông qua tâm. Nếu chúng tahoàn toànhài lòng với các pháp tu như cung kính đi nhiễu và những pháp tu tương tự mà quên đi pháp tu luyện tâm, thì rất đáng ngờ là những tu tập như thế của ta có thực sự là thực hànhPhật pháp hay không. Thỉnh thoảng, khi ta có nhiều thời gian thì việc cung kính đi nhiễu hay lễ lạy có thể giúp ta cảm thấy rất thanh thản. Nhưng nếu quý vị cùng đi với một người bạn lắm chuyện để rồi tán gẫu vô bổ và trò chuyệnđại loại như thế, thì đó không phải là thực hànhtâm linh. Rất có thể là trong khi đi nhiễu quý vị lại suy nghĩ đến việc lừa dối người này, người kia, hoặc nghĩ đến việc kiếm tiền, nhưng như thế chỉ là phí thời gianvô ích, vì quý vị chỉ toàn nghĩ đến những việc làmbất thiện. Những người quan sát quý vị có thể cảm thấy, và chính bản thân quý vị cũng có thể tự cảm thấy, rằng quý vị đang thực hànhtâm linh, nhưng thật ra thì không phải, vì tâm của quý vị đang chuyển về hướng khác.
Như vậy, thực hànhPhật pháp thông qua tâm có nghĩa là gì? Ví dụ như khi quý vị đang giận dữ rồi nhận thấy những tai hại của sân hận và lợi ích của tâm an tĩnh thì quý vị sẽ nguôi giận. Và khi nghĩ đến sự việc hay con người đã làm mình giận, nếu quý vị khởi phát một khuynh hướng yêu thương nhiều hơn nhờ việc quán xét các lợi ích của lòng từ bi, thì quý vị sẽ có thể chuyển hóa được khuynh hướng [sân hận] trước đây. Nếu quý vị suy nghĩ rằng, người đó cũng giống mình ở điểm là chỉ mong muốn hạnh phúc và chẳng muốn khổ đau, thì quý vị sẽ có thể khởi phát một cảm xúc bi mẫn thực sự đối với người ấy. Như thế mới đích thực là thực hànhPhật pháp. Đó là cách thức để tâmcủa quý vị có thể được chuyển hóa. Khuynh hướng tai hại trước đây của quý vị giờ đã được chuyển hóa thành một khuynh hướng thương yêu. Điều này cực kỳ khó khăn, nhưng thật diệu kỳ. Như thế mới đích thực là thực hànhPhật pháp. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta nói rằng Phật pháp được thực hành thông qua tâm.
Nếu chúng ta tự nguyện là Phật tử và tự nguyện đi theođức Phật, thì chúng ta có trách nhiệm làm theo lời dạy của Ngài. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm phải [tu tập để] giảm thiểu và loại bỏ tâm sân hận, tham luyến và thù hằn. Chúng ta là những đệ tử của đức Phật, trong nhà ta thờ kính ảnh tượng Phật. Chúng ta cũng đi hành hương và khởi tâmcung kính rất mực trước ảnh tượng của đức Phật Thích-ca. Nhưng nếu ta đã xem Ngài như vị Thầy và yêu thích giáo lý của Ngài, thì điều quan trọng là ta phải thực hành theo đó. Ít nhất ta cũng có thể làm những điều để Ngài hoan hỷ và không làm những điều khiến Ngài phật lòng. Nếu chúng ta không thực hành như vậy thì ta chỉ tự lừa dối mình và lừa dối đức Phật Thích-ca khi nói rằng mình quy y Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng-già).
Giờ đây, khi bước lên tòa giảng Pháp, nếu tôi kiêu hãnh vì mình là vị Đạt-lai Lạt-ma hay vì những điều đại loại như thế, hẳn tôi sẽ không xứng đáng [với cương vị này]. Tôi là một tỳ-kheo, một người đi theođức Phật Thích-ca, trân quý những lời dạy bảo của Ngài và thành tâmnỗ lựcthực hành những gì Ngài dạy. Tôi thực hànhgiáo pháp của Ngài không đơn thuần chỉ để làm Ngài hài lòng, không để xu nịnh Ngài. Tôi cũng không làm theo Ngài vì hạnh phúc của tôi do Ngài quyết định. Tôi làm theo lời dạy của Ngài vì điều đó mang lại lợi íchlâu dài cho tôi. Tất cả chúng ta đều mong muốn hạnh phúc và không muốn chịu khổ đau. Và ước nguyện này không chỉ là trong vài ba ngày hay vài ba năm nữa, mà sẽ kéo dài trong nhiều kiếp sống. Chúng ta có được hạnh phúc hay không là do chính ta quyết định. Để tìm được hạnh phúcbền lâu và tránh xa khổ đau, chúng ta phải chuyên cầnnỗ lực. Nguồn gốc của khổ đau là vô minh, sân hận và tham ái. Vì lợi ích cho chính mình, ta phải xem những thứ ấy như kẻ thù và trân quý các phẩm tính của tâm Bồ-đề, của tuệ giáchiểu biếttính Không v.v... Do đó, là người đi theođức Phật Thích-ca, tôi thực hành những gì Ngài dạy. Mặc dù Ngài đã dạy về Tứ diệu đế và Nhị đế từ cách đây hơn 2500 năm, nhưng cứ mỗi lần suy ngẫm về những điều này tôi lại càng thấy chúng đúng đắn hơn và niềm tin của tôi thêm mạnh mẽ hơn.
Tôi luôn nghĩ mình là một tỳ-kheo bình thường, một đệ tửbình thường của đức Phật. Mọi người khác cũng đều giống như tôi. Do đó, sẽ là hữu ích nếu tôi thảo luận với quý vị những gì tôi biết, và với động cơ đó, động cơ làm lợi lạc, tôi sẽ trình bày những giáo pháp hôm nay. Cho dù chúng ta chỉ làm lợi lạc cho một người thôi, thì điều đó cũng đáp ứng được mục đích của lời Phật dạy. Bản thânĐức Phật cũng đã phát tâm Bồ-đề trước nhất, sau đó mới huân tậpvô lượngcông đức và cuối cùngđạt đếngiác ngộ. Ngài làm tất cả những điều này vì lợi ích cho chúng sinh. Ngài tu tập trong vô lượng kiếpkhông thối chuyển và cuối cùngđạt đếngiác ngộ. Điều này thực hiện được nhờ Ngài đã có một phát khởi nhân kỳ diệu nhất là tâm Bồ-đề, [mong cầu giác ngộvì lợi ích cho tất cả chúng sinh]. Do đó, nếu thông qua việc giảng pháp của chúng ta, hay nhờ vào thiện hạnh của mình, mà ta có thể giúp cho dù chỉ một người có được cuộc sống tốt đẹp, hay làm cho hạnh phúc khởi sinh trong tâm người ấy, thì điều đó cũng đã là phụng sự lớn lao cho Phật pháp, nhưng cũng đồng thời đem lại lợi lạc cho chính ta.
Dù thực hành bất kỳ pháp môn nào, ta cũng phải thực hành với động cơ đúng đắn. Nói chung, việc tự mình huân tập các phẩm tính tốt đẹp là vô cùng khó khăn, trong khi việc tập thành những thói xấu thì lại không cần dụng công. Do đó, các bậc thầy thuộc phái Kadam ngày xưa thường nói rằng, việc tích tụác nghiệp cũng giống như một hòn đá lăn xuống triền dốc, nhưng việc tạo thiện nghiệp lại giống như lội nước ngược dòng hay cưỡi một con ngựa đã kiệt sức. Dù khi ta thức hay ngủ, các phiền não cũng tự động khởi sinh. Và rồi những phiền não này sẽ biểu lộ trong cung cách ứng xử hằng ngày của ta. Chúng tathực hiện những hành vi xấu ác ngay cả khi biết rõ đó là sai trái.
Vì chúng ta đã có được thân người quý hiếm này, và chúng ta đã cùng đến đây để nghe giảng Pháp, nên điều quan trọng là ta phải khởi phát một động cơ tích cực. Có như vậy thì việc nghe giảng Pháp mới trở thành một thực hànhtâm linh. Khi chúng ta nói về việc tích lũythiện nghiệp và loại bỏác nghiệp, chúng ta không làm như vậy vì đức Phật đã bảo chúng ta làm, mà bởi vì giáo pháp của Ngài dựa trên nền tảng của quy luậttự nhiên về nhân quả. Khi Ngài giảng về Tứ Diệu Đế, Ngài cũng giảng về cách thức vận hành của nhân quả. Hạnh phúc khởi sinh tùy thuộc vào nhân duyên, và khổ đau cũng khởi sinh tùy thuộc vào nhân duyên; đó là một quy luậttự nhiên. Hạnh phúc mà chúng ta đang tận hưởng ngay trong đời sống này, dù là sự thịnh vượnggiàu sang, học vấn cao hay bất cứ điều gì khác, cũng đều là kết quả của việc tích lũy những nhân duyêncần thiết.
Những nhân duyên khác nhau này khởi sinh trong quan hệ trực tiếp với cung cách ứng xử của con người, mà cung cách ứng xử thì liên quan đến cách suy nghĩ của chúng ta. Và những quan niệm hay cách suy nghĩ khác nhau của con người không khởi sinh nếu không có nhân duyên. Con người có một thân thểvật lý và trong một chừng mực nào đó thì các tư tưởng, ý niệm khác nhau khởi sinh vì tình trạng của cơ thể. Chẳng hạn, nếu thân thể khỏe mạnh, quý vị sẽ cảm thấytâm hồnthoải mái và hạnh phúc. Để cho ý thứcsinh khởi, [trước hết] cần phải có một đối tượng bên ngoài làm tiêu điểm hướng đến của tâm thức ấy, và khi tâm cũng phản ứng lại với các điều kiệnvật chất [là đối tượng bên ngoài] đó thì [niệm tưởng từ] tâm thức ấy khởi sinh. Cho dù quý vị có gọi đó là bộ óc hay gán ghép bất kỳ một thực thểvật chất nào cho tâm thức, thì cũng không chỉ có riêng yếu tố vật chất làm khởi sinh [niệm tưởng từ] tâm thức.
Tâm thức là một cái gì đó vốn trong sáng và có khả năng nhận biết. Thân thểcon người bắt đầu hình thành từ sự kết hợp tinh cha, noãn mẹ. Khi cơ thể phát triển thì tâm thức cũng hiện hữu. Nhưng chất liệu thực sự của tâm thức không phải là thân thểvật chất mà là một tâm thức trước đó. Những cảm thọhạnh phúc (lạc thọ) và khổ đau (khổ thọ) mà chúng ta trải nghiệm nên được truy xét nguồn gốc không chỉ từ thân thể, mà còn là từ nơi tâm thứcvi tế nhất. Do đó, ta thấy trong giáo lý Mật thừa có sự giảng giải về tâm thứcvi tế nhất, được gọi là tâm quang minh nguyên thủy. Khi ta nói về tính tương tục của đời sống, điều đó được giải thích từ góc độ tương tục của tâm quang minh này.
Do cung cách ứng xử của mình mà chúng ta có những trải nghiệm khác nhau, và những cung cách ứng xử khác nhau của ta lại khởi sinh từ các khuynh hướng tinh thần khác nhau. Về cơ bản, tất cả chúng ta đều giống nhau ở sự mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Giả dụ như quý vị đặt câu hỏi với những người thậm chí có vẻ như hung ác, thích đánh nhau hoặc đang tham chiến, rằng họ có thực sự muốn đánh nhau hay không, thì câu trả lời sẽ là không. Họ cũng giống như ta, cũng mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Chúng tathực hiện những hành vi xấu xa là vì ta bị khống chế bởi sức mạnh của vô minh. Vô minh quá mạnh mẽ đến nỗi thôi thúc ta làm những việc gây tác hại bất kể rằng ta có những mong muốn khác. Chúng ta nhìn thấy các hành vi gây tác hại trên khắp thế giới và điều đó cho thấy khả năng lớn lao của tâm thứccon người trong việc kiểm soát hết thảy mọi việc.
Các cảm thọhạnh phúc và khổ đau của chúng taphụ thuộc rất nhiều vào cung cách ứng xử của ta, mà cung cách ứng xử thì liên quan chặt chẽ đến cung cách suy nghĩ. Các khuynh hướng tinh thầntiêu cực và vô íchcần phải bị giảm thiểu và loại bỏ. Chúng ta phải xác định được các tâm trạng tích cực để tăng tiến và phát triển hơn nữa. Phương phápchuyển hóa tâm này được gọi là Pháp, hay thực hànhtâm linh. Đó là lý do tại sao đức Phật dạy chúng ta đừng làm những điều xấu ác. Chúng ta nên làm điều thiện, vì ta mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, mà hạnh phúc chỉ có được từ những việc làm hiền thiện, trong khi khổ đau là do những hành động xấu ác.
Bởi vì tâm thức giống như một dòng suối, là cội nguồn dòng kinh nghiệm của chúng ta, nên điều quan trọng là phải kiểm soát được cội nguồn của kinh nghiệm, hay nói cách khác là phải chuyển hóatâm thức. Các chính trị giatìm cáchkiểm soáttâm trí dân chúng với các chương trình, nhưng những chương trình như thế chủ yếu không dựa trên nền tảng của sự chuyển hóatâm thức, mà là tìm cách làm sao để giành chiến thắng cho phe nhóm của mình và đánh bại phe nhóm khác, nên [rốt cùng thì] chúng luôn thất bại. Phương phápchuyển hóa tâm là luôn quán xét bất kỳ điều gì chúng ta làm, và nếu hậu quả là khổ đau, xấu ác thì ta không nên thực hiệnhành vi đó. Nếu ta xét thấy một hành vi nào đó có thể mang lại hạnh phúc và an lành, ta có thể hoan hỷ làm ngay.
Khi Đức Phật dạy Tứ diệu đế và nói về Khổ đế, Ngài không có ý muốn làm cho ta chán nản hay buồn khổ. Nếu không có phương cách nào để loại bỏ khổ đau thì hẳn là không cần thiết phải nói đến làm gì. Nhưng đức Phật không chỉ nói riêng về Khổ đế; Ngài cũng nói về những nguyên nhân của khổ đau (Tập đế) và khả năng có thể dứt trừ khổ đau (Diệt đế), cũng như con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi khổ đau (Đạo đế). Những cảm xúctiêu cực và phiền não tuy là tạm thời nhưng có một sức mạnhchi phốinhất định. Nếu chúng tarèn luyệntâm thứcthuần thục với những phương phápđối trịphiền não, chắc chắn ta sẽ có thể chế ngự được chúng. Diệt đế hay Niết-bàn chỉ đến trạng tháitâm thức của ta khi đã hoàn toànloại bỏ mọi phiền não và khổ đau. Nếu một trạng thái như vậy là có khả năng đạt được, thì quả là rất đáng để cho chúng tatìm kiếm một phương phápthích hợp và nỗ lựctu tập theo đó nhằm đạt đến.
Và trước hết thì điều quan trọng là phải hiểu biếtlợi ích của sự nỗ lựctu tập như thế, cũng như các bất lợi của việc không tu tập.
Một người hoàn toàn không biết gì về Phật pháp có thể đắm chìm trong phiền não nhưng lại cho rằng chúng là các thói quenhằng ngày của tâm thức và xem đó như chuyện tất nhiên phải có. Nếu chúng ta nói với người đó về việc loại bỏ các phiền não này thì anh ta có thể sẽ phớt lờ đi, hoặc chấp nhậnsân hận, tham luyến v.v... như một phần của cuộc sống. Rõ ràng là có những bất lợi trong trường hợp như vậy, vì khi tâm thức ta bị phiền nãoche lấp thì dù ta có được của cải, bạn bè và mọi thứ ta mong muốn, ta vẫn không có khả năng trải nghiệm hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta làm giảm thiểu và loại bỏphiền não cũng như sinh khởi các phẩm tính tốt đẹp như được giảng giải trong giáo pháp, chúng ta sẽ có lòng dũng cảm và quyết tâm thực sự.
Khi bị ảnh hưởng bởi những phiền não như sân hận và tham luyến, chúng ta luôn sợ hãi, mất tự tin và sa súttinh thần v.v... Do đó, điều quan trọng là phải làm giảm đi những khía cạnh tiêu cực và phát huy các phẩm chất tích cực của tâm thức. Khi đó, chúng ta sẽ thực sự bắt đầu trải nghiệm được hạnh phúc. Dĩ nhiên, các phương tiệnvật chất bên ngoài cũng là nhân duyên để có hạnh phúc, nhưng chúng không phải là nguyên nhân cơ bản nhất. Nguyên nhân cơ bản nhất của hạnh phúc vốn nằm ngay trong tâm thứcchúng ta.
Đạo Phật là một giáo phápliên quan chặt chẽ đến cung cách ứng xử của con người và được phân chia thành hai phần: triết lý, hay quan điểm, và hành viđạo đức. Hành viđạo đức [theo đạo Phật] là không làm hại các chúng sinh khác. Đây là cung cách ứng xử của một Phật tử. Triết lý [của đạo Phật] là hạnh phúc riêng của quý vị có liên quan đếnmọi người khác. Do đó, biết thương yêu những người khác, không gây tổn hại cho họ thì kết quả là bản thân quý vị sẽ được hạnh phúc. Ngược lại, nếu quý vị phớt lờ đi, không quan tâm đến hạnh phúc của người khác, thì quý vị sẽ không có hạnh phúc, vì hạnh phúc và khổ đau của bản thân quý vị không hình thành trong sự tách biệt [với người khác]. Nếu có hạnh phúc và bình an trong xã hội, trong xóm làng, hay trên toàn thế giới, thì tất cả chúng ta đều sẽ được hạnh phúc. Đây là [giáo lý] duyên khởi, là thuyết tương quan tương duyên [của đạo Phật].
Đạo Phật không dạy về một đấng sáng thế và cũng không nói rằng các pháp khởi sinh mà không có các nhân duyên. Nếu để có được hạnh phúc mà quý vị lừa dối người khác thì đó là một phương cáchdại dột. Thông thường, chúng ta luôn chèn ép người khác mỗi khi có cơ hội. Khi có thể dối gạt ai đó thì chúng ta sẽ làm ngay không do dự. Và nếu không có khả năng làm được chuyện gì khác hơn thì chúng ta bắt đầu chỉ tríchhay nóixấu người khác để gây chia rẽ, thù hận. Rồi khi chúng ta gặp khó khăn, phải tìm đến những người này để xin giúp đỡ thì họ sẽ cười vào mặt ta.
Nếu ngay từ đầu mà quý vị hành xử như người thân thuộc với bằng hữu, láng giềng và những người sống quanh mình, thì khi quý vị gặp khó khăn nào đó, những người bên cạnh đều sẽ tự nguyện giúp đỡ mà không đợi quý vị phải nhờ cậy. Chúng ta là những động vật sống hợp quần. Dứt khoát là chúng ta phải phụ thuộc vào nhau. Thuyết tương quan tương duyên và duyên khởi này là giáo lý nhà Phật. Tất cả các hiện tượngduyên sinh đều khởi sinh phụ thuộc vào nhân duyên. Do đó, hạnh phúc và khổ đau của chúng ta cũng khởi sinh do các nhân duyên. Tóm lại, đức Phật dạy rằng: Hãy làm lợi lạc cho người khác nếu có thể; nếu không thì ít nhất cũng đừng làm hại họ.
Giảng Giải Chánh Văn Nào, bây giờ chúng ta hãy xem phần chánh văn “Tinh yếu các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” của ngài Tsongkhapa. Bản văn này được gọi là “Chứng đạo ca” vì dựa trênkinh nghiệmchứng ngộ của chính bản thân Ngài. Khi ta nói về các giai đoạn của đường tu giác ngộ thì điều đó chỉ đến nội dung hay chủ đề của giáo pháp này. Giác ngộ là mục đích phải đạt đến. Giác ngộ ở đây chỉ đến sự giác ngộviên mãn hay quả Phật. Trong Tạng ngữ, phần đầu của chữ “giác ngộ” có nghĩa là tịnh hóa mọi xấu ác. Nhưng nó không có nghĩa là sự chấm dứt tạm thời của những phiền não này. Sự tịnh hóa đó sẽ luôn diễn ra không ngừng. Đó là một quy luậttự nhiên. Bất kỳ điều gì là vô thường đều chỉ chấm dứt một cách tạm thời. Ở đây, chúng ta đang nói đến sự chấm dứt hay loại bỏ các phiền não này thông qua việc áp dụng những phương thức đối trị mạnh mẽ nhất định. Phần thứ hai của chữ “giác ngộ” trong Tạng ngữ có nghĩa là phát khởithiện hạnh. Đối tượng của tịnh hóa chủ yếu là tam độc: tham (tham ái), sân (sân hận) và si (vô minh), đặc biệt là các chủng tử do vô minh để lại [trong dòng tâm thức], vốn là những chướng ngại ngăn trở việc đạt đến quả Phật. Khi ta loại trừ được những chủng tử của vô minh thì tâm thức sẽ hiển lộnăng lực nội tại thấy được bản chấtchân thật của mọi hiện tượng.
Khả năng nhìn thấy thực tánh các pháp là một phẩm tính vốn có của tâm thức. Phẩm tính này bị che lấp bởi các chướng ngại ngăn trở sự giác ngộ. Quả Phật là mục đích ta hướng đến và được thành tựu thông qua tâm thức. Chúng ta đang nói đến việc đạt đượcgiác ngộ trong tâm thức ta. Chúng ta không nói đến giác ngộ như một nơi chốn bình yên nào khác. Bởi vì, nếu sự giác ngộ là một nơi chốn nào khác, thì thay vì tịnh hóa tâm thức mình, ta có thể dùng đến các phương tiện khác, chẳng hạn như đi bằng máy bay hay tàu hỏa để đến đó. Sự giác ngộ được thành tựu với tâm thức của chúng ta, bằng cách tịnh hóa dần dần hết thảy mọi phiền não và thực hànhdần dần hết thảy mọi thiện hạnh. Điều này thường được gọi là con đường tu tập.
Quá trình loại bỏ các cảm xúcphiền nãobao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Để bắt đầu, chúng ta chỉ đơn giản là làm suy yếu hay giảm thiểu các vọng tưởng. Thông qua năng lực của những phương thức đối trị, chúng tadần dầntăng cường những phẩm tính hiền thiện. Bằng cách này, chúng ta xóa sạch và loại bỏhoàn toàn những vọng niệm xấu ác. Cuối cùng, chúng ta sẽ đạt đến một trạng thái mà cảm xúcphiền não không khởi sinh ngay cả khi có đủ các nhân và duyên. Chúng tađạt đếntrạng tháichấm dứthoàn toàn các cảm xúcphiền não, được gọi là Diệt đế. Và con đường tu tập dẫn đến Diệt đế được gọi là Đạo đế. Năng lựcđối trị trực tiếp để loại bỏ nguồn gốc của khổ đau là tuệ giác nhận hiểu tính Không. Các phẩm tính khác như tâm từ và tâm bi cũng góp phần loại bỏ khổ đau nhưng không trực tiếp xóa bỏ được các chủng tử bất thiện [là nguồn gốc của khổ đau].
Khi chúng tathiền quánliên tục về tuệ giác nhận hiểu tính Không, sự sáng suốt trong nhận thức của ta sẽ dần dần phát triển. Khởi đầu, chúng ta không có khả năng hiểu đúng về bản chất của đối tượng, vì tâm thức ta bị vô minhche lấp. Để đối trị điều đó, ta tu tập cho tâm thức mình thuần thục với tuệ giác nhận hiểu tính Không. Khi chúng tachứng ngộcon đườngvô phân biệt của một bậc thánh thì con đường tu tập đó được gọi là Đạo đế. Sự đoạn diệthoàn toàn các cảm xúcphiền não trong tâm thức được gọi là Diệt đế. Đây cũng được gọi là Chánh Pháp, là sự bảo hộ đích thực cho chúng ta.
Do đó, khi ta nói về các giai đoạn của con đường tu tập, thì con đường tu tập chính là những tiến trình như vừa nói trên.
Vì trạng tháirốt ráo của quả Phật là một trạng tháithanh tịnh viên mãn của tâm thức, nên khi chúng tatu tập tức là đang trong tiến trình tịnh hóa những điều bất thiện trong tâm thức. Để phát khởi một con đường tu tậpchân chính và đạt đến sự chấm dứt khổ đau thực sự như vậy trong tâm thức, thì ngay cả ở mức độ thông thường của chúng ta, điều quan trọng là phải loại bỏ các cảm xúcphiền não ở mức độ thô trược hơn cùng với những hành vi ứng xử bất thiện do chúng gây ra. Chúng ta phải tăng tiến hết thảy mọi phẩm tính hiền thiện và loại bỏ hết thảy mọi điều bất thiện. Sự thực hành như thế được gọi là con đường tu tập. Bản văn “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” không giảng giải các quy tắc khác nhau trên đường tu tập như thế một cách tùy tiện. Bản văn giảng giảicon đường tu tập theo một trật tự có hệ thống. Do đó mới gọi là các giai đoạn trên đường tu tập.
Ngay cả khi quý vị chỉ vừa đến với giai đoạn đầu tiên trên đường tu tập, được gọi là giai đoạn tích lũy [tư lương], cũng đã có nhiều phương pháptu tập khác nhau tùy thuộc vào sự sáng suốttinh thầncủa quý vị. Tiến trình hành thiền cũng khác nhau. Bản văn “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” giải thích một cách hệ thống loại thiền nào cần phảitu tập trước nhất, loại nào tiếp theo v.v… Do đó mà được gọi là các giai đoạn hay trình tự của con đường tu tập. Trong một ý nghĩa thì tất cả những lời Phật dạy và các luận giải [của chư tổ] có thể được phân loại như các giai đoạn trên đường tu tập, bởi vì chúng giải thích các cấp độ khác nhau của con đường tu tập. Nhưng việc sử dụngthuật ngữ “các giai đoạn trên đường tu tập” chỉ thực sự được biết đến từ sau Ngài A-đề-sa.
Chủ đề chính của những giáo pháp này là sự phát tâm Bồ-đề. Đây là một phần giáo phápĐại thừa. Khi quý vị thiền quán về các giai đoạn trên đường tu tập theo Đại thừa, các giai đoạn ấy đều dựa trên nền tảng các giai đoạn của con đường tu tập theo các thừa kiến lập. Giáo phápĐại thừa thuộc về hai nhóm: Kinh điển và Mật điển. Giáo pháp trong Kinh điểngiảng giải về sự phát tâm Bồ-đề và thực hànhBồ Tát hạnh, tức là sáu pháp Ba-la-mật. Mật thừa được thuyết giảngdựa trên cơ sở đó.
Như vậy, trọng tâm của bản văn “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” là về sự phát tâm Bồ-đề. Các chủ đề có mô tả trong các thừa kiến lập cũng được giảng giải như các pháp tu chuẩn bị. Sau đó, trong phạm vigiáo phápĐại thừagiảng giải về sáu pháp Ba-la-mật thì quan trọng nhất là sự tu tập định và tuệ. Chính trên những nền tảng này mà chúng tahành trìMật điển như một pháp tu tối thượng.
Con cúi lạy Đấng tôn quý nhất của dòng Thích-ca
Người mà Thân được hình thành từ muôn ngàn thiện hạnh
Người mà Khẩu ban phát hy vọng cho vô lượngchúng sinh
Người mà Ý thấu hiểu vạn pháp đúng thật như như.
Con cúi lạy các ngài Văn-thù và Di-lặc,
Những Pháp vương tử của Đấng Vô thượng Đạo sư,
Phóng quanghiển lộ trong vô lượngquốc độ,
Thừa hànhPhật sự, xiển dương Chánh giáo Phật-đà.
Con cúi lạy dưới chân các ngài Long Thụ và Vô Trước
Ân sủng ngập thế gian, danh tiếng khắp ba cõi,
Từ sự chứng nghiệm diệu nghĩa đã viết nên luận giải
Cực kỳ thâm sâu về “Chánh pháp Bát-nhã mà từ đó chư Phật được sinh ra”.
Con cúi lạy ngài A-đề-sa, người nắm giữ kho tàng giáo pháp
Đã tóm lược đầy đủ và không hề sai lệch các điểm chính yếu
Của con đường tu tậpchánh kiếnthâm sâu và pháp hànhquảng đại,
Được truyền lại trung thực từ hai vị khai sáng vĩ đại là Long Thụ và Vô Trước.
Con kính cẩn cúi lạy các bậc thầy tâm linh,
Là mắt sáng giúp con đọc được vô sốKinh điển
Là con đường tốt nhất đưa kẻ hữu duyên qua bờ giác ngộ
Phát khởi từ lòng bi mẫn, các Ngài thiện xảosoi sáng [con đường tu tập cho chúng sinh].
Trong các cấp độ khác nhau về giáo phápKinh điển, thâm diệu nhất là giáo pháp về tuệ giác thấu hiểu tính Không. Nói chung, “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” được phân loại như một bản văn về Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do đó, nguồn tham chiếu chính của bản văn này về các lời dạy của Phật là bộ kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Dĩ nhiên là khi giảng giải về tính Không thì các giai đoạn trên đường tu tập cũng được giảng giải. Bản văn này chủ yếu dựa trên các tác phẩm của các vị khai sáng vĩ đại người Ấn Độ là Vô Trước và Long Thụ, vốn là những người tự viết ra luận giải mà không dựa vàocông trình của các học giả khác. Ngài Long Thụđặc biệt tập trung vào ý nghĩa của tính Không, trong khi ngài Vô Trước tập trung vào việc giải thích các giai đoạn trên đường tu tập.
Tác phẩm chính của ngài Long Thụ là Căn bản Trung quán Luận tụng. Các đệ tử chính của ngài là Thánh Thiên với tác phẩmTứ báchKệ tụng, và Nguyệt Xứng. Dĩ nhiên còn có ngài Thanh Biện, nhưng khi xét về khía cạnh giải thíchchi tiết và thuyết phục thì luận giải của ngài Nguyệt Xứng được xem là một trong các bộ luận xuất sắc nhất.
Truyền thốnggiảng giải về các giai đoạn trên đường tu tập bắt đầu từ ngài Vô Trước rồi đến ngài Thế Thân3 v.v... Cả hai dòng truyền thừa này được ngài A-đề-sa lĩnh hội nguyên vẹn. Mặc dù ngài có vô sốmôn đệ, nhưng do lời nguyện của ngài trong quá khứ nên đại sư Dromton Gyalwai Jungney, một người du mụcTây Tạng, trở thànhđệ tử chính của ngài. Vị này là một cư sĩ và là một đại học giả. Sáu giáo pháp của phái Kadam, vốn chủ yếu dựa trên phương thức giảng giảisâu rộng hơn, là do ngài truyền xuống. Rồi có dòng truyền thừa đặc thù bởi cách giáo huấn mà về sau này được gọi là truyền thừa ba nhánh của phái Kadam. Và từ ngài A-đề-sa xuất hiện việc trực tiếp khẩu truyền.
Bản văn “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” do ngài A-đề-sa khởi soạn. Các pháp tu trước đời ngài A-đề-sa được gọi là các tu tập cựu Kadam và các pháp tu từ đời ngài A-đề-sa trở đi được gọi là truyền thừa Tân Kadam. Chẳng hạn như tác phẩm “Bảy Kho tàng” của ngài Longchenpa vĩ đại có giảng giải về các giai đoạn trên đường tu tập. Tương tự, các trường phái Phật giáo Tây Tạng khác cũng giảng giải về các giai đoạn trên đường tu tập. Pháp tu thanh lọc tâm thức của phái Nyingma chỉ có thể thực hành được trên nền tảng vượt qua các giai đoạn trên đường tu tập. Tác phẩm “Khẩu truyền của Lạt-ma” cũng thuyết giảng về toàn bộ các giai đoạn trên đường tu tập. Cũng giống vậy, ngài Dvagpo Lharje, vốn được xem là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của ngài Milarepa, giảng thuyết về các giai đoạn trên đường tu tập trong tác phẩm “Giải thoát trang nghiêm bảo luận”. Ba Truyền thống và Ba Thị kiến của phái Sakya cũng thuyết giảng về các giai đoạn trên đường tu tập. Mặc dù từ ngữsử dụng có thể khác nhưng tất cả các bộ phái hay truyền thốngPhật giáo Tây Tạng khác nhau đều có thuyết giảng về các giai đoạn trên đường tu tập. Dĩ nhiên là có nhiều cách để thuyết giảng. Ngay cả trong chính các bản văn của ngài Tsongkhapa cùng mang tên “Các giai đoạn trên đường tu tập” thì trật tự sắp xếp trong các bản Quảng luận và Lược luận cũng hoàn toàn khác với bản yếu lược này. Và còn có một phiên bản khác nữa nằm trong tác phẩm “Luyện tâm tựa ánh thái dương”.3
Trước tiên, chúng tathực hành các pháp tu cơ bản mà nội dung là quán chiếu về khổ đau và quyết tâm thoát khổ. Đề mục này, dành cho hành giảsơ cơ, bao hàm toàn bộ pháp tu cho một người tùy theo mức độ thông minh và căn cơ của người ấy. Sau giai đoạn tu tậpban đầu, nếu tiếp theo người ấy được nghe về mối quan hệ nhân quả thì xem như người ấy đã nhận được trọn vẹn một pháp môntu tập. Tương tự như vậy, ở trình độtrung đẳng, sau khi đã tu tậpphát tâm cầu giải thoát, nếu người này chỉ muốn thực hành pháp tu xả ly thì toàn bộ tiến trình từ bỏluân hồi sẽ được thuyết giảng.
Theo cách thuyết giảng về các giai đoạn trên đường tu tập như thế này, thì dựa trên sự tu tập của từng cá nhân, cho dù quý vị là người thuộc hàng hạ căn, trung căn hay thượng căn, cũng đều sẵn có các pháp tu bổ sung đặc biệt để hành trì. Do đó, mặc dù “Các giai đoạn trên đường tu tập” thuyết giảng về các pháp tu dành cho một cá nhân ở mức độ sơ cơ, nhưng mục đích là dẫn dắt cá nhân đó tiến lên trình độtrung đẳng và kế tiếp là trình độ cao hơn nữa. Nhưng nếu một người không đủ khả năng để hành trìtrọn vẹn các pháp tu tập có hệ thống này, thì người đó cũng có thể tìm thấy riêng một phần giáo pháptrọn vẹn cho sự tu tập ở trình độsơ đẳng.
Lần đầu tiên tôi nhận được bản “Chứng đạo ca” (hay “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”) này từ ngài Taktra Rinpoche. Sau đó, tôi nhận được một bản luận giải về bản văn này từ ngài Ling Rinpoche và một bản luận giải khác từ ngài Trijang Rinpoche. Do đó, tôi có được ba bản luận giải từ ba bậc thầy khác nhau.
Khi giảng giải về sự vĩ đại của giáo pháp, chánh văn viết:
Giáo pháp về các giai đoạn trên đường tu giác ngộ Được trao truyền nguyên vẹn từ các ngài Long Thụ và Vô Trước, Xuống đến các bậc thầy tôn quý nhất trong các bậc thầy uyên bác của thế gian Là những vị vang lừng danh tiếng, nổi bật nơi trần thế.
Các giáo huấn này là báu vật trân quý nhất với uy lựcvô song, Vì đáp ứng được mọi ước nguyện của muôn loài trong chín cõi. Các giáo huấn này là đại dương của những thuyết giảngtuyệt hảo, Vì là nơi hội tụ của ngàn dòng sông Pháp bảo .
Giáo pháp về “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” được truyền đến chúng ta qua các ngài Long Thụ và Vô Trước, đáp ứng được hy vọng và ước nguyện của vô lượngchúng sinh. Giáo pháp này đáp ứng cả những ước nguyệnnhất thời cũng như ước nguyệntối hậu của chúng ta là sự thành tựu quả Phật. Tất cả các giai đoạn tu tập, từ [lúc bắt đầu] thực hànhquán tưởng thân người là quý hiếm cho đến khi thành tựu quả Phật đều được thuyết giảng trong “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”, hay ba căn cơtu tập. Giáo pháp này được xem như báu vật trân quý vì đáp ứng được ước nguyện của mọi chúng sinh. Bản văn “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” chứa đựng các pháp tu tinh yếu của các giáo pháp lớn, trong đó có cả lời Phật dạy và luận giải của các vị đạo sư vĩ đại. Do đó, nó được xem như một đại dươngmênh mông, nơi hội tụ của nhiều dòng sông.
Thông qua giáo pháp này, ta sẽ thấy trong lời Phật dạy không bao giờ có sự mâu thuẫn,
Sẽ biết cách rút ra từ Kinh điển những giáo huấn cho riêng mình.
Sẽ dễ dàng nhận biết Thánh ý [trong Kinh điển],
Và được bảo hộ không rơi vào hố thẳm của sai lầmnghiêm trọng.
Sự vĩ đại của giáo huấn trong cuốn “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” là ở chỗ nó thâu tóm được tất cả giáo huấn tinh yếu của các bậc đạo sư vĩ đại kể từ đức Phật, nên giúp ta hiểu được tính nhất quán, không mâu thuẫn của tất cả các giáo huấn dành cho nhiều trình độ khác nhau. Tất cả những giáo huấn này là những lời dạy hữu ích giúp ta có thể dễ dàng hiểu được dụng ý của đức PhậtThích-ca Mâu-ni [trong Kinh điển].
Những cách giảng giải khác nhau trong giáo lý của đức Phật và trong các luận giải khác nhau là nhằm đáp ứng nhu cầu của người tu học hay các chúng sinh khác nhau. Thoạt nhìn qua thì ta có thể thấy như các giáo pháp này có sự mâu thuẫn nhau về mặt ngôn từ. Và nếu chúng ta không thấu hiểu một cách sâu xa những ý nghĩa vốn có, ta có thể có ấn tượng rằng một phần trong các giáo pháp này cần phảitu tập, nhưng có những phần khác thì không. Chúng ta có thể cảm thấy như các vị đạo sư này đã mâu thuẫnvới nhau.
Nhưng khi chúng tatuần tựtu tập theo lời dạy trong bản văn “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”, từ cách nương tựa vào một bậc thầy tâm linhcho đến sự thành tựu của một vị Phật, chúng ta sẽ nhận ra rằng các giáo pháp được trình bày thành ba giai đoạn tu tập là nhằm giúp đỡ các hành giả có khuynh hướng tinh thần khác nhau tùy thuộc vào những khả năng khác nhau. Tất cả các mức độ khác nhau trong giáo pháp đều cần phảitu tập, nhưng ta có thể khởi đầu từ mức độ nào phù hợp với tâm thức của mình.
Thêm vào đó, ta có thể thấy rằng tất cả những giáo pháp này đều là những lời giáo huấnquý báu. Cho dù có thuộc về Kinh điển hay Mật điển, chúng ta đều thấy rằng những giáo pháp này không hề mâu thuẫn nhau. Chúng ta còn có những tác phẩm khác nữa, như cuốn “Kho tàng Tri thức” vốn giải thíchbản chất đa dạng ở những mức độ khác nhau của các pháp và “Hiện quán Trang Nghiêm Luận” 2 giảng giải các tầng bậc khác nhau trên con đường tu tập. Khi xem qua những tác phẩm khác nhau này, ta có thể có cảm tưởng rằng một số trong những giáo pháp này nhắm đến thực hành và một số khác chỉ nhằm mục đíchhọc thuật. Điều này cho thấy rõ là ta đã không có khả năng xem toàn bộKinh điển như các chỉ dẫn hay giáo huấnquý báu. Nhưng khi chúng ta học qua một tác phẩm như “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”, ta sẽ có khả năng thâu tóm toàn bộ các giáo pháp này lại với nhau và nghĩ đến từng dòng cụ thể trong giáo pháp đều sẽ là hữu ích cho một kinh nghiệmnhất định nào đó. Do đó, quý vị sẽ có khả năng xem tất cả các giáo pháp này đều như là các lời khuyên dạy hay giáo huấnquý báu cho sự tu tập của chính mình.
Việc hiểu rõ các giai đoạn khác nhau trên đường tu tập là nền tảng của sự chứng ngộ đúng hướng. Do đó, lý do thứ ba minh chứng cho tính vĩ đại của tác phẩm này là, thông qua đó ta có thể dễ dàng thấy được tư tưởngrốt ráo của đức Phật. Thông qua việc tu tập, chúng tađạt được sự chứng ngộ và vì vậy càng tăng thêm niềm tin vào tính xác thực trong tư tưởng của đức Phật. Khi niềm tin tưởng như thế được phát triển, chúng ta sẽ tự động từ bỏlối sống xấu ác và sẽ vô cùngtôn kính đối với giáo pháp của Đức Phật, dù chỉ là với một chữ thôi.
Vậy có bậc trí giả nào lại không say mê nghiền ngẫm
Giáo pháp về các giai đoạn trên đường tu giác ngộ, dành cho cả ba loại căn cơ,
Là Giáo pháptối thượng được sự quy ngưỡng
Của biết bao bậc trí giảhữu duyên ở hai vùng Tạng, Ấn.
Do nội dung bản văn “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” được sắp xếp một cách hệ thống nên việc tu tập [theo đó] thật dễ dàng. Đây là một trong những lý dogiải thích sự vĩ đại của giáo pháp này. Do đó, các đại học giảẤn Độ và Tây Tạng đều dựa trêngiáo huấntối thượng này. Vậy nên, [trong bản văn] ngài Tsongkhapa hỏi rằng, liệu có thể nào một người tự cho mình là hàng trí giả mà lại không say mê giáo pháp “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” này? Một người có những chủng tửthiện nghiệp mạnh mẽ trong tâm thức thì có thể khôngcần phảituần tự đi qua tất cả các giai đoạn khác nhau của đường tu, vì đối với họ chỉ cần một chút nhân duyên là có thể dẫn đến những thành tựuchứng ngộnhất định. Nhưng tiến trình chung [cho đa số] là phải tu tậptuần tựtheo như trình bày trong “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”.
Sau đó, chánh văn giải thích cách truyền bá cũng như lợi ích của việc nghe và giảng giáo pháp này.
Chắc chắn con sẽ tích lũy mạnh mẽ vô vàn lợi lạc
Của việc giảng giải hay lắng nghe những giáo pháp sâu mầu,
Nhờ vào chỉ một lầngiảng giải hay lắng nghe bản giáo pháp rút gọn này,
Tóm lược tinh yếu của tất cả Kinh điển - nên hãy suy ngẫm về điều đó.
Vì “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” là bản tóm lược tất cả các giáo phápvô cùngtuyệt diệu, nên nếu ta tụng đọc hay lắng nghe giáo pháp này dù chỉ một lần thôi, ta cũng sẽ tích lũy được vô vàn công đức từ việc đó. Do đó, ta cần lắng nghe hay truyền bá giáo pháp này với mục đích là chuyển hóatâm thức mình. Chúng ta phải quay lại xem xétlỗi lầm nơi tự thân và suy nghĩ đến việc chuyển hóa khuynh hướng tinh thần của chính mình để đạt đến quả Phật. Nếu không thì bất kể việc tất cả các cấp độ thâm sâu của giáo pháp này là để chuyển hóatâm thức, nhưng chúng ta cũng chỉ có thể trở thành các học giả lớn mà thôi. Những giáo pháp này sẽ trở thành những kiến thứchọc thuậtthuần túy không tác động được gì đến tâm thức. Kết quả là ta sẽ không có khả năng thực hiện bất kỳ một sự chuyển hóa nào trong tâm thức.
Do đó, khi chúng ta lắng nghe hay truyền bá những giáo pháp như thế này, điều quan trọng là ta phải làm điều đó với một động cơ đúng đắn, hoàn hảo. Việc nghe giảng Pháp là quan trọng. Cũng có thể chỉ cần đọc bản văn thôi là ta nhận hiểu được, nhưng nếu lắng nghe sự giảng giải của một vị lạt-ma nhiều kinh nghiệm thì kinh nghiệm của ta sẽ phong phú hơn. Việc chuyển hóa tâm sẽ cực kỳ hiệu quả. Do đó, trong khi nghe giảng Pháp quý vị không nên giống như một cái bình úp ngược, một cái bình dơ bẩn hay một cái bình thủng đáy. Quý vị cũng phải phát khởi sáu tâm trạng tích cực, chẳng hạn: quán niệm mình như người bệnh, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, vị thầy như bác sĩ v.v...
Vị lạt-ma phải giảng Pháp với động cơ đúng đắn. Vị này càng quan tâm đến việc truyền pháp bao nhiêu thì thành tựu của chính bản thân ngài sẽ càng to lớn bấy nhiêu. Giảng Pháp cho người khác không giống như việc tự đọc giáo phápmột mình. Đôi khi quý vị có thể đọc lướt nhanh qua bản văn nhưng không có được sự nhận hiểu rõ ràng. Nếu quý vị sẽ giảng giải bản văn ấy cho ai đó thì quý vị nhất thiết phải thận trọng hơn [khi đọc]. Quý vị sẽ đạt đến sự thấu suốt rõ ràng một số điều mà trước đó quý vị không thể hiểu được. Tôi đã gặp nhiều vị geshe2 tài ba chỉ đạt đến sự chứng ngộ sau khi đã nhận được học vị, nhờ vào việc dành thời giangiảng giải kinh văn cho học trò. Dù quý vị có cung kính đi nhiễu hoặc lễ lạy được hay không thì điều quan trọng hơn vẫn là phải thật lòng giảng giảiý nghĩakinh luận cho học trò. Việc này hữu ích hơn. Sau đó, khi kết thúc buổi giảng nên hồi hướng mọi công đức về cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh.
Điểm kế tiếp là cách nương tựa thiện tri thức. Nương theo bậc thiện tri thức được xem là cơ sở của việc tu tập theo “Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”. Nếu đã có được nền tảng này thì phần tu tập còn lại sẽ thành công. Chánh văn dạy rằng:
Căn bản để thiết lập một duyên lành vững chắc
Cho vô vàn những điều tốt đẹp của hôm nay và mai sau
Là tinh tấn nương theo đúng mực những tư tưởng và hành vi
Của những bậc thiện hữu tri thứctuyệt hảo, là người chỉ bày cho ta con đường tu tập.
Thấy được điều này, dù mất mạng cũng không bao giờ rời bỏ các bậc thiện tri thức
Và dâng lên món quà để các vị hoan hỷ, là thực hành theo những gì được chỉ dạy.
Bậc Thầy thiêng liêngtôn kính của ta đã làm như thế,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Bất kể ta đã có được những phẩm tính tốt đẹptuyệt hảo nào trong kiếp này hay kiếp sau, thì việc nương theo bậc thiện tri thức cũng sẽ tạo ra một khởi đầu thuận lợi dẫn đến thành công trong giai đoạn tu tậptiếp theo. Nếu chúng ta có đủ các nhân và duyên cần thiết ngay từ lúc đầu thì đương nhiên là phần tu tậpkế tiếp sẽ thành công. Và trừ phitích lũy được những nhân duyênđúng đắn lúc ban đầu, bằng không thì những kết quả mong muốn sẽ không thể đạt được. Đây là một quy luậttự nhiên. Nếu muốn đạt đượcthành công trong việc gì, thì quý vị phải hội đủ các nhân duyên [cho sự thành công đó]. Dù đó là sự phát triển khoa học hay tiến bộ kinh tế, thì kết quả đạt được đều phải nhờ vào việc trù liệu có hệ thống. Khi nói đến việc trù liệu có hệ thống, ý tôi là bất kể quý vị sẽ cần đến hay yêu cầu gì trong tương lai, quý vị đều phải có sự chuẩn bị tương ứng. Hãy làm theo từng bước thứ nhất, thứ hai, thứ ba - chuẩn bị tất cả các nhân duyêncần thiết theo một trình tự có hệ thống và rồi thực hiện chúng. Như vậy, quý vị sẽ đạt được kết quả mong muốn.
Sự thực hànhPhật pháp chú trọng đến việc đạt đượcthành tựu trong những đời sau. Chúng ta chủ yếu tìm cầu hạnh phúc và sự bình an. Hạnh phúc và sự bình an có được nhờ thực hiện các nhân duyênđúng đắn. Chỉ hoàn toàn dựa vào sự cầu nguyện để mong được hạnh phúc và bình an thì quý vị sẽ không đạt được điều mong muốn.
Đây là vấn đềduyên sinh. Nếu quý vị thực sự mong muốn có được tất cả những phẩm tính tuyệt hảo cho cả đời này lẫn đời sau thì quý vị phải dựa theo quy luậtduyên sinh. Một người nào đó trở thành bậc thiện tri thức cao quý không phải nhờ sự giàu có hay nổi tiếng. Quả Phật là điều mà chúng ta phải thành tựu trong tâm thức mình. Đây là một phẩm chất tinh thần. Phẩm chất tinh thầntối hậu này có được thông qua việc thực hành theo các giai đoạn trên đường tu hướng đến giác ngộ. Điều này có nghĩa là chúng tadần dầnloại bỏ các mức độ phiền não khác nhau và đạt được các mức độ phẩm tính khác nhau. Bậc thiện tri thức phải là người từng được lắng nghe giáo pháp miên mật và có kinh nghiệmtu tậpthâm sâu. Nhưng nếu chỉ là một kẻ có danh nhưng không có kiến thức, hoặc có kiến thức nhưng chẳng có kinh nghiệmthực hành, thì người ấy sẽ khó mà dẫn dắt người khác.
Trong bản Đại luận cùng tên với bản văn này, ngài Tsongkhapa nói rằng, nếu quý vị thực sự muốn giúp người khác thuần hóa tâm của họ, thì trước hết quý vị nhất thiết phải tự thuần hóachính tâm mình. Nếu quý vị không điều phục hay thuần hóa được tâm mình thì quý vị sẽ không thể thực sự giúp vào việc điều phục tâm của người khác. Việc điều phụctâm khôngthể đạt được qua một giai đoạn thực hành ngắn ngủi. Điều này đòi hỏi sự ổn định. Do đó, không thể thực hành việc luyện tâm hay điều phục tâm như thế chỉ trong vài ba ngày hoặc thậm chí là vài ba tháng. Điều này cần phải được thực hành trong nhiều năm dài. Khi quý vị chuyển hóa và điều phục tâm mình dần dần qua những nỗ lực như thế thì đó sẽ là một sự chuyển hóa đích thực, một sự điều phụctâm thức đích thực. Nếu quý vị không điều phục tâm mình một cách vững chãi và có hệ thống thì đôi khi quý vị có thể có được khả năng hành xử như thể là một người đã điều phục tâm rất tốt, bằng cách thực hành bố thí hay các pháp tu khác, nhưng điều đó sẽ không lâu dài. Tôi không nói rằng như vậy là vô ích, nhưng đó không phải là một sự chuyển hóa đích thực hay thực sự điều phục tâm ý.
Để điều phục tâm ý một cách toàn diện, điều quan trọng là phải thực hànhliên tục. Chúng ta thấy có những người dường như đã điều phục tâm ý rất tốt và hành xử rất đúng đắntrong khoảng vài ba tháng, thậm chí là vài ba năm. Nhưng rồi sau đó họ lại hành xử rất tồi tệ, nên điều này chỉ rõ rằng họ đã không tu tập theo một trình tự có hệ thống. Kẻ thù của chúng ta, những cảm xúcphiền não, vô cùng láu lỉnh và tinh ranh. Hồi nhỏ, tôi nghe nói rằng phải hết sứcthận trọng đối với loài rồng kẻo bị chúng theo rình rập khắp nơi và sẽ hãm hại ta khi có cơ hội. Dĩ nhiên, đó chỉ là một truyền thuyết. Điều có thật là các cảm xúcphiền não rất tinh khôn. Việc duy nhất chúng phải làm là gây tổn hại cho ta, hủy hoại và mang đau khổ đến cho ta. Chúng ta phải có khả năng khám phábản chất của các cảm xúcphiền não này. Chúng ta dễ dàng nhận biếtbản chất của những người khác, đồng loại của ta. Nếu một người nào đó mà chúng taquen biết [có bản chất] tinh ranh hay dối trá, ta sẽ nhận biết điều đó ngay. Vậy chúng ta hãy cố gắngkhám phá ngay trong các cảm xúcphiền não của ta chính cái khuynh hướng đó, thậm chí một khuynh hướng còn tồi tệ hơn nữa. Thật khôngsáng suốt khi ta chỉ ra được cách ứng xử tồi tệ của người khác nhưng lại không nhận thấy được ý niệmsai lầm về bản ngã và tính vị kỷ đang im lìm ngủ yên trong chính bản thân ta.
Những phẩm hạnh nào làm nên một bậc thiện tri thức? Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luậngiảng giải mười phẩm hạnh mà một người giảng giảikinh điểncần phải có. Một bậc thiện tri thức như thế cần phải giữ tròn giới luật, phải hòa nhã, có kiến thức v.v… Ngài Tsongkhapa dạy rằng, nếu quý vị đi tìm một bậc thiện tri thức thì trước tiên quý vị phải khám phá các phẩm hạnh nào làm nên một bậc thiện tri thức. Nếu quý vị là một bậc thầy tâm linh và muốn thu nhận thêm đệ tử, thì quý vị phải tự xét xem mình đã có được các phẩm hạnh cần thiết hay chưa? Nếu quý vị không làm đúng như thế thì sẽ có những nguy cơ nhất định. Ban đầu, quý vị có thể nhận ai đó là bậc thiện tri thức [để nương theo] mà không xem xét những phẩm hạnh của người ấy, để rồi sau đó quý vị có thể sẽ phải quay lưng đi vì khinh ghét cung cách hành xử của họ, và điều đó là một nguy cơ cho cả hai.
Để khởi đầu tu tập, thay vì nhận ngay ai đó là bậc thầy tâm linh của mình và thọ lãnhgiáo pháp từ người đó, thì khôn ngoan hơn là chỉ đơn thuầntrò chuyện với người ấy thôi. Mặt khác, quý vị cũng có thể chỉ lắng nghe giảng Pháp từ một người nào đó mà không giao phóhoàn toànbản thân mình cho người ấy. Sau một thời gian, sau khi đã xem xét các phẩm hạnh tốt đẹp của người này thì quý vị có thể yên tâm nhận đó là bậc thiện tri thức [để nương theo]. Lúc đầu, quý vị phải dò xét người thầy của mình. Chỉ khi nào quý vị chắc chắn được rằng mình có thể thực sự tin tưởng nơi người ấy thì mới nên nhận họ làm thầy. Có câu châm ngôn rằng, quý vị không nên nhận ai đó làm thầy như kiểu con chó chạy theo miếng thịt, [nghĩa là chỉ dựa theo bản năng và hoàn toàn không suy xét].
Một khi quý vị đã nhận ai đó làm thầy, thì cho dù nhận thấy có lỗi lầm nào đó nơi vị ấy, quý vị cũng đừng nên chú ý vào đó và cũng không nên nói với người khác. Hãy giữ một vị trí khách quan. Người ta còn nói rằng, quý vị nên xem mọi việc làm của bậc thiện tri thức đều là tốt đẹp. Điều này có một ý nghĩacụ thể trong một hoàn cảnhcụ thể. Quý vị không nên nhận hiểu theo giá trịbề ngoài. Điều ấy được giải thíchrõ ràng hơn rằng, nếu một bậc thiện tri thức nói ra điều gì đó hoàn toàn trái ngược với lời dạy chung của đức Phật, thì việc quý vị chất vấn vị ấy là hoàn toànhợp lý. Nếu sự chỉ dẫn của vị đạo sư hoàn toànmâu thuẫn với giáo pháp cơ bản của đức Phật thì quý vị có thể bỏ ngoài tai. Dĩ nhiên, nếu vị đạo sư của quý vị có phẩm hạnh tuyệt hảo nhưng những chỉ dẫn của ngài lại có sự mâu thuẫn với giáo lý chung của đức Phật theo một cách nào đó, thì quý vị nên trực tiếp thưa hỏi ngài. Nếu đạo sưcủa quý vị là một bậc thầy thực sự chân chánh, thì cho dù những chỉ dẫn của ngài có vẻ như là mâu thuẫn, nhưng ngài sẽ có khả năng lý giải về tính nhất quán, không mâu thuẫn trong lời giảng của mình.
Quý vị phải chân thành nương theo bậc thiện tri thức về phương diệntư tưởng và tu tập, cho dù có phải hy sinh tánh mạng. Một khi đã chấp nhận vị nào đó làm đạo sư của mình thì nếu có thể, hãy cố gắng xem vị ấy như là một hóa thân của đức Phật. Tuy nhiên, điều chủ yếu là khởi tâmkính trọng và ngưỡng mộ đối với tri thức và thiện hạnh của ngài, và vì thế luôn nhớ đến tâm từ mẫn của thầy [dành cho mình]. Nếu quý vị làm theo những tư tưởng và lời dạy của thầy, thì toàn bộ các hành vi ứng xử của quý vị sẽ tự nhiên trở nên thiện hảo. Nếu quý vị được kề cận bậc đạo sư thì lỗi lầmcủa quý vị sẽ tự nhiênchấm dứt và thiện hạnhcủa quý vị sẽ tự nhiêntăng trưởng.
Để uốn nắn thân, khẩu, ý của mình theo đúng ý nguyện của vị đạo sư thì trước hết quý vị phải phát khởiniềm tin. Những bậc cha mẹ có học thức lo cho con cái của họ bằng cách đưa chúng đến trường và đảm bảo rằng chúng được dạy dỗ tốt. Ngược lại, các bậc cha mẹ không có học, do sự thất học của chính họ nên không quan tâm nhiều đến việc giáo dục con cái. Tương tự, việc có được một bậc đạo sưđúng đắn là rất quan trọng đối với chúng ta. Chúng ta cần một người nào đó để noi gương. Ngay trong đời thường, chúng ta cũng phụ thuộc vào một người thầy trong bất kỳ lĩnh vực nghề nghiệp nào ta chọn. Chẳng hạn, quý vị không thể chỉ sử dụngtrí thông minh của mình để trở thành một nghệ sĩ lớn, nhưng nếu quý vị được dìu dắt bởi một người thực sự hiểu biết về nghệ thuật thì quý vị sẽ thành công trong nghề nghiệp.
Khi tôi học viết các chữ Tây Tạng không có dấu nhấn trên đầu, tôi rất thích viết chữ có dấu nhấn trên đầu, tức là các chữ hoa. Qua việc đọc kinh sách và bằng sáng kiến của mình, tôi đã có thể viết chữ hoa. Nhưng sau đó, khi tôi bắt đầu học cách viết chữ từ một người khác, tôi mới nhận ra rằng cách viết đúng, như cách cầm bút, cách di chuyển bàn tay v.v... đều hoàn toàn khác hẳn. Cũng vậy, đối với việc chuyển hóa tâm, điều quan trọng là phải dựa vào một người biết cách làm điều đó. Đây là lý dogiải thích sự quan trọng của việc phải có được một bậc đạo sư.
Giờ thì câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là, liệu một con người có thể thực sự trở thành một vị Phật toàn giác, toàn thiện và đầy đủ mọi thiện hạnh hay chăng? Hãy lấy ví dụ về một con người. Chẳng có ai vừa mới sinh ra đã giận dữ và tiếp tục như vậy cho đến khi chết. Có những lúc chúng ta trở nên giận dữ, nhưng cũng có những lúc chúng tatừ bi và tràn ngập lòng yêu thương. Do đó, dù quý vị có là người rất dễ nóng giận, thì không phải lúc nào quý vị cũng giận dữ cả. Điều này chỉ rõ rằng, tâm thức vốn có hai phẩm tính trong sáng và nhận biết, đồng thời là tách biệt với những cảm xúcphiền não. Cho dù có những lúc chúng takhởi tâmsân hận và tham ái, nhưng cũng có những lúc bản tâm ta hoàn toàn không khởi các cảm xúctiêu cực này.
Từ kinh nghiệmbản thân, chúng ta biết rằng có nhiều khía cạnh khác nhau của tâm dựa trên sự trong sáng cơ bản của nó. Có những lúc chúng takhởi tâmsân hận hay bi mẫn v.v... đối với cùng một đối tượng, nhưng chẳng có lúc nào ta đồng thờikhởi tâmsân hận và bi mẫn đối với đối tượng đó. Những tâm ấy không thể đồng thời cùng sinh khởi, và điều này cho thấy chúng là các khía cạnh khác nhau của tâm. Khi chúng tasinh khởi các cảm xúcphiền não như sân hận và tham ái, ta có một cảm nhận mạnh mẽ về bản ngã, một cảm giác mạnh về nó. Chúng ta càng quan niệmsai lầm về bản ngã thì sự sân hận, tham ái của ta càng lớn hơn. Cảm giác về “cái tôi” hay bản ngã đôi khi mạnh mẽ đến mức ta tưởng chừng như có thể sờ chạm được nó. Cảm giác về bản ngã như thế chắc chắn sẽ làm tăng thêm sân hận và tham ái, nhưng nó không phải là bản chấtrốt ráo của tâm.
Bằng phương phápsuy luận, chúng ta hiểu được rằng có thể loại trừ các cảm xúcphiền não. Thêm vào đó, hiểu rõ về vô ngã là biện phápđối trịquan niệmsai lầm về bản ngã. Do đó, quả Phật là một cái gì đó có thật và là điều mà chúng ta có thể đạt được. Nếu một vị Phật tồn tại thì ngài đạt giác ngộ là vì lợi lạc của chúng sinh. Ngài huân tập các thiện hạnh vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Vì thế, chúng ta cũng có thể giả định rằng, cho dù trực tiếp hay gián tiếp, chư Phật vẫn luôn luôn gia hộchúng ta hướng về nẻo thiện. Mặc dù vậy, chỉ có chính vịđạo sưcủa quý vị mới là người trực tiếp cầm tay quý vị để dẫn dắt đi đến chánh đạo.
Qua những lý lẽ như trên, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, vị đạo sư là một hóa thân của đức Phật. Khi chúng tasuy nghĩ theo cách này, chúng ta sẽ chú ý nhiều hơn đến thiện hạnh của vị thầy và sự không đáng tin cậy trong nhận thứccủa riêng ta. Bằng cách nhớ đến những thiện hạnh của thầy, ta sẽ thấy rằng về các phương diện này, ngài có thể sánh với đức Phật, nhưng xét về lòng từ mẫn đối riêng ta thì vị thầy lại có phần hơn.
Sau khi đã nương tựa vào đạo sư thì chúng ta sẽ tiến hành việc tu tập như thế nào? Làm sao ta có thể rút ra được ý nghĩa của kiếp người? Mục đích của chúng ta là chứng đạt các đạo quả cao hơn và sự thuyết giảng về phương phápđạt đượcđạo quả nằm trong giáo pháp về giai đoạn tu tập đầu tiên. Tìm ra được nguyên nhân cơ bản của khổ đau là phần giáo pháp trung cấp. Khi đã nhận diện được khổ đau và quyết tâm tự giải thoát ra khỏi luân hồi, nếu quý vị có thể phát khởitâm từ bi và vị tha đối với những chúng sinh khác khi thấy họ phải chịu đựng khổ đau, quý vị có thể khởi sự thực hành sáu pháp ba-la-mật. Đây là pháp tu dành cho những người thượng căn. Đoạn kệ tiếp theogiảng giải tầm quan trọng của việc có được thân người.
Thân người với đủ tự do quý hơn ngọc như ý,
Và cơ hội thế này chỉ đến một lần thôi.
Thật khó được, dễ mất, ngắn ngủi như tia chớp giữa trời,
Luôn ghi nhớ trong lòng như thế, nên hãy nhận biết mọi chuyện thế gian
Chỉ như những vỏ trấu tung bay trong gió.
Vậy nên phải sống miên mật ngày đêm sao cho kiếp ngườitrở thànhý nghĩa nhất.
Bậc Thầy thiêng liêngtôn kính của ta đã làm như thế,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Nếu Niết-bàn và sự giác ngộ là có thật và có thể đạt được, thì chúng tanhất thiết phải thành tựu cho bằng được. Phương pháp để đạt được như thế là chuyển hóa và điều phục tâm. Để làm điều này, chúng ta cần có sự quyết tâm, và ta có thể khơi dậy quyết tâm này thông qua suy luận. Chỉ có con người mới có khả năng vận dụng sự suy luận. Chư thiên và bán thần (a-tu-la) là những loài mà chúng ta không nhìn thấy trực tiếp. Nhưng trong các loài mà chúng ta có thể nhìn thấy, như những chủng loại động vật khác nhau v.v... thì loài người có trí thông minh cao nhất. Chẳng có sinh vật nào khác có được trí thông minhtuyệt vời như loài người. Do đó, đời người là vô cùng quý hiếm. Nhưng nếu chúng tasử dụngcuộc đờiquý báu này chỉ để đắm chìm trong các cảm xúcphiền não như tham ái, sân hận v.v... thì dường như ta sinh ra chỉ để gây hại cho người khác.
Khi ra đời, chúng tamang đến sự đau đớn cùng cực cho mẹ ta. Nếu ta phụ thuộc vào sữa mẹ, đó là ta sống còn nhờ tình thương của mẹ. Và thậm chí nếu ta không nhờ vào sữa mẹ thì ta cũng phải phụ thuộc vào sữa của một loài vật nào khác, đó là ta sống còn nhờ lòng tốt của chúng. Cũng vậy, chính cuộc sống này của ta đã phụ thuộc vào lòng tốt của các chúng sinh khác. Vậy nên ngay từ khi chào đời đến lúc có thể tự lo liệu, chúng tasở dĩtồn tại được chỉ là nhờ vào lòng tốt của nhiều người. Chúng ta có thể sinh tồn là dựa vào sự đau khổ và lòng tốt của nhiều người khác. Nhưng một khi ta đã có thể tự lo cho thân mình, nếu thay vì trả ơnmọi người, ta lại chỉ toàn phá hoại, chỉ luôn chạy theotham ái, sân hận v.v... thì thật là bất hạnh. Nếu sinh ra làm người mà như thế thì sinh ra làm thú vật hẳn là tốt hơn. Ít ra thì loài vật cũng không gây hại bằng những loại người như thế. Sống một đời như vậy thì thà chết đi còn tốt hơn.
Chúng ta thấy những con ngườiphá hoại ở khắp nơi trên thế giới. Những người này chẳng những tự thân không được hạnh phúc, mà họ còn phá hoạihạnh phúc của người khác. Họ có thể có quyền lực, nhưng chẳng có hạnh phúc. Nếu những người có quyền lực, giàu có và khôn ngoan nhưng lại không biết sử dụngquyền lực và sự giàu có của mình một cách xây dựng để mang lại hạnh phúc cho người khác, thì hẳn là sẽ tốt hơn nếu họ đừng sinh ra. Khả năng khai thác được nguồn tài nguyên trí tuệ lớn lao của con người để giúp đỡ người khác là điều rất quan trọng. Ít nhất thì trí thông minh đó cũng không nên là nguyên nhân gây phiền toái cho người khác.
Xét về việc chuyển hóatâm thức thì kiếp người là cực kỳ quan trọng. Trên nền tảng trí khôn của con người, chúng ta có thể phát khởi tâm Bồ-đề quý báu. Tâm Bồ-đề được xem như một viên ngọc quý. Sự quan tâm đến lợi lạc của người khác hơn chính bản thân mình là điều quý giá hơn cả châu ngọc. Một viên ngọc quý như tâm Bồ-đề có thể được tạo ra từ tâm thức con người.
Do đó, khi đã sinh ra trong cõi đời này, nếu ta lại dùng cuộc sống quý báu cho những hành viphá hoại thì thật không còn gì tồi tệ hơn. Những ai trong chúng ta đã gặp được Phật pháp đều có cơ hội để sử dụngtrí thông minh của mình. Một người dũng mãnh có thể chỉ ra hướng đi mới cho những người khác và mang lại hạnh phúc cho chúng sinh. Ngược lại, nếu ta sử dụngtrí khôn theo hướng xấu ác thì chỉ một người thôi cũng có thể hủy diệt hàng ngàn người và súc vật. Trí thông minh của con người có khả năng dùng vào các hành vixây dựng hay phá hoại. Với thân người, việc tái sinh vào các cảnh giới cao hơn như cõi người hay cõi trời có thể đạt được bằng cách thực hànhMười điều thiện (Thập thiện), Sáu Ba-la-mật (Lục độ) v.v... Quả thật, bằng cách thành tâmtu tập giới, định và tuệ, chúng ta sẽ có khả năng đạt đến Niết-bàn. Hơn nữa, chúng ta cũng có thể đạt đến quả Phật tối thượng. Do đó, thân người này được xem là quý giá hơn cả viên ngọc quý.
Điều tự nhiên là những gì quý giá cũng sẽ khó tìm. Đời người rất quý giá và các nhân để được làm người là rất khó tạo được. Thế nhưng, hiện nay ta đã có được cơ hội quý giá như vậy. Kiếp người không chỉ khó được mà còn dễ mất, [thoáng nhanh] như tia chớp trên bầu trời. Có sinh thì có tử, và vào thời khắclâm chung thì chỉ có các chủng tử thiện nghiệp mà quý vị đã tạo mới theo giúp quý vị trong kiếp sau. Ngoài ra, vào thời khắclâm chung, ta sẽ bỏ lại tất cả: người thân, tài sản và ngay cả thân thểvô cùng yêu quý của ta. Do đó, chúng ta phải quyết tâm dấn thân tu tậpPhật pháp. Bằng cách quán chiếu về thực tiễn cái chết và biết chắc rằng mình rồi sẽ chết, ta có thể nhận ra tất cả các hoạt động vặt vãnh thế tục là vô nghĩa và tự tạo cho mình nguồn cảm hứng để dấn thân tu tập ngày đêm.
Thế giới này có hơn năm tỷ người. Tất cả chúng ta đều mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Đây là đặc điểm chung cơ bản của tất cả chúng ta, nhưng mỗi chúng taáp dụng các phương pháp khác nhau để đạt mục đích, tùy thuộc vào mối quan tâm và khả năng trí tuệ của ta. Một số người chỉ chạy theomục tiêuduy nhất là tích lũytài sản. Một số người khác không chỉ quan tâm đến riêng sự thịnh vượngvật chất mà cũng cố gắng để có sự ổn định về tinh thần.
Một thành phần trong nhân loại xem việc thực hànhtâm linh như thuốc độc hay thuốc phiện. Vì cho rằng đó là một công cụ để bóc lột, nên họ xem việc thực hànhtâm linh là một sai lầm và cố gắngloại bỏ. Một thành phần khác của nhân loại tin rằng không chỉ riêng sự thịnh vượng về vật chất đem lại hạnh phúc. Do đó, những người này thực hànhtâm linh để được hạnh phúc và bình an trong tâm hồn. Một thành phần thứ ba của nhân loại giữ thái độtrung lập. Họ chẳng thực hànhtâm linh, cũng chẳng tìm cáchloại bỏ. Họ chỉ đơn thuầnthực hiện các hoạt độnghằng ngày của mình. Cho dù chúng ta có thực hànhPhật pháp hay không thì điều quan trọng là tất cả chúng ta đều mong muốn được hạnh phúc. Nếu chúng taso sánh những người có niềm tin vào sự tu tậptâm linh với những người không có niềm tin này, thì ta sẽ thấy rằng, những người thực hànhtâm linh có tinh thần ổn định hơn và được nhiều hạnh phúctinh thần hơn. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng, những gì chúng ta đang làm là không hề sai lầm.
Dĩ nhiên, “nhân vô thập toàn”, chẳng có ai là toàn hảo cả. Chúng taquả thật cũng gặp phải không ít những kinh nghiệmtồi tệ khác nhau, nhưng ngay cả trong những lúc như thế, ta vẫn có được khả năng chịu đựng nỗi khổ đau mà ta đang đối mặt. Hơn nữa, khi dấn thân vào tu tậptâm linh, chúng tahuân tập những thiện nghiệp, là nhân lành cho hạnh phúc trong tương lai. Những ai chối bỏ việc thực hànhtâm linh, không những vắt kiệt quả lành từ những gì họ đã làm được trước đây, mà còn không tích lũy được những nhân duyên để có được hạnh phúc trong tương lai.
Mặc dù sống lưu vong, người Tây Tạngchúng tôi vẫn đủ ăn, đủ mặc. Tôi nghĩ đây là một kết quả tốt đẹp có được từ sự thực hànhtâm linh của chúng tôi. Đó là vì chúng tôihài lòng rằng đã có đủ mọi thứ cần dùng. Tôi nghĩ là điều này chỉ rõ rằng người Tây Tạng có nhiều giá trịtâm linh hơn so với những ai không thực hànhtu tập. Sau khi người Trung Quốc đến Tây Tạng, họ làm cách mạng và phân phối lại của cải [từ những người giàu có] sang cho người nghèo. Nhưng chúng tôinhận thấy rằng, những người trước đây giàu có vẫn luôn thành công và dần dần họ trở nên sung túctrở lại. Ngay cả khi quý vị phân phối của cải đến cho những người nghèo khó, thì do thiếu phước đức nên họ thường có khuynh hướng thất bại và lại trở nên nghèo khó.
Thành công hay thất bại liên quan đếnnăng lực của các thiện nghiệp mà chúng ta đã tích lũy trong quá khứ. Do đó, có một số người dù làm bất kỳ chuyện gì cũng luôn thành công, trong khi một số người khác dù làm việc thật cật lực nhưng vẫn luôn thất bại. Có những nhân duyên không nhìn thấy được dẫn đến sự thành công của người này và sự thất bại của những người khác.
Những ai trong chúng ta có sự tu tậptâm linh sẽ có khả năng đối mặt với những vấn đề bất ổn và đồng thời có những tư duy hiền thiện để có thể chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Do đó, khi đã chấp nhậnthực hànhtâm linh thì không những ta sẽ được lợi lạc trong nhiều kiếp sống mai sau, mà điều đó còn thực sự rất hữu ích trong đời sống hằng ngày của ta. Nếu chúng tamong đợi tất cả hạnh phúc đều đến từ sự giàu có, đó là ta đang tự dối mình. Chúng ta không thể phủ nhận rằng sự giàu có đem lại tiện nghithoải mái, bởi chúng taquả thật đang có một thân thể bằng xương thịt. Nhưng nguồn gốc chủ yếu của hạnh phúc lại đến từ sự an tĩnh trong tâm hồn và sự chuyển hóatâm thức.
Việc tự nhận mình là Phật tử không thôi là chưa đủ. Chúng ta phải tiếp tụcchú tâm vào ý nghĩa trong lời dạy của đức Phật. Có thể là chúng ta rất tôn kính Phật, Pháp và Tăng-già, nhưng ta chưa có nhiều nỗ lực hoặc cố gắngnghiên cứuKinh luận. Chúng tathường có khuynh hướng nghĩ rằng Kinh luận nên dành cho chư tăng trong các tự việnnghiên cứu. Thế nhưng, cho dù quý vị là người xuất gia hay cư sĩ, thì việc hiểu biết những gì đức Phật đã dạy cũng đều là vô cùng quan trọng.
Khi chúng ta bày tỏ sự tôn kính trước hình tượngđức Phật, thì chỉ đơn thuần việc cúi lạy không thôi là chưa đủ. Chúng ta nên hiểu được lý do vì sao ta lễ kính trước hình tượng ấy. Để hiểu rõ những phẩm tính của đức PhậtThích-ca Mâu-ni thì điều quan trọng là phải học hỏi lời dạy của Ngài. Cũng giống như quý vị thường đánh giáhành vi hay thái độ của một người bằng cách lắng nghe những gì người đó nói, quý vị cũng nên nhận biết những giá trị của chính đức PhậtThích-ca Mâu-ni bằng cách lắng nghe những lời dạy của Ngài. Nếu chỉ đơn thuần đến đây để tham dự một buổi giảng Pháp mà không có sự cố gắng nhận hiểu những ý nghĩa [của Giáo pháp] thì không đủ. Điều quan trọng hơn nữa là, trong cuộc sống hằng ngày quý vị nên cố gắnghọc hỏi thêm những Kinh luận khác. Cách bắt đầu là chọn một bài Kinh ngắn và cố gắng nhận hiểu những ý chính. Khi quý vị đã hiểu được đại cương về Kinh luận này thì quý vị sẽ có thể nghiên cứuchi tiết hơn. Sau đó, quý vị có thể chuyển sang nghiên cứu các Kinh luậnphức tạp hơn để nâng caotrình độtu họctâm linh của mình. Đối với người xuất gia, các vị tăng ni, thì điều cực kỳ quan trọng là phải dấn thân nghiêm túc vào việc tu tập và học hỏiGiáo pháp. Cần phải hướng mục đích việc học hỏi [Giáo pháp] của quý vị đến sự thành tựu quả Phật vì lợi lạc của tất cả chúng sinhhữu tình. Nếu quý vị học hỏiGiáo pháp với một động cơ nhưvậy thì bất kỳ việc làm nào của quý vị cũng đều sẽ trở thành một nhân quan trọng để huân tập các thiện hạnh vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh đang khổ đau.
Chúng ta đã và đang thảo luận các phương pháptu tập cho người sơ cơ. Ở trình độ này thì sự khổ đau của những cảnh giớitái sinh xấu [được nhận thức] giống như là sự thật về khổ đau (Khổ đế) và mười hành vibất thiện (Thập ác) [được nhận thức] giống như sự thật về nguồn gốc của khổ đau (Tập đế). Sự giải thoát khỏi các cảnh giớitái sinh xấu và đạt đượctrạng tháitốt đẹp hơn [được nhận thức] giống như sự thật về dứt trừ khổ đau (Diệt đế). Con đường để đạt đếntrạng tháitốt đẹp hơn là sự thực hànhThập thiện, [được nhận thức] giống như đường tu giải thoát (Đạo đế). Để có thể thành tâmthực hànhThập thiện, chúng ta phải nhận hiểu về các đối tượng quy y là Phật, Pháp và Tăng-già. Chúng ta càng hiểu biết rõ hơn về Phật, Pháp và Tăng-già như là đối tượng của sự quy y thì ta sẽ càng hiểu được rõ hơn về mối tương quan giữa nhân và quả.
Một mai chết đi, ta không thể chắc chắn chẳng sinh vào ác đạo.
Chỉ có Tam Bảo mới bảo vệ ta chắc chắn khỏi những nỗi lo sợ như thế.
Do đó, hãy gìn giữ sự quy y của mình kiên định,
Nghiêm trì giới luật, chẳng hề sai sót.
Điều này tùy thuộc sự nhận biếtchắc chắn
Về thiện nghiệp, ác nghiệp cùng với những kết quả tương ứng,
Và biết chọn lọc lấy bỏ hợp theo Chánh đạo.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Các giai đoạn trên đường tu tập dành cho người sơ cơ có nội dung chủ yếu là cách thức nương tựa một bậc thầy tâm linh và cách thức thực hành tu tập để tự giải thoát khỏi các cảnh giớitái sinh xấu. Việc chúng ta có được một ý thứcquy y chân chánh vào Phật, Pháp và Tăng-già hay không tùy thuộc vào việc ta có tích lũy được các nhân và duyên cần thiết hay không. Những nhân duyêncần thiết này là phải có một ý thứcghê sợ khổ đau và nhận biết oai lực của Phật, Pháp và Tăng-già trong việc hộ trì và bảo vệchúng ta. Để tự bảo vệ mình không bị tái sinh vào các cảnh giới xấu ác, điều quan trọng là phải quán chiếu về cái chết và sự vô thường. Nếu khôngquán chiếu như thế thì chúng ta có thể sẽ nghĩ rằng mình còn có thể tu tập vào sau này. Nhưng rồi trong thời gian chờ đợi đó, chúng ta có thể đối diện với cái chết và không còn thời gian để thực hànhtâm linh, do đó ta sẽ bị tái sinh vào những cảnh giới xấu ác.
Khi nghĩ về các cảnh giới xấu ác như địa ngục... chẳng hạn, đôi khi chúng ta có thể tự hỏi, liệu chúng có thực hay không? Trong tác phẩm “Kho tàng Tri thức”, không những có mô tảbản chất của các chúng sinh khác nhau trong các địa ngục, mà thậm chí còn đưa ra các con số tính toán để chỉ rõ vị trí của các địa ngục. Mặc dù các số đo này có thể khônghoàn toànchính xác, nhưng chúng gợi ý rằng rất có khả năng tồn tại các cảnh giới sống khác nhau tùy theo những nhân duyên khác nhau của chúng.
Về sự hình thành vũ trụ này, sách “Kho tàng Tri thức” giải thích về một thời kỳvũ trụtồn tại, một thời kỳvũ trụ phân hủy và một thời kỳvũ trụ hình thành. Sự hình thành này trước hết diễn ra từ trong hư không, khi các yếu tố khác nhau dần dần hình thành. Những giải thích này hoàn toànphù hợp với cách giải thích của khoa học. Sách này cũng giải thích sự tồn tại của các chúng sinh khác nhau, như thú vật chẳng hạn, vốn làm nảy sinh vấn đềăn thịt. Nếu chúng ta có thể tránh không ăn thịt thì điều đó là vô cùngtốt đẹp.
Khi tôi còn trẻ và sống nơi điện Potala, vào cuối ngày tôi thường xuyên nhìn thấy những người chăn cừu lùa đi từng bầy cừu. Chúng bị đưa đến lò giết mổ, và tôi cảm thấy không thoải mái về điều đó nên thường nhờ ai đó đến thả chúng ra và thường trả tiền hậu hĩ cho việc ấy. Vào lúc đó, tôi chẳng hề có ý nghĩ rằng làm như vậy sẽ kéo dài tuổi thọ của mình. Mối bận tâm duy nhất của tôi là lo cho những con vật khốn khổ đó sẽ phải chết quá sớm. Tôi đã cứu được rất nhiều những con vật như thế. Người Tây Tạngchúng tôi là Phật tử nhưng đồng thời cũng là những người rất thích ăn thịt. Khi nghĩ về điều này, có thể chúng tôi không cảm thấythoải mái. Ở những nơi khác trên thế giới, số lượng cá và các con vật nhỏ bị giết thịt cũng nhiều vô số kể.
Tương tự, ngày nay chúng ta có thể mặc quần áo làm từ sợi bông và nguyên liệu khác thay vì lông thú, nhưng nếu ta lại giết thú vật chỉ để lấy bộ da và lông của chúng thì thật là vô cùngbất hạnh. Khi tôi nghĩ về tất cả những hành vi giết hại thú vật như vậy, tôi cho rằng hạn chế sinh đẻ là việc tốt, bởi vì nếu dân số ít hơn thì sự giết hại cũng sẽ ít hơn. Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết về số lượng thú vậtbị giết thì thật là không thể tưởng tượng nổi. Có bao nhiêu con gà bị giết mỗi ngày? Bao nhiêu con cá đang bị giết? Có một lần tôi đến thăm một trại chăn nuôi gia cầm. Trước hết, người ta dùng gà mái để đẻ trứng. Trong thời gian này, chúng bị nhốt trong lồng kim loại khoảng vài ba năm. Và rồi sau hai, ba năm đó, khi chúng không còn đẻ trứng được nữa thì điểm đến duy nhất cho chúng là nhà bếp.
Khi đến Ấn Độ, tôi trông thấy các lồng sắt nhỏ nhốt vài con gà bên ngoài các tiệm ăn. Rõ ràng là chúng ta chẳng mảy may cảm nhận gì về nỗi thống khổ của những con vật đáng thương này. Chúng ta không chịu được dù chỉ là nỗi đau khi bị một mũi kim chích vào da thịt, nhưng lại dửng dưng trước nỗi đau của các loài thú vật, chim chóc... Là con người, mỗi khi gặp một chút bất công hay đau đớn là chúng talập tứcphàn nàn. Ta khiếu nại ngay đến tòa án. Nhưng liệu những con vật này có quyền khiếu nại không? Khi một con chó lạc lối chỉ đơn giản là lang thang tìm thức ăn, thì ta ném đá để xua đuổi nó đi. Những con vật nói trên không có tòa án để khiếu nại, chẳng có bạn bè để được giúp đỡ. Chúng tatuyên bố rằng giết hại để báo thù là không tốt, rằng án tử hình là không tốt, nhưng liệu loài vật có những quyền như vậy chăng? Chúng tathường có khuynh hướng nghĩ rằng những gia súc như cừu, dê... là những con vật để hành hạ mà chẳng cần quan tâm chút nào đến hạnh phúc của chúng. Điều may mắnduy nhất là, vì loài vật quá ngu si nên có thể chúng không bị sợ hãi nhiều như con người.
Vì đường tu tối thượng sẽ không tiến nhanh,
Trừ phi ta sống một đời với tất cả những tu tập tiên yếu.
Hãy tự mình tu tập tạo nhân lành để không còn gì khiếm khuyết.
Quan trọng nhất là phải dứt trừ mọi nghiệp chướng và nhiễm ô,
Do thân, khẩu, ý rơi vào các hành vi xấu ác, phạm giới luật.
Nên phải thường hànhnghiêm cẩn cả bốn pháp đối trị.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Tâm chân thật cầu giải thoát sẽ không sinh khởi
Nếu khôngtinh tấnquán chiếu những tai hại của thực tiễn khổ đau.
Trừ phihiểu rõ nguồn gốc, nhân duyên
Trói buộc mình vào luân hồi sáu nẻo,
Bằng không thì ta sẽ không biết cách dứt trừ tận gốc khổ đau.
Vì thế, hãy nuôi dưỡng tâm chán ghét khổ đau, mong cầu giải thoát,
Và trân quý tri kiến về những gì trói buộc ta trong chuỗi luân hồi này.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Nếu chúng ta không hành xử thích đáng thì khi lìa bỏ cõi đời này, không có gì đảm bảo là ta sẽ không tái sinh làm một trong các loài chim, thú như vừa nói trên. Điều quan trọng là phải nhận hiểu rằng, chúng ta gánh chịu khổ đau vì ta đã làm hại các chúng sinh khác. Nguyên nhân của khổ đau là những hành vi xấu ác. Để có được hạnh phúc, ta phải từ bỏ những hành vi xấu ác và nhờ đó mà tự giải thoát khỏi khổ đau. Trong ba đối tượng quy y, điều thực sự bảo vệ, che chở cho chúng ta chính là Chánh Pháp. Chúng ta xem Phật là tôn quý, xem Tăng-già là tôn quý, chính vì Chánh Pháp rất quan trọng. Ta không tôn kính vì đức Phật là một đấng sáng thế. Ngài thành Phật nhờ sự tu tập các nhân để đạt đến quả Phật; đó chính là Đạo Đế và Diệt Đế.
Ở một mức độ, Chánh Pháp có thể là Ba tạng kinh điển: Kinh, Luật, Luận, nhưng Chánh Pháprốt ráo chính là Diệt Đế, đạt được bằng cách dứt trừ mọi cảm xúcphiền não. Khi chúng tađối trị và dứt trừ tận gốc rễ mọi cảm xúcphiền não, ta có thể đạt được một trạng tháihoàn toàn không còn phiền não. Ta gọi đó là sự tịch diệt, còn được gọi là Niết-bàn hay giải thoát. Khi nội tâmchúng tađạt đếntrạng thái này, ta sẽ được bảo hộ; ta sẽ được giải thoát khỏi khổ đau. Do đó, mục tiêu của chúng ta là phải thành tựuĐạo Đế và Diệt Đế.
Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách tránh không phạm vào mười điều bất thiện. Trong Tạng ngữ, cảm xúcphiền não cũng có nghĩa như là khổ đau. Do đó, khi một người đang đau khổ, người Tây Tạng nói rằng người ấy đang phiền não, nghĩa là người ấy đang bất an hay đau buồn. Sự tham luyến, sân hận v.v… là những cảm xúcphiền não và chúng được gọi như vậy vì ngay khi chúng sinh khởi trong tâm thức, chúng talập tứccảm thấykhông vui, đau buồn và sự bình an trong tâm hồn ta bị xáo trộn. Tôi nghĩ điều này hoàn toàn đúng thật. Ví dụ như lúc này đây, tất cả chúng ta đều ngồi nghe giảng Pháp một cách thoải mái với tâm hồn tĩnh lặng. Nhưng nếu chúng ta bất chợt nghe một tin chẳng lành nào đó thì tâm hồn ta sẽ bị xáo động ngay và ta sẽ đối diện với khổ đau. Tương tự, khi trong lòng ta có những ý niệm xấu ác, ta sẽ khổng thể nào ngủ an giấc. Ngay khi cảm xúcphiền nãosinh khởi thì sự bình an và tĩnh lặng trong tâm hồnchúng ta bị khuấy động và điều này khiến ta phải tạm thời đau khổ.
Khi các cảm xúcphiền não khống chế chúng ta, ta mất đi sự tự chủ, vì hầu như ta sẽ bị xô đẩy vào các hành vi xấu ác. Do đó, các cảm xúcphiền não là nguyên nhân gây khổ đau cho ta. Đó là kẻ thù thực sự của ta. Chúng ta không muốn khổ đau. Chúng ta mong muốn hạnh phúc. Nhưng các cảm xúcphiền não này đẩy ta vào khổ đau. Dù vậy, bước khởi đầu sẽ khó khăn khi ta trực tiếp đối đầu với các cảm xúcphiền não mà không có sự chuẩn bị. Do đó, giai đoạn tu tập đầu tiên khi ta không có khả năng trực tiếp đối trịphiền não là, ít nhất cũng phải tránh không thực hiện các hành vi xấu ác. Tránh không thực hiện các hành vi xấu ác có nghĩa là không để cho các cảm xúcphiền não khống chế mình. Chẳng hạn, ta phải tự kiềm chế không ném đá vào ai đó chỉ vì tức giận. Tương tự, thỉnh thoảng quý vị có thể đi chợ và do sự tham luyến, mê muội nên trả tiền để người khác giết thịt một con gà cho mình ăn. Đây là điều ta nên tự chế không làm. Như vậy, giai đoạn tu tập đầu tiên, chủ yếu dành cho các hành giảsơ cơ, là phải tự chế và ngăn ngừa không để cho các cảm xúcphiền não khống chế mình.
Bước thứ hai, ta cần xác quyết rằng tất cả các cảm xúcphiền não đều sinh khởi từ vô minh, hay quan niệmsai lầm về bản ngã. Từ đó, ta cố gắng tạo ra sự đối trị để chống trả trực tiếp với vô minh và cảm xúcphiền não.
Trong giai đoạn tu tập thứ ba, do sự loại bỏvô minh và quan niệmsai lầm về bản ngã vẫn là chưa đủ nên điều quan trọng là phải loại bỏ cả các chủng tử do chúng để lại trong tâm thức, bởi vì các chủng tử này là chướng ngại của sự giác ngộ vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
Khi chúng tagiải thoát khỏi nguyên nhâncăn bản của cảm xúcphiền não là vô minh, thì ta được giải thoát. Khi chúng taloại bỏ được các chủng tử do vô minh và cảm xúcphiền não để lại trong tâm thức, thì ta đạt quả Phật. Do đó, bằng cách tạo ra sự đối trị, ta có thể tự cứu mình ra khỏi các mức độ sợ hãi khác nhau như trên. Để tìm racon đường tu tậpđúng đắn này, điều quan trọng là ta phải tìm được một bậc thầy thích hợp, như đức Phật. Tất cả sự thực hành Pháp của chúng ta đều phải bắt nguồn từ quan điểmduyên sinh. Và chính đức PhậtThích-ca Mâu-ni đã là bậc thầy có khả năng vô vấn tự thuyết về ý nghĩa của duyên sinh. Do đó, Ngài là một bậc thầy chân chính, và Tăng-già là thiện tri thứcthường xuyên nhắc nhở việc tu tậptâm linh. Tăng-già giống như một người y tá, luôn ở bên cạnh giường bệnh nhân.
Đoạn văn tiếp theogiảng giải pháp tu cho những ai có khả năng cao hơn.
Tâm Bồ-đề vị tha là rường cột của Đại thừa.
Là nền tảng và căn bản của những thiện hạnhphi thường.
Như thuốc luyện đan biến hai kho chứa thành vàng ròng,
Tâm Bồ-đề là kho báu phước huệ hàm chứa mọi thiện hạnh.
Biết được điều này, các bậc Bồ Tátdũng mãnh
Luôn lấy tâm Bồ-đề quý báutối thượng,
Làm pháp tu tinh yếu cho mình.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Trước hết, đoạn kệ này mô tả việc phát tâm Bồ-đề, vốn là một pháp tu tập không gì hơn được, là nguồn hạnh phúc cho chính ta và cho tất cả chúng sinh. Tác phẩm “Nhập Trung đạo” nói rằng, các vị Thanh văn và Độc giác Phật được sinh ra từ Phật, chư Phật được sinh ra từ chư Bồ Tát, và chư Bồ Tát được sinh ra từ lòng bi mẫn và tâm Bồ-đề.
Khi chúng ta nói về việc phát tâm Bồ-đề thì ý nghĩachính xác trong Tạng ngữ là “rộng mở tâm thức’. Thông thường, khi chúng ta luôn nghĩ đến lợi lạc cho riêng mình thì tâm ta không mở rộng mà hẹp lại. Khi ta không còn nghĩ đến lợi lạc cho riêng mình, ta mới thấy được rằng lợi lạc của người khác cũng quan trọng. Và khi ta suy ngẫm về tính chất tương quan tương thuộc thì ta nhận thức được tầm quan trọng của việc các chúng sinh khác phải có được hạnh phúc, cũng như việc đó có quan hệ như thế nào đến hạnh phúc của chính ta. Do đó, khi chúng taquan tâm đến hạnh phúc của người khác nhiều hơn là hạnh phúccủa riêng mình thì ta gọi đó là “rộng mở tâm thức”.
Bản chất đích thật của tâm Bồ-đề là, khi đã đi vàotu tập để tự giải thoát khỏi khổ đau cũng như đã nhận diện được bản chất của những cảm xúcphiền não, vốn là chướng ngại cho việc đạt đến Niết-bàn hay giải thoát, chúng ta sẽ hướng đến khả năng loại bỏ ngay cả những chủng tử do vô minh để lại trong tâm thức. Vô minh là giả tạm và vô thường nên có thể loại bỏ, và vì thế nên những chủng tử do nó để lại trong tâm thức cũng là giả tạm và có thể xóa bỏhoàn toàn. Những chủng tử này ngăn trở sự thành tựu quả Phật.
Khi thành tựuquả vị Phật, chúng ta sẽ đạt đượcnhất thiết trí. Trước lúc này, khả năng rõ biết mọi thứ của tâm quang minh bị những chủng tử của vô minhche lấp. Ngay khi loại bỏ được sự che chướng này, vốn là trở ngại của nhất thiết trí hay tuệ giác, chúng ta sẽ thành tựuPhật quả. Ở đạo vị này, ta có thể rõ biết hết thảy mọi việc, nhất là những nhu cầu và khuynh hướng trong tâm ý của mọi chúng sinh khổ đau, và điều này giúp ta chỉ thực hiện những hành vi nào chắc chắn sẽ sẽ làm lợi lạc cho chúng sinh. Nếu không biết được những nhu cầu và khuynh hướng [tâm ý] của người khác, ta sẽ không thể giúp đỡ họ. Ngay cả khi chúng ta có một động cơ rất tốt, nhưng nếu chúng ta không biết người khác thật sự muốn gì thì chúng ta sẽ không thể giúp đỡ họ. Trừ phi ta có một tâm thức thấu hiểu rõ ràng nhu cầu của người khác, bằng không thì ta sẽ không thể giúp đỡ họ. Khi đã phát nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh thì một tâm thứctoàn tri là cực kỳ quan trọng.
Có hai mức độ phát tâm Bồ-đề. Một là tâm nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh và hai là tâm nguyệnthành tựuquả vị Phật. Tâm nguyệnđáp ứng những mong cầu của chúng sinh là nhân đích thực để đưa đến [quả là] tâm giác ngộ và được hỗ trợ bởi ước nguyệnthành tựuquả vị Phật. Chúng ta phải tu tập trên cả hai mức độ này, và điều đó tạo ra một tâm thức có đủ hai phương diện. Tâm Bồ-đề là một tâm thức diệu kỳ, tuyệt hảo và quý báu. Chỉ trong cõi đời này thôi, chưa cần nói đến việc phát triển được tâm Bồ-đề toàn diện, chỉ cần có chút lòng nhân từrộng lượng, quý vị cũng sẽ có nhiều bạn bè hơn quanh mình. Một con chó ngoan hiền sẽ càng có nhiều hơn những người đến vuốt ve và cho ăn. Nhưng một con chó gặp ai cũng sủa và rượt đuổi thì sẽ không ai đến gần hoặc cho nó ăn cả.
Tương tự, nếu một thành viên trong gia đình có tâm ý điềm tĩnh thì gia đình ấy sẽ được êm ấm hơn. Ngược lại, nếu một thành viên trong gia đình luôn giận dữ và thiếu kiên nhẫn thì gia đình ấy sẽ hướng đến những bất ổn. Thông thường, khi một gia đình gặp quá nhiều thất bại, người ta hay nói đến những trở ngại từ nơi khác, nhưng tôi không nghĩ rằng điều này là đúng. Tôi nghĩ rằng, gia đình ấy có nhiều khả năng đang gặp vấn đề gì đó bất ổn ngay trong nội bộ, vốn do khuynh hướng tinh thần của các thành viên trong gia đình gây ra.
Nếu có ý thứctôn trọng, điềm tĩnh và kiên nhẫn, thì ngay cả khi tiếp xúc với một người xa lạ trên đường đi, quý vị cũng có thể dễ dàng kết bạn. Ngược lại, nếu quý vị luôn luôn duy trì sự ngờ vực, thì ngay cả khi ai đó đã chân thành nói ra sự thật, quý vị sẽ vẫn tiếp tụchoài nghi. Một người nào đó có thể chân thành muốn giúp đỡ, nhưng quý vị vẫn nghi ngờ và điều này sẽ dẫn đến rắc rối. Thực tế là không một việc làm nào là không phụ thuộc vào sự giúp đỡ và lòng tốt của người khác. Nếu chúng ta luôn xem mọi người hay những chúng sinh khác đều như kẻ thù, nếu chúng ta luôn nghi ngờ họ, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi việc tìm thấyhạnh phúc lâu bền? Theo bản chấttự nhiên, con ngườichúng ta có khuynh hướng sống hợp quầnxã hội, khác với các loài thú hoang chỉ sống cô độc, trừ ra vào mùa giao phối. Dù thích hay không thích thì thực tế là chúng ta không thể sống được mà không phụ thuộc vào người khác. Do đó, sẽ không hợp lẽ nếu ta chỉ nghĩ đến riêng bản thân mình và phớt lờ đi hạnh phúc của người khác. Điều cực kỳ quan trọng là phải giảm thiểu khuynh hướng vị kỷ và nuôi dưỡng một tâm thức biết quan tâm đến lợi lạc của người khác. Trạng tháirốt ráo của tâm thứcvị tha đó chính là sự phát tâm Bồ-đề.
Một khi chúng ta có được một tâm Bồ-đề như vậy và phát nguyệnduy trì trong nhiều kiếp tương lai, đó là ta đã soi sáng vào cội nguồn đích thực của hạnh phúc. Thực hànhphát tâm Bồ-đề được xem là cốt lõi của tu tậpĐại thừa. Nếu chúng ta có được một phần cốt lõi như thế, thì tất cả các pháp tu tập khác đều sẽ là lợi lạc và hữu ích. Tâm Bồ-đề giống như một liều thuốc luyện đan có thể biến mọi thứ thành vàng. Bất kỳ chúng ta phát triển những hành vi gì và hành xử như thế nào, cũng đều phải dựa trên nền tảng tâm Bồ-đề này. Tâm Bồ-đề là một kho báu chứa tất cả các phẩm tính tuyệt hảo. Khi chúng ta nguyện phát tâm Bồ-đề để thành tựu quả Phật, thì bất kỳ việc gì ta làm, dù khi tỉnh thức hay trong giấc ngủ, ta sẽ luôn tích tập được các thiện hạnh. Do đã sẵn có quyết tâmthành tựu quả Phật vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh, nên ngay cả khi ta có rơi vào cơn say đi nữa thì các thiện hạnh của ta vẫn tiếp tục phát triển hay nảy nở. Do ảnh hưởng của tâm Bồ-đề, dù một bước đi hay một miếng ăn cũng đều sẽ trở thành một thiện nghiệp. Ngay cả việc thở ra, hít vàocủa quý vị cũng sẽ làm lợi lạc cho chúng sinh.
Do đó, ngay cả những hành vi mà thông thường được xem là xấu ác cũng có thể trở thành hiền thiện, lợi lạc nếu chúng có động cơ phát sinh từ tâm Bồ-đề. Đó là lý do vì sao các vị đại Bồ Tát chủ yếu nuôi dưỡngtâm thứctối thượng và quý báu này. Đó là sự tu tậpchính yếu của các ngài, trong khi chúng ta thì thông thường lại lấy việc tụng chú làm chính yếu. Thế nên từ nay về sau ta phải nhận thức rằng, tu tậpphát tâm Bồ-đề là sự tu tập tối quan trọng, và việc tụng chú, quán tưởng bổn tôn thiên thủ v.v... chỉ là tu tập thứ yếu. Trừ phi việc quán tưởng bổn tôn của chúng ta được dựa trên nền tảng tu tậpphát tâm Bồ-đề, bằng không thì sự tu tậpquán tưởng ấy sẽ không có hiệu quả. Con đườngduy nhất để giải thoát được cho là phải sinh khởituệ giácchứng ngộtính Không. Cũng vậy, để thành tựu quả Phật thì không có con đường nào khác hơn là phải phát tâm Bồ-đề.
Nếu chúng tanỗ lực để trở nên khôn khéo và phớt lờ lợi ích của người khác, cố gắngthu vénlợi lộc tối đa về cho riêng mình thì kết quả không chỉ rốt cùng sẽ là không tốt, mà ngay cả trước mắt cũng vậy. Với cách cư xử như thế, ta sẽ không có người bạn nào có thể tin cậy được. Đây là điều mà chúng ta trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Phương cách đích thực để có được lợi thế hay lợi ích là sử dụng sự khôn ngoan của ta. Điều quan trọng là ta phải sử dụng theo cách sao cho có thể gặt hái được tối đa lợi ích và hạnh phúc, trước mắt cũng như lâu dài. Để đảm bảohạnh phúclâu dài, chúng ta có thể phải tạm thời trải qua đôi chút gian khổ. Là con người, chúng ta phải sử dụngtrí khôn của mình một cách đúng đắn, sao cho có thể tạo được hạnh phúc trong tâm ta cũng như cho tất cả chúng sinh. Vì chúng ta đã có được thân người hiếm quý này, nên nếu có thể thì ta phải cố gắngtheo đuổi những con đường nào mang lại lợi íchrốt ráo cho chính ta và mọi người khác. Ít nhất ta cũng phải tránh những hành vi nào làm hạn chếhạnh phúc của người khác.
Sau khi phát khởinguyện lựctinh tấndũng mãnh hướng đến quả vị Phật vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh, chúng ta phải thực sự thực hànhBồ Tát hạnh. Mục đích thực sự của vị Bồ Tát trong việc thành tựuPhật quả là để mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Do đó, việc thực hành [Bồ Tát hạnh] bao gồm bốn phương pháp nhiếp phục đệ tử (Tứ nhiếp pháp) và sáu pháp ba-la-mật (Lục độ). Tất cả nội dung tu tập của vị Bồ Tát có thể được bao gồm trong sáu pháp Ba-la-mật này.
Về pháp thứ nhất là bố thí, chánh văn dạy rằng:
Hạnh bố thí là viên ngọc như ý
Thỏa bao ước nguyện của chúng sinh
Là phương tiện tốt nhất đối trịxan tham
Pháp hành của Bồ Tát làm sinh khởi sự dũng mãnhphi thường
Tiếng lành thơm ngát lan tỏa khắp mười phương
Biết được như thế, bậc trí giả nương theo con đườngtốt đẹp,
Bố thítrọn vẹn cả thân mạng, tài sản và công đức.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Khi chúng ta thực sự thực hành hạnh bố thí, ta nên bắt đầu với những món quà dễ dàng trao tặng đối với ta, sau đó sẽ dần dần phát triển sâu rộng hơn. Đây là một pháp tu tập và nhận hiểu lớn lao qua đó chúng tacuối cùng sẽ có khả năng bố thíthân mạng, tài sản và các công hạnh của chúng ta. Mục đích chính của sự tu tập hạnh bố thí là làm lợi lạc cho chúng sinh chứ không phải để làm tăng thêm danh tiếng của mình hay để giúp ta tích lũy công đức. Sự tu tậpbố thí là để làm giảm bớt đi những khổ đau của chúng sinh. Do đó, chúng ta phải biết cách bố thí như thế nào và vào lúc nào... là thích hợp. Như thuốc men chẳng hạn, vốn có thể là hữu ích, nhưng nếu được trao cho khôngđúng lúc, hay không đúng người, thì có thể có hại.
Nói chung có ba loại bố thí, trong đó pháp thí là một loại. Việc giúp đỡ về vật chất cho người (hành khất...) và vật (chim muông, chó đói...) v.v... là một loại khác. Về pháp thí, không nhất thiết phải là một vị lạt-ma hay ngự trên tòa cao để giảng pháp. Khi chúng ta giúp ai đó một lời khuyên tốt, khuyến khích người ấy từ bỏ một thói quen xấu, thì thực ra đó chính là pháp thí. Tuy nhiên, từ quan điểmtâm linh cũng như quan điểm thông thường mà nói thì việc giảng dạy cho người khác vẫn là một thực hànhtuyệt diệu. Việc giảng dạy vừa giúp người nghe phát triển trí tuệ, vừa giúp chính bản thân ta cũng tăng thêm hiểu biết. Vai trò của người thầy là một cơ hội lớn để phụng sự các học trò. Nếu người thầy có tâm chân thành và giảng dạy với một động cơ đúng đắn, thì sự dạy dỗ của người ấy sẽ lưu lại dài lâu trong tâm trí của học trò.
Cũng vậy, người bác sĩ kê toa đúng thuốc cho bệnh nhân là đã thi hànhchức nghiệp một cách rất tốt rồi. Nhưng nếu vị bác sĩ ấy làm việc với một động cơ chân thành muốn làm lợi lạc cho bệnh nhân, thì dù toa thuốc có chữa khỏi được bệnh hay không, bệnh nhân vẫn cảm thấyhạnh phúc vì có thể tin tưởng vào bác sĩ. Từ sự quan tâm của bác sĩ, bệnh nhân cảm thấy được động viên và an toàn. Cảm giáchy vọng đó thực sự góp phần rút ngắnthời gianđiều trị. Do đó, những công việc chuyên nghiệp như chữa bệnh và dạy học, miễn là được thực hành với một động cơ tốt đẹp, đều là những cơ hội tuyệt vời để người ta tu tậpGiáo pháp thông qua công việc của họ.
Nếu chúng taso sánh các tăng niPhật giáo với các tu sĩThiên chúa giáo, tôi thấy rằng chúng ta kém xa họ về các hoạt độngxã hội. Có những tu sĩThiên chúa giáochân thànhtheo đuổimục tiêu chính là làm theo lời dạy của Chúa. Nhưng đồng thời họ cũng nhiệt thành tham gia các hoạt độngxã hội, và điều này gián tiếp giúp họ phát triển dòng tu của mình. Với suy nghĩ đó, tôi thường nói với chư tăng ni rằng họ cũng có thể đóng một vai trò lớn lao trong việc phụng sựxã hội như là những thầy giáo hay bác sĩ v.v... Điều này cũng trực tiếp góp phần vào việc phát triển Phật pháp.
Trong số hàng ngàn tăng ni [Tây Tạng] sống lưu vong ở đây, quả thật có một số ít các vị sống ẩn cư và tu tập rất tuyệt vời. Bằng cách đó, họ có thể phát triển những phẩm chất tâm linh đích thực và tự thân có sự chứng đắc. Họ là những tấm gương về các hành giảtu tập tốt, nhưng việc những người xuất giacần phảisáng tạo hơn và hữu ích hơn cho xã hội cũng là điều quan trọng. Ngay cả khi quý tăng ni đang sống trong các tự viện, chư vị vẫn có thể thành lập các bệnh viện hay trường học ở đó. Ngày nay, ở những nước như Nhật Bản chẳng hạn, có nhiều trường học đã được các tu viện đứng ra thành lập.
Thuyết giảnggiáo pháp hay phụng sựgiáo dục, hoặc làm y tá chăm sóc người bệnh, đều là những thực hành hạnh bố thí đích thực và rất quan trọng. Chúng ta cũng có thể thực hành hạnh bố thí thông qua sự quán tưởng và cầu nguyện: “Nguyện cho con có đủ khả năngthực hành theo giống như các vị Đại Bồ Tát đã làm.”
Pháp tu tiếp theo trong sáu pháp Ba-la-mật là hạnh giữ giới. Chánh văn dạy rằng:
Giới hạnh là dòng nước rửa sạch vết nhơác nghiệp.
Là ánh trăng dịu mát làm tan đi sự nóng bức khổ sở của phiền não.
Sừng sững như núi Tu-di giữa chúng sinh trong chín cõi.
Uy lực của giới hạnhđiều phục mọi chúng sinh, chẳng cần đe dọa.
Biết được như vậy, bậc thánh nhânnghiêm cẩngiữ gìn,
Những giới luật đã phát tâmthọ trì, như giữ gìn đôi mắt.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Phương thức tự chế để không phạm vào các hành visai lầm hay bất thiện không phải là chỉ biết cầu nguyện để những sai trái như thế không đến với ta. Trước hết, chúng ta phải hiểu được những hành vi nào là xấu ác, vì sự thiếu hiểu biết là một trong những con đường dẫn đến sự sai lầm. Nếu chúng ta không biết được điều gì là sai trái thì ngay cả khi ta đang khổ sở vì chúng, ta cũng sẽ không nhận biết được là chúng đang hiện diện. Đôi khi, mặc dù chúng ta biết được bản chất của sai trái và xem trọng sự tu tập, nhưng ta vẫn phạm vào các hành vi xấu ác do sự chi phối mạnh mẽ của các cảm xúcphiền não. Trước hết ta phải thanh lọc các phiền não thô trược, và sau đó là những phiền nãovi tế hơn.
Một con đường khác dẫn đến sai trái là sự thiếu cẩn trọng. Mặc dù chúng ta có thể khôngkhởi tâmsân hận và tham luyến ngay từ đầu, nhưng sự thiếu cẩn trọng có thể gây ra điều này. Chẳng hạn, ta xem truyền hình hay các bộ phim có những cảnh khơi dậy sự tham luyến và sân hận. Một mặt thì truyền hình rất hữu ích vì nó cho ta biết những gì đang xảy ra trên thế giới rộng lớn. Nó mở rộng tầm nhìn của ta, nhưng nó cũng tạo cơ hội cho sự bất thiện phát triển. Xem quá nhiều cảnh đánh nhau có thể khiến ta bắt chước theo đó trong cách ứng xử. Những thứ đó có thể làm xáo trộn tâm an tĩnh của ta. Do đó, điều quan trọng là trong cuộc sống hằng ngày ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức. Chúng ta phải nghĩ rằng: “Tôi là một Phật tử, tôi là người tu tậptâm linh, tôi là đệ tử của đức Phật.” Chúng ta phải thường xuyên tự nhắc nhở mình về điều này.
Nếu quý vị có cơ hội đi săn thú hay bắn chim, thì lúc đó quý vị phải nhớ rằng việc tham gia một hành vi như thế là không thích hợp với một đệ tử của đức PhậtThích-ca Mâu-ni. Mấy năm trước, tôi gặp một tu sĩ rất tốt. Ông ta kể cho tôi nghe rằng, khi đến Lhasa ông ta đã trông thấy một người Trung Quốc bán một loại rắn đã bị giết chết một cách dã man. Khi bắt được một con rắn loại này, họ sẽ ghim con vật vào một cái bảng gỗ bằng một cây đinh xuyên qua chỗ đôi mắt nó. Ông ta khiếp sợ bởi cảnh tượng đó đến nỗi khẩn cầu tôi hãy cầu nguyện cho những sinh linhđau khổ ấy.
Từ thời cổ, người Tây Tạngchúng tôi đã phải phụ thuộc vào việc ăn thịt [để sống], nhưng chúng tôi không có thói quen xấu là ăn các loài bò sát hay côn trùng nhỏ bé. Chúng tôi cũng không có các trại gà nuôi giam, nơi hàng ngàn con gà bị giết. Mặc dù người Tây Tạngăn thịt, nhưng chúng tôi luôn đặt ra những giới hạnnhất định. Giờ thì có nguy cơ rất lớn là người Tây Tạng sẽ nhiễm các thói xấu... Do đó, khi quý vị rơi vào hoàn cảnh sắp sửa ra tay cướp đi mạng sống của một con vật thì hãy tự nhắc nhở ngay rằng mình là một đệ tử của đức Phật. Nếu quý vị là người xuất gia thì hãy suy nghĩ rằng, mình đang mặc pháp phục, dấu hiệu của một đệ tửxuất gia theo đức Phật, nên đừng hành xử theo cách làm cho các vị xuất gia khác phải hổ thẹn.
Trong một chừng mực nào đó, quả đúng là trong thời cổ có các tu viện khác nhau thường phối hợpquyền lực của họ để chiếm lấy những vật dụng nào đó của người khác; điều này có nghĩa là họ sống dựa vàotà mạng. Phật pháp đã có lúc suy đồi và nếu chúng ta phân tích sâu xanguyên nhân của sự suy đồi này, ta sẽ thấy đúng như những gì ngài Vô Trước đã viết trong Ba mươi bảy pháp hànhBồ Tát đạo: “Cho dù mang hình tướng của một người thực hànhtâm linh, người ta vẫn có thể rơi vào các thực hànhphi tâm linh.” Trong những giai đoạn đó, chúng ta đã có một kiểu nhìn nhận hoàn toàntrong sạch, nhưng không phải vì chúng taquả thậttrong sạch, mà chỉ vì ta thiếu kiến thức về phần còn lại của thế giới. Chúng ta quá xem mọi thứ ta có là điều tất nhiên. Hậu quả là một số hoạt động, như bóc lột chẳng hạn, đã phát sinh.
Chúng ta cũng phải lưu tâm đến thực phẩm của mình. Là những sa-di, sa-di ni cũng như tăng ni đã thọ Cụ túc giới, chúng ta phải lưu tâm đến việc thọ thực sau buổi trưa. Nói chung thì chúng ta không được thọ thực sau buổi trưa, nhưng có thể được phép trong trường hợp chế độ dinh dưỡng không đủ. Chúng ta cũng có thể nói rằng ta không được khỏe và dùng thêm thực phẩm sau bữa trưa. Cứ cho rằng điều này là đúng, nhưng ngay cả như thế thì ta cũng phải cẩn thận và thực hànhtu tậphết sức mình. Về vấn đềăn thịt, chúng ta cũng phải cẩn thận. Trong các bản văn về giới luậttu viện, việc ăn thịt không hề bị cấm hoàn toàn, và đó là lý do ở các quốc gia như Tích Lan và Thái Lan người ta vẫn không ngần ngại khi ăn thịt. Họ dùng bất kỳ món ăn nào được cúng dường. Nhưng một hành giảtu tập theo Đại thừa phải lưu tâm không ăn quá nhiều thịt, vì ta thấy trong nhiều kinh điển Đại thừa cấm hẳn việc ăn thịt. Một số bản văn cho rằng món thịt mà chúng ta ăn đã chẳng còn sự sống, và do đó [việc ăn thịt ấy] không có hại gì. Cũng có một số ngoại lệ đối với những người bị đau gan chẳng hạn: họ ăn thịt vì lý dosức khỏe. Nhưng nói chung thì chúng ta phải kiềm chế không ăn quá nhiều thịt, nhất là ở các địa phương nhỏ như Dharamsala.
Trong mọi hoạt độnghằng ngày, dù đi lại, ngủ nghỉ hay đang làm bất cứ việc gì, những ai trong chúng ta là tăng ni phải luôn tự nhắc nhở rằng mình là người xuất gia. Nếu bị khống chế bởi các cảm xúcphiền não, quý vị không thể cứ để yên như vậy màcần phảithú nhậnlỗi lầm ấy. Chúng tacần phảidựa vào tâm chánh trực và chánh niệm để chấm dứt những lỗi lầm của tâm ý cũng như trong hành vi. Chúng ta phải dùng sự tỉnh giác để phân biệt xem một hành động nào đó có đáng thực hiện không, và [nếu có thì] phải thực hiện trong chánh niệm...
Tâm chánh trực và chánh niệm ngăn chặn sự phóng tâm xao lãng. Khi chúng tatăng cườngsức mạnh của chánh niệm và tâm chánh trực thì những xao lãngvi tế trong tâm thức bị ngăn chặn. Nếu quý vị chưa từng thực hành tâm chánh trực và chánh niệm thì sự khởi đầu sẽ vô cùng khó khăn, nhưng qua sự tu tậpdần dần, quý vị sẽ có thể làm khởi sinh sức mạnh và củng cố những phẩm tính này. Dựa trên nền tảng là giới hạnh, chúng tatu tập thiền định và chú tâm. Qua đó, ít nhấtchúng ta cũng sẽ đạt được một sự nhất tâm mạnh mẽ và sau đó ta sẽ có thể phát triển một sự tỉnh giácphân biệt rất mãnh liệt. Khi chúng ta đã có chánh niệm và một tâm chánh trựctrong sáng thì chúng ta cũng sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹptương tự khi thực hành pháp du-già bổn tôn. Nếu không được như thế thì sự thực hành của chúng ta chỉ là sự quán tưởng thô kệch, chẳng có hiệu quả.
Giới luậtvô cùng quan trọng. Có những giới luật nhằm ngăn chặn những hành visai trái (chỉ ác), có những giới luật để tích tập thiện hạnh (tu thiện) và giúp đỡ người khác, vốn là một trong những mục đích quan trọng nhất của giới luật. Trừ phichúng ta tự mình vâng giữ giới luật, bằng không thì ta sẽ không thể giúp đỡ người khác. Giúp đỡ người khác mang nhiều ý nghĩa hơn là chỉ đơn thuầnnghiên cứu khía cạnh học thuật của Kinh điển. Do đó, để vâng giữ giới luật vì lợi ích của chúng sinh, trước hết chúng ta phải vâng giữ những giới luật tích tập thiện hạnh; và trước đó nữa ta nhất thiết phải vâng giữ những giới luật tránh không làm các hành vi xấu ác. Chúng ta phải thực hànhtu tập theo bốn điều xả bỏ hoàn toàn.
Những giới luật phòng tránh các hành vi xấu ác (chỉ ác) cũng giống như nước rửa sạch dòng tâm thức, rửa sạch thân, khẩu, ý của chúng ta. Nó cũng giống như ánh trăng xua đi sức nóng của sự đau khổ. Khi chúng taliên tụckềm chế các cảm xúcphiền não thì tác dụng của chúng sẽ giảm dần. Người nào quay lưng đi với những hành vi xấu ác, chế ngựtâm bất thiện và thành tâm giữ theo giới luật được ví như núi Tu-di đứng cao hơn tất cả những người khác. Điều này được giải thích trong một bản văn nói rằng, vị tỳ-kheo nào giữ giới luật nghiêm nhặt sẽ sáng chói hơn người khác. Người này chẳng cần thi triển sức lực mà mọi loài vẫn cúi chào. Biết như vậy, chúng ta phải bảo vệ và giữ gìngiới luật, cho dù đó là các giới biệt giải thoát (Ba-la-đề-mộc-xoa), giới Bồ Tát hay giới của Mật thừa. Chúng ta phải giữ gìngiới luật như giữ gìn đôi mắt của chính mình.
Kế tiếp là hạnh nhẫn nhục, vốn là pháp tu đặc biệt quan trọng đối với các vị Bồ Tát.
Nhẫn nhục là món trang sức tuyệt vời của bậc dũng mãnh,
Và là pháp khổ tu tốt nhất để đối trịphiền não.
Là Kim sí điểu vương, kẻ thù của rắn độcsân hận,
Và là tấm khiên chắc chắnchống đỡ lời công kíchthô bạo.
Biết được như vậy, trong mọi hành vi ứng xử
Đều quen khoác vào áo giáp nhẫn nhụckiên cố.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Giáo pháp của đức PhậtThích-ca Mâu-ni được dựa trên nền tảng, hay bắt nguồn từ lòng bi mẫn, mà ngược lại với nó là tâm sân hận, thù hằn. Nhẫn nhục là biện pháp trực tiếp đối trị sự thù hằn, sân hận. Do đó, thực hànhnhẫn nhụcvô cùng quan trọng. Có nhiều hình thứcnhẫn nhục: chịu đựng sự tổn hại, chấp nhận khổ đau một cách nhẫn nại và kiên trì xác tín trong sự cung kính đối với các Pháp môntu tập.
Một trong những chướng ngại lớn nhất khi thực hànhnhẫn nhục là khi có ai đó gây tổn hại cho ta. Nếu ta đủ khả năngchế ngự được sự thôi thúctrả thù [kẻ gây hại] thì điều đó cũng giống như dẹp bỏ được một tảng đá lớn cản đường [đi tới] và sự tu tậpnhẫn nhục của ta sẽ thành tựu. Tác phẩm “Nhập Bồ Tát hạnh” giải thíchchi tiết cách phát khởi lòng nhẫn nhục và cách dùng các biện phápđối trị. Qua sự tu tậpnhẫn nhục như thế, chúng ta cũng chuẩn bị cho sự tu tậpthành tựu về thiền định. Tương tự, khi nói về sự thành tựu trong thực hànhtâm linh, đó là chúng ta đang nói về cách đối phó với những cảm xúcphiền não. Chúng ta đang chiến đấu chống lại các cảm xúcphiền não. Trong cuộc chiến đấu chống phiền não, chắc chắn ta sẽ đối đầu với những khó khăn và trắc trở. Những cảm xúcphiền não, đối thủ của chúng ta, nếu không mạnh mẽ hơn ta thì ít nhất cũng phải là ngang sức.
Tuệ giácphân biệt đúng sai chính là lực lượng chiến đấu chống lại các cảm xúcphiền não. Vì phiền não quá mạnh mẽ nên trong quá trình chiến đấu chống lại chúng, ta có thể phải mệt mỏi cả về thể chất lẫn tinh thần. Tinh thần chiến đấu cũng có nguy cơ bị đánh mất hoàn toàn, nên điều cực kỳ quan trọng là ta phải thực hànhnhẫn nhục, tự nguyện chấp nhận khổ đau. Hãy lấy sự huấn luyện quân sự làm ví dụ. Binh lính phải tập luyện rất nhiều trong thời bình, sẵn sàng chấp nhận gian khổ để có thể chuẩn bị sẵn sàng khi cần phải chiến đấu. Do đó, càng thực hànhnhẫn nhục, chúng ta càng thuận lợi hơn khi tu tậptâm linh, vì gian khó không làm ta sờn lòng.
Tâm xao độngnuôi dưỡngsân hận. Tôi cho đây là một điểm mấu chốt. Hãy nhìn chính sách của các nước khác nhau trên thế giới. Có rất nhiều chính sách khác nhau, bởi vì bằng cách tập hợp một số nhân duyên nhất định, chúng ta sẽ trải nghiệm những kết quả nhất định. Trong số các nguyên nhân lại bao gồm 2 loại: nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhângián tiếp, hay nguyên nhân xa. Bất ổn của chúng ta nằm ở chỗ là ta chỉ nghĩ đến nguyên nhân trực tiếp mà thậm chí không hề nghĩ đến nguyên nhânxa hơn. Vì vậy, khi nguyên nhân trực tiếp phát huy tác dụng thì hầu như ta không còn có thể làm được gì [để thay đổi kết quả]. Cuộc chiến ở nước Nam Tư cũ là một ví dụ. Các vấn đề bất ổn đã phát sinh vì những nguyên nhân xa của xung đột bị bỏ qua. Nếu những biện phápđúng đắn được thực hiện vào thời điểm của các nguyên nhânxa hơn thì những bất ổn trong hiện tại hẳn đã có thể được ngăn chặn. Một khi sự việc đã đi vàogiai đoạn cuối thì rất khó để kiểm soát.
Những điều mà ngài Tịch Thiên đã dạy trong tác phẩm “Nhập Bồ Tát hạnh” là hoàn toànchính xác. Tâm xao độngnuôi dưỡngsân hận. Chẳng hạn, hãy tưởng tượng rằng tâm thức ta thấy bực dọc khi vừa thức dậy vào một buổi sáng nào đó. Vì lý do đó, ta cảm thấy không muốn trò chuyện với bạn bè, với người thân, và chúng ta dễ dàng trở nên bực tức rồi nóng giận. Trong những hoàn cảnh như thế, chỉ cần một chuyện nhỏ nhặt nhất cũng có thể khích động ta và làm ta nổi giận. Ngược lại, nếu ta bắt đầu ngày mới với một tâm thứcđiềm nhiên tĩnh lặng, không xao động, thì cho dù ta có phải đối mặt với một hoàn cảnh khó khăn, ta cũng sẽ không nổi giận. Do đó, điều quan trọng là phải chuyển hóatâm thức, hay rèn luyện tâm theo cách sao cho tâm không bị xao động. Để thực hành hạnh nhẫn nhục một cách thành công, chúng tacần phảiquán chiếu về những tai hại của các cảm xúcxáo trộn và ưu điểm của sự nhẫn nhục.
Hạnh nhẫn nhục là món trang sức tối thượng của bậc dũng mãnh. Nếu thành tựu hạnh nhẫn nhục, thì cho dù có ai đó kết tội hay phỉ báng ta, ta vẫn sẽ mỉm cười. Nếu không có hạnh nhẫn nhục và bị cơn giận khống chế, thì cho dù diện mạo bình thường của ta vẫn xinh đẹp, ta cũng sẽ ngay lập tức trở nên xấu xí. Nhẫn nhục là một món trang sức đẹp đẽ cho tất cả mọi người, dù là già hay trẻ, dù là người cư sĩ hay bậc xuất gia. Tâm thứctrong sáng và một khuôn mặt tươi cười chính là món trang sức đẹp đẽ nhất, và sự khó nhọc để duy trì hạnh nhẫn nhục là sự khó nhọc có giá trị nhất trong hết thảy mọi sự khó nhọc... ...
Tiếp theo là sự tu tập hạnh tinh tấn, chánh văn dạy rằng:
Với giáp trụ kiên trìtinh tấn,
Thông hiểu kinh văn, trí huệtăng trưởng như vầng trăng tròn dần,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Ở đây, chúng ta đang nói về việc tinh tấn vươn lên các thiện hạnh. Thực ra thì trong Tạng ngữ, chữ “tinh tấn” có hàm nghĩa rõ ràng là “ưa thích các thiện hạnh”. Khi chúng ta mặc vào áo giáp chánh tinh tấn thì các phẩm tính tinh thần [tốt đẹp] sẽ tăng trưởng như vầng trăng đang tròn dần. Các em học sinh có câu châm ngôn rằng, nếu mỗi ngày học thuộc một chữ, thì sau 100 ngày ta sẽ thuộc được 100 chữ. Đây là phương cách để tăng trưởngthiện hạnh. Việc tu tập như vậy cực kỳ quan trọng.
Cho dù quan tâm đến việc phát triển các chứng ngộnội tâm hay nghiên cứuý nghĩakinh điển, chúng ta cũng đều phải nỗ lực như dòng chảy ổn định của một con sông. Nhiều người trong chúng ta, kể cả tôi, thường nỗ lực rất mạnh mẽ trong một thời gian ngắn rồi sau đó lại buông lơi. Những cố gắng của chúng ta thường không kiên trì bền bỉ như con rận [hút máu], mà chỉ thoạt có thoạt không, bất chợt như con bọ chét [cắn người]. Đại sư Gungthangpa rất đúng khi nói rằng, trong một vài hôm thôi thì chúng tanỗ lực rất dữ dội, thậm chí quên cả ăn uống. Ngay khi bắt đầu tu học, chúng ta muốn trở thành một đại học giả, nhưng chỉ sau vài ngày ta đã bị cuốn trôi đi bởi sự phân tâm. Những người như thế chẳng có phẩm tính tốt đẹp gì cả. Do đó, chúng tanhất thiết phải nỗ lực như một dòng nước chảy ổn định. Được như vậy thì tất cả các thiện hạnh của chúng ta sẽ nhân lên bội phần và phát triển, rồi bất kỳ hành vi nào của ta đều sẽ có ý nghĩaphù hợp với việc sự tu tậptâm linh. Dù khởi đầu bất kỳ công việc gì, rồi chúng ta cũng sẽ có khả năng hoàn thànhtốt đẹp. Nhận thức được điều này, chư vị Đại Bồ Tát đã vô cùngnỗ lựcdũng mãnh để vượt qua sự phóng dật, lười nhác.
Kế tiếp là pháp tu thiền định, giống như một vị vua kiểm soáttâm thức.
Sự an định chính là vị vua kiểm soáttâm thức
Một khi định tâm, sẽ duy trìbất động như núi chúa,
Một khi hướng tâm, sẽ phát huy mọi mục tiêu hiền thiện,
Và khởi sinh đại hỷ lạc nơi thân tâm nhu nhuyễn.
Biết được điều này, các hành giả du-già dũng mãnh không ngừng tu tập
Pháp thiền định phá tan sự phân tâm nguy hại.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Hiện nay, chúng ta chịu sự kiểm soát của tâm thức, và tâm thức ta lại bị các cảm xúcphiền não khống chế, nên chúng ta rơi vào các hành vi xấu ác một cách không tự chủ. Chúng ta có thể tạo ra một số thiện hạnh nhỏ nhặt nào đó, nhưng vì thiếu sự định tâm nên những thiện hạnh ấy thường là yếu ớt. Sẽ thật là hữu ích nếu chúng ta có được sự định tĩnh, nhất tâm. Ví dụ, khi chúng ta ngủ thì hầu hết các tầng lớp tâm thức thô trược hơn bị phân rã. Nếu chúng ta có một kinh nghiệmthích thú hay khó chịu nào đó trong giấc mơ hay một cơn ác mộng, khi tỉnh giấc ta vẫn còn có thể cảm nhận được ảnh hưởng của kinh nghiệm đó. Mặc dù ta biết rằng kinh nghiệm đó diễn ra trong giấc mơ, khi ta đang ngủ, nhưng sau khi thức giấc ta vẫn có thể cảm thấytác động của nó. Nếu đó là một cơn ác mộng, khi thức giấc ta cảm thấy thật tồi tệ và tâm hồn ta bị xáo động. Khi thức giấc sau một giấc mơ đẹp, ta cảm thấysung sướng. Điều này chỉ rõ một sự khác biệt lớn về tác động của những gì được kinh nghiệm bởi các tầng lớp tâm thức thô trược hơn so với các tầng lớp tâm thứcvi tế hơn. Vì vậy, nếu tâm thức ta định tĩnh hơn thì ta sẽ kiểm soáttốt hơn sự thực hànhthiện hạnh. Do đó, sự an định được gọi là vua của tâm thức.
Định tâm có nghĩa là khi chúng ta muốn trụ tâm vào một đối tượng nào đó thì tâm sẽ an định nơi đối tượng đó như một ngọn núi. Đó là cách giải thích sự định tâm về mặt thiền định. Dù cho chúng ta có thực hànhthiền quán (quán chiếu phân tích) hay thiền định (tập trung nhất tâm), thì việc đạt đến sự định tâm vẫn là cực kỳ quan trọng. Thông qua sự thực hành như thế, chúng ta sẽ có khả năng khơi dậy kinh nghiệmhỷ lạc, giúp cho thân tâmchúng tahoạt độnghiệu quả. Biết được điều này, các vị đại hành giả Du-già luôn nương vào thiền định, vì thiền định giúp tiêu diệtkẻ thù là sự phóng tâm. Tất nhiên, việc thành tựutrạng tháinhất tâm không phải là một thực hành riêng biệt chỉ có ở Phật giáo, nhưng vì trạng tháinhất tâm quá quan trọng nên chúng ta thấy có sự chỉ dạy cách thực hành để đạt đếntrạng tháinhất tâm trong cả Kinh điểnHiển giáo cũng như trong các Tantra Mật thừa.
Theo sự giải thích chung, trước tiênchúng ta phải suy ngẫm về tầm quan trọng và các phẩm tính của thiền định. Nhờ đó, chúng taphát khởitâm nguyện sẽ đạt được các phẩm tính này, chúng taphát khởiniềm tin và thực hànhchánh tinh tấn, nhờ đó loại bỏ sự lười nhác và đạt đến sự nhu nhuyễn. Sau đó, chúng ta phải tập trung kiên định vào đối tượng mà không hề xao lãng. Không những ta không được phóng tâm xao lãng, mà điều quan trọng là trong tâm thức ta phải luôn có một hình ảnh rõ rệt của đối tượng. Tâm thức phải thật mãnh liệt, nhạy bén và trong sáng. Hình ảnh của đối tượng trong tâm không được rõ là do hôn trầm. Không an trụ được nơi đối tượng là do trạo cử. Hôn trầm và trạo cử là những chướng ngại chủ yếu trong thực hành thiền định. Để đối trịhôn trầm, ta phải tăng cườngtrạng tháinhất tâm của tâm thức và khi tâm thứcchúng ta bị phấn khích thì chúng ta phải bình tâm tĩnh lặng.
Trên nền tảng như vậy, chúng ta sẽ đạt đến một trạng tháithiền địnhhoàn hảo, bắt đầu với chín giai đoạn thiền định, chẳng hạn như hướng tâm, tương tục hướng tâm… Bằng cách này, chúng ta có thể đạt đến một tâm thứcan định. Chúng ta có thể sử dụng bất kỳ đối tượng nào để đạt đến sự an định, nhưng theo truyền thốngKinh điển thì ta có thể chọn hình tượngđức PhậtThích-ca Mâu-ni, vì điều đó mang lại nhiều thuận lợi và công đức lớn lao. Khi tu tập theo Mật thừa, ta có thể chú tâm vào vị bổn tôn của mình.
Kế tiếp là Bát-nhã ba-la-mật, chánh văn dạy rằng:
Bát-nhã là đôi mắt để nhìn thấu lẽ chân nhưthâm diệu,
Là chánh đạo giúp nhổ bật gốc rễ luân hồi,
Là kho báu tri thức được xưng tán trong tất cả Kinh điển,
Ai cũng nhận đây là ngọn đèn sáng nhất để xua tan bóng tối vô minh.
Biết được điều này, những bậc trí giả cầu tìm giải thoát,
Luôn nỗ lựchết sức mình theo pháp tu tập này.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Bát-nhã còn được gọi là tuệ giácphân biệt. Ngài Long Thọ từng nói rằng, mục đíchcuối cùng của chúng ta là đạt đến Niết-bàn và giác ngộ, và để đạt đượcmục đích đó, chúng ta cần có đức tin và lòng bi mẫn đi kèm với trí tuệ. Nếu thực hànhlòng bi mẫn mà không đi kèm với trí tuệ thì sẽ không có hiệu quả. Không có trí tuệ, niềm tin sẽ trở thành giống như là mù quáng. Có thể đó không đích thực là niềm tin mù quáng, nhưng vì chúng ta không thấy được lý do dẫn đến niềm tin ấy, nên nó giống như là niềm tin mù quáng. Trong trường hợp này, chúng ta có thể dễ dàng bị lôi cuốn vào một con đườngsai trái, vì ta không có lý lẽ thích hợp nào để đi theocon đường ấy. Ngược lại, nếu chúng taphát khởiniềm tindựa trêntrí tuệ và lập luận, thì cho dù có ai đó cố dẫn dắt ta đi sai đường, ta cũng sẽ không tin vào người đó. Tương tự, nếu việc thực hànhlòng bi mẫn của ta được hỗ trợ bởi sự tu tậptrí tuệ, thì một khi đã gánh váctrách nhiệm cứu giúp chúng sinh, chúng ta sẽ có khả năng đạt đượcmục đích mong muốn.
Có nhiều loại trí tuệ, như trí tuệhiểu biết năm ngành khoa học và trí tuệchứng ngộchân đế. Vì đang đề cập đến mục tiêugiải thoát khỏi vòng luân hồi, nên chúng taquan tâm chủ yếu là loại trí tuệ rốt ráo, hay trí Bát-nhã. Do đó, chánh văn giảng rằng trí Bát-nhã giống như con mắt để nhìn thấu lẽ chân nhưthâm diệu. Cho dù vẫn chưa trực tiếp chứng ngộ lẽ chân như, nhưng nếu chúng ta lĩnh hội được thấu đáo ý nghĩa của chân như thì gốc rễ luân hồi sẽ bị nhổ bật. Đây là kho báu chứa mọi phẩm tính được xưng tán trong tất cả Kinh điển. Mặc dù chúng ta thấy có rất nhiều chủ đề được giải thích theo những cách khác nhau trong Kinh điển, nhưng tất cả cuối cùng đều dẫn đến điểm quan trọng nhất là ý nghĩa của duyên khởi và tính Không.
Do đó, trong tác phẩm “Xưng tán duyên khởi”, ngài Tsongkhapa đã tán thánđức PhậtThích-ca Mâu-ni rằng: “Tất cả giáo pháp của Ngài chung quy lại là lý duyên khởi.” Đây là ngọn đèn sáng nhất xua tan bóng tối vô minh. Bằng trí tuệ, chúng ta thu thập nhiều tầng tri thức khác nhau. Ở tầng cao nhất, chính nhờ vào trí tuệ thấu hiểu lý vô ngã mà chúng ta có thể loại bỏquan niệmsai lầm về tự ngã. Do đó, khi nhận thức được điều này thì bậc trí giả mong cầu giải thoát sẽ cố gắngphát khởitrí tuệ nói chung và đặc biệt là trí tuệchứng ngộchân đế.
Để hiểu được ý nghĩa của chân như, bản thân ngài Tsongkhapa đã nghiên cứu nhiều Kinh luận của các bậc đại sưẤn Độ và Tây Tạng. Vì bậc đạo sư tôn quý đã nỗ lực rất nhiều trong việc tu tập theo con đườngtrí tuệ này, nên chúng ta cũng noi theo như thế.
Khi nói về trí tuệ nhận hiểu lý vô ngã, chúng ta phải xác định được vô ngã nghĩa là gì. Chúng ta có thể có nhiều loại trí tuệ, như trí tuệ hiểu được tiếng Tây Tạng, trí tuệ hiểu được tiếng Trung Hoa, trí tuệ hiểu được tiếng Anh… Tương tự, dựa theo chức năng thì cũng có nhiều loại trí tuệ như trí tuệquảng đại, trí tuệ sáng suốt, trí tuệ nhạy bén… Ngày nay, các nhà khoa học cũng giải thích rằng, không ai biết được hết tiềm năng của bộ óc con người và không ai có khả năng sử dụngtrọn vẹn [khả năng của] bộ óc mình. Tôi cho đây là điều lý thú. Dù quý vị có gọi đó là bộ óc hay tâm thứccon người thì chúng ta cũng có một tiềm năng rất lớn để khám phá các điểm vi tế. Các nhà khoa học chỉ ra rằng, có nhiều phần của bộ óc chưa được sử dụng đến hoặc chúng ta không có khả năng sử dụng. Điều này hàm nghĩa rằng tâm thứccon người có kích thước vô hạn.
Khi nói về vô ngã, chúng ta đang nói đến sự vắng mặt của “ngã”. Chúng tacần phải hiểu cái “ngã” đang bị phủ định ở đây là gì. Cái “ngã” bị phủ định ở đây là về mặt ý thức. Những gì bị bác bỏ bởi sự phủ định của ý thức thì hẳn phải là điều không tồn tại. Nếu điều ấy quả có tồn tại thì sự suy luậnlý trí đã không thể bác bỏ chúng. Nhưng nếu là đối tượng phủ định của con đường tu tập thì điều đó hẳn phải hiện hữu [nên mới cần được phủ định]. Khi chúng ta dấn thân trên đường tu tập, đối tượng của sự phủ định đó là một điều gì quả thậthiện hữu nhưng [sự hiện hữu đó] là vô ích, vì thế ta loại bỏ điều ấy bằng cách tu tập theo đạo pháp.
Sự vô ngã mà chúng ta đề cập ở đây là sự vắng mặt một cái “ngã” vốn chưa bao giờtồn tại trước đó. Giờ thì quý vị có thể hỏi rằng, nếu đó là một cái “ngã” không tồn tại, thì tại sao ta lại phải nói về sự vắng mặt của cái “ngã” như thế? Mặc dù cái “ngã” đó không tồn tại, nhưng do quan niệmsai lầm, chúng ta nghĩ rằng một cái “ngã” như thế có tồn tại. Từ nhận thứcsai lầm này, chúng ta bị nhầm lẫn, và do sự nhầm lẫn đó ta phạm vào các hành vi xấu ác. Vì vậy, những gì chúng ta đang cố gắng xác lập ở đây là sự không tồn tại của cái “ngã” vốn được tưởng tượng ra bởi một ý thứcsai lầm hay tâm ý lệch lạc. Khi chúng ta đi đến một kết luận thông qua sự phân tích, rằng một cái “ngã” như thế là không hề tồn tại, thì tất cả các tầng lớp ý niệm khác được tạo ra bởi nhận thứcsai lầm như vậy về cái “ngã” sẽ không còn hiện hữu.
Hầu hết các giáo lý trong đạo Phật đều giảng giải về vô ngã. Ý nghĩa của vô ngã có rất nhiều tầng bậc: có tầng bậc ý nghĩa được thừa nhận chung bởi cả bốn trường phái; có tầng bậc trình bày độc đáo về ý nghĩa của vô ngã và ngã bị phủ nhận bởi trường phái Duy thức; và cũng có tầng bậc ý nghĩa trình bày theo các trường phái Trung quán kinh lượng và Trung quán cụ duyên. Bằng cách dần dần nắm hiểu được tất cả các tầng bậc giảng giảiý nghĩa khác nhau này, chúng ta sẽ đạt đến sự nhận hiểu thấu đáo về những gì là đối tượng của sự phủ định. Bởi thế, khi phủ định đối tượng của sự phủ định, ta phát khởituệ giác nhận hiểu tính Không.
Chúng ta đã và đang đề cập đến phần giáo pháptu tập dành cho những người có căn cơ cao. Chúng ta đã thảo luận vì sao việc phát tâm Bồ-đề là phương cáchduy nhất để đạt đếnquả vị Phật, về các pháp hànhBồ Tát đạo, và về sự tu tậpđặc biệt các pháp thiền định và tuệ. Chúng ta đã hoàn tất phần giảng giải về định và tuệ [trong chánh văn]. Dưới đây sẽ đề cập đến phần kệ tụnggiảng giải rằng chúng ta nên tu tậpđồng thời cả định và tuệ .
Chưa từng thấy chỉ riêng định lựcnhất tâm,
Lại đủ sức nhổ bật gốc rễ luân hồi.
Và chỉ riêng trí tuệ, không có tâm an định,
Thì dù quán chiếu bao lâu cũng không thể dứt trừ phiền não, cảm xúc.
Vì thế, hãy đặt trí tuệ thấy biết hoàn hảo về thực tại,
Lên yên ngựa vững chãi là sự an định.
Và dùng vũ khí sắc bén là lẽ Trung đạo, không rơi vào cực đoan,
Để phá tan mũi dùi của những nhận thứccực đoan,
Thông qua việc mở rộngtrí tuệ và quán chiếuthích hợp,
Sẽ khởi sinh tuệ giác nhận hiểu thực tại.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Chỉ riêng định lựcnhất tâm sẽ không đủ sức để nhổ bật gốc rễ luân hồi. Tương tự, cho dù chúng ta có một trí tuệ rất sâu xa thấu hiểu được ý nghĩatính Không, nhưng nếu không có khả năng thâm nhập sâu vào đối tượng của thiền định thì chúng ta sẽ không thể sử dụng được toàn bộnăng lực của tâm thức. Do đó, chúng ta phải đặt tuệ giáchiểu biết được trạng tháihiện hữurốt ráo của vạn pháp lên trên lưng con ngựa thiền địnhvững chãi và sử dụnggiáo lýTrung đạo, vốn vượt khỏi nhị biên. Được như vậy, chúng ta sẽ có khả năng phá trừ được quan niệmsai lầm về bản ngã.
Không nghi ngờ gì, sự thuần thụcnhất tâm,
Sẽ dẫn đến tâm an định.
Nhưng biết được rằng, cho dù sự phân tích quán chiếu đúng đắn,
Có tạo ra định lựckiên cốan trú trong thực tại,
Thì sự nỗ lực hợp nhất giữa định và tuệ,
Vẫn là điều diệu kỳ thật đáng xưng tán.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế.
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Chúng ta sẽ thành tựu sự an định trong thiền tập không chỉ nhờ vào sự tập trung nhất tâm, mà còn thông qua sự phân tích quán chiếu của tâm thức, vốn cũng đưa đến một tâm ổn định. Do đó, chúng ta phải tinh tấnthực hành cả hai pháp tu tập định và tuệ.
Khi cân bằng định tuệ, nuôi dưỡngtánh Không như hư không,
Ra khỏi thiền định, quán xét tánh Khôngnhư huyễn ảo.
Hợp nhất cả phương tiện thiện xảo và trí tuệ, là điều được xưng tán,
Như tác nhân giúp cho mọi thiện hạnh của chư Bồ Tát thăng hoa,
Thấu hiểu điều này, những kẻ hữu duyên sẽ không bao giờ
Thỏa mãn với chỉ một trong hai pháp tu tập.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Trong khi nhập thiền định, chúng taquán chiếuý nghĩa của tính Không giống như mang tính chất của hư không. Nói cách khác, chúng ta đã quán chiếuý nghĩavô ngã của con người và vô ngã của vạn pháp, bằng cách sử dụng nhiều phương phápsuy luận lô-gích khác nhau, như lý duyên sinh, lý đoạn trừ bốn biên kiến v.v... Trên nền tảng những phương phápsuy luận đa dạng này, chúng ta đã loại bỏ đối tượng của sự phủ định và rồi quán chiếu về điều đó. Bởi vì chúng ta thấu hiểu được ý nghĩa của tính Khôngtrong suốtthời gian nhập thiền định, nên khi các pháp trình hiện trước chúng ta [trong giai đoạn sau thiền định] giống như có sự tồn tại trên cơ sở tự tính, ta có thể quán thấy rằng dù các pháp trình hiện theo cách như vậy, nhưng tất cả sự trình hiện này đều chỉ do vô minh và tâm thứctiêu cực của chúng ta tạo ra.
Nhờ vào năng lực của sự nhận hiểu từ trước, chúng ta sẽ có khả năng thấy được mọi pháp đều như huyễn. Tuy mọi pháp trình hiện giống như có sự tồn tại trên cơ sở tự tính, nhưng thật ra không hề có điều ấy. Do đó, nhận thức của chúng ta trong giai đoạn sau thiền định cũng sẽ củng cố thêm việc hành thiền của ta. Và việc hành thiền thành tựu lại ảnh hưởng đến giai đoạn sau thiền định. Bằng cách đó, chúng ta sẽ có thể sử dụngkết hợpphương tiện và trí tuệ. Cả hai pháp này sẽ bổ sung cho nhau thay vì mâu thuẫn nhau. Hai pháp tu tập này góp phần thành tựu hai thân Phật: Sắc thân và Pháp thân. Vì thế, điều quan trọng là phải dấn thân tu tậptrọn vẹn thay vì chỉ tu tập một trong hai pháp.
Đây là yêu cầu chung cho cả hai đường tu tối thượng,
Thuộc Đại thừa: nhân thừa và quả thừa.
Khi những yếu tố này đã phát triển thích hợp,
Hãy tìm sự bảo hộ nơi một [đạo sư như] thuyền trưởng tài ba,
Và mạo hiểmđi vàođại dươngmênh mông của [bốn] lớp Tan-tra,
Theo đúng những chỉ dẫnkhẩu truyền hoàn chỉnh.
Bằng cách đó sẽ làm cho cuộc đờitự do và may mắn này trở nên đầy ý nghĩa.
Bậc Thầy tôn kính của ta đã làm như thế,
Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng sẽ làm theo như thế.
Trước hết , chúng ta phải lắng nghe kỹ về ý nghĩa của sự tu tậptích cực. Sau đó, chúng ta phải suy ngẫm về ý nghĩa của những gì đã nghe và thực hànhthiền tập. Thông qua việc lắng nghe (văn), suy ngẫm (tư) và thực hànhthiền tập (tu), chúng ta sẽ hình thành con đường tu tập, và theo sự chỉ bảo, hướng dẫn của một bậc đạo sưkim cangthiện xảo, một đại học giảchứng ngộ, chúng ta sẽ bước vào một đại dương của Tantra. Nếu chúng ta có thể kết hợp bổ sung việc tu tập mật thừa với tu tậpkinh thừa, thì ta sẽ có được một sự chỉ dẫntrọn vẹn để làm cho cuộc đời mình trở nên đầy ý nghĩa. Dù ta không thể đạt đến quả vị Phật ngay trong đời này, ta cũng sẽ gieo vào tâm thức mình một chủng tử sâu sắc nhờ đã dấn thân tu tậptrọn vẹn. Qua nhiều kiếp sống nối tiếp nhau, chúng ta sẽ đi từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác và cuối cùng sẽ thành tựu quả Phật.
Có thể có nhiều người trong chúng ta, kể cả tôi, rất say mê tu tậpPhật pháp và luôn tham dự các buổi giảng Pháp như thế này. Nhưng cũng có thể có nhiều người mới lần đầu tiên được nghe những buổi giảng Pháp kéo dài đến thế. Điều quan trọng là phải ghi nhớ những điều quý vị đã học được và kiên trìtu tập. Vì quý vị đã nhận được bản luận giải về tác phẩm “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ” nên hãy cố gắng đọc và suy ngẫm ý nghĩa của nó. Khi đọc bản văn, hãy cố gắng nhớ lại ý nghĩa đã được giảng giải và cố gắng nhận hiểu. Một khi đã chắc chắn hiểu được rồi, hãy cố gắng suy ngẫm và thiền quán nhiều lần về ý nghĩa đó để nó được ghi sâu vào trong tâm trí quý vị.
Do đó, trước tiên quý vị phải chọn được một đối tượng để thiền quán, rồi sau đó quý vị phải thiền quánliên tục về đối tượng ấy, làm cho tâm thức mình thuần thục với việc tu tập hay giáo pháp đó. Trước hết, hãy nhận hiểu tổng quát về toàn bộ các giai đoạn trên đường tu tập, và khi thực sự tiến hành tu tập thì hãy khởi sự từ bước đầu tiên và tích lũykinh nghiệm một cách trình tự, có hệ thống. Đến một lúc, quý vị sẽ thấu hiểu được tinh yếu của toàn bộgiáo pháp về Các giai đoạn trên đường tu giác ngộ. Nếu quý vị tiếp tụcthiền quánsâu xa hơn thì chủ đềthiền quán sẽ trở nên gần gũi với tâm thức quý vị. Vào lúc đó, quý vị có thể chắc chắn rằng việc thiền quáncủa quý vị sẽ hữu ích và thành công. Bằng cách đó, quý vị sẽ tích lũykinh nghiệm về đối tượng trên cơ sở tu tập thiền quán. Dần dần, quý vị sẽ đạt đến giai đoạn tập trung tâm thức vào đối tượng mà không cần phảinỗ lực nhiều.
Kinh nghiệmdựa trên sự nỗ lực có nghĩa là có một giai đoạn mà quý vị suy ngẫm về một ý nghĩacụ thể nào đó của bản văn này thông qua suy luận và lý lẽ. Quý vị sẽ có thể chú tâm vào đó và biết được điều đó có nghĩa gì, nhưng có thể quý vị sẽ không có khả năng hiểu hay thiền quán về điều này mà không sử dụng đến suy luận và lý lẽ. Điều này có nghĩa là quý vị đang nỗ lực để hiểu được ý nghĩa bản văn. Nếu thực hành như vậy liên tục thì quý vị sẽ dần dầnđạt đếntrình độ gọi là hành trì bất dụng công, đó là lúc tâm thứccủa quý vị không cần phảisử dụng đến suy luận và lý lẽ để hiểu được ý nghĩa [của bản văn]. Hiện nay, chúng ta chịu sự tác động quá mạnh mẽ bởi các cảm xúcphiền não đến nỗi ta chẳng bao giờ thoát khỏi chúng, chúng luôn có mặt cùng với ta. Nếu quý vị rèn luyệntâm thức cho thuần thục với các pháp tu tích cực thì rồi cũng sẽ có lúc các ảnh hưởngtích cực của sự tu tập trở nên mạnh mẽ đến mức quý vị không thể nào mất đi ảnh hưởng ấy.
Chúng ta thấy là các pháp tu tập Bổn sư Du-già rất quan trọng và hữu ích trong cả bốn truyền thống của Phật giáo Tây Tạng,1 do đó mà các pháp tu này giữ một vai tròtrọng yếu. Quý vị có thể hành trì bất kỳ pháp tu Bổn sư Du-già nào theo với truyền thốngcụ thể của mình.
Đến đây là kết thúc bản văn “Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ”. Những dòng kệ tiếp theo sau giải thíchlý do vì sao Ngài Tsongkhapa biên soạntác phẩm, đồng thờihồi hướng công đức của việc làm này.
Ta đã giảng giải bằng lời lẽ dễ hiểu Toàn bộ đường tu giác ngộ làm chư Phật hoan hỷ Để chính ta được thuần thục với đường tu ấy Và cũng để giúp cho những ai có thiện duyên. Với công đức này, xin nguyện cho tất cả chúng sinh Chẳng bao giờ bị tách rời khỏi đường tu thanh tịnh và hiền thiện này. Đây là lời nguyện của bậc đạo sư tôn quý của ta, Và người cầu tìm giải thoát như ta cũng xin phát nguyện như thế. -----------
Nhờ từ tâm của bậc thầy thông tuệ Mà ta có thể đến được với giáo pháp của bậc Đạo sưvô thượng Do đó, ta hồi hướng công đức này để tất cả chúng sinh Đều được chăm nom bởi các bậc thiện tri thức xuất chúng. Nguyện cho ta và tất cả chúng sinh Được tái sinh thành đại đệ tử Của thầy ta là Losang Drakpa Tại Cõi Hoan Hỷ hay Cực Lạc Hay bất kỳ cõi tịnh độ nào mà Ngài đang ngự trị. Trước hết, hãy rộng đường tìm kiếm Để được nghe thật nhiều giáo pháp Sau đó, xem toàn bộ kinh văn truyền thừa Như lời khuyên dạy trực tiếp của vị thầy. Cuối cùng thì ngày đêm không ngừng tu tập, Và hồi hướng tất cả cho sự hưng thịnh của Chánh pháp.
Phụ lục: Các bản dịch Anh ngữ khác của phần Chánh văn 1. Bản dịch của Sherpa Tulku, Khamlung Tulku, Alexander Berzin và Jonathan Landaw (1973, LTWA, Dharamsala)
The Concise LamRim
1. I prostrate before you, (Buddha), head of the Shakya clan. Your enlightened body is born out of tens of millions of positive virtues and perfect accomplishments; your enlightened speech grants the wishes of limitless beings; your enlightened mind sees all knowables as they are.
2. I prostrate before you Maitreya and Manjushri, supreme spiritual children of this peerless teacher. Assuming responsibility (to further) all Buddha’s enlightened deeds, you sport emanations to countless worlds.
3. I prostrate before your feet, Nagarjuna and Asanga, ornaments of our Southern Continent. Highly famed throughout the three realms, you have commented on the most difficult to fathom “Mother of the Buddhas” (Perfection of Wisdom Sutras) according to exactly what was intended.
4. I bow to Dipamkara (Atisha), holder of a treasure of instructions (as seen in your Lamp for the Path to Enlightenment). All the complete, unmistaken points concerning the paths of profound view and vast action, transmitted intact from these two great forerunners, can be included within it.
5. Respectfully, I prostrate before my spiritual masters. You are the eyes allowing us to behold all the infinite scriptural pronouncements, the best ford for those of good fortune to cross to liberation. You make everything clear through your skillful deeds, which are moved by intense loving concern.
6. The stages of the path to enlightenment have been transmitted intact by those who have followed in order both from Nagarjuna and Asanga, those crowning jewels of all erudite masters of our Southern Continent and the banner of whose fame stands out above the masses. As (following these stages) can fulfill every desirable aim of all nine kinds of being, they are a power-granting king of precious instruction. Because they collect the streams of thousands of excellent classics, they are indeed an ocean of illustrious, correct explanation.
7. These teachings make it easy to understand how there is nothing contradictory in all the Buddha’s teachings and make every scriptural pronouncement without exception dawn on your mind as a personal instruction. They make it easy to discover what the Buddha intended and protect you as well from the abyss of the great error. Because of these (four benefits), what discriminating person among the erudite masters of India and Tibet would not have his or her mind be completely enraptured by these stages of the path (arranged) according to the three levels of motivation, the supreme instruction to which many fortunate ones have devoted themselves?
8. Although (there is much merit to be gained from) reciting or hearing even once this manner of text (written by Atisha) that includes the essential points of all scriptural pronouncements, you are certain to amass even greater waves of beneficial collections from actually teaching and studying the sacred Dharma (contained therein). Therefore, you should consider the points (for doing this properly).
9. (Having taken refuge,) you should see that the root cause excellently propitious for as great a mass of good fortune as possible for this and future lives is proper devotion in thought and action to your sublime teacher who shows you the path (to enlightenment). Thus you should please your teacher by offering your practice of exactly what he or she says, which you would not forsake even at the cost of your life. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
10. This human existence with its (eight) liberties is much more precious than a wish-granting jewel. Obtained just this once, difficult to acquire and easily lost, (it passes in a flash) like lightning in the sky. Considering how (easily this can happen at any time) and realizing that all worldly activities are as (immaterial as) chaff, you must try to extract its essence at all times, day and night. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
11. After death, there is no guarantee that you will not be reborn in one of the three unfortunate realms. Nevertheless, it is certain that the Three Jewels of Refuge have the power to protect you from their terrors. For this reason, your taking of refuge should be extremely solid and you should follow its advice without ever letting (your commitments) weaken. Moreover, (your success in) so doing depends on your considering thoroughly which are the black or the white karmic actions together with their results and then living according to the guides of what is to be adopted or rejected. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
12. The fullest strides (of progress) in actualizing the supreme paths will not come about unless you have attained the working basis (of an ideal human body) that is complete with (all eight ripened favorable) qualities. Therefore, you must train in the causal (virtuous actions) that will preclude (your attainment of such a form) from being incomplete. (Furthermore) as it is extremely essential to cleanse away the stains of black karmic debts and downfalls (from broken vows) tarnishing the three gateways (of your body, speech and mind), and especially (to remove) your karmic obstacles (which would prevent such a rebirth), you should cherish continually devoting yourself to (applying) the complete set of four opponent powers (which can purge you of them). I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
13. If you do not make an effort to think about true sufferings and their drawbacks, you will not properly develop a keen interest to work for liberation. If you do not consider the stages whereby (true) origins of all suffering place and keep you in cyclic existence, you will not know the means for cutting the root of this vicious circle. Therefore, you should cherish exuding total disgust and renunciation of such existence by knowing which factors bind you to its wheel. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
14. Ever-enhancing your enlightened motive of bodhicitta is the central axle of the Mahayana path. It is the basis and foundation for great waves of (enlightening) conduct. Like a gold-making elixir, (it turns) everything (you do) into the two collections, (building up) a treasure of merit gathered from infinitely collected virtues. Knowing this, bodhisattvas hold this supreme precious mind as their innermost practice. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
15. Generosity is the wish-granting jewel with which you can fulfill the hopes of sentient beings. It is the best weapon for cutting the knot of miserliness. It is the (altruistic) conduct that enhances your self-confidence and undaunted courage. It is the basis for your good reputation to be proclaimed in the ten directions. Knowing this, the wise have devoted themselves to the excellent path of completely giving away their body, belongings and merit. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
16. Ethical discipline is the water that washes away the stains of faulty actions. It is the ray of moonlight that cools the scorching heat of the defilements. (It makes you) radiant like a Mount Meru in the midst of the nine kinds of being. By its power, you are able to bend all beings (to your good influence) without (recourse to) mesmerizing glares. Knowing this, the holy ones have safeguarded, as they would their eyes, the precepts that they have accepted (to keep) purely. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
17. Patience is the best adornment for those with power and the perfect ascetic practice for those tormented by delusions. It is the high-soaring eagle as the enemy of the snake of anger, and the thickest armor against the weapons of abusive language. Knowing this, (the wise) have accustomed themselves in various ways and forms to the armor of supreme patience. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
18. Once you wear the armor of resolute and irreversible joyous effort, your expertise in the scriptures and insights will increase like the waxing moon. You will make all your actions meaningful (for attaining enlightenment) and will bring whatever you undertake to its intended conclusion. Knowing this, the bodhisattvas have exerted great waves of joyous effort, washing away all laziness. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
19. Meditative concentration is the king wielding power over the mind. If you fix it (on one point), it remains there, immovable like a mighty Mount Meru. If you apply it, it can engage fully with any virtuous object. It leads to the great exhilarating bliss of your body and mind being made serviceable. Knowing this, yogis who are proficient have devoted themselves continuously to single-pointed concentration, which overcomes the enemy of mental wandering. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
20. Profound wisdom is the eye with which to behold profound emptiness and the path by which to uproot (fundamental ignorance), the source of cyclic existence. It is the treasure of genius praised in all the scriptural pronouncements and is renowned as the supreme lamp that eliminates the darkness of closed-mindedness. Knowing this, the wise who have wished for liberation have advanced themselves along this path with every effort. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
21. In (a state of ) merely single-pointed meditative concentration, you do not have the insight (that gives you) the ability to cut the root of cyclic existence. Moreover, devoid of a path of calm abiding, wisdom (by itself) cannot turn back the delusions, no matter how much you analyze them. Therefore, on the horse of unwavering calm abiding, (masters) have mounted the discriminating wisdom that is totally decisive about how things exist [or, the wisdom penetrating the depths of the ultimate mode of being]. Then, with the sharp weapon of Middle Path reasoning, devoid of extremes, they have used wide-ranging discriminating wisdom to analyze properly and destroy all underlying supports for their (cognitions) aimed at grasping for extremes. In this way, they have expanded their intelligence that has realized emptiness. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
22. Once you have achieved single-pointed concentration through accustoming yourself to single-pointedness of mind, your examination then of individual phenomena with the proper analysis should itself enhance your single-minded concentration settled extremely firmly, without any wavering, on the actual way in which all things exist. Seeing this, the zealous have marveled at the attainment of the union of calm abiding and penetrative insight. Is there need to mention that you should pray (to attain it as well)? I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
23. (Having achieved such a union) you should meditate both on space-like emptiness while completely absorbed (in your meditation sessions) and on illusion-like emptiness when you subsequently arise. By doing this, you will, through your union of method and awareness, become praised as someone perfecting the bodhisattva’s conduct. Realizing this, those with the great good fortune (to have attained enlightenment) have made it their custom never to be content with merely partial paths. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
24. (Renunciation, an enlightened motive and correct view of emptiness) are necessary in common for (achieving) supreme paths through either of the two Mahayana vehicles of (practicing) causes (for enlightenment) or (simulating now) the results (you will achieve ). Therefore, once you have properly developed like this these (three principal) paths, you should rely on the skillful captain (of a fully qualified tantric master) as your protector, and set out (on this latter, speedier vehicle) across the vast ocean of the (four) classes of tantra. Those who have (done so and) devoted themselves to his or her guideline instructions have made their attainment of (a human body with all) liberties and endowments fully meaningful (by attaining enlightenment in their very lives). I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
25. In order to accustom this to my own mind and also to benefit others as well who have the good fortune (to meet a true guru and be able to practice what he or she teaches), I have explained here in easily understandable words the complete path that pleases the buddhas. I pray that the merit from this may cause all sentient beings never to be parted from these pure and excellent paths. I, the yogi, have practiced just that. You who also seek liberation, please cultivate yourself in the same way.
COLOPHON
This concludes the Abbreviated Points of the Graded Path to Enlightenment, compiled in brief so that they might not be forgotten. It has been written at Ganden Nampar Gyelwa’s Monastery on Drog Riwoche Mountain, Tibet, by the Buddhist monk Losang Dragpa, a meditator who has heard many teachings.
Bài giảng của đức Đạt-lai Lạt-ma XIV tại Thekchen Choling, Dharamsala, mùa xuân năm 1993, ngài Geshe Lobsang Jorden dịch sang Anh ngữ và Jeremy Russell hiệu đính. Phần Chánh văn của ngài Tsongkhapa do Ruth Sonam dịch sang Anh ngữ và giữ bản quyền. Việc sử dụng phải được sự đồng ý của dịch giả. Nguồn: CHÖ YANG - The Voice of Tibetan Religion & Culture No.7. Biên tập: Pedron Yeshi & Jeremy Russell. Bản dịch tiếng Việt được thực hiện với sự cho phép bằng văn bản của ngài Rajiv Mehrotra, thay mặt cho Tổ chức The Foundation for Universal Responsibility of His Holiness The Dalai Lama tại Ấn Độ. (Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn)
Kính thưa quý vị khá thính giả của chương trình Phố Bolsa TV. Hiện nay tôi đang có mặt ở tỉnh Surin Thái Lan cùng đòan bộ hành với sư Minh Tuệ đi Đất Phật Ấn Độ và hôm nay nơi giữa đường thì chúng ta sẽ có một buổi nói chuyện trực tiếp với sư Minh Tuệ. Những câu hỏi đã được tôi soạn ra trước nhưng không hề có việc gửi tới trước cho Sư hoặc là cho anh Đoàn Văn Báu (Trưởng đoàn)
Vào năm 2015 ngôi chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin của xứ Đức, đã đảm nhận trọng trách tổ chức một khóa An Cư Kiết Đông cho hơn 100 vị Chư Tăng Ni đến từ các nơi, chủ yếu là Âu Châu. Gần mười năm sau, Chùa lại được hân hạnh đón tiếp lần thứ hai gần 100 Vị đến tu tập những 10 ngày từ mùng 9 đến 18 tháng 12 năm 2024, đó là khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 12, nếu không trừ ra vài khóa vắng bóng thời Cô-Vít ngày nào!
Ngày 3/1, ngày thứ tư kể từ khi đặt chân tới đất Thái Lan, đoàn của sư Minh Tuệ đang đi bộ dọc đường 217 trên khu vực thuộc huyện Phibun Mangsahan, tỉnh Ubon Ratchathani ở miền đông bắc Thái Lan.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.