Quan Điểm Về Nghiệp Của Phật Giáo Có Sự Khác Biệt Như Thế Nào So Với Quan Điểm Số Mạng Của Nho Giáo?

27/08/201012:00 SA(Xem: 28232)
Quan Điểm Về Nghiệp Của Phật Giáo Có Sự Khác Biệt Như Thế Nào So Với Quan Điểm Số Mạng Của Nho Giáo?

Đáp : Mỗi cá nhân có một cấu trúc tâm sinh lý, hoàn cảnhđiều kiện sống hoàn toàn khác nhau. Cùng là con người, nhưng giữa họ có sự bất đồng rõ rệt giữa giàu nghèo, xấu đẹp, khỏe mạnh và đau yếu, trường thọchết yểu, thành công và thất bại, hạnh phúc và khổ đau... Đây là những nghi vấn ngàn đời mà từ lâu các hệ tư tưởng triết học, tôn giáo đã cố công đi tìm lời giải đáp. Ở đây, Phật giáo giải thích căn nguyên của sự dị biệt đó bằng thuyết Nghiệp hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho giáo.

Theo quan điểm của Nho giáo, khái niệm Số mạng được dẫn xuất từ lý thuyết Thiên mệnh, tức là mệnh trời. Căn cứ vào lý thuyết Thiên mệnh, thì Trời được xem như một quan tòa công minh, cầm cân nảy mực phán xét mọi việc. Trời quyết định mọi sự thành công hay thất bại trong đời sống của con người. Điều này, trong tác phẩm Luận ngữ, thiên Nhan Uyên, Khổng Tử cho rằng: “Sống chết có số mạng, giàu sang tại Trời” (Tử sanh hữu mạng, phú quí tại Thiên) Con người không thể cãi lại mệnh Trời, "Trời kêu ai người nấy dạ”. Mọi cố gắng của con người không ngoài ý Trời. Chính ngay bản thân mình, Khổng Tử cũng thừa nhận: "Năm ta mười lăm tuổi chỉ để tâm vào việc học, năm ba mươi tuổi đã đủ lực mà lập thân, năm bốn mươi tuổi tâm trí đã đủ sáng suốt, năm năm mươi tuổi, ta hiểu được mệnh trời...” (Ngô thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh"... Luận ngữ, thiên Vi Chính). Có thể nói, theo quan niệm của Nho giáo thì con người cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Cũng theo Khổng Tử thì việc hiểu biết mệnh trời như một điều kiện để trở thành con người hoàn thiện: “Không hiểu mệnh trời, không xứng đáng là người quân tử” (Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã - Luận ngữ, thiên Nghiêu Viết).

Như vậy, quan điểm về Thiên mệnh xét đến cùng thì luôn mang tính chất tiêu cực, thụ động, cứng nhắc; triệt tiêu mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người. Con người khi mới sinh ra thì đã có một số mệnh an bài và được định đoạt bởi ý chí của một đấng siêu nhiên. Một khi đã đặt trọn niềm tin của mình vào đấng siêu nhiên, vào số phận, số mạng thì con người đành phải chấp nhận xuôi tay, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định.

Trái với những quan điểm đó, Phật giáo không chủ trương và không chấp nhận số mệnh. Con người hiện hữu trong dòng sống sinh động với các đặc tính khác nhau là kết quả của Nghiệp được tạo tác bởi chính họ trong hiện tạiquá khứ. "Con người là chủ nhân của Nghiệp, là kẻ thừa tự Nghiệp...” (Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt - Trung Bộ III ).

Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động phát sinh từ tâm được thể hiện qua hành động (Thân nghiệp), ngôn ngữ (Khẩu nghiệp) và tư duy (Ý nghiệp). Nghiệp lựcsức mạnh của Nghiệp, là động lực thúc đẩy, dẫn dắt để hình thành một thân phận chúng sanh. Nghiệp do mình tạo ra rồi trở lại chi phối chính mình. Nghiệp có nhiều loại, mỗi loại có một tính chấtcông năng khác nhau. Hai loại Nghiệp chính thường được đề cập là Dẫn nghiệpMãn nghiệp. Dẫn nghiệp là Nghiệp do con người tạo ra trong đời sống hiện tại hay quá khứ thông qua thân, khẩu và ý hoặc thiện hoặc ác, để rồi chính Nghiệp này dẫn dắt con người ấy sanh vào một trong sáu nẻo của Lục đạo (Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷĐịa ngục ). Tuy nhiên, cùng là người nhưng có người khỏe mạnh, người lại ốm đau; người đẹp, kẻ xấu; người này sang trọng, người kia lại nghèo hèn và tất cả những sai biệt ấy là quả báo của Mãn nghiệp.

Con người tạo ra Nghiệp và sẽ không thể và không bao giờ trốn thoát được những Nghiệp do mình gây tạo ra. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, quan điểm về Nghiệp của Phật giáo không giống như Định mệnh hay Số mệnh. Điểm khác nhau cơ bản giữa Nghiệp và Số mệnh ở chỗ, Nghiệp do chính con người tạo tác, có tính chất duyên sinh, bất định tính và vô ngã nên Nghiệp có thể chuyển hoá được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa Nghiệp báo của chính mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại.

Năng lực chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người có tư chất thông minh và cơ thể khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp. Thế nhưng, người ấy không lo học tập, rèn luyện thân thể lại còn sống buông thả, đắm say tửu sắc, ma túy... Kết quả từ chỗ khỏe mạnh anh ta trở nên ốm yếu, tiều tụy; từ chỗ thông minh thành ra ngu đần, thác loạn. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy Nghiệp tốt của người này. Ngược lại, một người với quả báo Mãn nghiệp có cơ thể ốm yếu, tật bệnh nhưng nhờ biết giữ gìn sức khỏe, luyện tập dưỡng sinh, ăn uống điều độ, làm việc giờ giấc, thì không những khỏe mạnh, chiến thắng bệnh tật, thậm chí còn trường thọ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có một phần ba lá phổi mà vẫn làm việc bình thường; Stephen William Hawking - nhà vật lý vĩ đại người Anh của thế kỷ này - tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng.... là những thí dụ điển hình của Năng tiêu nghiệp theo hướng tích cực.

Đối với Dẫn nghiệp, một loại Nghiệp có cường độ mạnh trong việc quyết định hướng tái sanh nhưng vẫn chuyển hóa được. Trong sách Đồng Mông Chỉ Quán, ngài Trí Giả đại sư có kể chuyện một Sa di yểu mạng nhưng nhờ cứu sống một đàn kiến nên được chuyển Nghiệp. Đáng lẽ, vị Sa di này phải chết trong vòng một tuần lễ lại được sống an ổn, trường thọ. Năng lực chi phối Dẫn nghiệp là Năng hủy nghiệp. Một người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của Dẫn nghiệp (Tái sanh nghiệp) vẫn còn nhưng vì người này trong đời trước hoặc ngay trong đời này đã tạo ra những Nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu hủy đời sống của họ, khiến họ có thể mất mạng như thường. Đó là những trường hợp đột tử, bất đắc kỳ tử, tai nạn... Đây không phải là số mệnh,định mệnh hay tới số, tận số. Phật giáo gọi là Nghiệp, tác động của Năng hủy nghiệp đã tiêu hủy một Dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, chấm dứt một đời sống. Năng hủy nghiệp trong trường hợp này giống như cơn gió thổi tắt đèn trong khi đèn vẫn còn dầu và tim đèn.

Tựu trung, Nghiệp theo Phật giáo là một cơ chế vận hành của đời sống được khám phá bởi tuệ giác của Đức Phật chứ không phải một tín ngưỡng vu vơ, siêu hình và hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho giáo. Nghiệp tuy có năng lực mạnh mẽ, chi phốiquyết định đời sống của chúng sanh trong hiện tại và tương lai nhưng Nghiệp có thể chuyển hóa và thay đổi được thông qua nỗ lực tu tập của cá nhân, chứ không cứng nhắc, tiêu cực như Số mệnh. Thuyết Nghiệp rất tích cực, khoa học và công bằng. Nó tôn vinh trách nhiệmgiá trị con người, thúc đẩy con người hướng thiện, sống đạo đức, theo lẽ phải. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn vắng mặt bóng dáng tiêu cực, yếm thế.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.