VÌ SAO PHÓNG SINH và PHÓNG SINH NHƯ THẾ NÀO HT. Thích Thánh Nghiêm
Phóng
sinh bắt nguồn từ kinh Phật Đại Thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, truyền
sang Nhật Bản và các nước láng giềng Triều Tiên, Việt Nam. Hoạt độngphóng
sinhdựa trêntinh thầntừ bi và bình đẳng giữa chúng sinh, và quan niệmnhân quả của sinh tử luân hồi. Nếu vừa giữ giới sát, lại vừa phóng sinh thì
công đức gấp bội.Những tỷ dụkinh nghiệmcảm ứng về phóng sinh, sách sử
nói đến rất nhiều.
Trong kinh "Tạp bảo tạng" quyển 4 có ghi
chép sư phụ của một Sa di biết Sa di này sẽ chết trong vòng 7 ngày, nên cho
phép anh ta về thăm nhà, 7 ngày sau sẽ trở lại, nhưng không giải thích rõ lý
do. Anh ta lên đường về nhà, thấy nước trong một cái ao thoát ra một khe hở, đe
dọa một ổ kiến ở bờ ao. Bầy kiến nháo nhácchạy trốn nhưng không kịp với tốc độ
nước tháo ra. Anh Sa di thấy vô số con kiến ắt phải chết đuối bèn lấy áo cà sa
của mình bồi đất vào để đắp lỗ hổng ở bờ ao, cứu thoát bầy kiến. Sa di về thăm
nhà 7 ngày, rồi trở lại ra mắt sư phụ. Sư phụ thấy Sa dikinh ngạcvô cùng, hỏi
anh ta mấy ngày qua có xảy ra chuyện gì đặc biệt không. Tưởng rằng sư phụ nói
mình phạm giới, làm việc bậy bạ nên lo sợ nói rằng không làm việc gì sai trái.
Sư phụ là A la hán dùng thiên nhãn biết rõ là anh Sa di này đã làm một việc thiện
nhỏ là cứu sống một bầy kiến, nhờ vậy mà khỏi phải chết yểu, được sống cho đến
già.
Các tín đồPhật giáo đều biết rõ căn cứ của phóng sinh.
Có hai bộ kinh.
Một là "Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới", trong đó có
nói : "Mọi người hãy lấy từ tâm mà phóng sinh, vì tất
cả đàn ông là cha của mình, tất cả đàn bà là mẹ của mình, mình chính là
từ ở đó mà sinh ra. Vì vậychúng sinh trong sáu cõi đều là cha mẹ ta, giết họ
mà ăn là giết cha mẹ, và giết cả bản thân mình nữa. Tất cả đất và nước là thân
trước của ta, tất cả lửa và gió đều là bản thể của ta, cho nên thường làm việc
phóng sinh, đời đời thọ sinh. Nếu người đời khi thấy việc giết hại súc vật thì
nên cứu chúng thoát khỏikhổ nạn, thường giáo hóa nói về giới Bồ Tát, cứu độ
chúng sinh".
Bộ kinh thứ hai là "Kinh Kim Quang Minh" quyển
4 (phẩm con ông trưởng giảLưu Thủy) kể lại chuyện ngày trước Phật Thích Ca tu
hạnh Bồ Tát. Thời ấy Phật Thích Ca làm con ông trưởng giảLưu Thủy. Một lần Người
đi qua một cái hồ lớn. Trời đại hạn. Có người đắp đập trên thượng nguồn để bắt
cá, làm cho mức nước hồ thấp xuống, hàng vạn cá lớn, cá bé có nguy cơ bị chết.
Con trưởng giả muốn cứu bầy cá, nhưng không thể lên tận nguồn để phá đập chắn,
bèn tâu với quốc vương phái đến 20 con voi lớn, chở nước tới, đổ đầy hồ, cứu sống
đàn cá.
Kinh "Phạm Võng" là chỗ dựa lý luận của phóng
sinh. "Kim Quang Minh" là chỗ dựa để xây ao phóng sinh. Các bộ kinhĐại
Thừa khác như "Lục độ tập kinh" quyển 3, ghi chép việc mua rùa để
phóng sinh. Cuốn "Đại Đường Tây Vực Ký" của Huyền Trang cuốn 9 kể
chuyện Tháp Nhạn. Ở nước Magadha thuộc Trung Ấn Độ có một ngôi chùa Tiểu Thừa,
do một vị Tỳ kheo tu không giữ giới ăn ba loại thịt thanh tịnh là các loại thịt
không thấy giết, không nghe giết, không vì mình mà giết. Có một ngày, một Tỳ
kheo không có thịt ăn, chính lúc đó ở trên trời có một bầy nhạn bay qua, Tỳ
kheo bèn nói với đàn nhạn "Hôm nay, có vị Tăng không có thịt ăn, vì không
ai cúng dường. Các vị Đại Bồ Tát biết là thời cơ đã đến rồi". Bầy nhạn
nghe thấy như vậy, đều sa xuống mà chết. Vị Tỳ kheo ấy vốn không tin Đại Thừa,
không tin chim nhạn có thể là Bồ Tát, nên nói ra câu trên để chế diễuĐại Thừa.
Không ngờ chính các Bồ Tát đã hiển hiện làm nhạn để giác ngộ cho anh. Các Tỳ
kheoTiểu Thừa trong chùa lấy làm xấu hổ và bảo nhau : "Đây là các vị Bồ
Tát, ai mà dám ăn". Từ nay về sau phải dựa vàoĐại Thừa, chúng ta sẽ không
ăn ba loại thịt thanh tịnh. Rồi xây tháp thờ chim nhạn.
Có thể thấy phóng sinh có gốc rễ ở giới sát. Cũng có
thể nói phát triển giới sát thêm một bước, thành ra phóng sinh. Giới sát chỉ
là ngăn không làm ác, là hành vi thiện thụ động. Phóng sinhcứu mạng là hành vithiện tích cực. Nếu chỉ ngăn ác, mà không hành thiện thì không phải là tinh
thần của Phật phápĐại Thừa. Vì vậy mà Trung Quốc, từ thời Bắc Tề Lương đến
nay, có phong trào không ăn thịt không sát sinh. Phong tục phóng sinh cũng từ
đó được phát triển dần dần từ triều đình đến dân thường, từ chúng Tăng đến người
trần tục đều coi trọng ăn chay.
Chính phủ Dân quốc hiện nay cũng định kỳ cấm giết hại súc
vật một số ngày trong năm, từ trung ương đến địa phương để cầu mưa, xua đuổitai họa, người ta cũng tổ chức phóng sinh và cấm giết hại súc vật. Võ Đế nhà
Lương xuống chiếu cấm sát sinh để cúng tế. Tỳ kheo Tuệ Tập đời nhà Lương, nguyện
tự đốt hai cánh tay, đi khắp nơi khuyên phóng sinh. Đời Tùy, đại sưTrí Khải
phát động phong trào xây ao phóng sinh, giảng các kinh "Kim Quang
Minh" và "Pháp Hoa" để tuyên truyền xin bỏ tiền mua lương thực để
nuôi cá. Đời Trần Tuyên Đế, Vua sai quan Tế Tửu Từ, Khắc Hiếu viết "Bài
Bia về việc thiền sư Trí Khải" tu ở chùa Thiền núi Thiên Thai tổ chức
phóng sinh. Điều đó mở đầu cho việc ghi chép các hội phóng sinh và các ao phóng
sinh ở Trung Quốc. Từ đó về sau từ đời nhà Đường, nhà Tống đến nhà Minh, đời
nào cũng có phát triển việc phóng sinh. Đời vua Đường Túc Tôn, có viết bài bia
về ao phóng sinh. Đến đời Tống, hai đại sưTuân Thức và Tri Lễ cũng ra sức tán
thán việc phóng sinh.
Cuối đời nhà Minh có đại sưLiên Trì là một trong những
cao tăng rất tích cực tuyên truyền việc phóng sinh. Đại sư viết các bài
"Như Lai không cứu nghiệp sát", "Ăn thịt", "Ăn
chay" in trong tập "Trúc song tùy bút", lại viết các thiên thư
như "Mặc áo lụa ăn thịt", "Giữ giới sát được sống thọ",
"Ao phóng sinh", "Thầy thuốc giới sát sinh", "Vì bệnh
ăn thịt". Trong tập "Trúc song tùy bút", lại có các bài
"Sát sinh là tội ác lớn trong đời người", "Làm người không
nên sát sinh", "Làm người không nên ăn thịtchúng sinh để khuyến
khích giới sát và phóng sinh". Ngoài các bài viết về "ăn chay",
ông còn viết các bài "Nghi thức phóng sinh", "Giới sát phóng
sinh", để bày vẽ các nghi thứcphóng sinh cho mọi người. Thời hiện đại có
sách của đại sư Hoàng Nhất, các tập tranh về "Bảo vệ cuộc sống" của
Phong Tử Khái "6 cuốn". Ngoài ra còn có Cư sĩ Thái Niệm Sanh đề xướng
việc giới sátphóng sinhbiên tập những câu chuyện về chủ đề "Động vật
cũng có linh tính và cảm ứng" thành sách với nhan đề "Động vật còn
như vậy". Nhưng trong xã hộihiện đại, khoa học kỹ thuật tiến bộ, mật độ
nhân khẩu tăng nhanh, không gian sống bị thu nhỏ lại, muốn có một ao phóng
sinh, một khu vực phóng sinhtuyệt đốian toàn là tương đối khó khăn. Ở nước Mỹ
và Đài Loan hiện nay có các khu vực bảo vệdã thú. Ngoài ra cũng có người do
lòng thương yêu loài vật và muốn bảo vệthiên nhiên đã khuyến khích dân chúng
không nên giết, bắt bừa bãi, tránh phá hoại sự điều hòa phối hợptự nhiên của
sinh vật, tránh nguy cơ diệt chủng đối với loài động vật hiếm. Điều này phù hợp
nhưng không hoàn toàn tương đồng với tinh thầnphóng sinh của đạo Phật. Nếu
chúng ta thả tất cả động vật được phóng sinh vào các khu bảo vệ động vật… thì sẽ
có nguy cơ bão hòa, số động vật tăng nhan tới mức phải hạn chế.
Do đó, chúng ta đến đâu để phóng sinh ? Nếu là cá thì có
người câu hay thả lưới, nếu là chim, thì có người dùng súng bắn, hay dùng lưới
vây bắt. Ở các chợ bán chim, bán cá ngày nay, thường không phải là động vậthoang dã, mà đại bộ phận là do người ở các ao cá, vườn chim. Những động vật này
căn bản không thích ứng với hoàn cảnhtự nhiên, phóng sinh chúng cũng như sát
sinh. Phóng sinh loài nhỏ, chúng sẽ bị những loài lớn ăn thịt. Phóng sinh loài
lớn, chúng sẽ bị săn bắn đưa vào bếp các quán ăn. Hơn nữa, giống chim, loài cá
đều có thói quen của chúng. Có những loài cá nhất định phải sống trong những
hoàn cảnhnhất định như chất nước, độ sâu, độ chảy, mua giống cá sông thả vào
biển hay mua và thả cá biển vào sông đều thành vấn đề. Loại chim nuôi ở công
viên, không quen săn mồi trong hoàn cảnhtự nhiên không biết rau quả nào trong
rừng có thể dùng làm thức ăn. Nếu thả chúng vào rừng sẽ bị đói hoặc bị các động
vật khác hoặc các loài chim ăn thịt.
Trong tình hình như vậy, có cần phóng sinh hay không, có
nên phóng sinh hay không ? Điều này rõ ràng là một sự thực khôngmay mắn. Sự hạn
chế của hoàn cảnhtự nhiên làm cho cuộc vận độngphóng sinh ngày càng khó khăn.
Thực ra, ý nghĩaphóng sinh là ở nơi động cơ của phóng
sinh mong muốn kéo dài thọ mạng của sinh vật. Còn kéo dài được bao lâu thì
chúng ta phải có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu như muốn thả chim thì phải
nghiên cứu xem thả loài chim gì, thả ở đâu, thả vào lúc nào mới an toàn, có kết
quả.
Đối với loài cá, tôm, cua v.v… cũng phải như vậy. Trước
hết phải nghiên cứu tập quán sinh thái, nguồn gốc của chúng, rồi chọn thời cơthích đáng nhất để thả chúng ở những nơi an toànthích hợp nhất. Nhưng nếu
không may, hôm nay chúng được thả, sang ngày hôm sau chúng bị bắt thì cũng đành
chịu vậy.
Mục đích của chúng ta là phát động lòng từ bi, tinh
thầncứu tế của người phóng sinh. Còn số phận của động vật được phóng sinh ra
sao, thì còn tùy thuộc vào nhân quả họa phúc và nhân duyên của chúng nữa.Miễn là khi phóng sinhchúng tathành tâm cầu cho chúng được thoát nạn. Hãy vì
chúng mà nói Tam Quy, nói Phật pháp, phát nguyệnhồi hướng. Chúng có thể nhờ đó
mà thoát ly được các thân khác loài, chuyển tái sinh làm người, sinh lên cõi trời,
vãng sinhtịnh độ, phát tâmBồ đề, độ thoátchúng sinh sớm thành Phật đạo. Trong
việc phóng sinh, chúng ta chỉ cần tận tâm, tận lực mà làm. Như vậy là tốt.
Sinh hoạt trong lãnh vực truyền thông tại Quận Cam bao lâu nay, tôi chưa bao giờ tham dự một buổi ra mắt kinh sách Phật Giáo mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam như buổi ra mắt bộ Thanh Văn Tạng của Đại Tạng Kinh Việt Nam tại Nhà Hàng Brodard Chateau, Thành phố Garden Grove, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 19 tháng 3 năm 2023.
Được tin không vui, Ni sư Thích Nữ Hạnh Đoan đang lâm trọng bệnh ở giây phút cuối đời. Ni sư đã có công dịch thuật nhiều sách Phật học, đặc biệt là bộ sách 7 tập Báo Ứng Hiện Đời khuyên người tin sâu nhân quả hướng về Phật Pháp và ước nguyện cuối đời là muốn độ hết chúng sinh thoát khổ. Thư Viện Hoa Sen đã chuyển tải thông điệp của Ni sư qua việc phổ biến các sách của Ni sư và nay xin được long trọng bố cáo đến toàn thể quý độc giả bài viết cuối cùng của Ni Sư. Ước mong quý độc giả đồng cùng với các thành viên ban biên tập Thư Viện Ha Sen dành chút giây hướng về Ni sư và cầu nguyện cho Ni sư thân tâm được an lạc khi chưa thuận thế vô thường và khi thuận thế vô thường thanh thản về cõi Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu hành rồi trở lại cõi Ta Bà cứu độ chúng sinh.
Gần đây trên các báo chí Hoa Kỳ và trên cộng đồng mạng có đề cập đến nhiều về từ ngữ WOKE và có nhiều độc giả hỏi về ý nghĩa của từ này. Chúng tôi cũng không biết rõ về ý nghĩa và xuất xứ của từ này, nên có cuộc trò chuyện với AI (trí thông minh nhân tạo) như sau:
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.