Tinh Thần Thiết Thực Hiện Tại Trong Lời Dạy Của Đức Phật

26/10/201212:00 SA(Xem: 30855)
Tinh Thần Thiết Thực Hiện Tại Trong Lời Dạy Của Đức Phật

TINH THẦN THIẾT THỰC HIỆN TẠI
TRONG LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Thích Chơn Thiện

"Quá khứ không truy tìm, Tương lai không ước vọng, Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến, Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính là đây..."

Một tinh thần giáo dục đặc sắc khác mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần "thiết thực hiện tại" hay tinh thần thực tiễn, thực tại.

Phẩm "Cây Lau" dạy: "Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu,

Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua.
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh lìa cành".


Kinh "A-nan Nhất Dạ Hiền" ghi :

"Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính là đây...".


Với kiếp sống của con người thì chỉ hiện tại là có thực (tương đối). Sống có nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại; hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tạitinh thần thiết thực. Than thở tiếc nuối quá khứ, hay mơ ước tương lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là, cái hiện tại sống động, mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể hiện tại là vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục (xóa tan ý niệm về thời gian).

Nếu không biết chấp nhận hiện tại như nó đang là, để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đi đến an lạc, hạnh phúcgiải thoát, thì, như Thế Tôn đã dạy, dung sắc cuả mình sẽ khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành. Hạnh phúc và đời mình cũng khô héo như thế.

Nếu đi vào tâm lý giáo dục hiện đại, nhất là ngành tâm lý trị liệu (Psychotherapy), chúng ta sẽ bắt gặp liền kết quả này, phần lớn các rối loạn, sầu muộn của tuổi trẻ (hay của con người, nói chung) đều do tư duy của con người gây ra, nhất là những tư duy về những quá khứ không thiết thực, về những tương lai hảo huyền. Có những kết quả thống kê của giáo dục kết luận rằng: Có thể 90% cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duymộng tưởng sai lầm ấy.

Thật là dễ hiểu! Những sự kiện bất như ý xảy đến với mình, gây phiền muộn cho mình thì ít, mà tư duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy, phiền hà mình thì nhiều. Vả lại, nghĩ nhiều về quá khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời giannăng lượng, cái thời giannăng lượng đáng lẽ được dùng vào các việc đem lại an vui cho mình và người.

Như thế, hiện tại và tại đây như là hòn đảo an toànThế Tôn đã chỉ cho con người nương tựa để khỏi bị rơi chìm vào trong đại dương phiền muộn của vọng tưởng, và để từ đó có thể đi vào nghĩa sống, hạnh phúc mà nghìn năm con người đi tìm kiếm.

Sau khi trở về với hiện tại, con người phải biết làm chủ tư duydục vọng (Tôn giả Ca-chiên-diên cắt nghĩa kinh Nhất Dạ Hiền Giả): Muốn hay không muốn những gì, tư duy hay không tư duy những gì để được lợi ích thiết thực.

Trong kinh Cùla-Màlunkyaputta, Màlunkyaputta đặt ra mười câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn (Thế giới thường hay vô thường? Như Laitồn tại sau khi chết? v.v...) Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói cho Màlunkyaputta nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẩu giải độc ngay, chứ không phải là vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên trước khi chịu giải phẩu. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên "khổ đau" chứ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.

Một lần ở Kosambi (Tương Ưng Bộ Kinh V), Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo: "Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những gì mà Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đây là những phương thức trừ khổ". Đấy là tính chất thực tiễn, thực tế, rất thiết thực hiện tại của những lời giảng dạy của Thế Tôn.

Ở các kinh khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại còn được Thế Tôn cắt nghĩa: Quán sát tự thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân, si để đoạn trừ là thiết thực hiện tại.

Giảng dạy về hạnh phúc đời sống gia đình, như đã trình bày ở phần trước, là tính chất rất thực tế của tinh thần giáo dục của Thế Tôn, Thế Tôn đã không hề chỉ cho hàng đệ tử đi vào cầu nguyện hay tế lễ trên đường tìm kiếm hạnh phúc. Ngài dạy: Tế đàný nghĩatế đàn bố thí, giúp đỡ tha nhântế đàný nghĩa nhất là sự tu tập giải thoát của chính tự thân.

Tinh thần thực tiễn, thực tế là một tinh thần giáo dục nổi bật của tâm lý giáo dục hiện đại. Qua tinh thần thực tiễn ấy, Phật giáo nổi bật lên sắc thái rất là "giáo dục".

Ý KIẾN:

Đạo Quang 24/10/2012 23:52:29 “Verse 348: Give up the past, give up the future, give up the present. Having reached the end of existences, with a mind freed from all (conditioned things), you will not again undergo birth and decay.”Có thể dịch là: “Bài kệ 348: Buông bỏ quá khứ, buông bỏ tương lai, buông bỏ hiện tại. Đạt tới bờ bên kia (Pali: bhavassa paragu: người qua bờ bên kia, kết thúc sanh hữu, tức A La Hán), với tâm giải thoát mọi pháp dính mắc, con sẽ không còn sinh tử nữa.”Bài kệ này trong bản Hán Văn của Pháp Sư Thường Bàn Đại Định là: “Xả tiền, xả hậu, Xả gian-việt hữu. Nhất-thiết tận xả, Bất thụ sinh tử.”
Các thiền sư thời trước đã không để dính mắc một tâm nào hết, dù là tâm hiện tại. Trong khi đa phần lời khuyên thời nay lại bảo là chỉ nên nghĩ chuyện hiện tại; rõ ràngngộ nhận lớn”.

(Nguồn: Phật Tử Việt Nam)

Xem nguyên văn Kinh:

KINH NHẤT DẠ HIỀN GỈA
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Trích trong: Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) 131)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông: 'Nhứt dạ Hiền giả' (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi... là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai, "và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Khi ta nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông: 'Nhứt dạ Hiền giả', tổng thuyết và biệt thuyết", chính duyên ở đây mà nói vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trích trong: Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) 131

 

Majjhima Nikaya 131
Bhaddekaratta Sutta
An Auspicious Day
Translated by Bhikkhu Thanissaro


Translator's Introduction

The title of this discourse has sparked some controversy, centered on the word "ratta." Modern translators in Asian vernaculars are unanimous in rendering it as "night," a reading seconded by Sanskrit and Tibetan versions of the discourse. Translators working in English have balked at this reading, however, on the grounds that the title it yields -- "Auspicious One-Night" -- makes no sense. Thus I.B. Horner drops the word "ratta" for her translation entirely; Ven Ñanamoli renders it as "attachment," yielding "One Fortunate Attachment"; and Ven. Ñanananda, taking his cue from Ven. Ñanamoli, renders it as "lover," yielding "Ideal Lover of Solitude."

If we look at idiomatic Pali usage, though, we find that there is good reason to stick with the traditional reading of "night." There is a tendency in the Pali Canon to speak of a 24-hour period of day and night as a "night." This would be natural for a society that used a lunar calendar -- marking the passage of time by the phases of the moon -- just as it is natural for us, using a solar calendar, to call the same period of time a "day." As the verse that forms the summary of this discourse explicitly mentions one practicing "relentlessly both day and night," the "night" in the title of the discourse would seem to be a 24-hour, rather than a 12-hour, night -- and so I have chosen to render the Pali idiom into its English equivalent: An Auspicious Day.

Ven. Ñanamoli is probably right in assuming that "bhaddekaratta" was a pre-Buddhist term that the Buddha adopted and re-interpreted in light of his own teaching. The point of the discourse would thus be that -- instead of the play of cosmic forces, the stars, or the lucky omens -- one's own development of the mind's attitude to time is what makes a day auspicious.

 



I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi, at Jetavana, the park of Anathapindika. There he addressed the monks: "Monks!"

"Yes, lord," the monks replied.

The Blessed One said: "Monks, I will teach you the summary and exposition of one who has had an auspicious day. Listen and pay close attention. I will speak."

"As you say, lord," the monks replied.

The Blessed One said:

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past
is left behind.
The future
is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees right there,
right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind.

Ardently doing one's duty today,
for -- who knows? -- tomorrow
death may come.
There is no bargaining
with Death and his mighty horde.

Whoever lives thus ardently,
relentlessly
both day and night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage.

"And how, monks, does one chase after the past? One gets carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'...'In the past I had such a feeling'...'In the past I had such a perception'...'In the past I had such a thought-fabrication"...'In the past I had such a consciousness.' This is called chasing after the past.

"And how does one not chase after the past? One does not get carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'...'In the past I had such a feeling'...'In the past I had such a perception'...'In the past I had such a thought-fabrication"...'In the past I had such a consciousness.' This is called not chasing after the past.

"And how does one place expectations on the future? One gets carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'...'In the future I might have such a feeling'...'In the future I might have such a perception'...'In the future I might have such a thought-fabrication"...'In the future I might have such a consciousness.' This is called placing expectations on the future.

"And how does one not place expectations on the future? One does not get carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'...'In the future I might have such a feeling'...'In the future I might have such a perception'...'In the future I might have such a thought-fabrication"...'In the future I might have such a consciousness.' This is called not placing expectations on the future.

"And how is one vanquished with regard to present qualities? There is the case where an uninstructed run-of-the-mill person who has not seen the noble ones, is not versed in the teachings of the noble ones, is not trained in the teachings of the noble ones, sees form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form.

"He/she sees feeling as self, or self as possessing feeling, or feeling as in self, or self as in feeling.

"He/she sees perception as self, or self as possessing perception, or perception as in self, or self as in perception.

"He/she sees thought-fabrications as self, or self as possessing thought-fabrications, or thought-fabrications as in self, or self as in thought-fabrications.

"He/she sees consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called being vanquished with regard to present qualities.

"And how is one not vanquished with regard to present qualities? There is the case where a noble disciple who has seen the noble ones, is versed in the teachings of the noble ones, is well-trained in the teachings of the noble ones, does not see form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form.

"He/she does not see feeling as self, or self as possessing feeling, or feeling as in self, or self as in feeling.

"He/she does not see perception as self, or self as possessing perception, or perception as in self, or self as in perception.

"He/she does not see thought-fabrications as self, or self as possessing thought-fabrications, or thought-fabrications as in self, or self as in thought-fabrications.

"He/she does not see consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called not being vanquished with regard to present qualities.

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past
is left behind.
The future
is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees right there,
right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind.

Ardently doing one's duty today,
for -- who knows? -- tomorrow
death may come.
There is no bargaining
with Death and his mighty horde.

Whoever lives thus ardently,
relentlessly
both day and night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage.

"'Monks, I will teach you the summary and exposition of one who has had an auspicious day.' Thus it was said, and in reference to this was it said."

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

 


Source: http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn131.html
(Revised: 9 November 1998 )

Bhaddekaratta Sutta:
The Discourse on the Ideal Lover of Solitude translated from the Pali by Bhikkhu Ñanananda © 2005–2010 Alternate translation: Thanissaro

Editor's note: An extensive discussion of this sutta may be found in Ideal Solitude: An Exposition on the Bhaddekaratta Sutta by the translator.

Thus have I heard: At one time the Exalted one was living at Saavatthi in the Jeta Grove, Anaathapi.n.dika's monastery. There he addressed the monks thus: "Monks." "Revered one," the monks answered the Exalted One in assent. The Exalted one spoke thus "Monks, I shall preach to you the summary and the exposition of the Ideal Lover of Solitude. Listen and give attention. I shall speak." "Even so, revered sir," the monks answered the Exalted One in assent. The Exalted One said this:

Let one not trace back the past Or yearn for the future-yet-to-come. That which is past is left behind Unattained is the "yet-to-come." But that which is present he discerns — With insight as and when it comes. The Immovable — the-non-irritable. In that state should the wise one grow Today itself should one bestir Tomorrow death may come — who knows? For no bargain can we strike With Death who has his mighty hosts. But one who dwells thus ardently By day, by night, untiringly Him the Tranquil Sage has called The Ideal Lover of Solitude.

"And how, monks, does one trace back the past? He thinks: 'I was of such form in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such feeling in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such perception in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such formations in the past' and brings delight to bear on them. He thinks: 'I was of such consciousness in the past' and brings delight to bear on it. That is how, monks, one traces back the past.

"And how, monks, does one not trace back the past? He thinks: 'I was of such form in the past' but brings no delight to bear on it. He thinks: 'I was of such feeling... of such perception... of such formations...'... He thinks: 'I was of such consciousness in the past' but brings no delight to bear on it. That is how, monks, one does not trace back the past.

"And how, monks, does one yearn for the future? He thinks: 'I may have such form in the future' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I may have such feeling... such perception... such formations...'... He thinks: 'I may have such consciousness in the future' and brings delight to bear on it. That is how, monks, one yearns for the future.

"And how, monks, does one not yearn for the future? He thinks: 'I may have such form in the future' but brings no delight to bear on it. He thinks: 'I may have such feeling... such perception... such formations...'... He thinks: 'I may have such consciousness in the future' but brings no delight to bear on it. That is how, monks, one does not yearn for the future.

"And how is one drawn into present things? Herein, monks, an uninstructed ordinary man who takes no account of the Noble Ones, is unskilled in the Dhamma of the Noble Ones, untrained in the Dhamma of the Noble Ones, taking no account of the good men, unskilled in the Dhamma of the good men, untrained in the Dhamma of the good men, looks upon form as self, or self as possessed of form, or form as in self, or self as in form. He looks upon feeling as self, or self as possessed of feeling, or feeling as in self, or self as in feeling. He looks upon perception as self, or self as possessed of perception, or perception as in self, or self as in perception. He looks upon formations as self, or self as possessed of formations, or formations as in self, or self as in formations. He looks upon consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how, monks, one is drawn into present things.

"And how, monks, is one not drawn into present things? Herein, monks, an instructed Noble disciple who takes into account the Noble Ones, skilled in the Dhamma of the Noble Ones, trained in the Dhamma of the Noble Ones, taking into account the good men, skilled in the Dhamma of the good men, trained in the Dhamma of the good men, does not look upon form as self, or self as possessed of form, or form as in self, or self as in form. He does not look upon feeling as self... He does not look upon perception as self... He does not look upon formations as self... He does not look upon consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how, monks, one is not drawn into present things.

Let one not trace back the past Or yearn for the future-yet-to-come. That which is past is left behind Unattained is the "yet-to-come." But that which is present he discerns — With insight as and when it comes. The Immovable — the-non-irritable. In that state should the wise one grow Today itself should one bestir Tomorrow death may come — who knows? For no bargain can we strike With Death who has his mighty hosts. But one who dwells thus ardently By day, by night, untiringly Him the Tranquil Sage has called The Ideal Lover of Solitude.

So it was with reference to this that it was said: "Monks, I shall preach to you the summary and the exposition of the Ideal Lover of Solitude."

Thus spoke the Exalted One, Delighted, those monks rejoiced in what the Exalted One had said.

(http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.131.nana.html)


Bài đọc thêm:

ĐỪNG NGHĨ QÚA KHỨ, ĐỪNG NGHĨ TƯƠNG LAI - Cư Sĩ Nguyên Giác







Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/02/2016(Xem: 15934)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.