Tinh thần thiết thực hiện tại trong lời dạy của Đức Phật

21/09/20174:02 SA(Xem: 13163)
Tinh thần thiết thực hiện tại trong lời dạy của Đức Phật
TINH THẦN THIẾT THỰC HIỆN TẠI
TRONG LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT

Thích Chơn Thiện

ducphatthichca_2Một trong những tinh thần giáo dục đặc sắc khác mà Đức Phật truyền dạy là tinh thần “thiết thực hiện tại”, hay tinh thần thực tiễn, thực tế.

Phẩm kinh Cây Lau ghi lại lời dạy của Ngài:

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy sắc thù diệu,
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh lìa gốc.(1)

Kinh A Nan Nhất Dạ Hiền ghi:

Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chinh ở đây…(2)

Với nếp sống của con người thì chỉ có hiện tạitương đối có thực. Sống có nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại, hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tạitinh thần thiết thực. Than thở, tiếc nuối quá khứ hay mơ ước tương lai, chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực mà còn bị vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau, và đánh mất hiện tại đang là, cái hiện tại sống động, mới mẻ đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống. Có thể hiện tại này trở thành vĩnh cữu nếu mình biết nhiếp phục cái tâm chấp thủ ngã tướng.

Nếu không biết tích cực chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đi đến an lạc, hạnh phúcgiải thoát, thì như Đức Phật đã dạy, dung sắc của mình sẽ khô héo nhanh chóng như cây lau xanh lìa gốc. Hạnh phúc của đời mình cũng héo khô như thế.

Chúng ta sẽ thấy rằng phần lớn các rối loạn, sầu muộn của tuổi trẻ, của người lớn đều do tư duy của họ gây ra, nhất là những tư duy về quá khứ không thiết thực, về những tương lai hão huyền.

Quan sát đời sống cá nhân, có thể phát biểu rằng 90% cuộc sống của mình bị đánh mất bởi các tư duymộng tưởng sai lầm ấy.

Thật là dễ hiểu, những sự kiện không vừa ý xảy đến với mình gây phiền muộn cho mình thì ít, mà tư duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy, phiền hà mình thì nhiều.

Vả lại, nghĩ nhiều về quá khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời giannăng lượng đáng lẽ được dùng vào việc lợi mình và ích người.

Như thế, “hiện tại”, và “tại đây” như là hòn đảo an toànĐức Phật đã chỉ cho con người nương tựa, để khỏi bị rơi chìm vào trong đại dương phiền muộn của vọng tưởng, để từ đó có thể đi vào nghĩa sống hạnh phúc mà nghìn thu con người tìm kiếm.

Sau khi trở về với hiện tại, con người phải biết làm chủ tư duydục vọng (phần giải thích rộng rãi của Tôn giả Ca Chiên Diên) để được lợi ích thiết thực.

Chàng trai Màlunkyaputta, trong Trung Bộ II (kinh Cùla Màlunkyaputtasuttam)  và trong kinh Tiểu dụ (Hán tạng: Đại 1.917) đặt mười câu hỏi siêu hình với Đức Phật: Thế giới là thường? Vô thường?… Như Lai sẽ tồn tại sau khi chết? v.v……

Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói cho Màlunkyaputta nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẫu để giải độc ngay, chứ không phải là vấn đề tìm hiểu ngọn ngành mũi tên, người bắn mũi tên… trước khi chịu giải phẫu. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên khổ đau, chứ không phải là đi tìm câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực kia.

Đức Phật đã từng dạy trong Tương Ưng V, và nhiều kinh khác: “Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những gì mà Như Lai thuyết giảng thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đấy là những phương thuốc trừ khổ”.

Đấy là tính chất thực tiễn.

Nói về hạnh phúc đời sống gia đình, Đức Phật chỉ dạy những bổn phận và những việc phải làm cụ thể, mà không chỉ cho hàng đệ tử đi vào cầu nguyện, cúng lễ. Ngài đã dạy tế đàný nghĩabố thí, giúp đỡ tha nhân, và tế đàný nghĩa hơn hết là tu tập Giới, Định, Tuệ của chính tự thân, (Trường Bộ I; Tăng Chi IV, tr 39; Tăng Chi II, phẩm Bổn pháp).

Lời dạy của Đức Phật xuất phát từ yêu cầu thực tế của con người, đó là chỉ ra con đường, phương cách để giải quyết nỗi khổ đau và có hạnh phúc ngay trong đời sống bây giờ và tại đây. Con đường đó xuất phát từ tự thân, do giữ giới, thiền định chứ không phải do cầu nguyện và cúng lễ, nhờ ân huệ của một đấng thần linh nào đó. Lời dạy của Ngài qua hơn 25 thế kỷ ảnh hưởng đã đóng góp nhiều vào văn hóa nhân loại. Sự kiện đóng góp này soi tỏ Phật giáo là một nếp sống tâm linh không giáo điều và mang tính thiết thực, đầy trí tuệ.

(1) Tương Ưng I, Hán tạng, tập 36.3; Đại 2.260c; Biệt tập 8.1 , Đại 2.

(2) Trung Bộ III, Hán tạng: Trung A Hàm số 167.





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/02/2016(Xem: 15934)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.