Tọa thiền dụng tâm

08/12/20162:18 CH(Xem: 10645)
Tọa thiền dụng tâm ký
TỌA THIỀN DỤNG TÂM
Viên Minh Quốc Sư 
Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch

Phàm tọa thiền thẳng khiến người mở sáng Tâm địa, an trụ chỗ bổn phận. Chỗ ấy gọi là “Bản Lai Diện Mục” (Mặt thật xưa nay), cũng gọi là “Bản địa phong quang” (chỗ đất mát mẻ sáng suốt).
 
Thân tâm đều quên mất, ngồi nằm đều xa lìa. Cho nên không nghĩ thiện, không nghĩ ác, siêu cả Phàm – Thánh, vượt khỏi xét bàn của Mê Ngộ, rời bỏ mé Phật và Chúng Sinh. Thế nên, bỏ hết muôn việc, buông sạch các duyên, tất cả không làm, sáu căn không tạo tác. Cái ấy là cái gì?

Chưa từng biết tên, không phải Thân, không phải Tâm, muốn suy nghĩ thì suy nghĩ bặt, muốn nói năng thì nói năng cùng, như ngu như ngây, núi cao không bày đảnh, biển sâu không thấy đáy. Mắt sáng ngó xuyên cả mây, không suy nghĩ mà thông, biết khắp mà không nói, ngồi trong trời đất riêng bày toàn thân, không phải chỗ suy tính của Đại Nhơn, lặng lẽ tợ hồ người chết. Không có cái gì che lấp được mắt, không một mảy bụi dính được chân, thì chỗ nào có bụi bặm? Vật gì làm chướng ngại? 
 
Nước trong không có trên dưới, hư không không có trong ngoài, trong trẻo sáng suốt, tự chiếu Thần diệu, sắc không chưa phân, cảnh trí đâu lập, từ xưa đến nay chung ở đã nhiều kiếp mà không có tên. Đức tam tổ gọi là Tâm, Ngài Long Thọ gọi là Thân.
 
Nó biểu hiện Tánh, Tướng và thể của chư Phật. Cái tròn sáng như mặt trăng này không thiếu khuyết, không dư thừa. Tức cái Tâm này là Phật, tự tình chiếu thấu, xưa suốt nay, được cái biến tướng của ngài Long Thọ, thành Tam muội của chư Phật. 
 
Tâm vốn không hai tướng, thân lại có hình tướng khác. Duy Tâm hay duy thân, tuy nói khác mà đồng. Tâm biến thành Thân, thân hiện bày tướng phần của Tâm. Một lượng sóng vừa khởi muôn lượng sóng tiếp dậy, Tâm thức vừa khởi muôn pháp đua nhau sinh. Bởi thế, tứ đại ngũ uẩn hòa hợp, tứ chi ngũ căn hiện thành, cho đến 36 vật, 12 nhơn duyên tạo tác đổi dời lần lượt tiếp nối, chỉ do các pháp hợp thành mà có. 
 
Sở dĩ Tâm như biển nước, thân như sóng mòi, ngoài biển nước không có một lượng sóng, ngoài sóng mòi không có một giọt nước. Nước và sóng không riêng, động và tịnh không khác. Cho nên nói “Chết sống xưa nay, người chơn thật thân tứ ngũ uẩn không tan hoại”
 
Nay tọa thiền vào biển Phật tánh, tức là nêu bày cái thể của chư Phật, cái diệu tịnh minh Tâm sẳn có được hiện tiền. Một phần sáng suốt xưa nay được hoàn toàn viên chiếu. Biển nước không thêm bớt, sóng mòi cũng không lui sụt. Chư Phật vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời là thẳng chỉ chúng sinh mở bày ngộ nhập tri kiến của Phật.
 
Cái diệu thuật để được tri kiến của Phật là tọa thiền. Tọa thiền tức là cái Tam muội chư Phật tự thọ dụng, cũng gọi là Tam muội vua Tam muội. Nếu một khi an trụ trong Tam muội này liền mở sáng Tâm địa, khéo biết cửa chánh vào Phật đạo.
 
Người muốn mở sáng Tâm địa phải buông bỏ những cái hiểu biết tạp nhạp, ném quăng cả thế phápPhật pháp, chặt đứt tất cả các vọng tình, hiện thành một Tâm chơn thật, mây mê mờ quét sạch thì mặt trăng Tâm mới sáng soi. 
 
Phật nói: Nghe (văn), suy nghĩ (tư duy) như ở ngoài cửa, tọa thiền chính là trở về ngồi an ổn trong nhà. Thật vậy, nếu nghe suy nghĩ các kiến giải chưa dứt, tâm địa còn ràng buột, cho nên như ở ngoài cửa; chỉ có tọa thiền bỏ hết tất cả không còn chổ nào chẳng thông, nên người trở về ngồi an ổn trong nhà.
 
Ngũ cái phiền não là từ vô minh khởi, vô minh không rõ biết mình, mà tọa thiền là rõ biết mình. Mặc dù đoạn ngũ cái mà chưa đoạn, vô minh không phải là Phật Tổ; nếu đoạn vô minh, tu tập tọa thiềnbí quyết. Cổ Nhân nói: “Vọng dứt thì Tịch sanh, tịch sanh thì Trí hiện, Trí hiện là thấy Chơn”. Nếu muốn diệt tận vọng tâm, phải thôi nghĩ thiện ác, lại các công việc đều buông bỏ hết, Tâm không nghĩ, Thân không việc, ấy là chỗ Dụng Tâm bậc nhất vậy.
 
Khi các vọng duyên hết thì vọng tâm cũng theo đó mà diệt. Vọng tâm nếu diệt thì cái thể bất biến hiện bày, rõ ràng thường biết, không phải pháp tịch diệt, không phải pháp động tác. Song các thứ kỹ nghệ, pháp thuật, thuốc thang, bói tướng đều phải xa lìa, huống là những việc ca múa, kỷ nhạc, tranh cãi, cười giởn, danh tướng lợi dưỡng ắt không nên gần. Những thứ văn thơ thi phú, tuy nó là nhơn duyên tịnh tâm, nhưng chớ ham tạo tác. Văn chương bút nghiêng đều ném đi không dùng. Ấy là cái oai lối bậc nhất của người hành đạo, là pháp thiết yếu của người điều Tâm.
 
Y phục đẹp và dơ đều không nên mặc. Mặc y phục đẹp thì sinh tham, lại sợ trộm cướp, cho nên là chướng nạn của người hành đạo. Nếu đủ nhơn duyên có, hoặc được người cúng dường mà không thọ dụng, đó là cái nét đẹp của xưa nay. Giả sử đã sẳn có thì chớ quan tâm, trộm cướp có lấy cũng không tìm kiếm hối tiếc
 
Y phục dơ và cũ phải giặt sạch và lành rồi sẽ mặc, không giặt sạch đất mồ hôi đồng mà mặc, thì thân phát bệnh lạnh, lại là nhơn duyên chướng đạo. Tuy nhiên không cầu thân mạng, nhưng mặc không đủ, ăn không đủ, ngủ không đủ, ba việc ấy không đủ, đều là nhân duyên lui sụt.
 
Tất cả thức ăn vật sống, vật cứng, vật tổn hại, vật ô uế đều không nên ăn; nếu ăn ruột kêu, thân tâm nóng nảy, ngồi thiền bứt rứt. Tất cả thức ăn ngon không nên ưa thích, không những thân tâm phiền loạn, mà lại niệm tham khó dứt. Ăn chỉ để sống không nên đắm mê mùi vị. Nếu ăn no ngồi thiềnnhơn duyên phát bệnh. 
 
Sau bữa ăn không nên ngồi liền, đợi qua một lúc rồi sẽ ngồi. Phàm tỳ kheo ắt phải ăn có chừng mực tiết độ. Ăn có chừng mực tiết độ là ăn có phần hạn. Trong ba phần chỉ ăn hai phần còn dư một phần. Tất cả thuốc phong, bột mài v.v… nên thường uống. Đó là yếu thuật điều thân vậy.
 
Khi tọa thiền không nên nương tựa tường, vách, ghế và đồ ngăn che, lại không nên ngồi chỗ gió mạnh, chỗ cao trống, các thứ đó đều là nhơn duyên phát bệnh. 
 
Nếu khi ngồi, thân hoặc như nóng, lạnh, nhám, trơn, cứng, mềm, nặng, nhẹ hoặc biết kinh sợ đều là do hơi thở không điều hòa. Phương pháp điều hòa hơi thở, tạm hả miệng ra tùy hơi thở dài cho ra dài, hơi thở ngắn cho ra ngắn, dần dần điều nó, hơi hơi theo nó, khi những cái xúc chạm đến tự nhiên điều hòa, xong rồi lỗ mũi thong thả thở.
 
Nếu tâm hoặc như trầm, phù, mê, lạnh, hoặc trông thấy ngoài thất, hoặc thấy trong thân, hoặc thấy thân Phật, thân Bồ tát, hoặc khởi hiểu biết, hoặc rành rõ kinh luận, những thứ kỳ dị, những tướng lạ lùng v.v…thảy đều là bệnh do niệm và hơi thở không điều hòa. 
 
Nếu khi bị bệnh, ngồi an tâm trên hai bàn chân. Nếu khi tâm hôn trầm, an tâm trên mé tóc, hoặc giữa chặn mày. Nếu khi tán loạn, an tâm tại chót mũi, hoặc tại đan điền. Lúc tọa thiền bình thường thì an tâm trong lòng bàn tay trái. Nếu tọa thiền đã thuần thục không cần an tâm mà tâm vẫn không tán loạn.
 
Lại những loại sách gia huấn của cổ nhân tuy chiếu sáng lòng người, nhưng không nên xem nhiều, đọc sách và học nhiều đều là nhơn duyên loạn tâm.
 
Phàm khi thân tâm nhọc nhằn mệt mỏi đều là nhơn duyên phát bệnh. Chỗ nạn lửa, nạn nước, nạn gió, nạn giặc và bên mé biển, quán rượu, bên lầu xanh, chỗ đàn bà góa, bên kỷ nhạc đều chớ nên ngồi. Quốc vương, đại thần, nhà quyền thế, người đa dục, người danh vọng, người cải giởn cũng không nên gần. 
 
Phật sự lớn, kinh doanh to tuy là rất thiện, người chuyên tọa thiền cũng không nên làm. Không nên ưa thuyết pháp giáo hóa, vì tán tâm loạn miệng từ đó mà sinh. Không nên ưa đông người, tham đệ tử, không được làm việc nhiều, học nhiều. Chỗ rất sáng, rất tối, rất lạnh, rất nóng, cho đến chỗ người dạo chơi, giởn hớt đều không nên ngồi. Trong Tòng lâm, chỗ thiện tri thức, núi sâu, hang thẳm nên dừng ở. Mé nước núi xanh là chỗ kinh hành. Bên dòng suối, cội cây là chỗ lóng tâm. 

 
Hằng quán vô thườngnhơn duyên kích phát đạo tâm. Nệm ngồi dày, trải ngồi mới yên ổn. Đạo tràng phải thanh khiết, thường thắp hương cúng hoa thì Hộ pháp, Thiện thần, Phật, Bồ Tát ảnh hưởng gia hộ. Nếu thờ tượng Phật, Bồ tát, La hán thì tất cả ma quỷ không dám phá hoại. Thường trụ Tâm nơi đại từ, đại bi, công đức tọa thiền vô lượng hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Chớ sinh cao mạn, ngã mạn, pháp mạn, đó là pháp của ngoại đạo phàm phu.
 
Nghĩ thệ đoạn phiền não và thệ chứng Bồ đề. Chỉ quan hệ khi ngồi tất cả đều không nghĩ, ấy là yếu thuật tham thiền.
 
Thường nên rửa mắt, và rửa chân, thân tâm an tịnh, oai nghi tề chỉnh. Nên bỏ thế tình, cũng đừng chấp đạo tình. Tuy không bỏn xẻn giáo pháp, mà không thỉnh thì chớ nói. Giữ 3 lần thỉnh, bốn lần từ, mười lần muốn nói, chín lần thôi. Khóe miệng lên, meo như chiếc quạt mùa đông, như cái linh treo trên hư không mặc tình gió bốn phương thổi. Đó là tác phong của kẻ đạo nhơn vậy. Chỉ lấy pháp mà không tham người, dụng đạo mà không cống cao mình, ấy là chỗ dụng tâm bậc nhất.
 
Tọa thiền không can dự đến Giáo, Hành, Chứng, mà gồm cả ba đức này. Chứng là lấy Giác ngộ làm qui tắc, không phải tâm tọa thiền. Giáo là đoạn ác tu thiện cũng không phải tâm tọa thiền. Trong thiện tuy có lập giáo mà không phải giáo lý thường. Nghĩa là chỉ thẳng, truyền đạo riêng, hết thảy toàn nói câu thoại đầu, nói không có chương cú, chỗ ý tận lý cùng. Một lời nói trùm hết mười phương, không mảy may nào chưa bày hiện. Thế thì, không phải giáo lý chơn chánh của Phật Tổ sao? 

Hoặc tuy nói Hành lại là cái hành vô vi. Nghĩa là thân không làm, miệng không thầm tụng, tâm không suy xét, sáu căn tự thanh tịnh, tất cả không ô nhiểm, không phải 16 hạnh của Thanh văn, không phải 12 hạnh của Duyên Giác, không phải lục độ vạn hạnh của Bồ tát, tất cả không làm, cho nên gọi là Phật. 
 
Chỉ an trụ trong Tam muội chư Phật tự thọ dụng, rong chơi bốn hạnh an lạc của Bồ tát, đâu không phải cái hành thâm diệu của Phật Tổ ư? Hoặc tuy nói chứng, không chứng mà chứng, là Tam muội vua của Tam muội, Tam muội nhất thiết trí, tự nhiên trí phát hiện, là cửa sáng mở trí huệ của Như lai, là pháp môn phát xuất hạnh đại an lạc, vượt khỏi cách thức Thánh và phàm, ra ngoài sự xét lường mê ngộ, đâu không phải chứng cái Bản hữu Đại giác sao?
 
Tọa thiền không can dự đến Giới, Định, Huệ, mà gồm cả ba môn học này. Giới là ngừa quấy ngăn ác. Tọa thiền toàn thể không hai, buông hết muôn việc, thôi bỏ các duyên, không quan tâm đến Phật phápthế pháp, sự quyến luyến của đạo tình và thế tình đều quên sạch, không phải quấy, không thiện ác; đâu còn có cái gì nữa mà phải ngăn ngừa? đây là giới tâm địa vô tướng vậy. Định là do quán tưởng
 
Tọa thiền thì quên cả thân tâm, xa lìa mê ngộ, như ngu như ngây, như núi như biển, hai tướng động và tịnh hoàn toàn không sinh, định mà không có tướng định, không có tướng định nên gọi là Đại định. Huệ là giản trạch hiểu biết

Tọa thiền thì tự diệt cái hiểu biết, hằng quên tâm thức, không có sự giản trạch của huệ nhãn và sự giác tri của thông thân, thấy rõ Phật tánh không mê lầm, ngồi dứt ý căn liền được rỗng rang thấu suốt, ấy là huệ mà không có tướng huệ, không có tướng huệ nên gọi là Đại Huệ
 
Những giáo pháp một đời đức Phật nói đều thu gom trong Giới Định Huệ; nay tọa thiền không Giới nào mà không (chẳng) giữ, không Định nào mà chẳng tu, không Huệ nào mà chẳng thông. Hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn đều nương thần lực tọa thiền. Thần thông diệu dụng, phóng quang, thuyết pháp trọn do Tọa thiền vậy.
 
Muốn tọa thiền trước nên chọn chỗ yên tịnh, đệm hoặc nệm lót ngồi phải dày trải ở chỗ không có gió khói vào và mưa mù lọt vô, gìn giữ bao bọc hai đầu gối, chỗ ngồi phải thanh khiết. Tuy xưa có vị ngồi tòa kim cang hay trên bàn thạch, nhưng đều có vật lót ngồi. 
 
Chỗ tọa thiền nên ban ngày không sáng lắm, ban đêm không tối lắm, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát, ấy là diệu thuật vậy. Buông bỏ tâm ý thức, dứt hết niệm tướng quán, chớ mong làm Phật, đừng nghĩ thị phi, khéo gìn giữ quý tiếc ngày giờ như cứu lửa cháy đầu. Đức Đạt Ma ngồi xây mặt vào vách tại chùa Thiếu lâm kết thành một khối không việc gì khác. Ngài Thạch Sương toan làm cây khô bị Thái Bạch trách là ngủ. Không dùng lễ bái, thắp hương, niệm Phật, tu sám, xem kinh trì tụng, chỉ chú trọng tọa thiền là đủ.
 
Đại để khi tọa thiền nên mặc ca sa, bồ đoàn không phải trùm hết bàn ngồi, mà chỉ phân nữa ở sau xương cùng và cái mông, đó là pháp Phật Tổ đã ngồi. Hoặc ngồi bán già hoặc ngồi toàn già. Cách ngồi toàn già, trước kéo chân mặt để lên đùi trái, kéo chân trái để lên đùi mặt, nới rộng dây lưng cổ áo, gìn giữ cho tề chỉnh. Kế lấy tay mặt để lên bàn chân trái, tay trái để lên bàn chân mặt, hai đầu ngón tay cái ngay nhau và tay sát vào thân, chỗ đối đầu hai ngón tay cái ngay rún. 
 
Ngồi thân ngay thẳng không được nghiêng bên trái hay bên phải và cong tới trước hay ển lại sau. Lỗ tai và bả vai, chót mũi và rún nhất định ngay nhau. Lưỡi cuốn lên ổ gà, hơi thở thông hai lỗ mũi, môi và răng vừa khít, mắt nên mở rõ không to, không hiếp lại. Như thế điều thân rồi, kế đến điều hơi thở, phải hả miệng thở một vài lần. Kế ngồi yên, chuyển thân bảy tám lần, từ thô đến tế ngay thẳng mà ngồi. 
 
Bấy giờ suy nghĩ cái tột cùng không suy nghĩ. Suy nghĩ thế nào? Nghĩa là không suy nghĩ, đó là yếu pháp tọa thiền. thẳng phá dẹp phiền nảo thân chứng Bồ đề.
 
Nếu muốn xuất định, trước lấy hai bàn tay vẫn để ngửa để lên hai đầu gối, động thân bảy tám lần từ tế đến thô, hả miệng thở hơi, duỗi hai tay chống đất, nhẹ nhẹ đứng dậy, bước đi chậm chậm, nên chuyển phía thuận và đi theo phía thuận.
 
Trong lúc ngồi, nếu có hôn trầm đến, thường nên động thân, hoặc mở mắt to, hoặc an tâm trên đảnh, nơi mé tóc, giữa chặn mày. Nếu chưa tĩnh lấy tay xoa áp vào hai mắt, hoặc xoa khắp thân; vẫn chưa tĩnh, thì đứng dậy đi kinh hành khoảng trăm bước hôn trầm ắt phải tĩnh. Phương pháp đi kinh hành, một hơi hít vô thở ra bước một bước, đi như mà không đi, vắng lặng không động. 
 
Đi kinh hành như thế, nếu chưa tĩnh, lấy nước rửa hai con mắt và vỗ trên đảnh, hoặc tụng Bồ tát giới tự, hoặc dùng các phương tiện cho hết buồn ngủ. Phải quán sự sinh tửtrọng đại, vô thường mau gấp, đạo nhãn chưa sáng ngủ nghĩ làm gì? Hôn trầm vừa đến nên phát nguyện “nghiệp tập đã dày nên nay bị hôn trầm che đậy, mờ mịt này đến bao giờ tĩnh? Nguyện Phật Tổ duổi lòng Đại bi nhổ cái khổ mê muội nặng nề cho con”. 

Nếu khi tâm tán loạn, an tâm nơi chót mũi và đan điền, đếm hơi thở ra vào. Vẫn còn chưa hết, đề khởi chiếu cố công án. “như ấy vật gì ở đâu đến”, “con chó không có Phật tánh”, “hòn núi tu di ở Vân môn”, “cây Bá của Triệu Châu”.v.v…không cần thấm nhuần hương vị của câu nói, thế là thích hợp. Vẫn còn tán loạn, tưởng mình khi tắt thở, hai mắt nhắm nghiền, người cứng đờ, lấy đó làm công phu tọa thiền. Hoặc tưởng khi trong bào thai chưa sinh, trước khi chưa khởi một niệm, lấy đó làm công phu thực tập. Hai cái không này được sinh thì tán loạn ắt dứt.
 
Sau khi xuất định, không để ý mà vẫn hiện oai nghi, thực vậy tức thành công án; không cố tâm xoay lại mà thành tu chứng, công án được thành; đó là tin tức báo điềm trước, là nhơn duyên bờ mé kia của không kiếp, cái then chốt thiết yếu máy linh của Phật Tổ chỉ một việc này.
 
Cần phải thôi đi, dứt đi, mát lạnh rười rượi đi, một niệm ngàn năm đi, tro lạnh cây khô đi, lò hương miếu cổ đi, một cành trăm uốn đi. Rất mong! Rất mong!
 
Viên Minh Quốc Sư
Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/05/2011(Xem: 104521)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.