TIN SÂU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Tác Giả: Thích Tâm Hải
Lời nói đầu
Kinh Pháp Hoa dạy, đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên lớn “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
Chính vì thế, sau khi thành Phật, bằng tất cả tấm lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Ngài đã chu du khắp nước Ấn Độ để hoằng hóa độ sinh. Chỉ với mục đích là làm sao đưa hết thảy chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ vô minh trở về với đời sống đầy an lạc và giải thoát.
Tuy nhiên, trên bước đường hoằng hóa độ sinh đó, đức Phật đã nhận thấy rằng chúng sinh đời mạt pháp căn tánh không đồng, có kẻ thì căn tánh thượng, có kẻ thì căn tánh trung, có kẻ thì căn tánh hạ. Cho nên, đức Phật không chỉ dùng một phương tiện mà phải dùng vô số phương tiện để nhiếp hết thảy chúng sinh trở về với Phật tánh. Tuy có vô số phương tiện nhưng duy nhất chỉ có một vị giải thoát mà thôi, cũng giống như nước trong bốn biển tuy nhiều nhưng duy nhất chỉ có một vị mặn.
Pháp của đức Phật cũng giống
như một trận mưa lớn xuống trần gian, tùy theo mỗi loại thích ứng tiếp nhận
lượng nước của mình mà nuôi sống.
Hôm nay, là thời kỳ mạt pháp, với cách nhìn khách quan của mọi người, đại đa số
chư Tăng, chư Ni và toàn thể tín đồ Phật tử ưa chuộng Pháp môn Tịnh độ. Chắc có
lẽ Pháp môn Tịnh độ hợp thời và hợp căn cơ sao? Đúng vậy, Tịnh độ tông không
chỉ dành riêng cho bậc hạ căn mà còn thâu nhiếp bậc trung, thượng căn nữa. Vì
vậy, trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi cũng nói:
- Chúng sinh ở thời Chánh pháp, tu
Giới luật dễ thành tựu.
- Chúng sinh ở thời tượng pháp, tu Thiền định dễ thành tựu.
- Chúng sinh ở thời mạt pháp, tu Tịnh độ dễ thành tựu.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, phẩm thứ sáu, đức Bồ tát Quán Thế Âm nói rằng: “Đức Thích Ca trọn đời giáo hóa điều phục chúng sinh đã ban bố tám vạn bốn nghìn pháp môn tu tập nhưng trong đó niệm Phật là thù thắng đệ nhất”.
Sự thù thắng và phổ cập của Pháp môn Tịnh độ cho quảng đại quần chúng ngoài sự giới thiệu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tiếp theo còn có các vị Bồ tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sinh về Tây phương Cực lạc như ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư cả Thiền lẫn Tịnh như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, đều là những vị Thiền sư nổi tiếng bên Thiền tông, sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sinh.
Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, Tổ thứ ba của Thiền Pháp Nhãn cũng là Tổ thứ sáu của tông Tịnh độ đã nói:
“Hữu
Thiền hữu Tịnh độ
Du như đới giác hổ
Hiện thế vi nhân sư
Lai sinh tác Phật Tổ”
Nghĩa là:
“Có
Thiền có Tịnh độ
Như hổ mọc thêm sừng
Hiện đời thầy trời người
Vị lai làm Phật Tổ”.
Chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ cực lực xiển dương Pháp môn Tịnh độ. Với sự lợi lạc thật lớn lao này, chúng tôi cũng không ngại gì với tài mọn, đức kém của mình, để viết lên đây cuốn sách với tựa đề: “Tin sâu Pháp môn Tịnh độ”, chỉ với tâm nguyện là đem lại lợi lạc cho mọi người, chứ không có ý cao ngạo, ngã mạn gì cả.
Đây là cuốn sách đầu tiên, chúng tôi không sao tránh khỏi những sai lầm trong lối hành văn. Nếu có, kính mong chư Hòa thượng, chư Thượng tọa, các thân giáo sư, các vị học giả góp ý dạy bảo để cho cuốn sách ra đời được tốt đẹp hơn.
Mùa An cư kiết hạ PL. 2547
Tâm Hải cẩn chí
Lời giới thiệu
Kính thưa quý vị!
Đề tài mà chúng tôi có duyên được trình bày cùng quý vị hôm nay
thuộc một lãnh vực rất phổ thông, song cũng rất quan trọng, bởi vì nó liên hệ
đến rất nhiều người theo đạo Phật. Đó là Pháp môn Tịnh độ, một pháp môn mà hầu
hết các Phật tử đều quen biết. Đúng vậy, từ khi đạo Phật du nhập vào nước ta
đến nay đã trải qua biết bao nhiêu sự thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử. Đứng
trước sự kinh hoàng đầy cay đắng đó Phật giáo Việt Nam vẫn mãi là một cây cổ
thụ đứng vững để che mát cho nhân loại mà không hề bị tàn lụi. Dù trong mọi
hoàn cảnh nào, Phật giáo Việt Nam luôn luôn sát cánh với dân tộc, hòa nhập với
dân tộc như nước với sữa, thật là đúng như mấy câu thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh:
“Trang
sử Phật,
Đồng thời là trang sử Việt,
Trải bao độ hưng suy,
Có nguy mà chẳng mất”.
Và đây, Pháp môn Tịnh độ, cũng vậy, như một dòng suối trong lành,
mát dịu cứ mãi tuôn chảy vỗ về đến từng trái tim son của người dân Việt Nam mà
không hề ngưng nghỉ. Chắc có lẽ Pháp môn Tịnh độ đã trở thành một nguồn sống
tinh thần ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân Việt Nam chúng ta.
Thậm chí, từ những em nhỏ cho đến những cụ già vẫn thường nở trên
môi câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Không chỉ vậy, bây giờ câu niệm Phật đã trở
thành một ngôn ngữ giao tiếp và cũng là món quà dễ mến cho toàn thể chư Tăng Ni
và tín đồ Phật tử.
Thật phải nói, Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế
hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn
này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay
trong một đời.
Đức Phật quán thấy chúng sinh đời mạt pháp đa số là những hàng hạ
căn, đầy dẫy phiền não, phước mỏng nghiệp dày. Vì lòng bi mẫn, Ngài đã thương
tưởng đến chúng sinh, với lòng từ bi vô hạn, đức Phật đã giới thiệu một cảnh
giới Tịnh độ của Phật A Di Đà, để cho chúng sinh nương nơi tha lực bản nguyện
của Phật A Di Đà mà được vãng sinh.
Pháp môn Tịnh độ được hình thành trong ba bộ kinh Tịnh độ:
1. Phật Thuyết A Di Đà Kinh
2. Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh
3. Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh
Bộ kinh Tịnh độ này được hình thành tại Ấn Độ do đức Phật Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni nói ra chứ không phải do một ông Thần ông Thánh nào nói cả.
Những ai đã theo và đang theo Pháp môn Tịnh độ, tin sâu, nguyện thiết, hành
chuyên pháp môn này thì hãy lắng nghe đức Thế Tôn dạy: “Vô lượng Bồ tát ở mười
phương thế giới muốn nghe thuyết về Pháp môn Tịnh độ mà không được toại nguyện.
Giả sử khắp tam thiên đại thiên thế giới bị nạn hỏa thiêu, nếu ai được nghe
giảng về Pháp môn Tịnh độ mà phải băng qua miền lửa cháy thì cũng cố nên vượt
qua để được nghe diệu pháp này”.
Lời Phật đã dạy như vậy, đủ chứng tỏ giá trị siêu việt của Pháp
môn Tịnh độ hay pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc cao tột đến mức
độ nào.
Tiểu sử Phật A Di Đà
A Di Đà là phiên âm từ chữ Phạn Amitabha, nghĩa là ánh sáng vô
lượng (vô lượng quang), sống lâu vô lượng (vô lượng thọ). Sở dĩ chữ “A Di Đà”
không dịch nghĩa mà chỉ phiên âm, vì theo Huyền Trang Tam Tạng Pháp sư, có năm
loại danh từ không dịch nghĩa (ngũ chủng bất phiên):
1- Danh từ bí mật.
2- Danh từ nhiều nghĩa.
3- Danh từ không có ở Trung Quốc.
4- Danh từ đã có dịch từ xưa.
5- Danh từ khiến người tôn kính.
Vì Amitabha là danh từ nhiều nghĩa, bí mật và được người đời tôn
kính nên không dịch. Trong kinh Tiểu Bản A Di Đà, đức Phật Thích Ca dạy: “Này
Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Phật kia vì sao tên gọi A Di Đà? Xá Lợi Phất! Phật
kia có ánh sáng vô lượng chiếu khắp cõi nước trong mười phương không chướng
ngại, nên gọi A Di Đà. Lại nữa Xá Lợi Phất! Phật kia cùng nhân dân sống lâu vô
lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên gọi A Di Đà!”.
Phật A Di Đà tượng trưng cho Phật tánh chúng sinh, vì tánh ấy vô
thỉ đến nay chưa hề sinh diệt, nên đồng nghĩa sống lâu vô lượng. Tánh ấy trùm
khắp mười phương, tuyệt nhiên yên lặng, chiếu sáng thời thời, nên đồng nghĩa
ánh sáng vô lượng. Tóm lại, về tướng mà nói, Phật A Di Đà là vị giáo chủ của
cõi Cực lạc Tây phương, hiện đang thuyết pháp; trên tánh mà bàn, A Di Đà chính
là Phật tánh tất cả chúng sinh. Thường sống với Phật tánh chính là Đạo, là trở
về với cái vô sanh, bất diệt. Từ vô lượng kiếp Phật A Di Đà thực hành Bồ tát
hạnh, trang nghiêm diệu độ.
Rải rác trong các kinh, đức Phật Thích Ca thường nói đến điều này.
Như kinh Pháp Hoa kể, vào thời Như Lai Đại Thông Trí Thắng hóa đạo, lúc ấy có
16 vị vương tử xuất gia, ưa giảng nói kinh Pháp Hoa, về sau đều thành Phật.
Vương tử thứ chín hiện là Phật A Di Đà, vương tử thứ 16 chính là đức Phật Thích
Ca.
Kinh Bi Hoa ghi, thuở xưa, có vua Vô Tránh Niệm và đại thần Bảo
Hải, đồng đối trước Như Lai Bảo Tạng, phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Chuyển luân Vô
Tránh Niệm phát nguyện: “Khi thành Phật, tôi nguyện ở nơi thế giới An Lạc,
thanh tịnh, luôn nhiếp thọ chúng sinh trong mười phương thế giới”. Đại thần Bảo
Hải nguyện: “Khi thành Phật, tôi nguyện ở vào thế giới năm trược (kiếp trược,
kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược) để độ chúng sinh
thoát khổ não”. Vua Vô Tránh Niệm ngày đó giờ là Phật A Di Đà, đại thần Bảo Hải
chính là Phật Thích Ca. Hai vị tuy đồng đại nguyện nhiếp độ chúng sinh, nhưng
một vị chỉ ra cõi khổ để chúng sinh nhàm chán, một vị bày mở cõi vui để khuyến
dụ chúng sinh về.
Lại nữa, kinh Cổ Âm Vương viết, thời quá khứ, trong nước Diệu Hỷ,
có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca, ông nội là quốc vương Thanh Thới, cha là
Chuyển Luân vương Nguyệt Thương, mẹ Thù Thắng Diệu Nhan, sinh ra ba quý tử: con
cả tên Nguyệt Minh, con thứ tên Kiều Thi Ca và con út là Đế Chúng. Lúc ấy, có
Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai ra đời, Kiều Thi Ca bèn bỏ ngôi vua, theo Phật
xuất gia, hiệu là Tỳ kheo Pháp Tạng. Một lần, Pháp Tạng tuyên phát bốn mươi tám
nguyện hóa độ chúng sinh, thề nếu không thành, quyết không giữ ngôi Chánh giác.
Khi ấy, mười nghìn thế giới chấn động mạnh, giữa không trung phát ra lời ngợi
khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ngài nhất định sẽ thành Phật!”.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, thuở Phật Thế Tự Tại Vương còn trụ thế,
có vị quốc vương nghe Phật nói pháp, lòng thường vui vẻ, phát tâm Bồ-đề, thôi
làm vua, xuất gia thành Sa môn, hiệu Pháp Tạng. Ngài thông kinh điển, tài đức
vượt hơn người. Phật Thế Tự Tại Vương, theo bản nguyện của Ngài, dạy cho cách
trang nghiêm diệu độ. Về sau, Ngài thành Phật, hiệu A Di Đà, hiện là giáo chủ
cõi Cực lạc Tây phương.
Phát nguyện nhân duyên
1. Lòng đại từ
Tỳ kheo Pháp Tạng khi rời cung vua, phát tâm Vô thượng, tự
nghĩ rằng: “Chúng sinh trong mười phương, muôn đời chịu khổ, không bao giờ
dừng”. Ngài khởi đại bi, muốn lập một Tịnh độ, tiếp dẫn chúng sinh về đó tiến
tu. Bèn đến bạch với Thế Tự Tại Vương Như Lai rằng: “Nay con phát tâm Vô
thượng, muốn cứu khổ muôn loài, xin hãy vì con chỉ bày cách thực hành, trang
nghiêm diệu độ, nhanh chóng viên mãn Bồ-đề, nhổ bật gốc rễ đau khổ cho chúng
sinh”.
Phật Thế Tự Tại Vương biết Pháp Tạng có lòng đại bi vô lượng, nên
nhân đó dạy: “Như có biển lớn, một người muốn tìm của báu, bèn dùng đấu để
lường, nhiều kiếp đi qua, biển có thể cạn. Nay ngươi có lòng đại nguyện muốn
cứu khổ chúng sinh, ta sẽ vì ngươi, tuyên bày giảng nói!”. Xong, bèn dùng thần
lực, hiện ra 200 ức quốc độ của chư Phật. Pháp Tạng thấy vậy, mừng rỡ vô cùng.
2. Quyết tâm tu hành
Sau khi nghe Phật Thế Tự Tại Vương giảng bày về các quốc độ thanh
tịnh, Pháp Tạng ghi nhớ, tâm vô cùng tịch tịnh, tinh tấn, nghiêm mật tu hành
qua năm kiếp dài. Ngài chọn những điểm thù thắng nhất trong các cõi Phật thù
thắng, xây dựng thế giới Tịnh độ. Bạch điều này lên Phật Thế Tự Tại Vương, đức
Phật hoan hỷ thọ ký và nói cùng đại chúng: “Trong tương lai không lâu, Bồ tát
Pháp Tạng này sẽ thành tựu đại nguyện!”.
3. Cách thức trang nghiêm Tịnh độ
Trang nghiêm nghĩa là trang hoàng, làm thành, xây dựng. Cõi Tịnh
độ an lạc là do ngài Pháp Tạng quyết tâm tùy theo nguyện mà thực hiện thành
tựu. Khi mới phát tâm, cõi ấy vẫn có ba đường dữ, Ngài hiện thân tu Bồ tát
hạnh, độ hết thảy chúng sinh dứt bặt tham sân si, tiến tu dự vào hàng bất thối.
Trên nền tảng 48 đại nguyện, Tỳ kheo Pháp Tạng xây dựng quốc độ
của mình bằng ba phương diện nhiếp pháp hàng đầu: nhiếp Pháp thân nguyện, nhiếp
Tịnh độ nguyện và nhiếp Chúng sinh nguyện.
a- Nhiếp Pháp thân nguyện: là nguyện xây dựng Phật
thân. Bồ tát chọn quả Phật thân để đem công đức trang nghiêm, thệ nguyện trang
nghiêm thành tựu Pháp thân chư Phật, ánh sáng vô lượng, thọ mạng vô cùng.
b- Nhiếp Tịnh độ nguyện: là nguyện xây dựng cõi
Phật. Sau khi thành Phật, Bồ tát đem công đức trang nghiêm quốc độ, tất cả đều
bằng thất bảo: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não…
c- Nhiếp chúng sinh nguyện: là tiếp độ và giáo hóa
chúng sinh, gồm cả phàm phu và Thánh trí.
Giã từ quán trọ
Trở về cố hương
Quán trọ ví cho cõi Ta bà đau khổ, ngắn ngủi, không bền chắc. Cố
hương ví cho cõi Cực lạc thuần vui, bền lâu, chắc thật.
Nói về sự: chúng ta phải thật sự rời bỏ Ta bà để luôn nhớ nghĩ về
cõi Cực lạc của Phật A Di Đà.
Nói về lý: chúng ta phải rũ bỏ tất cả những phiền muộn, lo âu,
trăn trở, giả tạm trong tâm thức, để thảnh thơi trở về với chân như Phật tánh
hằng thanh tịnh của chúng ta.
Chúng ta thường nghĩ: Cuộc đời này luôn đầy hoa bướm. Chúng ta say
sưa đắm chìm trong tình yêu, danh vọng, tiền bạc, cứ ngỡ cuộc đời là những bài
thơ, tiếp nối với những ngày vui bất tận, hoa sẽ không tàn, trăng sẽ không
khuyết, cuộc vui dài kéo đến thiên thu. Nhưng có ngờ đâu, thân người như bóng
chớp chiều hôm, mới trẻ rồi già, mới sống rồi chết, trong cuộc vui hội ngộ đã
ươm mầm chia ly. Đời người thật vô thường, huyễn mộng như hoa sớm nở tối tàn,
vui ít khổ nhiều, sống chết nối liền không ai tránh khỏi. Ai cũng biết đời ít
người trăm tuổi, tuổi xuân thấy đó rồi chợt mất, buồn vô cùng và khổ cũng vô
cùng.
Vì sao vậy? Vì quán trọ chỉ cho sự tạm bợ, ngắn ngủi, ví như những
quán trọ ở ven đường, chỉ dành cho khách bộ hành dừng chân nghỉ mát, sau đó từ
giã ra đi, chớ không ở mãi được. Cũng vậy, Ta bà chẳng khác gì quán trọ, nhân
loại sống trong cõi này đều giả tạm, vô thường, không thật. Tại sao không thật?
Vì suốt cả cuộc đời bị sinh, lão, bệnh, tử, tiền tài, danh vọng chi phối, bức
bách thật là khổ não. Tất cả đời sống vật chất cho dù làm vua, làm quan, giàu
sang đến cỡ nào đi nữa nhưng khi ra đi không mang được gì cả, cho nên mới gọi
là không thật. Chúng ta là người hiểu đạo, phải sớm giác ngộ ngay chỗ này, sống
có đạo đức để làm lợi ích cho mọi người. Có như vậy, mới không uổng phí đời
người.
Ta bà thật là đau khổ, tại sao chúng ta không sớm giác ngộ để một
lòng nhớ về cố hương Cực lạc? Cố hương là nơi chúng ta chôn nhau cắt rốn, là
ngôi nhà vững chắc cho chúng ta ngơi nghỉ sau những ngày tháng vất vả với cuộc
đời.
Ngày ấy, đức Phật Thích Ca, vì hiểu cuộc đời ngắn ngủi, kiếp phù
sinh tạm bợ, mong manh nên đã quay mặt với vinh hoa, độc hành vào núi thẳm,
rừng sâu tìm chân lý. Bao ngày tháng miệt mài tu tập, cuối cùng giác ngộ, đem
đạo mầu soi tỏ cuộc đời. Giáo lý Ngài dạy rất nhiều, trong đó, vô thường (không
thường còn, luôn đổi thay biến dạng) là một trong những giáo lý căn bản.
Phàm mọi pháp vô thường, theo sau là khổ. Ấy vậy, chúng sinh không
tỉnh, lấy khổ làm vui, cam lòng nhận chịu, nên gọi là Ta bà. Ta bà là cõi uế
trược đầy dẫy khổ đau. Trái lại, cõi Cực lạc là cõi thuần vui, nơi an lạc thanh
tịnh cho tất cả chúng sinh. Vì thế, người Việt Nam ta, khi có người thân tạ
thế, tất cả đều mong ước nguyện cầu vong hồn sớm tiêu diêu miền Cực lạc. Danh
từ Cực lạc đối với dân tộc ta nó thân thiết đậm đà như một ngôi nhà ấm cúng, là
nơi yên nghỉ an toàn, là quê hương đầy thắng cảnh cho những khách lãng tử viễn
du mòn gót trên vạn nẻo đường đời. Để hết khổ được vui, chúng ta hãy hiểu rõ
hai cõi Ta bà và Cực lạc.
Ta bà là gì? Ta bà là phiên âm từ chữ Saha của Phạn ngữ, có nghĩa
là ráng chịu đựng, vì chúng sinh ở trong cõi này chịu các phiền não, tham sân
si bức bách, làm các điều ác, xoay quanh trong ba nẻo sáu đường, lại cứ cam
lòng nhẫn chịu không mong ngày ra khỏi. Ta bà không phải chỉ có một thế giới ta
đang ở, mà nó gồm cả ba nghìn đại thiên thế giới, trong phạm vi hóa độ của Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Cực lạc là gì? Cực là rất, lạc là vui. Như vậy, Cực lạc là cõi
thuần vui. Trong Kỳ Viên Hội, đức Phật gọi ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: “Cõi đó
vì sao gọi là Cực lạc? Vì chúng sinh trong cõi đó không có các điều khổ, chỉ
hưởng thuần những sự vui, nên gọi là Cực lạc”.
Vậy, để giã từ quán trọ (Ta bà) một cách dứt khoát, thiết tha nhớ
về cố hương (Cực lạc) thì chúng ta phải so sánh sự hơn kém giữa chánh báo và y
báo của hai cõi.
Quy hướng Tịnh độ
Nay là thời mạt pháp, chính là lúc Pháp môn Tịnh độ đang cần hơn bao giờ hết cho nhân loại. Vì vậy, chúng ta nên tuân thủ nhiều hơn đối với Pháp môn Tịnh độ. Như ngài Thiên Như Thiền sư đã dạy: “Mạt pháp chi hậu chư kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ tự cứu độ chúng sinh, kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục”, nghĩa là: đời mạt pháp về sau, các kinh sách đều diệt hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sinh, nếu kẻ nào không tin, tức sẽ bị đọa địa ngục”.
Ngẫu Ích Trí Húc đại sư khi viết quyển A Di Đà Kinh Yếu Giải đã
phải lên tiếng than rằng: “Đời mạt pháp ức vạn người tu hành ít có người đắc
đạo. Chỉ còn nhờ pháp niệm Phật mới được độ thoát. Than ôi! Nay chính là đời
mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm Phật này thì còn pháp môn nào tu học được
nữa!”.
Tế Tỉnh đại sư (Triệt Ngộ) Liên tông thập nhị Tổ thường dạy rằng:
“Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ nguyên là bậc “tông tượng” trong chốn Thiền môn mà còn
quy tâm về Tịnh độ thay, huống chi nay là thời kỳ mạt pháp, chúng ta lại càng
phải nên tuân theo hơn nữa”.
Các vị Thiền sư còn phải lên tiếng nói rằng: “Nếu như chúng tôi
khi mới xuất gia mà có túc căn sớm với Pháp môn Tịnh độ, thì chúng tôi không
phải mất công, tốn sức chuyển pháp môn tu như thế này đâu”.
Chúng ta thấy, các vị Thiền sư còn quy tâm về Pháp môn Tịnh độ một
cách dứt khoát, thì phải nói pháp môn niệm Phật là pháp môn vi diệu, bất khả tư
nghì.
Hôm nay, thật là hữu duyên cho chúng ta sớm gặp được Pháp môn Tịnh
độ ngay từ ban đầu, theo như chúng tôi nghĩ, chắc có lẽ từ vô lượng kiếp chúng
ta đã từng gieo nhân niệm Phật, chính nhân niệm Phật này mà chúng ta có được
quả niệm Phật hôm nay.
Nhờ nhân duyên lành đó, chúng ta được chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ
trao tặng pháp môn này, chứ đâu phải dễ. Đây là một pháp môn mà các Ngài đã
thực hành và đã chứng đắc.
Vậy chúng ta đi theo pháp môn tu của các Ngài chỉ dạy thì chúng ta
cũng giống như các Ngài không hai không khác.
Chúng ta đã có duyên với Pháp môn Tịnh độ, thì chúng ta không sợ
lạc đường, nếu nói lạc đường thì chư Tổ lạc đường trước. Ví dụ, nếu như pháp
môn niệm Phật này không có ai tu theo mà ta tu một mình thì ta mới sợ lạc
đường, huống hồ chư Tổ, nhiều vị tu theo pháp môn này, thì chắc chắn chúng ta
không sợ lạc đường, chúng ta phải có lập trường và tin chắc như vậy, không có
một ý nào mà hoài nghi cả.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật dạy: “Trong quá khứ vô
lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp nhẫn lại đến nay, mười phương chư Phật chỉ dùng
pháp môn niệm Phật để cứu vớt hết thảy chúng sinh”.
Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà sa số chư
Phật cũng đang thuyết giảng giáo nghĩa này. Đức Phật còn nói thêm trong đời vị
lai, tất cả mười phương chư Phật muốn cứu vớt chúng sinh thì không ngoài pháp
môn niệm Phật này. Vì vậy, Như Lai bảo rằng: “Pháp môn niệm Phật là vua trong
tất cả các pháp”.
Chư Phật, chư Tổ, chư Bồ tát luôn khen ngợi, tán thán, ra sức xiển
dương Pháp môn Tịnh độ mà chúng ta không tin hay sao. Ví như có một người nào
đó bị trúng đạn vào chân, thì chúng ta cũng cảm thấy họ đau như thế nào, khi
chúng ta bắt gặp một người nào đó rạng rỡ nở nụ cười trên môi thì chúng ta cũng
cảm thấy được họ hạnh phúc, họ vui như thế nào, huống hồ, biết bao nhiêu danh
hạnh, biết bao nhiêu tấm gương sáng niệm Phật được vãng sinh. Tổ Tổ tương
truyền cho đến bây giờ thì chúng ta cũng cảm thấy được pháp môn niệm Phật vi
diệu, thù thắng, tuyệt vời như thế nào rồi.
Không phải chúng tôi theo Tịnh độ mà chúng tôi tự đề xướng, tự đưa
pháp môn của mình lên tận trời cao đâu, mà phải hiểu như thế này, hôm nay,
chúng tôi chỉ là người phụ họa thêm thôi, chỉ là người biết cầm bút để ghi lại
những lời chư Phật, chư Tổ chỉ dạy mà thôi, chớ chúng tôi không bao giờ có ý
bảo thủ, tự lập một pháp môn riêng cho mình đâu, đây là điều mà chúng tôi tối
kỵ nhất.
Chúng tôi xiển dương ca ngợi pháp môn Tịnh độ là đều y cứ vào sử
sách, chớ không bao giờ nói một cách suông, như chúng ta đã từng biết đạo Phật
không chỉ nói lý thuyết suông không, mà còn phải đòi hỏi hành nữa, cho nên có
câu “Học đạo chưa phải là đắc đạo. Hành đạo mới gọi là đắc đạo”. Đúng vậy,
những điều chúng tôi nói đều y cứ vào sử sách chứ không bao giờ tự nói, để cho
quý vị có được tín tâm đối với pháp môn này, chúng tôi xin giới thiệu một số
sách nói về Pháp môn Tịnh độ. Đó là: kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh
Vô Lượng Thọ, kinh Niệm Phật Ba La Mật, kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, Niệm Phật Thập Yếu, Những chuyện vãng sinh lưu xá
lợi v.v…
Đã là một hành giả tu theo Pháp môn Tịnh độ thì chúng ta nên cần
tìm đọc những cuốn sách Tịnh độ, có như vậy mới giúp cho tín tâm của chúng ta
vững chắc thêm. Ngoài những cuốn sách Tịnh độ trên, chúng ta nên tìm đọc ngay
cuốn “Liên Tông Thập Tam Tổ”, đây là một cuốn sách gối đầu, nói rất rõ ràng về
phương pháp tu và những công hạnh đẹp của 13 vị Tổ sư của Pháp môn Tịnh độ.
Để chúng ta có niềm tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, đối với
Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi xin dẫn chứng một vị Tổ trong Liên tông thập tam Tổ
cho quý vị biết: đó là Sơ Tổ Huệ Viễn. Trong 10 năm ròng rã niệm Phật, Ngài đã
thấy Phật A Di Đà xoa đầu Ngài ba lần. Khi lâm chung Ngài biết được ngày giờ ra
đi, an nhiên thị tịch một cách tự tại. Từ Sơ Tổ Huệ Viễn lần đến vị Tổ thứ 13
là Ấn Quang đại sư đều niệm Phật, khi lâm chung các Ngài đều biết ngày giờ ra
đi một cách tự tại.
Thật phải nói, pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng. Như vậy
thử hỏi Pháp môn Tịnh độ có phải dành riêng cho những người thấp hèn, bất học
tu không?
Chúng tôi xin mạnh dạn trả lời thật là không phải chỉ dành riêng
cho những kẻ thấp hèn mà còn cho đến các vị đại sĩ Pháp thân Bồ tát, chư Tổ
cũng đều tu theo.
Thế mà nay, chúng tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai pháp môn niệm
Phật chỉ dành cho những kẻ không học, những kẻ ngu phu ngu phụ, những người đầu
làng cuối xóm tu theo thôi, còn những bậc có học, thượng căn ai mà tu theo làm
gì!
Hôm nay, chúng tôi viết đề tài này là thiết tha kêu gọi những ai
mà đã có ý chê bai hủy báng Pháp môn Tịnh độ thì nên lập tâm sám hối, chớ không
thì chúng ta tự hủy báng chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ đấy, thật là tội nặng
đáng đọa vào tam đồ.
Cho nên Ấn Quang đại sư đã phải lên tiếng cảnh cáo người đời rằng:
“Pháp môn niệm Phật cao thâm huyền diệu mà vẫn có nhiều kẻ còn dám khinh chê
cho là chỉ có những người già nua, tuổi tác yếu đuối, dốt nát mới theo Pháp môn
Tịnh độ thì quả là họ đã dám coi thường, khinh chê cả các vị đại Bồ tát như Di
Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ rồi vậy”.
Đối với quý vị nào mà đã phạm vào thiển ý chê bai, hủy báng Pháp
môn Tịnh độ, thì quý vị không nên run sợ gì cả. Như chúng
ta thường nghe đức Phật dạy:
Có hai hạng người mạnh:
1. Hạng người có lỗi mà biết sám hối.
2. Hạng người không tạo lỗi.
Vậy quý vị cứ y theo lời Phật dạy thì sẽ trở thành người tốt mà
thôi.
Ngài Trí Húc đại sư, lừng danh trong chốn Thiền môn thuở xưa, đã
lên tiếng trước hàng đệ tử: “Khi mới xuất gia, tôi tập ngồi thiền, tự phụ đã tu
theo đốn pháp dễ ngộ và tỏ ý chê bai Pháp môn Tịnh độ, cho là tiệm pháp lâu
chứng. Khi ấy còn ít tuổi, tôi dám cả gan nói những điều thiếu suy xét rằng:
“Pháp môn Tịnh độ chỉ dành riêng cho hạng người hạ căn ít học mà thôi. Chẳng
dè, nhân bị một cơn ốm nặng, tưởng khó qua khỏi, tôi mới chịu phát tâm niệm
Phật A Di Đà, sau đó khỏi bệnh, tôi được đọc nhiều sách nói về Tịnh độ, lúc này
tôi mới bừng tỉnh, bừng tỉnh cái gì? Là thấy chư Bồ tát, chư Tổ đều niệm Phật
cầu vãng sinh, kể từ đây tôi mới nhất tâm niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tây
phương Cực lạc, ngày đêm không ngừng với một sức tinh tiến ít người nào sánh
kịp”.
Chúng ta đã thấy tận tường chưa? Ngài Trí Húc đại sư là bậc tông
tượng trong chốn Thiền môn, khi mới xuất gia theo Thiền tông, Ngài có ý chê bai
hủy báng Pháp môn Tịnh độ, nhưng khi bừng tỉnh, Ngài thấy mình có lỗi liền lập
tâm sám hối, quy hướng về Pháp môn Tịnh độ niệm Phật cầu vãng sinh để giải
quyết sinh tử.
Chư Phật, chư Tổ vì thương chúng sinh đời mạt pháp cứ mãi trôi lăn
trong vòng sinh tử, với lòng từ bi vô điều kiện, các Ngài đã khuyên chúng ta
nên theo Pháp môn Tịnh độ vì dễ tu, dễ chứng như đi thuyền buồm xuôi dòng, gặp
gió thuận, lướt nhẹ trên mặt nước, tiến mau như mũi tên, còn tu theo các pháp
môn khác sẽ gặp nhiều điều khó khăn.
Cho nên trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Ấn Quang đại sư nói rằng: “Bỏ
đường tắt Tây phương, chín giới chúng sinh trên khó thể viên thành quả giác.
Lìa cửa mầu Tịnh độ, mười phương chư Phật, dưới không toàn độ khắp quần mê.
Pháp môn cao cả lợi khắp ba căn nhân đây: Chín cõi đồng về, mười phương khen
ngợi. Phật nguyện rộng sâu không từ một vật nên được: nghìn kinh đều chỉ, muôn
luận tuyên bày”.
Mỗi niệm danh hiệu Phật tức là mỗi niệm thành Phật, không đợi
nhiều kiếp tu chứng, vì nó gồm cả Thiền, Giáo, Luật, Mật, phổ cập đến các bậc
thượng, trung, hạ, như mưa thấm nhuần đủ muôn vật, như biển cả dung nạp trăm
sông, Đại thừa, Tiểu thừa, Đốn giáo, Tiệm giáo, tất cả tu theo pháp môn này đều
được thành tựu Phật quả.
Sự lựa chọn Pháp tu
Theo Đạo Xước Thiền sư, trên bước đường tu tập, Ngài đã chia ra
hai phương pháp tu:
1. Thánh giáo môn.
2. Tịnh độ môn
Như thế nào gọi là Thánh giáo môn? Thánh giáo môn là tự
mình dùng giới, định, huệ, diệt tham, sân, si. Ắt hẳn suốt cả cuộc đời này,
chúng ta tự tu một mình liệu có diệt hết tham, sân, si không, chắc chắn là
không rồi.
Thử hỏi, trong đời mạt pháp này có ai tu mà đạt được cảnh giới Phi tưởng phi
phi tưởng xứ định chưa, thật sự chưa có một ai đạt được. Nhưng cho dù đạt được
đi nữa cũng không diệt hết tham, sân, si và đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ để
chứng minh.
Như ông Uất Đầu Lam Phất tu đạt được cảnh giới cao nhất của cõi
trời Vô sắc, đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định nhưng cũng chưa làm chủ được
phiền não. Là thế này, nhân một buổi ông ta ngồi thiền tại một gốc cây, trong
lúc đang hành thiền, thì có những chú chim bay nhảy, kêu hót trên cây rộn rã,
lúc này, ông ta tỏ ý sân hận với mấy chú chim, liền bỏ gốc cây đi xuống gần một
dòng suối để ngồi thiền. Không ngờ ông ta tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, trong lúc
ngồi thiền tại dòng suối thì những chú cá bơi lui bơi lại làm động nước phát ra
tiếng ồn, lúc này, ông ta nổi sân hận hơn lúc trước, liền khởi ý ác là sau này
đầu thai làm một con gì mà ăn hết các loại chim và cá, vì tham sân si này nổi
lên, sau khi chết ông ta đầu thai làm con phi ly (là con chồn biết bay).
Qua câu chuyện này chúng ta thấy rằng: cho dù tự lực tu mà đạt
được cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ định đi nữa cũng không bao giờ diệt
hết tham sân si, huống hồ chúng ta là chúng sinh đời mạt pháp, phước mỏng
nghiệp dày mà một mình tự lực tu thì chúng ta không bao giờ giải quyết được
sinh tử. Như vậy, theo “Thánh giáo môn” thì chúng ta không kham nổi.
Vậy, chúng ta tiếp tục phân tích, mổ xẻ phương pháp thứ hai: “Tịnh
độ môn”.
Tịnh độ môn chia ra hai phương pháp: Yếu chỉ Tịnh độ và Tha lực
Tịnh độ.
Như thế nào gọi là Yếu chỉ Tịnh độ? Là tự mình sách tấn, tu hành
để tạo một cõi Tịnh độ ngay trong hiện tại, như vậy phương pháp này chỉ dùng
cho bậc thượng căn mà thôi.
Như thế nào gọi là Tha lực Tịnh độ? Là mình nương nơi bản nguyện
của Phật A Di Đà để được vãng sinh, phương pháp này khế hợp với ba căn cơ, hạ
căn, trung căn, thượng căn. Tha lực Tịnh độ cũng giống như đi thuyền qua sông,
còn Thánh giáo môn tự lội qua sông. Như vậy, người mà có thuyền chở qua sông và
người tự lội qua sông, thử hỏi trong hai người cùng đi qua sông, người nào khỏe
nhất? Chắc chắn là người có thuyền chở qua.
Qua sự phân tích, mổ xẻ phương pháp tu trên đây, chúng ta chọn
phương pháp tu nào là hợp nhất? Theo chúng tôi nghĩ, chắc chắn ai cũng đều đồng
ý chọn “Tha lực Tịnh độ”. Tại sao ta chọn phương pháp này ? Là vì hợp với căn
cơ của chúng ta, cho nên ta không dại khờ gì mà chọn “Thánh giáo môn”.
Chúng ta là một hành giả tu theo đạo Phật, trước khi chọn một việc
gì thì phải đầy đủ tam huệ: Văn huệ, tư huệ và tu huệ.
- Văn huệ: là mình nghe rõ ràng.
- Tư huệ: là mình tư duy, suy nghĩ chọn lựa cái nào đúng cái nào
sai một cách rõ ràng.
- Tu huệ: là mình áp dụng tu hành cái mình đã chọn lựa tư duy một
cách đúng đắn. Như vậy, tam huệ rất quan trọng, nó cũng giống như nấc thang đầu
tiên, hay là chìa khóa để chúng ta bước vào ngưỡng cửa Phật pháp. Nếu như ban
đầu, chúng ta nghe một cách lập chập, tư duy một cách hời hợt, sai lệch, thì
khi chúng ta tu, dễ bị lệch lạc. Ngược lại, chúng ta nghe một cách rõ ràng, tư
duy và áp dụng đúng đắn, thì khi tu ta cảm thấy an lạc vô cùng, vì vậy, chúng
ta phải hết sức cẩn trọng ở chỗ này.
Đức Phật Thích Ca trọn đời giáo hóa, điều phục chúng sinh, Ngài đã
ban ra tám vạn bốn nghìn pháp môn tu. Nhiều pháp môn tu như vậy, chúng ta thấy
mình hợp căn cơ nào thì theo căn cơ đó, chớ không nên chê bai một pháp môn nào
cả. Là đệ tử Phật chúng ta hết sức để ý ở chỗ này, không nên có một ý nào hủy
báng cả, mà chúng ta phải luôn tán thán, ca ngợi, pháp môn nào cũng tốt cả,
Thiền cũng tốt, Tịnh cũng tốt, Mật tông cũng tốt. Tại sao chúng ta phải ca
ngợi, tán thán như vậy? Là bởi vì đều là đức Phật chỉ dạy cả. Nếu chúng ta
không khéo lại chê pháp này hay, pháp kia dở là chúng ta tự chê trách đức Phật,
nếu sơ sẩy một chút thôi là rơi vào tội hủy báng pháp, tội này rất chi là nặng.
Trong Tứ hoằng thệ nguyện có dạy: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học”.
Chúng ta hợp căn cơ nào thì theo căn cơ đó. Nếu chúng ta sốt thì
uống liều thuốc sốt, chúng ta cảm thì uống liều thuốc cảm, chứ không nên điên
dại, sốt mà lấy thuốc cảm uống. Như chúng ta thấy, nước trong bốn biển duy nhất
chỉ có một vị mặn. Pháp của đức Phật dạy vô lượng chỉ có một vị giải thoát mà
thôi. Xin lấy một ví dụ. Chúng ta đi ra Hà Nội, đâu phải có một đường đi, mà có
nhiều đường để đi, chúng ta có thể đi xe, có thể đi máy bay, có thể đi tàu lửa,
có thể đi bộ v.v… đường nào cũng tới Hà Nội, tuy lâu hay mau mà thôi. Cũng vậy,
muốn đạt được quả vị Phật thì chúng ta cũng có rất nhiều phương pháp tu như là Thiền,
Tịnh, Mật, Giáo v.v… Chúng ta phải hiểu tường tận như vậy, thì mới không mắc
kẹt vào tội chấp pháp, Thiền cũng tốt, Tịnh cũng hay, Mật cũng tuyệt vời.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Chánh pháp ta còn bỏ, huống gì
là phi pháp”. Chúng ta muốn qua sông thì cần thuyền, khi qua sông rồi thì bỏ
thuyền lại, cho nên chúng ta phải biết tất cả chỉ là phương tiện mà thôi. Nếu
chấp phương tiện là chúng ta khổ hay nói cách khác là sự và lý phải viên dung.
Sự lý viên chung
Điều căn bản và duy nhất là phải hiểu sự lý cho rõ ràng, luôn luôn
thực hành không gián đoạn thì chắc chắn không sai. Sự không ngại gì lý, lý
không ngại gì sự, hai phạm trù này luôn luôn hỗ tương cho nhau, nếu thiếu một
trong hai thì ắt hẳn không có kết quả tốt, cũng giống như con chim đủ đôi cánh
mới bay được, chiếc xe đủ hai bánh mới chạy được; chúng ta hiểu như vậy thì
không bao giờ thiên lệch về một bên nào cả.
Đôi khi chúng ta cứ nê chấp vào thuật ngữ vô niệm, lý không để rồi
bác bỏ sự tu niệm Phật cầu vãng sinh. Như vậy, dễ rơi vào tình trạng “chưa bước
lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè” tất sẽ không tránh khỏi bị chết chìm dưới nước.
Chúng ta phải biết rằng: “Lý tuy đốn ngộ nhưng sự phải lần lượt tu hành”.
Ví dụ: điểm đến của chúng ta là Hà Nội, như vậy lấy cái gì để đến Hà
Nội được? Tất nhiên, chúng ta phải đi bằng máy bay, bằng xe… Chúng ta muốn qua
bên kia sông thì chúng ta phải cần cái gì đây? Chắc chắn là chúng ta phải mượn
thuyền. Cũng vậy, muốn thấy được bản lai diện mục thì chúng ta cần phải có ngồi
thiền, quán sổ tức, tri vọng, câu thoại đầu. Muốn đạt đến nhất tâm bất loạn hay
niệm Phật tam muội thì cần phải mượn sự niệm Phật. Như vậy, chúng ta mới hiểu
ra rằng: Sự và lý là một, Thiền và Tịnh là một không hai không khác.
Nhiều khi chúng ta không suy xét kỹ, lấy những lý cao siêu trong
kinh điển ra, để biện luận cho cái hiểu biết của mình. Như câu: “Kỳ tùy tâm
tịnh, tức Phật độ tịnh” (nếu tâm mình tịnh, tức là cõi Phật đó rồi, không cầu
đâu xa, rồi lại phủ nhận không có cõi Phật). Đây là sự hiểu biết thật là nông
cạn, thật là đáng thương, không chỉ vậy mà còn gây ra một hoang mang lớn cho số
Phật tử tu theo Pháp môn Tịnh độ.
Chúng ta thử xét câu “kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật độ tịnh” đúng ở
cấp độ nào và không đúng ở cấp độ nào?
Đáp: đúng ở cấp độ khi chúng ta thấy được Phật tánh.
Không đúng ở cấp độ khi chúng ta chưa thấy được Phật tánh.
Thử hỏi trong mỗi chúng ta có ai đạt được Phật tánh chưa? Thật sự
mà nói chưa có ai đạt được Phật tánh. Như vậy, khi chúng ta chưa thấy được Phật
tánh, mà chúng ta lấy những lý cao siêu này để mà biện bạch cho cái hiểu biết
của mình thì nó sẽ phản kháng lại cho chúng ta những điều như sau.
Thứ nhất, chỉ là lời nói viễn vông đầu môi chót lưỡi.
Thứ hai, không thực tế.
Thứ ba, mâu thuẫn với chính mình (mâu thuẫn là sao? Là mình chưa
đạt được cái lý đó, mà cứ cho là mình đạt được, cũng giống như nghĩ cơm mà
không ăn cơm thì không sao tránh khỏi sự đói bụng, không chỉ mâu thuẫn với
chính mình mà còn mắc vào tội đại vọng ngữ, không chứng mà nói chứng).
Câu nói: “Kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật độ tịnh” nghe qua tựa hồ như
đúng lý, nhưng nếu xét cho kỹ thì lại không hợp, mà chỉ chuyên về phần lý
thuyết ngụy biện. Tại sao? Vì bất kỳ một pháp nào hiện hữu cũng đều nói lên lý
và sự của nó. Nói về lý thì tâm mình tịnh tức là Tịnh độ, cũng như nói do tâm
chúng sinh uế trược nên mới có thế giới Ta bà đau khổ. Chúng ta đã thấy do có
tâm phiền não của chúng sinh nên mới có thế giới uế trược Ta bà. Vậy thì, khi
chúng sinh niệm Phật tâm được thanh tịnh tức nhiên cũng có cảnh giới Tịnh độ
Cực lạc mà chúng sinh đó sẽ sinh về. Thế thì cảnh Cực lạc là một thế giới thanh
tịnh có thật, có Phật A Di Đà đang thuyết pháp giống như đức Phật Thích Ca
thuyết pháp ở cõi Ta bà này. Như vậy, ta niệm Phật cầu vãng sinh về Cực lạc có
gì là không đúng, có gì là vọng cầu xa xôi. Mong sinh về cảnh tịnh điều đó
không hay hơn là mải mê ở trong cảnh uế sao?
Lại nữa câu nói: “Tự tánh là Phật Di Đà, tâm là cảnh Tịnh độ”,
cũng như bảo chúng sinh ai cũng có Phật tánh và có thể thành Phật. Nhưng thử
hỏi tâm ta đã hoàn toàn thanh tịnh chưa, và thật sự ta đã thành Phật chưa? Nếu
chưa, thì đừng quá cao ngạo, bỏ sự chấp lý, tự cho tự tánh là Phật A Di Đà,
thanh tịnh tâm là Tịnh độ.
Nhìn một cách thực tế, cõi Ta bà của chúng ta có mấy ai phát tâm
xuất gia đâu, trong một trăm người thì chỉ có một người xuất gia.
Chúng ta thử nhìn ra bên ngoài, biết bao nhiêu điều gây rối cho xã
hội như là tham nhũng hối lộ, xì ke, ma túy, sát sinh, trộm cướp, tà dâm, v.v…
có mấy ai chịu quay đầu để nhìn lại chính mình, để tu tập. Nhìn chung, đại đa
số thì chìm đắm trong ngũ dục, lục trần. Với cách nhìn khách quan như thế này,
thì làm sao chúng ta chuyển nổi cõi Ta bà này thành Tịnh độ được. Với câu nói:
“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” thì quá ư là không đúng với thực tế, chỉ là hư
vọng mà thôi.
Chúng ta phải hiểu rõ Tịnh độ là gì?
Tịnh: thanh tịnh, trong sạch.
Độ: cõi, nước.
Như vậy, Tịnh độ là một cõi thanh tịnh, trong sạch chứ không phải
một cõi uế trược như cõi Ta bà này.
Tịnh độ còn có nghĩa là: tịnh hóa thân tâm, trang nghiêm quốc độ.
Như vậy, muốn chuyển đổi một cõi đầy uế trược thành một cõi Tịnh
độ thật sự, thì mỗi chúng sinh trong cõi uế trược đó đều phải cùng nhau tu tập,
cùng nhau tịnh hóa thân tâm, cùng nhau trang nghiêm quốc độ, thì mới chiêu cảm
được cõi Tịnh độ. Còn ngược lại, thì không bao giờ có được. Như vậy muốn có cõi
Tịnh độ, thì phải có nhân thanh tịnh, trong sạch, muốn có được nhân thanh tịnh
trong sạch thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải nhất tâm niệm Phật nguyện
cầu vãng sinh. Cho nên, chúng ta phải biết rằng, nay tâm chưa tịnh, tánh lại
chưa phải là Phật A Di Đà, thì đừng sinh tâm ngã mạn tự cao, chê bai Chánh
pháp, chê lời Phật dạy, chê lời Tổ dạy, lý thuyết ngụy biện chỉ mang thêm tội
lỗi vào thân miệng ý mà trôi lăn trong vòng ác đạo. Không ít người có tâm ngã
mạn tự cao, mắc bệnh không tưởng, nên tự cho mình là kẻ siêu việt vượt hơn các
bậc tiền bối, khinh khi thầy tổ, chê bai lời Phật và Bồ tát, hủy diệt mất chánh
tín, làm bạn với ma vương, cuối cùng cũng chỉ rơi vào con đường sinh tử. Liên
Trì tổ sư có dạy: “Thời mạt pháp, tín tâm của bậc xuất gia có khi không bằng
hàng nam cư sĩ, và phần nhiều hàng nam cư sĩ tín tâm không bằng nữ cư sĩ”.
Đúng vậy, chúng ta học cho nhiều, hiểu biết cho nhiều dễ rơi vào
một trong tám nạn, đó là thế trí biện thông, đôi khi chúng ta lấy mớ hiểu biết
của mình để rồi đi thắc mắc điều này, nghi ngờ điều kia, để chúng ta hiểu được
một khái niệm mơ hồ nào đó, về một thế giới nào đó, chính cái này sẽ trở thành
sở tri chướng cho chúng ta. Cái biết đó sẽ làm cho ta chướng ngại đến niềm tin,
đánh mất lòng tin, thật là nguy hiểm vô cùng.
Tại sao Tổ Liên Trì nói: “Thời mạt pháp tín tâm của người xuất gia
có khi không bằng hạng nữ cư sĩ”? Vì hàng nữ cư sĩ họ không cần lý thuyết
suông, không cần ngụy biện để chứng tỏ ta là người học rộng hiểu nhiều, mà chỉ
tín tâm vào lời Phật Tổ, vào sự tu trì nên đạo hạnh ngày càng tăng trưởng một
cách mau chóng, và sự nghiệp vãng sinh có phần cao hơn. Chỉ trừ những kẻ phước
mỏng tội dày, nghiệp chướng sâu nặng, mới dễ bị lôi cuốn vào các pháp môn khác
bỏ đi pháp môn niệm Phật vi diệu mà trước đây họ đã từng tu niệm. Vì nghiệp
trần quá nặng nên bỏ Phật chạy theo trần cảnh ma nghiệp, ham vui nhất thời, ưa
chuộng danh tiếng, mê theo lý thuyết mà bỏ đi sự tu, mê cảnh không tưởng bỏ bê
giác tánh; ngày tháng chần chừ, chỉ mang lại cho tâm thần rối loạn, đầu óc ngơ
ngơ ngẩn ngẩn, như người mất trí, Phật Phật ma ma, tâm thần bất định, có khi
tâm trí cuồng loạn, nên sinh tử luân hồi cũng vẫn là con đường mở rộng để đón
chờ.
Thương thay! Vì một chút đánh mất tín tâm đối với pháp môn tu mà
muôn đời trầm luân nơi sinh tử đau khổ.
Sinh tử là việc lớn
Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh
tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục
đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi
tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm trong bào thai của con chó, con
heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là
ghê rợn. Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con,
con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn,
không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời
nhiều kiếp mà không hay không biết.
Vì sinh tử, chúng ta không chỉ làm khổ cho mình mà còn làm khổ đến
cho tất cả mọi người như là làm khổ vợ, khổ chồng, khổ con, khổ cha mẹ v.v…
trong vô lượng kiếp như vậy.
Ôi! Nghĩ đến sinh tử thật là kinh hoàng, mà chúng ta không giác
ngộ tu hành hay sao, chúng ta không gấp rút hay sao, đợi đến chừng nào đây?
Thật là may mắn thay, chúng ta được làm thân người, sớm lại được
gặp Phật pháp. Đặc biệt, chúng ta lại gặp được Pháp môn Tịnh độ, nhờ tha lực
bản nguyện của Phật A Di Đà mà chúng ta được liễu sinh thoát tử vãng sinh về
thế giới Cực lạc.
Để cho chúng ta luôn thức tỉnh, tu hành một cách nghiêm mật, thì
chúng ta phải luôn nghĩ đến sự vô thường, sự trống vắng, ngắn ngủi của kiếp
người.
Khi đề cập đến việc được làm thân người, được gặp Phật pháp là khó
hay dễ, thật là khó vô cùng. Như chúng ta thường nghe: “Nhân thân nan đắc, Phật
pháp nan văn”, nghĩa là: thân người khó được, Phật pháp khó nghe.
Thật là khó được gặp mà hôm nay chúng ta đều gặp được cả.
Chúng tôi thầm nghĩ, chắc có lẽ chúng ta từ vô lượng kiếp đã từng
tu tạo phước đức cho nên hôm nay mới gặp được quả tốt như thế này, bằng ngược
lại thì chúng ta không dễ gì mà gặp được đâu.
Vì vậy, chúng ta phải luôn thường xuyên nghĩ đến sự vô thường,
trống vắng, mỏng manh của cuộc đời mà tinh tấn tu hành, chứ trong thời gian
ngắn ngủi này, chúng ta không chịu tu sửa thì thật uổng phí cả một kiếp người.
Đức Phật đã dạy: “Mỗi khi chúng ta đánh mất thân này, thì trăm
nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Cũng giống như đức Phật ví con rùa mù
hai mắt, sống tận dưới đáy biển, cứ một nghìn năm khúc gỗ trôi qua biển thì con
rùa mù hai mắt nổi lên liền chui vào đúng bọng cây. Phật mới bảo các vị Tỳ
Kheo, các thầy thấy con rùa mù hai mắt chui được vào bọng cây khó hay là dễ?
Các thầy Tỳ kheo trả lời: “Kính bạch Thế Tôn, thật là khó vô cùng”. “Cũng vậy,
được làm thân người lại là khó gấp mấy lần con rùa mù hai mắt chui vào bọng
cây”.
Có vị Tổ dạy rất độc đáo: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất
thất nhân thân vạn kiếp nan”, nghĩa là: nghìn năm cây sắt nở hoa còn dễ hơn,
mỗi khi chúng ta đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại
được.
Như chúng ta đã biết, có khi nào cây sắt nở hoa không? Không bao
giờ có chuyện đó, khó như vậy đó, được làm thân người còn khó hơn cây sắt nở
hoa nữa.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có đoạn ghi: “Đức Phật lấy ít đất để
lên móng tay, rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát rằng:
- Đất ở mười phương thế giới nhiều hay đất ở móng tay ta nhiều?
- Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay không thể nào sánh bằng đất ở mười
phương thế giới.
- Đúng thế, này thiện nam tử! Có người đã chết trở lại được thân
người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, được sinh
nơi trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh
đạo, có thể được giải thoát, có thể nhập Niết bàn, được như trên đây thật là hy
hữu, như số lượng đất trên móng tay”.
Qua những dẫn chứng trên, chư Phật, chư Tổ thường nhắc nhở chúng
ta có được thân người thật là khó vô cùng. Khi đã có rồi thì chúng ta phải biết
quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó để tu hành, chớ không nên buông lung, để rồi
chúng ta đánh mất nó, trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.
Chúng ta phải luôn thức tỉnh cái chết đến cận kề bên ta. Thân này
thật là mỏng manh, giả hợp, chỉ cần chúng ta hít vào mà không thở ra thì ta đã
qua đời khác rồi, như bông hoa sớm nở tối tàn, có gì mà vui đâu. Cho nên, vào
một hôm, đức Phật hỏi các vị Tỳ kheo rằng: “Mạng người sống trong bao lâu?”.
- Có vị trả lời là mạng sống con người trong khoảng vài ngày, bị
đức Phật chê trách, ông chưa hiểu đạo, ông chỉ hiểu cái da của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong khoảng bữa ăn, bị đức Phật
chê trách, ông mới hiểu được cái xương của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong một hơi thở. Vị này
được đức Phật ca ngợi và tán thán là ông đã hiểu tận xương tủy của Phật pháp.
Vì thế đức Phật thường dạy: “Tất cả vạn vật hiện hữu trên vũ trụ
này đều là giả tạm vô thường, không có gì là bền chắc đâu, chỉ có tu nhân tích
đức mới là cái thật để cho chúng ta mang theo”.
Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng vạn ban đô thị giả, nhân sinh đạo
đức quả duy chân”, nghĩa là: tất cả vạn vật hiện hữu trên thế gian này đều là
vô thường, duy chỉ có đạo đức mới trường tồn vĩnh cửu.
Chúng ta thường biết được thân này là vô thường, là giả tạm, không
có cái gì là ta cả, nghĩ như thế chúng ta mới quên mình tu được, còn ngược lại
chúng ta không hay không biết, cứ cho cái thân này là thường còn, cuộc đời này
là đẹp đẽ, chấp cái ta này là thật có thì quý vị cứ mãi tham đắm bả ngũ dục giả
tạm ở thế gian, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho cái giả, suốt cả cuộc đời làm nô
lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ, mà không hay không biết, thật là khổ đau vô cùng.
Để đối trị lại những dục vọng tham muốn ở đời, đức Phật đã chỉ dạy
chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là phải luôn quán thân này là bất tịnh, là hôi
thối.
Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các vị Tỳ kheo, hãy quán thân
này từ gót chân cho đến đỉnh đầu là một bọc da chứa đựng toàn là những đồ bất
tịnh hôi thối như là: tóc, lông, móng, máu, mủ, đờm, nước miếng, nước tiểu,
phân v.v…”.
Đức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng của thân thể này,
để chúng ta khỏi phải mê lầm về nó. Như quý vị thường thấy, hằng ngày trong
thân thể của chúng ta có chín cái lỗ thường chảy ra những đồ bất tịnh hôi tanh.
Vì thế, các vị Tổ ví chín cái lỗ này chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy
lần mùi hôi ở những cống rãnh của thành phố chảy ra. Chín lỗ đó là gì? Hai tai
chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra nước miếng, hai mắt chảy
ra ghèn, đường tiểu tiện chảy ra nước tiểu, đường đại tiện thải phân.
Khi chúng ta đi ngang qua những cống rãnh ở thành phố, thì chúng
ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm? Thật là thối vô cùng, các cống rãnh đã thối
như thế, chư Tổ ví thường ngày thân thể chúng ta chảy ra những đồ bất tịnh hôi
thối gấp mấy lần mùi hôi ở cống rãnh.
Chúng ta tu hành thì phải thấy được thật tướng của thân thể này là
vô thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi chúng ta nhận chân được thực tướng rồi,
chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà chúng ta chỉ biết mượn nó làm
phương tiện để tu tập. Cho nên chúng ta không khổ vì nó. Còn ngược lại, đối với
những người không nhận chân được thực tướng của thân thể này là bất tịnh, là vô
thường, là giả có, thì người ta cứ mải mê làm nô lệ cho cái thân này hoài. Cứ
cho thân này là có thật, là trong sạch, người ta cứ vỗ béo, ăn cho ngon, mặc
cho đẹp, đánh phấn son cho cái thân này, chải chuốt cho cái thân này, không ngờ
họ đã đánh phấn son, vỗ béo, chải chuốt cho bọc da hôi thối mà họ không hay
không biết, thật là đáng thương tâm cho họ.
Trong cuốn Sa Di Luật Giải, đức Phật dạy: “Cái khổ của con lừa,
con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa
gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi ấy
mới gọi là khổ”.
Tại sao đức Phật nói cái chở nặng của con lừa, con lạc đà và những
kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Là bởi vì con lừa, con lạc đà và
những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời thôi, còn đối với những người
ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi thì họ sẽ bị
trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi mà không khi nào ra khỏi.
Đạo Phật chúng ta cho thân này là vô thường, là giả hợp, là bất
tịnh, hiểu như vậy có phải một cách yếm thế hay không? Thưa là không phải. Nhờ
chúng ta biết được thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có cho nên ngày nào
còn sống thì ngày đó ta nên sống đẹp và sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.
Chúng ta không nên hiểu một cách yếm thế, cho thân này là vô
thường, là bất tịnh, là giả có rồi chúng ta chán đời, ưng làm gì thì làm, bỏ bê
thân này, chích xì ke, ma túy, quấy phá xã hội. Những ai mà hiểu như vậy hoàn
toàn sai lệch với ý của chư Phật dạy. Chúng ta là những Phật tử đã hiểu đạo,
thì phải luôn tỉnh thức sự sống chết đến với chúng ta rất mau, cái chết nó
không hẹn một ai hết, nó đến với chúng ta một cách bất đắc kỳ tử.
Có khi nào cái chết đến với chúng ta mà ta hẹn là cho tôi sống thêm khoảng 5, 6
ngày nữa rồi tôi chết, không bao giờ có hẹn như vậy được.
Bình nhật thường ngày chúng ta cũng đã từng chứng kiến biết bao
nhiêu là sự chết chóc của mọi người, có người thì chết trẻ, có người thì chết
già v.v…, đã từng chứng kiến như vậy mà tại sao chúng ta không chịu giác ngộ để
sớm tu hành, còn đợi đến chừng nào nữa đây. Chúng ta nên biết rằng: mỗi khi
đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Cho nên
chúng ta phải thương mình lo tu hành đi, đừng có ham gì bả danh lợi giả tạm của
thế gian.
Kinh Tạp A Hàm, đức Phật đưa ra bốn hình ảnh con ngựa để ví dụ bốn
hạng người như sau:
- Con ngựa thứ nhất chỉ thấy bóng roi đã chạy.
- Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên lưng mới chạy.
- Con ngựa thứ ba, đánh cho thật đau mới chạy.
- Con ngựa thứ tư, đánh chết bỏ, lúc lắc chớ không chịu chạy.
Qua hình ảnh bốn con
ngựa, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy được bốn hạng người:
- Hạng người thứ nhất, chỉ nghe tiếng đồn có người chết là giác
ngộ tu ngay.
- Hạng người thứ hai, chỉ chứng kiến một người chết thôi là giác
ngộ tu liền.
- Hạng người thứ ba, đã chứng kiến khoảng 1, 2, 3 người chết, lúc
đó mới chịu tu.
- Hạng người thứ tư, tuy đã chứng kiến vô số người chết mà không
hề nhúc nhích, họ cứ cho là cái chết của người ta chớ đâu phải cái chết của
mình.
Qua bốn con ngựa trên,
đa số chúng ta rơi vào con ngựa thứ tư, ít có ai mà rơi vào con ngựa thứ nhất,
hai, ba.
Vậy, chúng ta sớm tỉnh giác, thân mạng của chúng ta vô thường,
ngắn ngủi, thật chi là trống vắng không có gì là chắc đâu.
Cho dù làm vua, làm quan đi nữa, khi chết cũng để lại đống tro nhơ
mà thôi. Như chúng ta đã biết, sống lâu như ông Bành Tổ là 800 năm, nay đâu
còn, giàu sang như Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng xuôi tay mà thôi.
“Bao
bì cốt nhục nung huân huyết
Cưỡng tác kiều yêu cuống hoặc nhân,
Thiên cổ anh hùng giai nhân tận
Bách niên đồng tác nhất khanh trần”.
Nghĩa là:
“Máu
mủ thịt xương một túi nhơ
Tô điểm chi mong gạt tình hờ
Vạn thuở anh hùng giai nhân tận
Trăm năm để lại đống tro nhơ”.
Chúng ta đã hiểu rõ được thật tướng của thân thể mình rồi. Ngày
nào còn sống thì chúng ta phải tinh tấn tu hành ngày đó, chớ đừng hẹn lần hẹn
lữa. Chớ để cơn vô thường đến cướp ta đi thì trăm nghìn muôn kiếp không có cơ
hội để tu.
Ngày xưa các vị Tổ trong lúc tu hành các Ngài thường luôn để ý đến
sự vô thường và luôn xem sinh tử là sự đại. Khi một ngày trôi qua, các vị Tổ thường
than rằng: “Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi mà ta chưa làm được gì cả!”. Quý Ngài
rất quý thời gian tu vô cùng. Để cho sự tu tập một cách nghiêm mật, các vị Tổ
làm một cái hòm nhỏ để bên gối nằm. Khi nào các Ngài cũng liếc mắt nhìn cái
hòm, ám chỉ là cái chết kề cạnh bên ta, chỉ cần sơ suất một chút thôi là ta
nhảy vào đó liền. Chính cái hòm nhỏ này có một tác dụng lớn lao, nhờ nó mà giúp
cho các vị Tổ tinh tấn tu hành một cách nghiêm mật, không bao giờ xao lãng.
Như chúng ta đã biết, trong kinh công phu chiều có đoạn:
“Thị
nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm
Như thiểu thủy ngư
Tư hữu hà lạc
Đại chúng đương cần tinh tấn
Như cứu đầu nhiên
Đản niệm vô thường
Thận vật phóng dật”.
Nghĩa:
“Ôi!
Một ngày đã trôi qua rồi,
Mạng sống theo đó mà giảm dần
Như cá ở ao cạn nước
Có gì vui đâu
Đại chúng nên cần tinh tấn
Như cứu lửa cháy trên đầu
Luôn nhớ nghĩ vô thường
Chớ nên phóng dật”.
Chúng ta sống cao nhất là khoảng 50 tuổi đến 100 tuổi, đây là số
tượng trưng thôi, cũng có người 1 tuổi chết, có người sống đến 10 tuổi chết, có
người sống 20, 30 tuổi… là chết.
Ví dụ tuổi thọ của chúng ta là 50 tuổi, cứ một ngày trôi qua thì
tuổi thọ giảm còn lại 49 tuổi, cứ như thế mà giảm dần, cho đến khi ta mất mạng.
Tục ngữ có câu: “Nước chảy đá mòn”, cũng giống như cá ở ao mà cạn nước, như
chúng ta đã từng thấy trong các ao hồ, cứ mỗi ngày mặt trời lên, thì nước trong
ao hồ đều bốc hơi, nước cứ mỗi lần bốc hơi như vậy làm cho nước ở ao hồ cạn
dần, thì mạng sống của những con cá ở trong đó cũng theo đó mà giảm dần.
Qua bài thơ trên đây, cho chúng ta thấy được mạng sống của kiếp
người thật là ngắn ngủi, thật là trống vắng vô cùng. Vì vậy, chúng ta nên sớm
tỉnh ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn mà một lòng siêng năng, tinh
tấn, gấp rút tu hành, chớ nên buông lung giải đãi mà bỏ phí qua một kiếp người
thật là oan uổng vô cùng.
Chúng ta phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành như hình ảnh cứu lửa
cháy trên đầu.
Có khi nào lửa đang cháy trên đầu mà chúng ta hẹn là hãy đợi tôi
một hai phút rồi tôi dập tắt sau. Không bao giờ hẹn được, lửa vừa cháy là chúng
ta nhanh chóng dập tắt liền, còn nếu chậm trễ một chút thôi thì nó thiêu đốt
chúng ta ngay. Cũng vậy, qua hình ảnh này ngụ ý cho ta thấy được: nếu chúng ta
không chịu gấp rút tu hành thì quỷ vô thường đến cướp ta ngay. Lúc này, cho dù
chúng ta than van, kêu trời kêu đất, cầu khẩn một cách tha thiết đi nữa thì
cũng đã muộn màng lắm rồi. Cổ đức dạy rằng: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa
rảnh, quỷ sứ đòi khóc một khóc hai”, hay là: “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật,
cô phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là: chớ để tuổi già mới niệm Phật, mồ
hoang lắm kẻ tuổi còn xanh. Vì vậy, chúng ta nên sớm giác ngộ vô thường mà gấp
rút tu hành, chớ đừng để luống qua một kiếp người thì trăm nghìn muôn kiếp khó
mà kiếm lại được. Chúng ta đã hiểu như thế nào là vô thường, cũng đã thấy rõ
được thật tướng của thân thể mình, thì chúng ta phải sống như thế nào đây, để
chuẩn bị cho ngày ra đi của mình một cách êm đẹp. Phải hiểu rằng, chúng ta sống
hôm nay là để chuẩn bị cho ngày ra đi, chớ ta không nên ham sống mà bỏ quên đi
ngày nhắm mắt xuôi tay, đây là điều tối quan trọng, chúng ta nên nhớ mãi.
Sống như thế nào để trở thành một người lương thiện có đạo đức, có
tu tập. Trước hết, chúng ta phải nên quy y Tam bảo.
Theo tư tưởng của kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Muốn sinh về Cực
lạc, phải tu ba phước:
- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết
hại, tu mười nghiệp lành.
- Thọ trì Tam quy, giữ kỹ các giới, không phạm oai nghi.
- Phát lòng Bồ-đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa,
khuyến tấn người tu hành”.
Ba thứ phước này là
chánh nhân Tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây là nói về
dùng phước lực để vãng sinh.
Quy y tam bảo
Muốn trở thành một người Phật tử trước hết chúng ta phải quy y Tam
bảo. Cho nên, việc quy y Tam bảo là việc cần thiết không thể thiếu được.
Như thế nào gọi là quy y Tam bảo?
Chúng tôi xin giải
nghĩa bốn chữ “Quy y Tam bảo”.
- Quy: quay về
- Y: nương tựa.
- Tam bảo: ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.
Vậy, “Quy y Tam bảo” là
quay về nương tựa với Phật, Pháp, Tăng.
Tại sao chúng ta phải quy y Phật? Phật là đấng giác ngộ sáng suốt,
là bậc “thiên nhân chi đạo sư, tứ sinh chi Từ phụ”. Vì vậy, chúng ta nên quy y
Phật.
Tại sao chúng ta phải quy y Pháp? Bởi vì pháp là chân lý do đức
Phật nói ra, nhờ pháp mà chúng ta có được cuộc sống an lạc, giải thoát, cho nên
chúng ta phải quy y Pháp.
Tại sao phải quy y Tăng? Tăng là hòa hợp, là trang nghiêm thanh
tịnh, chư Tăng là những người thay thế đức Phật hoằng truyền Chánh pháp, cho
nên chúng ta phải quy y Tăng. Đây là nói về sự quy y Tam bảo. Còn lý quy y Tam
bảo là sao? Là chúng ta quy y (nương tựa) tự tánh Tam bảo trong ta, trong ta
cũng sẵn có đủ Phật, Pháp, Tăng. Nhưng muốn đạt được tự tánh Tam bảo, điều cần
thiết chúng ta phải quy y sự Tam bảo. Tại sao chúng ta cần phải quy y sự Tam
bảo? Là vì thế này, nhờ ông Phật bằng gỗ, bằng xi măng mà chúng ta lễ lạy, mới
đánh thức được ông Phật bên trong của chúng ta. Nhờ sự quy y Pháp là những lời
đức Phật dạy, qua những lời dạy đó, giúp chúng ta nhận ra được, hiểu ra được
đâu là chánh đâu là tà, rồi áp dụng tu hành thì lúc đó chúng ta mới thức tỉnh
được pháp tánh trong ta. Sự quy y Tăng, là nhờ hình bóng của chư Tăng hiện tại
mà ta khởi được lòng tôn kính, nhờ sự tôn kính này mới giúp ta thấy được bản
thể thanh tịnh hòa hợp trong ta. Như vậy chúng ta cũng đã hiểu được như thế nào
là sự, lý quy y Tam bảo.
Khi quy y thì chúng ta lãnh thọ năm giới:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói dối.
5. Không uống rượu.
Năm giới này rất quan
trọng, không chỉ riêng người Phật tử thọ trì mà hàng xuất gia cũng lấy năm giới
này làm gốc. Muốn đạt được quả vị Phật thì cũng không ngoài năm giới này.
Năm giới này là nền tảng sống, là chân hạnh phúc cho chúng ta, nếu
chúng ta tu tiến hơn nữa là chúng ta tu thêm thập thiện: Thân có ba, khẩu có
bốn, ý có ba.
Thân có ba: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói
lời thêu dệt, không nói lời hung ác.
Ý có ba: Không tham, không sân, không si
Nếu như toàn thế giới ai ai cũng biết giữ năm giới, tu thập thiện
thì ắt hẳn thế giới đó sẽ có tràn đầy hạnh phúc, người với người sống trong
tình đạo, luôn sống trong tình huynh đệ, biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau,
người mạnh thì biết nâng niu người yếu, biết tôn trọng lẫn nhau, biết kính trên
nhường dưới, biết hoan hỷ xả bỏ cho nhau. Ôi! Nhân quả không sai chạy. Nếu
chúng ta biết gieo nhân lành thì chúng ta sẽ hưởng quả lành, đây là một chân lý
từ muôn thuở không bao giờ sai chạy.
Khi đức Phật còn tại thế, có Bà-la-môn hỏi Phật: “Con đã thọ trì
năm giới, tu thập thiện, hằng ngày con luôn sống là một người hiền lành đạo đức
thì sau này con chết con sẽ đi về đâu, xin Ngài hãy chỉ dạy cho con được rõ”.
Đức Phật dạy: “Này Bà-la-môn, có một cây nghiêng về hướng Tây, khi
nó ngã, thì nó sẽ ngã về hướng nào?
– Bạch đức Thế Tôn, tất nhiên nó phải ngã về hướng nó đã
nghiêng.
– Cũng vậy, cả cuộc đời Bà-la-môn biết sống là một người hiền
lương thì sau khi chết sẽ sinh vào một thế giới an lành”.
Chúng ta phải biết rằng, theo đạo Phật là phải tin chắc nhân quả.
Nếu chúng ta gieo hạt ớt thì cho ra quả ớt. Nếu chúng ta gieo hạt
chanh thì sẽ cho ra quả chanh. Chớ không ai mà gieo hạt ớt cho ra quả chanh bao
giờ. Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác, niệm Phật thì sẽ thành Phật, chúng
ta phải hiểu nhân quả một cách rõ ràng như vậy thì sự tu hành của chúng ta mới
phát triển được.
Trong sách này chúng tôi chỉ đề cập đến giới thứ nhất: “Không sát
sinh”.
Khi chúng ta chưa quy y Tam Bảo, chưa thọ trì năm giới thì chúng ta sát sinh vô
tội vạ, gặp con vật nào mà thích ăn là giết nó chớ không hề có lòng từ gì cả.
Chỉ vì món ăn ngon, vì vỗ béo cho thân thể mình mà mình tàn nhẫn cầm dao cướp
mất đi mạng sống của mọi loài. Thử hỏi quý vị, có ai đó cầm dao cắt cổ mình,
mình có biết đau không? Đau lắm phải không quý vị. Cũng vậy, khi chúng ta cầm
dao cắt cổ con vật thì nó cũng biết đau như chúng ta vậy đó, chúng ta cũng biết
ham sống sợ chết, thì con vật nó cũng vậy, nó cũng biết ham sống sợ chết, tuy
hình hài của nó khác chúng ta, nhưng đời sống tâm thức của nó cũng không khác
ta.
Thượng tọa Chơn Thanh có kể một câu chuyện như sau: Có một anh
chàng nọ, nhà ở gần chùa, chuyên làm nghề đồ tể. Mỗi ngày vào khoảng 4 giờ
khuya, chùa đổ chuông, anh đều thức dậy mổ lợn. Một hôm, chùa không đổ chuông
nên anh ngủ luôn tới sáng. Tức giận vì hôm nay không có thịt để ra chợ, anh lăm
lăm cầm dao qua chùa quát tháo inh ỏi, chửi bới lung tung. Nghe ồn ào, Hòa
thượng bước ra ngoài xem sao. Anh ta thấy Hòa thượng lại càng hung hăng, quơ
dao chửi bới, bộ dạng đáng sợ vô cùng: “Tu hành gì mà ham ngủ, khuya không chịu
dậy đổ chuông, làm cho tôi mất một buổi chợ…”. Với thái độ điềm tĩnh và lời lẽ
từ hòa, Hòa thượng ôn tồn giải thích: “Đêm qua tôi nằm mộng thấy một người đàn
bà dẫn theo 12 đứa nhỏ đến van xin tôi hãy mở lòng từ bi cứu lấy mạng sống của
họ, bằng cách khuya nay đừng đổ chuông”. Nghe Hòa thượng giải thích, anh ta
ngạc nhiên và dịu dần cơn giận. Trở về nhà, ra chuồng lợn coi, thì anh thấy con
lợn mà anh chuẩn bị giết đã đẻ ra 12 con lợn nhỏ. Quá sợ hãi, anh vội vàng qua
chùa xin gặp Hòa thượng kể lại sự tình. Nhân đó, Hòa thượng giảng cho anh nghe
về hậu quả của nghiệp sát sinh. Nghe xong, anh tự thấy tội lỗi tày trời, gục
đầu dưới chân Hòa thượng, cầu xin sám hối, nguyện buông dao, dứt nghiệp sát,
chuyển sang nghề lành để sinh sống.
Trong kinh Tạp A Hàm nói: “Nếu có người nào muốn giết hại ta, ta
không vui, thì tất nhiên kẻ khác cũng vậy, không vui cho ta giết hại họ. Tại
sao mình muốn mạng sống mình còn mà lại giết hại mạng sống của kẻ khác? Như vậy
là trái ngược, con người cần phải sửa chữa”.
Đức Phật dạy: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”. Nếu
chúng ta giết một con vật, là ta tự giết Phật tánh của nó, tội rất nặng.
Nếu hôm nay chúng ta ăn 1 ký thịt thì mai sau sẽ phải trả 10 ký
thịt, nếu giết người bằng một viên đạn thì sau này sẽ nhận lãnh bằng một viên
đại bác, không bao giờ nằm ngoài luật nhân quả.
Khổng Tử than rằng: “Sinh tiền bất tri thiên đường lộ, tử hậu nan
ly địa ngục môn”, nghĩa là: lúc sống mà không biết làm việc lành, thời sau khi
chết khó mà thoát khỏi cửa địa ngục. Đây là một chân lý không bao giờ sai chạy
được.
“Nhất
thiết chúng sinh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình”.
Nghĩa là:
“Hết
thảy chúng sinh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đao binh.
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện.
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình”.
Bởi vì chúng sinh do vô minh che lấp mà cứ hơn thua, đố kỵ đâm
giết lẫn nhau, chính vì nhân vô minh này khiến cho chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong
vòng sinh tử không khi nào ra khỏi. Khi thì đầu thai thành người, khi thì đầu
thai làm con vật, cứ thay nhau đầu thai như vậy để mà trả vay, vay trả cho nhau
không khi nào ngừng nghỉ.
Chúng ta hãy lấy lời đức Phật dạy mà suy rộng ra, mỗi ngày chúng
ta giết những con cá, con gà, con vịt, con bò v.v… không ngờ là chúng ta cầm
dao giết cha mẹ anh em, con cái của ta nhiều đời nhiều kiếp mà ta không hay
không biết. Nhất là những bữa ăn, những đĩa thịt, những đĩa cá tràn đầy. Không
ngờ những đĩa thịt, đĩa cá đó là thịt của cha mẹ, anh em, con cái của ta đó.
Quý vị thấy kinh hoàng không, tại sao không ngưng ngay nghiệp sát ư?
Trong kinh Vu Lan có đoạn ghi: “Ta lễ bái những bậc tiền bối và
ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa, không phân trai gái bỏ
bừa khó coi, chắc cũng có ông bà, cha mẹ hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh, luân hồi
sinh tử lộn quanh, lục thân đời trước thi hài còn đây”.
Phật dạy từ vô lượng kiếp cho đến nay, chúng ta lang thang mãi
trong vòng sinh tử luân hồi bất tận đến nỗi tất cả chúng ta đều là thân bằng
quyến thuộc của nhau, dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Vì thế Phật nói:
“Này các Tỳ kheo, thật khó mà tìm được kẻ nào trong đời quá khứ chưa từng là
cha mẹ, anh em, chị em, con cái của các ngươi”.
Chúng ta là người Phật tử, là con Phật, phải thấu hiểu lời Phật
dạy, không chỉ chúng ta có cha mẹ, anh em, con cái trong một kiếp này đâu, mà
phải hiểu rằng, vì sinh tử luân hồi hiện bây giờ cha mẹ, anh em, con cái của
chúng ta đang ở cảnh giới súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, nhân, thiên, nói tóm lại
là ở trong lục đạo.
Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát Giới, đức Phật dạy: “Tất cả người nữ
là mẹ ta, tất cả người nam là cha ta, mỗi đời ta từ đó sinh ra, chúng sinh
trong lục đạo đều là cha mẹ của ta, nếu ta giết mà ăn chính là ta giết cha mẹ
của chúng ta”.
Chúng ta đã nhiều đời nhiều kiếp có tu rồi, nên hôm nay chúng ta
biết quy y Tam bảo, gặp được Chánh pháp, nghe được lời Phật dạy, biết được
trong vô lượng kiếp ai ai cũng là thân bằng quyến thuộc của ta cả. Chúng ta đã
hiểu một cách tường tận như thế rồi thì phải mau mau lập tâm sám hối, ngưng
ngay việc sát sinh, bên cạnh đó, chúng ta phải thường xuyên mua vật phóng sinh
để chuộc lại những tội lỗi mà mình đã tạo từ vô lượng kiếp cho đến bây giờ.
Như vậy, đã quy y Tam Bảo, cũng đã hiểu rõ lời Phật dạy rồi, thì
chúng ta nên phát khởi cái tâm Bồ-đề rộng lớn.
Tín - Hạnh - Nguyện
Pháp môn Tịnh độ, niệm
Phật cầu vãng sinh Cực lạc, cần phải đầy đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện,
Hạnh.
Tín là chúng ta phải tin sâu, nguyện là phải thiết tha, hạnh là
phải hành chuyên.
Đối với niềm tin là phải tin ở 6 điều: Tin tự, tin tha, tin nhân,
tin quả, tin sự, tin lý.
1. Tin tự (tin ở nơi mình): tức là tin tất cả đều do
ở nơi tâm của mình tạo ra cả “nhất thiết duy tâm tạo”. Vì thế, nếu mình niệm
Phật ắt sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn không sai.
2. Tin tha (tin ở nơi người): tức là tin Phật Thích
Ca không bao giờ nói dối. Phật A Di Đà chẳng thệ nguyện suông. Như chúng ta
thường biết, đức Phật chế giới răn dạy chúng ta là đừng nói dối thì làm sao mà
Ngài nói dối chúng ta, đây là cái điều không có.
Kinh Dược Sư ghi: “Trăng sao còn có thể rơi, núi cao còn có thể
mòn, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời đức Phật nói ra thì trăm nghìn muôn
kiếp không sai chạy”.
Kinh Đại Tập có ghi: “Mãnh phong khả thuyết tác hệ phược, Tu di
khả thuyết khẩu xuy động, bất khả thuyết Phật hữu nhị ngữ, thực ngữ như ngữ cập
tịnh ngữ” (có thể bảo: buộc luồng gió mạnh thổi lung lay hòn núi Tu di, nhưng
không thể bảo Phật nói trước sau khác nhau, bởi vì Phật bao giờ cũng nói toàn
là sự thật, chân chính và trong sạch). Như vậy, chúng ta phải tin chắc Pháp môn
Tịnh độ do đức Phật Thích Ca nói ra, tin chắc 48 lời nguyện của Phật A Di Đà là
như đinh đóng cột, cho nên, nếu như y theo Pháp môn Tịnh độ mà hành trì tất sẽ
cảm được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn sinh về Cực lạc.
3. Tin nhân: tức là tin niệm Phật chính là nhân vãng sinh, giải
thoát.
4. Tin quả: tức là tin sự vãng sinh và thành Phật là kết quả.
5. Tin sự: tức là tin cảnh giới Tây phương Cực lạc và tất cả các
sự tướng ở nơi cõi ấy, đều là có thật.
6. Tin lý: tức là tin điều “lý tánh duy tâm” nghĩa là một tâm của
mình bao trùm khắp cả mười phương quốc độ của chư Phật.
Để phát khởi tín tâm
vững chắc đối với Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi xin giới thiệu mười niềm tin
trong cuốn Luận Tịnh Độ Chỉ Quy.
1. Tin Phật thuyết pháp.
2. Tin hàng phàm phu trong cõi mê, thần thức không bao giờ tiêu
diệt.
3. Tin rằng nếu trong cõi này tu hành không đắc đạo quả thì
không thể tránh khỏi luân hồi.
4. Tin rằng cho dù sinh lên cõi trời cũng không tránh khỏi bị
đọa lạc (kinh Niết Bàn, quyển 38, đức Phật dạy: “Dầu ai có làm bậc Tứ Thiên
Vương, lần lên bậc Tha Hóa Tự Tại Thiên, rồi khi mạng chung cũng có thể rơi vào
loài súc sinh, mang lốt sư tử, cọp, beo, voi, ngựa v.v…”.
5. Tin rằng chúng sinh đã về thế giới Cực lạc thì vĩnh viễn
không còn thối chuyển. Kinh A Di Đà nói rằng: “Những người sinh về đó, đều là
A-bệ-bạt-trí, bất thối chuyển, không còn bị rơi rớt nữa”.
6. Tin rằng chúng sinh phát nguyện sinh về thế giới Tịnh độ,
thì chắc chắn sẽ vãng sinh.
7. Tin rằng chỉ cần xưng niệm một danh hiệu Phật thì sẽ tiêu
diệt được trọng tội sinh tử trong 81 kiếp (kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật
dạy: “Muốn vãng sinh Cực lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh
hiệu chính là biểu tướng của Pháp thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp
thân Phật vậy. Vì sao người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm pháp tu nào khác? Vì
ngay nơi danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên
công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo,
uy lực không thể nghĩ bàn”.
8. Tin rằng người niệm Phật sẽ được Phật A Di Đà vận dụng thần
thông chiếu sáng nhiếp thủ mà không hề xả bỏ.
Trong kinh Thập Vãng Sinh giảng rất rõ rằng: “Không những Phật
A Di Đà dùng bản nguyện nhiếp thọ oai lực gia trì, mà Ngài thật sự từ bi đến
cực điểm, còn phái 25 vị Bồ tát ngày đêm bảo hộ. Người niệm Phật là người ít có
ở thế gian, người niệm Phật được mười phương tất cả chư Phật khen ngợi, hộ
niệm, 25 vị Bồ tát ngày đêm hộ vệ, tuyệt không cho đó là lỗi”.
9. Tin rằng người niệm Phật có hằng hà sa chư Phật trong mười
phương dùng thần thông hộ niệm người ấy (kinh A Di Đà, đức Phật dạy rằng: “Nhữ
thị đẳng hằng hà sa số các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú
tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sinh
đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm
kinh”. Nghĩa là: còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng, cũng như thế nữa, đều ở
nước mình, và đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế
giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh ngươi, nên tin kinh này, là bản kinh:
tán thán công đức, chẳng xiết nghĩ bàn, và được hết thảy chư Phật hộ niệm).
Khi đức Phật Thích Ca nói ra pháp môn này, sợ chúng sinh đời
mạt pháp không tin (nan tín chi pháp) pháp khó tin. Cho nên chư Phật mười
phương mới xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới để
cùng hộ niệm với lời nói của đức Phật Thích Ca. Các đức Phật mười phương nói
rằng: “Này các chúng sinh ơi! Các ngươi phải tin đi, những lời đức Phật Thích
Ca nói ra đều là sự thật, các ngươi nên tin chắc mà y giáo phụng hành”. Lúc này
chúng sinh nghe vậy liền tin. Chúng tôi lấy ví dụ: khi tôi nói một điều gì cho
một Phật tử, thì vị Phật tử này chưa chắc tin trọn vẹn lời nói của tôi, Phật tử
này còn nghi ngờ rằng: Không biết ông thầy này nói đúng hay sai, Phật tử này cứ
đắn đo hoài, lúc này có khoảng mười thầy đến nói rằng, này vị Phật tử, Phật tử
nên tin lời nói của thầy đó đi, thầy ấy nói toàn sự thật, không bao giờ nói dối
Phật tử đâu, lúc này người Phật tử mới tin chắc.
Chư Phật xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên
thế giới có nghĩa là gì? Tướng lưỡi rộng dài nhằm chỉ cho biết là chư Phật mười
phương ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều là nói chân thật, không bao giờ nói
dối. Chúng ta không nên hiểu sai “tướng lưỡi” là cái lưỡi bằng xương bằng thịt
như của chúng ta đâu.
10. Tin rằng khi sinh về đó sẽ chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Triệt Ngộ đại sư có bài kệ:
“Nhất
cú Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sinh
Tiên bổ Phật vị”.
(Một câu Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ trong một kiếp
Lên ngôi vị Phật).
Trong kinh A Di Đà dạy: “Những người vãng sinh về thế giới Cực lạc
đều trở thành A-bệ-bạt-trí”. Chữ A-bệ-bạt-trí nguyên tiếng Phạn đọc là
Avaivarti, chữ Hán là dịch bất thối (chẳng lui sụt). Có ba nghĩa:
- Vị bất thối: đã dự vào địa vị Tứ Thánh rồi, chẳng sa đọa
xuống địa vị lục phàm nữa.
- Hạnh bất thối: đã tu hạnh Bồ tát thường hóa độ chúng
sinh, chẳng sa đọa xuống địa vị Nhị thừa nữa.
- Niệm bất thối: tâm tâm, niệm niệm, giờ phút nào cũng như
dòng nước chảy vào bể Tát-bà-nhã (bể Nhất thiết trí).
Theo Thiên Thai giáo thì khi tới Đệ nhất trụ mới đến ngôi vị bất
thối, khi chứng Thập hồi hướng mới lên ngôi hạnh bất thối, và khi chứng ngôi Sơ
địa Bồ tát mới đạt được niệm bất thối.
Theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, thì khi trừ được tư hoặc và
kiến hoặc mới lên ngôi vị bất thối; phá được trần sa hoặc mới lên ngôi hạnh bất
thối; và trừ được vô minh hoặc mới lên ngôi niệm bất thối. Nghĩa là phải tu
a-tăng-kỳ kiếp mới chứng được tam bất thối, nhưng đối với Pháp môn Tịnh độ, chỉ
cần vãng sinh Cực lạc quốc là vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa và chắc chắn
đạt được quả vị Phật.
Qua mười niềm tin trên đây, chúng ta phải tin chắc không có
một ý nào mà ta không tin. Chỉ có tin thì chúng ta mới đạt được tất cả, bằng
không thì chúng ta sẽ mất tất cả. Vì thế trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Lòng
tin là mẹ đẻ các công đức, lòng tin hay nuôi lớn căn lành, lòng tin hay tựu quả
Bồ-đề của Phật”.
Chúng ta có tin chắc là có cảnh giới Cực lạc không? Để trả lời câu
hỏi này một cách chính xác, chúng tôi sẽ đưa ra một vài dẫn chứng, sự kiện để
chứng minh.
Trước tiên, chúng tôi xin dẫn chứng kinh A Di Đà, đức Phật dạy:
“Xá Lợi Phất! Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh
viết Cực lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp”, nghĩa là:
Xá Lợi Phất ơi! Từ đây đi về bên Tây phương kia trải qua hết mười muôn ức cõi
Phật, có một thế giới gọi là Cực lạc, cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà, hiện đang
thuyết pháp.
Qua đoạn kinh trên đây cũng đủ ý cho ta tin là có cảnh giới Cực
lạc. Tại sao chúng ta tin? Tại vì cảnh giới Cực lạc chính đức Phật Thích Ca nói
ra. Ngay tựa kinh cũng đủ cho chúng ta tin, “Phật Thuyết A Di Đà Kinh” là Phật
nói kinh A Di Đà.
Xin đơn cử một ví dụ: thời vua Tự Đức, có ông Nguyễn Trường Tộ qua
Pháp để du học. Sau khi trở về nước kể lại những văn minh của nước Pháp như là:
đèn treo ngược không có dầu cũng cháy, xe không người lái cũng chạy cho vua
nghe, thì vua bác bỏ không tin, cho ông Nguyễn Trường Tộ là nói láo, vua tức
giận đòi chém đầu.
Qua câu chuyện này cho ta thấy những lời ông Nguyễn Trường Tộ nói
đều là sự thật, bởi vì ông đã trực tiếp sang Pháp về. Vì sao vua Tự Đức bác bỏ
và không tin những văn minh của nước Pháp? Là vì vua chưa thấy cho nên không
tin, nhưng thật sự là có nước Pháp có những điều đó. Cũng vậy, đức Phật của
chúng ta cũng đã từng dạo chơi ở cõi Tây phương Cực lạc, thấy cõi Cực lạc rõ rõ
ràng ràng, như thấy trái chanh trong lòng bàn tay. Cho nên, Ngài mới thuật lại
cho chúng ta nghe. Vì thế mà chúng ta phải tin chắc là có cõi Cực lạc của Phật
A Di Đà, một lòng niệm Phật cầu vãng sinh, thì có lợi vô cùng. Ấn Quang đại sư
đã dạy rằng: “Nên để ý, đừng đem trí hiểu biết của phàm phu suy độ, nhận lầm
rằng: bao nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây phương đều thuộc về ngụ ngôn
để thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật”. Nếu có sự hiểu biết lầm lạc
ấy, tất sẽ mất điều lợi ích vãng sinh Tịnh độ, mối hại này lớn phải nên cẩn
thận.
Tâm trí của các đức Phật thật là sáng suốt không có gì ngăn ngại
cả, cũng giống như một hồ nước trong thật trong, khi ta nhìn vào hồ thì ta sẽ
thấy rõ ràng những vật nằm trong đó. Các đức Phật mười phương đặc biệt có được
Phật nhãn, cho nên khi các Ngài nhìn thì không có chỗ nào mà các Ngài không
thấy cả. Còn con mắt phàm phu của chúng ta thì chỉ nhìn được xa nhất là 1 cây
số thôi, với cách nhìn kém cỏi như vậy thì làm sao chúng ta thấy được những thế
giới hiện đang hiện hữu ở trong vũ trụ này.
Chúng ta tin có lục đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la,
nhân, thiên) thì tất nhiên chúng ta phải tin chắc là có cõi Cực lạc không sai
chạy.
Khoa học biện chứng
Ngày nay, nền khoa học đã phát triển cực nhanh, các nhà khoa học
đã dùng phi thuyền và nhiều phương tiện hiện đại để khám phá, tìm hiểu vũ trụ.
Sau nhiều lần thực nghiệm, họ đã chứng minh rằng ngoài hành tinh của chúng ta,
còn có vô số hành tinh khác nữa, trong đó có những hành tinh có sự sống.
Nhà Thiên văn học Melvin Berger ước tính rằng: Vũ trụ có hàng tỷ tinh vân, hàng triệu thiên hà cùng thiên thể đủ loại. Nếu có người nào diễm phúc ngồi trên một phi thuyền không gian, bay với vận tốc ánh sáng thì có thể dạo chơi vòng quanh vũ trụ, rồi trở lại về điểm xuất phát sau một thời gian chừng 200 tỷ tỷ năm!
Thời Phật còn tại thế, bằng thiên nhãn siêu việt, Ngài nhìn thấy
trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn vi trùng. Những người sống cùng thời
đức Phật cho đó là chuyện hoang đường và không tin. Ngày nay, khoa học tiến bộ,
đem lời dạy của đức Phật xác chứng lại, thấy đúng vô cùng, trong một bát nước
có hàng vạn vi trùng tồn tại. Chúng ta thấy, các nhà khoa học đã tin như vậy,
thì làm sao chúng ta lại không tin.
Thật may mắn cho đạo Phật của chúng ta, ra đời gặp được nền khoa
học phát triển cực nhanh, nhờ sự phát triển đó, mà đã chứng minh được những lời
đức Phật dạy là thực tế, không viễn vông.
Ngược lại, nếu nền khoa học không phát triển, không dùng kính hiển
vi nhìn vào nước thấy có vi trùng, không dùng phi thuyền khám phá vũ trụ, thì
những lời đức Phật dạy trong nước có vi trùng, trong vũ trụ có vô số tam thiên
đại thiên thế giới, chỉ là hư vọng mà thôi.
Nhưng các nhà khoa học chỉ mới tìm thấy một số thế giới, còn vô số
thế giới khác nữa chưa tìm thấy được.
Trong kinh A Di Đà, đức Phật dạy: “Từ đây đi sang cõi Cực lạc kia
thì phải trải qua mười muôn ức Phật độ, mới đến được cõi Phật A Di Đà”. Theo
như các nhà khoa học tính:
“Ức” ở đây là mười triệu, vậy mười vạn ức, thành một nghìn
nghìn triệu.
Phật độ: là một khu vực của một vị Phật hóa độ, trong kinh Phật gọi là một tam
thiên đại thiên thế giới, danh từ khoa học gọi là một tỷ thái dương hệ.
Nay hãy nói, thế nào là một Phật độ (hay là một tam thiên đại thiên thế giới).
Ta lấy ngay quả đất của chúng ta đang sống, quả đất của chúng ta có một hòn núi
Tu di cao nhất, bốn bên Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi bên là một châu, chung quanh
có Thiết Vi bọc lấy, châu nào cũng cùng chung ở dưới một mặt trời, một mặt
trăng soi vào, mỗi châu là một thiên hạ; quả đất có bốn thiên hạ. Cho nên gọi
là “quả tứ thiên hạ”.
Một nghìn quả tứ thiên hạ gọi là một tiểu thiên thế giới.
Một nghìn tiểu thiên thế giới gọi là một trung thiên thế giới.
Một nghìn trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giới.
Vậy chữ “tam thiên” ở
đây có nghĩa là một nhân với ba lần một nghìn, chứ không phải là ba nghìn. Tức
là: 1 x 1000 = 1000 (tiểu thiên); 1000 x 1000 = 1.000.000 (trung thiên);
1.000.000 x 1000 = 1.000.000.000 (đại thiên).
Nay Phật bảo: “Phải đi qua mười vạn ức Phật độ, như thế về phía
Tây, đến đấy là thế giới Cực lạc”.
Thế mới biết vũ trụ quanh ta huyền bí chừng nào và sự hiểu biết
của loài người còn rất nông cạn, sao dám phủ nhận điều mà Phật Thích Ca, đấng
giác ngộ hoàn toàn đã trông thấy rõ.
Quả thật, lời nói của đức Phật cách đây hơn 2500 năm không hề sai
chạy. Chính vì chỗ này, các nhà khoa học rất kính phục đức Phật, xem đức Phật
là một bậc thầy, là một kết quả, là một đáp số đúng nhất để họ tham khảo. Vì
thế, nhà bác học thiên tài Albert Einstein đã nói rằng: “Nếu có một tôn giáo
nào đáp ứng mọi nhu cầu của khoa học hiện đại, đó là Phật giáo”.
Hôm nay, sự thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân
loại, đòi hỏi thẩm định lại giá trị của nhiều tư tưởng triết học xưa nay; và
đương nhiên, những triết học mang tính phi lý lạc hậu, phản khoa học đều phải
tự đào thải trước sự phát triển văn minh của loài người.
Đức Phật đã nhận thấy rằng: Ngài đã làm việc rất khó, là giới
thiệu cảnh Cực lạc thế giới xa lạ cho người phần đông mắc chứng đa nghi. Nhưng
vì nặng tâm từ, thương chúng sinh phải trôi lăn mãi trong bể khổ, nên dù biết
là việc rất khó nhưng Ngài vẫn cứ làm (nan tín chi pháp–kinh A Di Đà).
Như chúng ta biết khi đức Phật chứng được quả vị Bồ-đề, Ngài muốn
đem pháp tối thượng thừa để dạy chúng sinh, nhưng khổ nỗi, chúng sinh đời mạt
pháp này đa số là căn tánh chậm lụt, cho nên Ngài không truyền trao pháp tối
thượng thừa được. Ngài tùy theo căn cơ của chúng sinh, mà thiện xảo phương
tiện, phương tiện trì danh niệm Phật nguyện vãng sinh là một trong những phương
tiện dễ tu dễ chứng cho chúng sinh đời mạt pháp. Chúng ta biết rằng: thuốc
không quý tiện, lành bệnh là hay, pháp không thấp cao, hợp cơ là đúng.
Cho dù pháp tối thượng thừa liễu nghĩa là quý, nhưng nếu chúng ta
truyền trao không đúng thời, không đúng lúc, thì sẽ trở lại bình thường không
quý.
Xin đơn cử một ví dụ: đứa bé học lớp 1 mà ta đem trình độ lớp 12
dạy cho nó thì quá ư là sai lệch, chúng ta phải lấy kiến thức lớp 1 dạy cho nó,
có như vậy mới đưa đến lợi lạc cho đứa bé. Ngược lại chúng ta lấy kiến thức lớp
12 dạy cho đứa bé, đứa bé không hiểu gì cả, chỉ là vô ích mà thôi. Qua ví dụ
này cho ta thấy được, cái quý, cái tối thượng thừa là ở chỗ phải hợp thời cơ,
thực tế, chúng sinh tu được, học được ấy mới gọi là quý, là tối thượng thừa.
Còn nếu chúng ta nói lý cao siêu mà mọi người không hiểu, không thực tế chỉ là
đầu môi chót lưỡi, viễn vông, vô ích.
Các đức Phật trong quá khứ, khi thành Phật các Ngài nói toàn là
pháp tánh, nhưng đặc biệt riêng đức Phật Thích Ca chúng ta nói pháp tánh lẫn
pháp tướng. Vì vậy, mà chúng sinh đời mạt pháp có vô số phương tiện để tu tập,
tuy nhiều như vậy nhưng chỉ có một mà thôi, đó là thành Phật. Phương tiện của
đức Phật dạy cũng giống như một trận mưa lớn xuống trần gian, tùy theo mọi loài
mà nhận lượng nước của mình để nuôi sống.
Như vậy, qua những dẫn chứng, sự kiện trên đây đủ chứng minh cho
ta thấy được cõi Cực lạc là có thật. Chúng ta đã có tín tâm vững chắc rồi thì
một lòng chuyên niệm danh hiệu của Ngài, thiết tha nguyện rằng: “Sau khi lâm
chung cho con dứt hết mọi phiền não, tận mặt được thấy Phật A Di Đà và Thánh
chúng liền được vãng sinh về thế giới của Ngài”.
Chúng ta đã theo pháp môn tha lực Tịnh độ, bên sự tự lực, nguyện
lực của chúng ta, thì ta cần phải nương vào tha lực của Phật A Di Đà, nhờ tha
lực của Phật mà sự vãng sinh của chúng ta dễ dàng hơn.
Vào thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có quốc vương Vô Tránh Niệm
xuất gia trở thành Pháp Tạng Tỳ kheo, trên bước đường tu tập hành Bồ tát đạo,
vì muốn cứu độ hết thảy chúng sinh cho nên Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát ra 48 lời
nguyện để cứu độ chúng sinh, và đây xin đọc lời nguyện thứ 18 của Ngài:
“Giả sử khi tôi thành Phật, nếu có chúng sinh trong mười phương
tin ta, niệm ta, khi lâm chung chỉ nhớ một niệm cho đến mười niệm, nếu không
sinh về nước tôi, tôi thệ không lấy ngôi Chánh giác”.
Căn cứ theo lời nguyện thứ 18, đức Phật yêu cầu chúng ta rằng: Chỉ
cần chúng ta tin Ngài, niệm Ngài, khi lâm chung chỉ nhớ một cho đến mười niệm
thì chúng ta sẽ được sinh về thế giới của Ngài ngay tức khắc.
Chư Phật ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai không có vị Phật nào mà
nói dối chúng sinh cả, mỗi khi các Ngài đã phát ra một lời nguyện nào thì như
đinh đóng cột. Đức Phật dạy chúng ta không được nói dối thì làm sao các Ngài
nói dối chúng ta được. Chúng ta phải có lập trường vững chắc như vậy, thì chúng
ta mới thiết tha niệm Ngài, thì công phu tu tập của chúng ta tinh tấn hơn. Còn
ngược lại chúng ta đa nghi, không biết Phật A Di Đà phát nguyện thật hay không,
chúng ta cứ nghi nghi, ngờ ngờ như vậy, đánh mất đi lòng tin đối với đức Phật,
khi đánh mất đi lòng tin rồi thì sự công phu tu tập niệm Phật của chúng ta không
thiết tha, không nghiêm mật thì hỏi làm sao cảm ứng đạo giao được với bản
nguyện của Phật A Di Đà.
Chúng ta muốn đi đâu xa, thì cần phải có tư lương như là tiền tài,
vật thực, thuốc men v.v… thì chúng ta mới đi được chớ. Còn ngược lại chúng ta không
có tiền tài, vật thực, thuốc men thì làm sao chúng ta đi được.
Cũng vậy, nếu chúng ta vãng sinh về thế giới Cực lạc của Phật A Di
Đà thì chúng ta phải gieo nhân niệm Phật, nhân niệm Phật chính là tư lương,
hành trang cho chúng ta được vãng sinh. Còn bằng không, thì không bao giờ sinh
về thế giới của Ngài được. Cũng giống như chúng ta muốn qua sông thì cần phải
có thuyền, nếu chúng ta bỏ thuyền thì không bao giờ qua bên kia sông được.
Các đức Phật trong mười phương thương chúng sinh như mẹ thương
con, mẹ thương con, trông ngóng con mà con không thương mẹ, không nhớ mẹ thì
cái thương cái nhớ của mẹ chỉ là vô ích. Vậy để cho cái nhớ của mẹ có ích thì
người con thường luôn nhớ mẹ, thương mẹ, trông ngóng về mẹ, nhờ như vậy, giữa
mẹ và con mới có luồng điện cảm ứng đạo giao.
Vậy, để được vãng sinh sau khi lâm chung thì chúng ta phải thường
xuyên tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật, không gián đoạn, có như vậy khi bỏ thân
này thì đức Phật A Di Đà sẽ từ bi tiếp dẫn chúng ta ngay.
Tôi xin lấy một ví dụ: có hai người bạn chơi thân với nhau từ nhỏ
đến lớn. Nhưng sau này vì hoàn cảnh sống, cho nên hai người bạn này chia tay
nhau, một người ở lại chốn đồng quê, một người đi vào thành phố. Trải qua thời
gian xa cách cũng khá lâu, một hôm, người bạn ở thành phố nhận được tin người
bạn ở đồng quê bệnh nặng sắp chết, lúc này anh ta hốt hoảng lo lắng, nhớ nghĩ
về bạn và nhanh chóng thu xếp công việc, anh ta về liền.
Qua câu chuyện này cho ta thấy rằng: nếu hằng ngày chúng ta thường
luôn nhớ nghĩ niệm Phật A Di Đà thì khi chúng ta có xảy ra sự cố gì như là bệnh
hay chết thì Ngài sẽ hiện ra trước mặt tiếp dẫn ta ngay. Cũng giống như anh bạn
ở thành phố nghe bạn mình sắp chết liền về ngay không chậm trễ.
Khi lâm chung chúng ta nhớ một niệm cho đến mười niệm, hay nhất
tâm bất loạn thì đâu phải dễ. Vậy, để đạt được một niệm hay mười niệm thì ngay
lúc trẻ, chúng ta phải nỗ lực niệm Phật một cách miên mật, không bao giờ xao
lãng, có như vậy, khi lâm chung chúng ta mới nhớ niệm Phật được.
Từ vô lượng kiếp chúng ta bị trôi lăn mãi trong vòng sinh tử cho
nên tàng thức hay A-lại-da thức của chúng ta cũng chứa biết bao nhiêu là điều
tội lỗi. Để cho tàng thức của chúng ta mỗi ngày được bào mòn đi, thì chúng ta
phải nên siêng năng niệm Phật liên tục không ngừng nghỉ. Cũng giống như một ly
nước đục, muốn cho nó trong, thì chúng ta phải dùng nguồn nước sạch đổ vào liên
tục, có như vậy mới đẩy hết chất cặn bã, cáu bẩn trong ly nước ra, và để lại
cho chúng ta một ly nước tinh khiết.
Trái lại, nếu chúng ta chỉ giọt một giọt nước sạch vào ly nước đục
thì làm sao làm cho ly nước đục trong sạch được.
Tâm thức của chúng ta cũng giống như ly nước đục đó vậy. Để cho
tâm thức được tẩy trừ sạch hết phiền não tham, sân, si từ vô lượng kiếp thì
chúng ta phải mau mau dùng nguồn nước trong lành “Nam mô A Di Đà Phật” tưới
mãi, tưới mãi vào tâm thức, liên tục không gián đoạn như vậy, thì mới đẩy hết
những tạp nhiễm xấu xa trong tâm thức của chúng ta ra được. Lúc này chỉ để lại
trong tâm thức một câu niệm Nam mô A Di Đà Phật mà thôi.
Khi chúng ta đã huân tập được câu niệm Phật vào A-lại-da thức rồi,
thì khi lâm chung ta có thể niệm hàng tỷ, hàng tỷ nữa kìa, còn nhớ một cho đến
mười niệm là chuyện nhỏ. Chúng ta phải hiểu rằng nhớ một niệm cho đến mười niệm
là con số tượng trưng thôi. Bằng ngược lại, chúng ta niệm Phật một cách lơ là
không chú tâm, một ngày niệm mười ngày nghỉ. Hỡi ơi! Làm sao mà tẩy trừ được
hoặc nghiệp tham sân si từ vô lượng kiếp, thì làm sao khi lâm chung chúng ta
nhớ niệm Phật được.
Phương pháp niệm Phật
Như vậy, chúng ta hành trì Pháp môn Tịnh độ như thế nào đây? Có
nhiều cách:
1. Quán tưởng niệm Phật
2. Quán tướng niệm Phật
3. Quán tượng niệm Phật
4. Trì danh niệm Phật (mặc niệm hoặc cao thanh niệm Phật)
5. Quán sổ tức niệm Phật (nương sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật vào
hơi thở vô ra)
6. Sổ châu niệm Phật (nương câu Nam mô A Di Đà Phật vào từng hạt
chuỗi).
Đối với Pháp môn Tịnh
độ, thì có nhiều phương pháp tu, nhưng chúng tôi chỉ đơn cử sáu phương pháp phổ
thông này.
Trong sáu phương pháp niệm Phật trên đây, đa số chúng ta theo
phương pháp trì danh, quán sổ tức, sổ châu v.v… là nhiều nhất; còn phương pháp
quán tưởng, quán tượng, quán tướng niệm Phật thì rất khó cho bậc hạ căn, ba
phương pháp này chỉ dùng cho bậc thượng căn mà thôi.
Trên bước đường tu tập theo Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi đã chọn
phương pháp “quán sổ tức niệm Phật”. Tại sao chúng tôi chọn phương pháp này? Là
bởi vì, khi phát nguyện tu theo Pháp môn Tịnh độ thì chúng tôi đã suy nghĩ
rằng: “Nếu mình theo pháp môn này thì mình phải chọn phương pháp nào để trong
mọi hoàn cảnh luôn luôn tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật”. Đắn đo suy nghĩ mãi,
cuối cùng chúng tôi chọn phương pháp “quán sổ tức niệm Phật”.
Nhân đây, chúng tôi xin trình bày cặn kẽ phương pháp này.
Như thế nào gọi là “quán sổ tức niệm Phật”? Là chúng ta nương câu
Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở ra vô.
Như thế nào gọi là nương câu niệm Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở
ra vô?
Thế này: khi hít vô nhẹ nhàng và thật dài thì chúng ta niệm “Nam
mô A”, thở ra thật dài và nhẹ nhàng ta niệm “Di Đà Phật”. Khi hơi thở vô ra
cùng câu niệm Phật vừa dứt chúng ta đếm 1, cứ lần lượt như vậy đếm đến 10, đến
10 rồi thì chúng ta đếm trở lại 1.
Trong lúc ta đang hành trì mà ta đếm từ 1 mà nhảy lên số 5, 6 thì
ta phải biết ngay, ta bị vọng tưởng xen vào. Lúc này ta lập tức bỏ ngay, rồi
đếm lại 1. Chúng ta nên nhớ phải đếm theo thứ tự từ 1 đến 10, đến 10 ta ngưng
lại, rồi đếm lại từ 1 đến 10, cứ mãi như vậy.
Phương pháp này chúng ta phải sắp xếp một thời gian cố định để mà
hành trì. Khi hành trì có thể ngồi kiết già hay bán già cũng được. Hành trì
trải qua thời gian khoảng 2, 3 tháng cho đến một năm, đã tạo thành thói quen.
Khi đã thuần thục rồi, có thể ngồi hay không ngồi chúng ta cũng vẫn nhớ niệm
Phật trong mọi hoàn cảnh.
Trước kia hơi thở nuôi sống chúng ta, nhưng sau này ta biết gán
câu Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở một cách thuần thục, thì chính câu Nam mô A
Di Đà Phật này thay hơi thở nuôi sống ta hằng ngày. Thật là tuyệt diệu vô cùng.
Dù trong mọi hoàn cảnh nào, nếu hơi thở chúng ta còn thì câu niệm
Phật hằng tuôn chảy. Thậm chí nhiều khi chúng tôi cố quên đi câu niệm Phật mà
không quên được. Tại sao chúng tôi không quên được? Tại vì chúng tôi đã cột
chặt câu Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở vô ra của mình rồi. Nếu hơi thở còn vô
ra thì câu niệm Phật theo đó mà vô ra, cứ liên tục như vậy không bao giờ gián
đoạn. Cũng giống như đã tạo thành cái nghiệp giữa hơi thở và câu niệm Phật.
Chính vì thế mỗi lần hơi thở rung động thì câu niệm Phật khởi lên.
Khi chúng ta đã gắn câu niệm Phật vào hơi thở vô ra một cách thuần
thục hay đã tạo thành nghiệp. Cho dù chúng ta đi trên máy bay, đi tàu, đi bộ,
đi xe đạp v.v… thì câu niệm Phật hằng tuôn chảy trong tâm thức của chúng ta.
Cũng giống như một đứa bé ban đầu không biết hút thuốc, nhưng sau
này, vì bạn bè rủ rê hút, cho nên em bé mới tập hút, cứ mỗi ngày mỗi hút như
vậy, thì tạo cho em bé đó nghiệp ghiền, khi mà đã tạo thành nghiệp ghiền rồi
thì em bé này luôn luôn nhớ nghĩ đến thuốc, không bao giờ bỏ được.
Như vậy, khi chúng ta đã gắn câu niệm Phật vào hơi thở, tạo thành
nghiệp quen, thì ta không bao giờ bỏ được câu niệm Phật. Cũng giống như đứa bé
khi đã ghiền thuốc rồi thì không thể bỏ được thuốc. Phương pháp này chính chúng
tôi đã thực hành nó một cách thuần thục, cho nên chúng tôi mới dám trình bày.
Vậy, trên bước đường tu tập, chúng ta nên chọn cho mình một pháp
tu thích hợp, chỉ có thích hợp thì nó mới giúp mình dễ đạt được quả vị mong
muốn.
Chúng ta đã có niềm tin sâu đối với Pháp môn Tịnh độ này rồi, bên
cạnh đó chúng ta phải một lòng thiết tha phát nguyện: “Cho con sau khi lâm
chung được sinh về thế giới của Ngài”. Mình có nguyện thì mới có tới được và
ngược lại chúng ta không nguyện sinh về nước Ngài thì không bao giờ tới được.
Cũng giống như chúng ta muốn đi Hà Nội thì trước đó chúng ta đã có ý nguyện là
sẽ đi Hà Nội, nhờ ý nguyện như vậy chúng ta mới đi đến Hà Nội được. Cũng vậy,
chúng ta muốn sinh sang thế giới Cực lạc thì chúng ta phải có ý nguyện cầu sinh
về đó.
Chúng ta đã đặt trọn niềm tin rồi, thì chúng ta phải phát nguyện
vãng sinh, nếu chúng ta tin rồi mà không có phát nguyện, thì niềm tin ấy cũng
chỉ là vô ích. Tín, hạnh, nguyện cũng giống như cái kiềng ba chân nếu thiếu một
trong ba cái thì hỏng. Vì thế, Ngẫu Ích đại sư là một bậc tôn túc về Tịnh độ đã
dạy: “Được vãng sinh cùng chăng toàn do tín nguyện có hay không, phẩm vị thấp
cao đều bởi hành trì sâu hoặc cạn”. Ngài lại bảo: “Nếu không tín nguyện, dù trì
niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như
tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sinh”.
Kinh A Di Đà, đức Thích Tôn của chúng ta cứ mãi nhắc đi nhắc lại
điểm ấy, qua các đoạn văn như sau: “Lại nữa Xá Lợi Phất! Chúng sinh về cõi nước
Cực lạc đều là hàng A-bệ-bạt-trí. Trong số ấy có nhiều bậc Nhất sinh bổ xứ số
lượng rất đông, không thể dùng toán số tính biết được, chỉ có thể lấy số không
lường không ngằn A-tăng-kỳ để nói mà thôi.
Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe rồi, phải nên phát nguyện cầu sinh về
cõi kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhân như thế đồng họp
một chỗ.
Xá Lợi Phất! Ta thấy sự lợi ích đó nên nói lời này, nếu có chúng
sinh nào nghe lời nói đây, phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ
phát nguyện, muốn sinh về nước Phật A Di Đà, những người đó hoặc đã sinh, hoặc
đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được không thối chuyển nơi quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam Bồ-đề. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu có lòng tin phải nên phát
nguyện cầu sinh về quốc độ ấy”.
Đoạn kinh này, đức Phật thương chúng sinh như con đẻ, lúc nào cũng
muốn cho chúng sinh sớm được thành Phật, suốt cả cuộc đời sống vì chúng sinh.
Vậy để nhớ đến công ơn cao cả đó, chúng ta phải làm gì? Chúng ta chỉ cần đăït
trọn niềm tin vào lời dạy của chư Phật, phát tâm Bồ-đề niệm Phật nguyện cầu
vãng sinh, đây mới là yếu chỉ tâm nguyện độ sinh của chư Phật ở cõi Ta bà này.
Khi sinh về đó rồi thì sung sướng đời đời, không bao giờ gặp những
điều khổ, muốn gì thì có nấy. Muốn ăn thì cơm liền hiện ra, muốn uống nước thì
nước liền hiện ra, muốn có chiếc áo đẹp để mặc thì áo đẹp liền hiện ra. Ở cõi
Cực lạc chúng ta chỉ cần khởi ý muốn thì có liền, còn ở cõi Ta bà của chúng ta
đây làm lụng hết sức cực nhọc, nhưng không được như ý, tại sao chúng ta không
nguyện sinh về thế giới Cực lạc?
Ở cõi Cực lạc đất đai thì bằng phẳng êm dịu, khí hậu ôn hòa,
thường ngày nghe chim hót ra những điều diệu pháp. Quang cảnh xung quanh hết
sức là trang nghiêm thanh tịnh, có như vậy mới gọi là Cực lạc được chớ.
Kinh A Di Đà, đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực
lạc, kỳ quốc chúng sinh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực lạc” (Xá
Lợi Phất ơi! Cõi ấy sao gọi là Cực lạc, bởi vì chúng sinh trong cõi ấy không
gặp điều khổ mà chỉ hưởng toàn là những điều vui không à, cho nên mới gọi là
Cực lạc).
Kinh A Di Đà diễn tả rất rõ ràng về y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc:
“Đã
sinh về cõi Tây phương
Có ao thất bảo có hương ngũ phần
Lưu ly có đất sáng ngần
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh
Thất trân có bảy lớp thành
Bảy hàng cây báu, bảy vòng lưới châu
Có ngân các, có kim lâu
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe
Nghe rồi tỏ đạo Bồ-đề
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền
Đã sinh về chín phẩm sen
Mấy tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn
Phật như thể mẹ tìm con
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi
Lầu vàng đài các thiếu gì
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán không sầu
Không già không chết có đâu luân hồi”.
Kinh A Di Đà diễn tả cõi Cực lạc hết sức sung sướng như vậy, tại
sao chúng ta còn chần chờ chi nữa, hãy mau mau nhất tâm niệm Phật cầu vãng
sinh.
Chúng ta có hiểu được y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc như thế nào
chưa? Là thế này:
Chánh báo: đức Phật A Di Đà.
Y báo: các cảnh giới sự tướng bên ngoài. Chánh báo như thế
nào thì y báo như thế đó.
Đức Phật A Di Đà trang nghiêm thanh tịnh cho nên mới chiêu cảm
được cảnh giới, sự tướng ở cõi Ngài cũng trang nghiêm thanh tịnh theo.
Chúng ta hãy nhìn kỹ lại y báo và chánh báo của chúng ta. Chánh
báo chúng ta là một phàm phu đầy dẫy nghiệp chướng cho nên mới chiêu cảm y báo
đầy dẫy sự khổ đau, nào là động đất, thiên tai lũ lụt, nào là xì ke ma túy, đất
đai thì gồ ghề, khí hậu ô nhiễm, kẻ cao người lùn, kẻ điếc người đui, đâm chém
lẫn nhau. Như vậy, chúng ta đã hiểu được như thế nào là y báo và chánh báo rồi.
Một hành giả tu theo Pháp môn Tịnh độ thì phải phân biệt được một
cách rõ ràng về y báo và chánh báo, giữa cõi Cực lạc và cõi Ta bà, có phân biệt
một cách tận tường như vậy thì chúng ta mới chán bỏ được cõi Ta bà này để một
lòng thiết tha niệm Phật cầu vãng sinh, bằng ngược lại nếu ta không hiểu được
sự nhiệm mầu, sự sung sướng ở cõi Cực lạc gấp bội lần ở cõi Ta bà thì lòng phát
nguyện vãng sinh của chúng ta rất chi là yếu ớt. Không hiểu được sự thù thắng ở
cõi Cực lạc thì chúng ta cứ mãi đắm chìm trong Ta bà ngũ trược ác thế đầy đau
khổ này. Ở trong nhà lửa đang cháy cứ cho là sung sướng, hay nói rộng hơn là
chúng ta đang bị nhốt trong nhà lửa tam giới. Cho nên, đức Phật diễn tả sự khổ
đau của con người ở cõi Ta bà như một sự bùng cháy đổ vỡ của toàn thể thế giới:
“Toàn thể thế giới bốc cháy, toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể
vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập” (kinh Tương Ưng Bộ,
tr.133).
Đặc biệt ở Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật được đới nghiệp vãng sinh,
có nghĩa là mình mang cả nghiệp thức đầy dẫy của mình về bên đó. Ta được đới
nghiệp vãng sinh là nhờ tha lực của Phật A Di Đà. Nếu chúng ta được sinh về thế
giới Cực lạc rồi thì không còn bị đọa lạc, rơi rớt vào lục đạo nữa. Trong kinh
A Di Đà nói: “Những người sinh về thế giới Cực lạc đều là A-bệ-bạt-trí”, có
nghĩa là bất thối chuyển, không còn lui sụt nữa, ở đó gặp thắng duyên, ta cứ tu
riết, tu riết khi nào đạt đến quả vị Vô sinh mà thôi.
Các mối nghi về Tịnh độ
Có người hỏi rằng: Kinh thường nói người niệm Phật đới
nghiệp vãng sinh, liền dự vào hàng Thánh chúng, đạt được bất thối chuyển tâm.
Còn mang thân phàm phu, còn nghiệp lực làm sao đạt được bất thối tâm nơi đạo
Bồ-đề?
Đáp: Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca có dạy: “Cõi Cực lạc kia
sau khi chúng sinh đã sinh về đều là bậc A-la-hán và Bồ tát bất thối chuyển nơi
đạo Vô thượng Bồ-đề. Có năm nhân duyên khiến cho chúng sinh ở cõi kia được tâm
bất thối chuyển nơi đạo quả Bồ-đề.
- Do nguyện lực từ bi rộng lớn độ chúng sinh của Phật A Di Đà.
- Chúng sinh ở nơi cõi kia thường gặp ánh sáng của chư Phật và Bồ
tát chiếu đến, làm cho tâm Bồ-đề tăng trưởng.
- Cảnh giới Cực lạc trang nghiêm, ngày ngày có tiếng chim kêu,
nhạc trỗi, gió thổi, những âm thanh này phát ra, nếu có chúng sinh nghe được
liền phát tâm nghĩ nhớ tới Phật, Pháp, Tăng. Cho nên tâm Bồ-đề không bị thối
lui.
- Cõi Cực lạc toàn là thiện hữu tri thức đồng tu, luôn giúp đỡ
nhau trên bước đường tu học, không có ác hữu tri thức ngăn cản, ngoài cảnh
không có quỷ thần tà ma, ngoại đạo quấy nhiễu, nội tâm không tham sân si, tình
ái phiền não rối loạn, nên tâm Bồ-đề không bị thối lui.
- Chúng sinh cõi kia thọ mạng lâu dài đồng với chư Phật, Bồ tát
nên đủ thì giờ tu tập cho đến ngày chứng đạo, không phải sống chết nhiều phen
như chúng sinh nơi Ta bà, mê mờ trong lúc thọ thai chuyển thân, quên đi bản
nguyện ban đầu, do đó tâm Bồ-đề dễ bị thối lui. Trái lại chúng sinh ở Cực lạc
luôn tăng trưởng theo thọ mạng”.
Vì những nhân duyên thù thắng như thế, nên chúng sinh ở mười
phương thế giới sau khi vãng sinh về cõi kia, bao gồm những vị đới nghiệp vãng
sinh nơi hạ phẩm hạ sinh cũng được liệt vào hàng Thánh chúng và đạt được tam vị
bất thối.
Chỉ cần quay đầu lại quy y với Phật A Di Đà mà chuyên tâm niệm
Phật cầu vãng sinh Cực lạc để đạt được ba quả vị bất thối chờ ngày thành Phật,
trong khi nếu ở thế giới Ta bà, muốn đạt được thì phải trải qua ba đại
a-tăng-kỳ kiếp tu tập trong sinh tử. Trái lại, bây giờ chỉ một lòng nhất tâm
niệm Phật trong đời này, thì ta sẽ được vãng sinh, đạt được tam bất thối và
Phật quả nhất định sẽ viên thành.
Không còn thối chuyển, không còn bị đọa lạc thì chúng ta đã giải
quyết được bọn giặc sinh tử rồi đấy. Chúng ta thấy pháp niệm Phật dễ tu, dễ
chứng, dễ giải quyết sinh tử trong một đời mà tại sao chúng ta không gấp rút
niệm Phật ư!
Ấn Quang đại sư dạy rằng: “Thời mạt pháp, chúng sinh nghiệp
nặng, tâm tạp, nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà tu các pháp môn khác, chỉ gieo
được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì có, nhưng phần liễu thoát sinh tử
luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức phi thường, song
đó chỉ là những bậc Bồ tát hiện thế làm mô phạm cho chúng sinh như kinh Lăng
Nghiêm đã nói, nhưng các vị ấy cũng chỉ là nương theo trình độ chúng sinh mà
thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh độ thời nay tuy ít
người được Tam muội như xưa, nhưng cũng có thể nương theo nguyện lực của mình
và bản nguyện của Phật A Di Đà mà đới nghiệp vãng sinh về cõi Cực lạc, từ đây
không còn sinh tử luân hồi, mà lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô sinh”.
Sự thù thắng và phổ cập của Pháp môn Tịnh độ cho quảng đại quần
chúng ngoài sự giới thiệu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn có các vị Bồ tát
khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sinh về Tây phương như Văn Thù, Phổ Hiền,
Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư cả Thiền lẫn Tịnh như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt
Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, đều là những vị Thiền sư nổi tiếng bên
Thiền tông, sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sinh.
Thật phải nói pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả các pháp. Trong kinh Niệm
Phật Ba La Mật phẩm thứ 6, đức Quán Thế Âm nói rằng: “Trọn đời đức Phật Thích
Ca giáo hóa điều phục chúng sinh, Ngài đã ban ra tám vạn bốn nghìn pháp môn để
cho chúng sinh tu tập, nhưng trong đó pháp môn niệm Phật là thù thắng đệ nhất”.
Tại sao trong mười phương thế giới đều có cõi Tịnh độ, mà sao chư
Phật, chư Bồ tát, chư Tổ chỉ khuyên chúng sinh niệm Phật để nguyện về cõi Tịnh
độ của Phật A Di Đà mà không khuyên chúng sinh phát nguyện về cõi Tịnh độ khác?
Đúng vậy, không chỉ có một cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà đâu mà
trong mười phương đều có cõi Tịnh độ như là: cõi Tịnh độ của Phật Di Lặc ở trời
Đâu Suất; ở Đông phương có cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư v.v… Tuy có nhiều cõi
Tịnh độ nhưng cũng tùy theo cơ cảm nhân duyên của một chúng sinh có duyên với
đức Phật nào thì nguyện về với đức Phật ấy. Chúng ta phải biết rằng một Phật là
tất cả Phật, tất cả Phật là một Phật.
Tại sao lại nói như vậy? Các đức Phật đồng chung một thể tánh thanh
tịnh, thể tánh thanh tịnh này là bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, không
cao, không thấp, không dài, không ngắn, bình đẳng vắng lặng cho nên mới nói là
một Phật là tất cả Phật, tất cả Phật là một Phật là vậy đó. Cũng giống như một
mặt trăng in hình bóng vô số mặt trăng trong các ao hồ, tuy vô số hình bóng mặt
trăng trong các ao hồ nhưng duy nhất chỉ có một mặt trăng mà thôi. Chính vì
vậy, chúng ta chỉ cần niệm một đức Phật là chúng ta đã niệm tất cả chư Phật rồi.
Chúng ta không cần niệm nhiều Phật, qua sự lập luận trên cho ta thấy được, chư
Phật, chư Bồ tát, chư Tổ rất khéo léo phương tiện để độ chúng sinh trở về với
Phật tánh chân tâm của mình. Cái việc chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ khuyên chúng
sinh nguyện về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là quá đúng, quá hay. Tại sao đúng?
Là khi chúng ta tập trung vào một đề tài hay chuyên nhất niệm một đức Phật, thì
chúng ta dễ đạt đến nhất tâm. Còn nếu chúng ta chọn nhiều đề tài hay là ham
niệm nhiều Phật thì chỉ đưa đến cho chúng ta loạn tưởng tạp niệm, không bao giờ
nhất tâm được. Người ta thường nói rằng: “Một nghề không chín, chín nghề không
nên”. Xin đơn cử một ví dụ: một cậu học trò luôn nuôi dưỡng cho mình một ý
nguyện trong tâm là sau này cố gắng học để làm bác sĩ, với ý nguyện trung thực
trong sáng như thế này, thì trước sau gì cậu học trò cũng làm bác sĩ. Và ngược
lại, nếu cậu học trò này không chọn cho mình một nghề duy nhất, khi thì chọn
bác sĩ, khi thì mơ tưởng đến kiến trúc v.v… với ý loạn tưởng này, mà cậu học trò
không chọn cho mình một nghề duy nhất, thì chỉ đưa đến nhọc công tốn sức mất
thời gian mà thôi. Chẳng khác gì người bộ hành đứng giữa ngã ba đường, không
biết đường nào để đi. Có nhiều người hiểu như thế này: niệm một Phật không đủ,
phải niệm nhiều Phật, khi lâm chung Phật này không rước thì có Phật khác rước,
niệm như vậy là tạp niệm không phải là chánh niệm. Vì thế, mà đức Phật khuyên
chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào đức Phật A Di Đà, nhất tâm niệm Ngài, một
lòng phát nguyện vãng sinh.
Trong kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Mười
phương đều có Tịnh độ, tại sao Thế Tôn lại riêng khen ngợi cõi Tây phương Cực
lạc và khuyên chúng sinh nên chuyên niệm Phật A Di Đà để cầu về cõi ấy?”.
Phật bảo ngài Phổ Quảng: “Chúng sinh ở cõi Nam Diêm-phù-đề (là
cõi nước chúng ta đang ở) phần nhiều tâm trược loạn, vì thế Ta chỉ tán thán một
Tịnh độ ở Tây phương, khiến các hữu tình chuyên tâm vào một cảnh, để cho sự
vãng sinh được dễ thành tựu, nếu nhớ niệm tất cả chư Phật, vì niệm cảnh quá
rộng, nên tâm mênh mang tán loạn, Tam muội khó thành, không được vãng sinh”.
Có người đặt câu hỏi như thế này: đức Phật dạy tất cả các pháp hữu
tướng đều là như huyễn, Ta bà cũng huyễn, Cực lạc cũng huyễn vậy ta cần chi
phải niệm Phật để cầu sinh Cực lạc có ích lợi gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin lấy một ví dụ về “giấc mộng”
để làm đáp số.
Giấc mộng thì có mộng ác và mộng lành, trong giấc mộng ác chúng ta
thường mơ thấy ma quỷ đủ loại rất ghê sợ hãi hùng, đôi khi cũng thấy có người
lấy dao rượt chém mình, có khi thấy mình bị rơi từ núi cao xuống v.v… Những
hình ảnh trong giấc mộng ác này luôn làm cho chúng ta thất kinh, thất hồn,
hoang mang, sợ sệt không khi nào mà an tâm được trong giấc ngủ.
Trong giấc mộng lành, chúng ta thường thấy những điều tốt đẹp, như
là thấy Phật, thấy chư Bồ tát, chư Tổ, khi thì chúng ta thấy mình trúng số độc
đắc, thấy những người bạn tốt đến dùng những lời hay ý đẹp khuyên mình tu hành,
mơ thấy mình làm vua, làm quan, mơ thấy mình thi đỗ Đại học v.v… những hình ảnh
đẹp trong giấc mộng lành luôn luôn đem lại cho chúng ta một đời sống tinh thần
an lạc hơn, vui tươi hơn, tâm được an tịnh hơn.
Như vậy qua hai giấc mộng trên, chúng ta chọn giấc mộng nào? Tức nhiên chúng ta
phải chọn giấc mộng lành, mộng đẹp chứ không ai dại khờ gì chọn giấc mộng ác.
Cũng vậy, giấc mộng ác ví như cõi Ta bà ngũ trược ác thế, còn giấc
mộng đẹp ví như cõi Cực lạc. Vậy thì Ta bà và Cực lạc cũng đều huyễn mộng,
nhưng hai cái huyễn mộng này hoàn toàn là khác nhau.
Ở trong cảnh mộng khổ của Ta bà chúng sinh luân chuyển sinh tử
không ngừng để chịu khổ trong cảnh mộng, từ mộng cảnh này sang mộng cảnh kia
không bao giờ dứt. Càng đi sâu trong mộng thì càng mê càng khổ. Chi bằng ta
nguyện sinh Cực lạc, tuy là cũng cảnh mộng, nhưng ra khỏi mộng thì liền thành
bậc Đại giác. Uế và tịnh tuy đồng cảnh mộng nhưng bậc Bồ tát từ Thất địa trở
xuống vẫn còn cảm thọ khác nhau; còn nóng, còn lạnh, còn xúc, còn cảm, nên thà
rằng ta cảm nhận cảnh giới an lạc để bước vào Phật quả, hơn là chấp sự thọ cảm
khổ bức để cho tâm Bồ-đề bị thối chuyển.
Kinh dạy: “Từ bậc Nhị thừa, sơ phát tâm Bồ tát, cho đến Bồ tát
đệ thất địa Viễn Hành, đều ở trong huyễn mộng mà tu, chỉ trừ bậc Bồ tát đệ bát
địa trở lên bậc Đẳng giác và Phật quả mới an tịnh trong Phật quốc Tịnh độ”.
Như vậy, chư Phật đã dạy, chư Bồ tát, chư Tổ đã hành pháp môn này thì quý vị nên an tâm niệm Phật chớ đừng có mối hoài nghi gì cả.
Thật là thiện căn phước đức nhân duyên cho chúng ta từ nhiều đời
nhiều kiếp đã có đủ nên chúng ta mới gặp được pháp môn niệm Phật này. Nhờ đầy
đủ phước đức nên chúng ta dễ tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên đối với pháp
môn này. Vì thế, trong kinh A Di Đà nói rất rõ: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn
phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc”, nghĩa là: không thể đem một ít thiện
căn phước đức nhân duyên mà được sinh về nước đó đâu.
Chúng ta đã có đủ thiện căn phước đức nhân duyên cho nên chúng ta
y giáo phụng hành Pháp môn Tịnh độ một cách nghiêm mật như thế này. Còn ngược
lại chúng ta không có đủ thiện căn phước đức thì khó mà gặp được pháp môn này,
khó mà sinh về thế giới Cực lạc.
Chúng ta thử nghĩ, ngài Văn Thù, Phổ Hiền tu vô lượng kiếp mới đến
thế giới Hoa Tạng, mới gặp được Pháp môn Tịnh độ. Còn chúng ta ngày nay, vừa
mới học Phật mà đã tìm được pháp môn này. Hoa Tạng hải hội có 41 vị Pháp thân
đại sĩ Bồ tát gặp quý vị, không một vị nào mà không bội phục. Tại sao các Ngài
lại bội phục? Là vì các Ngài tu vô lượng kiếp mới tìm được pháp môn này, còn
chúng ta không hao một chút sức nào cũng gặp được. Các Ngài đầy đủ “tín,
nguyện, hạnh” cầu vãng sinh về thế giới Cực lạc thấy Phật thành Phật. Ngày nay,
chúng ta cũng áp dụng phương pháp như thế, lý luận như thế, vãng sinh Tây
phương, thấy Phật thành Phật cùng với các Ngài không hai không khác.
Đa số người phàm phu chúng ta không tin Phật A Di Đà là có thật mà
cứ nhận cái giả làm cái thật? Cái gì là giả? Tiền tài, danh vọng, đối với người
trí là người ta vứt bỏ nó ngay, không cần ngó ngàng gì đến nó, tại sao người
trí vứt bỏ cái giả ngay? Là vì người ta hiểu rõ khi chúng ta chết, chúng ta đâu
mang cái giả, của cải vật chất đi theo đâu, mà chúng ta chỉ mang đi theo được
sự công phu tu tập của chúng ta mà thôi.
Có ai đó hỏi chúng ta: “Tu theo Pháp môn Tịnh độ là tu cái
gì?”.
Trả lời: Tu “Thanh tịnh, bình đẳng giác”.
Tại sao phải tu thanh tịnh, bình đẳng giác?
Trả lời: Vì có đầy đủ Tam bảo và tam vô lậu học, đây là
cốt lõi của đạo Phật.
Thanh tịnh: Tăng bảo – Giới
Bình đẳng: Pháp bảo – Định
Giác: Phật bảo – Tuệ
Vậy tu phương pháp nào để đạt được tam học và Tam bảo?
Trả lời: Chỉ cần dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật A
Di Đà là đủ. Sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật mà chứa đủ tam học và Tam bảo. Thật
phải nói pháp môn niệm Phật thù thắng vi diệu, bất khả tư nghì vô cùng.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật dạy: “Đây là môn tu thích
đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo
khổ, chứng đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật trong một đời”.
Niệm Phật cứu độ khắp hết thảy chúng sinh muôn loài.
Niệm Phật có ba điều lợi ở địa ngục.
1. Hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ từ tiền kiếp.
2. Các tội nhân nghe tiếng niệm Phật đều được giải thoát.
3. Được vãng sinh Tây phương Tịnh độ.
Chúng tôi lấy ví dụ để
chứng minh một trong ba điều lợi trên.
Có hai vợ chồng, người vợ rất hiền lành, mỗi ngày chị ta rất siêng
năng niệm Phật, chồng thì không thích niệm Phật, nghe niệm Phật là anh ta khó
chịu. Để cho chồng mình có sự lợi lạc sau khi chết, cho nên mỗi ngày chị ta bắt
chồng đánh trống cho chị niệm Phật. Người chồng này rất khờ khạo cho nên vợ sai
gì làm nấy. Vì vậy, cứ mỗi ngày anh ta đánh trống cho vợ niệm Phật. Sau khi lấy
nhau ba năm, anh ta chết, liền rơi vào địa ngục rất chi là kinh ngạc. Đến giờ
hành hình tội nhân, có một con quỷ cầm một cây sắt đánh vào tội nhân, con quỷ
đánh trật, cây sắt va chạm vào một vạc dầu kêu lên một tiếng giống tiếng trống.
Lúc này anh ta nhớ lại sao tiếng kêu này giống mình đánh tiếng trống cho vợ
mình niệm Phật quá vậy. Lúc này duyên niệm Phật đã khởi dậy, anh liền niệm A Di
Đà Phật. Nhờ niệm Phật, anh ta thoát khỏi cảnh địa ngục trở về nhân gian, các
tội nhân ở trong đó nghe tiếng niệm Phật đều được vãng sinh hết thảy.
Chúng ta chỉ cần gieo nhân niệm Phật thì đời đời kiếp kiếp chúng
ta không bao giờ gặp quả khổ. Vì thế, trong kinh Pháp Hoa nói rằng: “Nếu có
người nào đi vào tháp miếu có thờ tượng Phật, miệng chỉ cần xưng lên Nam mô
Phật, hay đưa tay lên tỏ lòng cung kính thì cũng được thành Phật”.
Như chúng ta thấy, ông Tu Bạt Đà La là vị đệ tử cuối cùng của đức
Phật. Tại sao ông Tu Bạt Đà La được đức Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán? Là
vì thế này, trong nhiều kiếp quá khứ ông ta là một người đi đốn củi ở rừng. Một
hôm, bị cọp rượt, ông ta hoảng hốt leo lên một cây lớn, con cọp cứ hung dữ, cắn
xé dưới gốc cây hết sức ghê gớm, ông ta rất sợ, liền lớn tiếng niệm “Mô Phật”
thì con cọp liền bỏ đi xa.
Chúng ta thấy chỉ cần niệm một tiếng Mô Phật thôi mà được gặp Phật
xuất gia chứng quả vị A-la-hán. Huống hồ chúng ta niệm Phật ròng rã suốt ngày
đêm, chắc chắn chúng ta sẽ được thành Phật sớm.
Chính vì sự lợi lạc số đông cho chúng sinh, hiện nay trên khắp thế
giới biết bao nhiêu vị cao tăng xiển dương Pháp môn Tịnh độ.
Chúng tôi xin đưa ra một vị cao tăng đang xiển dương Pháp môn Tịnh
độ là Pháp sư Tịnh Không, là người Trung Hoa, hiện đang sống tại Úc Châu, tài
đức và công năng tu tập của Ngài về Pháp môn Tịnh độ cũng đã vang vọng khắp
toàn thế giới mà ai ai cũng biết cả.
Pháp sư Tịnh Không đã thuyết giảng rất rõ ràng trong kinh Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác: “Tôi tin Tịnh độ là vì
giảng kinh Hoa Nghiêm 17 năm, tôi từ kinh Hoa Nghiêm khai ngộ đại triệt đại
ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ vì thấy mười phương chư Phật niệm Phật mà thành Phật, vì
thế tôi quyết tâm học pháp môn này mà không cần đến kinh Hoa Nghiêm nữa. Tôi
xem kinh Hoa Nghiêm là công cụ đưa tôi vào Tịnh độ cũng giống như qua sông rồi
không cần đến thuyền nữa”.
Lời cuối cùng, chúng tôi thiết tha kêu gọi toàn thể mọi người hãy
sớm bừng tỉnh tin ngay lời đức Phật dạy mà một lòng thiết tha niệm Phật A Di Đà
cầu vãng sinh về thế giới của Ngài. Tóm lại, pháp môn niệm Phật A Di Đà đã hợp
thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật là viên mãn.
Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời,
ngang lại gồm thâu tám giáo và điểm son của Pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu
nặng nghiệp quả mà liền thẳng đến ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác
dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở
tu, sở chứng, làm cho tâm thoái chuyển, lại phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do đó,
Pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều
điều nghi vấn thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm
còn mờ ám, mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh
sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, được như thế hạnh phúc
không gì bằng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, chúng ta thỉnh một số kinh sách chịu
khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, sau đó lần lượt cho nhà khác mượn, hoặc đọc
cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ. Việc làm này quý giá vô
biên, đây cũng gọi là pháp thí.
Chính đức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí, pháp thí có công đức
lớn nhất, không công đức nào có thể sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng nên lo nghĩ, mà điều
tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo. Đó là mục đích chính, thiêng liêng và
cao cả nhất của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của
chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, một tảng đá
hay một viên gạch v.v… ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố
đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm về công đức, hãy nên nghĩ nhiều đến
những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng tội lỗi không lối thoát xung
quanh chúng ta. Hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý, giúp
họ tìm ra nhiều lẽ sống, niềm vui. Được thế, chính ta đã làm lợi ích cho Phật
pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng
mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho mọi người xem!
Được vậy, niềm phúc lạc vô bờ chắc chắn sẽ đến với chúng ta! Tha
thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui, nhưng
mình không đủ sức tặng nhiều hơn nữa. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu
hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ vài
ngàn, nhưng vẫn quý hơn tiền trăm bạc triệu.