TRUNG PHONG TAM THỜI HỆ NIỆM
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp đoạn Tây Phương trong phần Sáu Phương Chư Phật, trước hết chúng tôi đọc kinh văn một lượt:
“Xá Lợi Phất! Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: ‘Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)
Trong đoạn này, đức Thế Tôn nêu bảy Phật hiệu trong các thế giới ở phương Tây. Quý vị thấy trong hai phần trên đều là năm vị Phật, ở chỗ này đột nhiên lại kể tên bảy vị Phật. Trong pháp hội Di Đà, con số Bảy tượng trưng cho viên mãn, như trong phần trước chúng ta đã thấy “bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây, bảy tầng lan can”, Bảy ở đây không phải là con số mà nhằm biểu thị pháp, biểu thị sự viên mãn. Con số Bảy biểu thị viên mãn vì bốn phương, trên, dưới, thêm chính giữa là viên mãn. Kinh Hoa Nghiêm dùng con số Mười để biểu thị viên mãn, Mười là con số, từ một đến mười, đó là con số viên mãn. Từ mười đến một trăm, từ một trăm đến một ngàn đều nhằm biểu thị sự viên mãn. Kinh Di Đà dùng số Bảy để biểu thị viên mãn; chúng ta thấy trong kinh Vô Lượng Thọ có bảy, có mười sáu, có hai mươi mốt, có hai trăm mười ức đều nhằm biểu thị sự viên mãn, đều chẳng thể hiểu chúng chỉ là những con số. Thế giới Cực Lạc ở phương Tây, cho nên liệt kê danh hiệu bảy vị Phật ở phương Tây.
Vị Phật thứ nhất là Vô Lượng Thọ Phật. Vô Lượng Thọ Phật có phải là giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không? Cũng có thể nói như vậy! Thế nhưng như phần trên đã nói, Tây Phương có Hằng hà sa số chư Phật, hết thảy chư Phật đồng danh đồng hiệu rất nhiều. Dẫu đồng danh đồng hiệu nhưng Vô Lượng Thọ Phật của Tây Phương Cực Lạc thế giới được đặc biệt tôn kính, là vì sao? Ở phần trên, tôi đã thưa cùng quý vị rồi, Cực Lạc thế giới không phải là một thế giới bình thường, mà là thế giới gì vậy? Giống như hết thảy chư Phật lập một ngôi trường ở đó, trường học của Phật, Bồ Tát. Hết thảy chư Phật giống như gia trưởng, hết thảy chúng sanh giống như con cái; con cái muốn thành Phật, thành tựu trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn thì phải đến đó học. Vì thế, lập ra một ngôi trường như vậy, A Di Đà Phật làm hiệu trưởng trường ấy, Quán Âm, Thế Chí giống như chủ nhiệm giáo vụ, chủ nhiệm huấn đạo. Vị hiệu trưởng được hết thảy gia trưởng tôn kính. Chắc từ tỷ dụ này quý vị hiểu rõ vì sao không một vị Phật nào lại chẳng tôn kính, tán thán A Di Đà Phật, vì sao? Chư Phật có tôn trọng thì đệ tử chư Phật mới tôn trọng; gia trưởng có tôn trọng thì con cái mới tôn trọng. Vì thế, chư Phật (gia trưởng) phải đứng ra nêu gương, dẫu Phật Phật đạo đồng, Phật và Phật hoàn toàn bình đẳng, không sai biệt, nhưng để hiển thị, để giáo hóa chúng sanh nên hết thảy chư Phật đối với A Di Đà Phật đặc biệt tôn kính. Đạo lý là như vậy! Do vậy, trong đoạn này liệt kê bảy đức Phật để biểu thị sự viên mãn.
Vị Phật thứ nhất là Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta thấy Vô Lượng Thọ là thọ mạng vô lượng. Thọ là một loại phước báo, người Tàu thường nói “ngũ phước lâm môn”, phước bậc nhất trong năm phước là Thọ. Từ xưa, tổ sư đại đức khi giới thiệu Tây Phương Tịnh Độ, nói đức bậc nhất (đức lớn bậc nhất) của Tây Phương Tịnh Độ là gì? Thọ mạng trường cửu! Có thọ mạng trường cửu thì chúng ta tu hành chứng quả mới không khó; chẳng hạn như nói theo kinh này, phàm phu từ Sơ Phát Tâm đến khi tu thành Phật quả phải trải vô lượng kiếp; hàng Pháp Thân Bồ Tát từ Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo tu cho đến viên mãn Phật quả phải mất ba A Tăng Kỳ kiếp. Những con số ấy đều là con số thiên văn, không cách gì tính toán được! Đức Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vô lượng lần vô lượng thọ, nên giảng như thế nào?
Nên biết “vô lượng” là một đơn vị số đếm của cổ Ấn Độ; kể từ A Tăng Kỳ trở đi là mười con số lớn cuối cùng. A Tăng Kỳ là con số lớn nhất đầu tiên [trong mười số ấy]. Mười con số lớn này không tính theo lối gấp mười mà tính theo lối nhân gấp bội. A Tăng Kỳ lần A Tăng Kỳ là một Vô Lượng. Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên, tính theo cách như thế! Do vậy, Vô Lượng Thọ vẫn còn là có hạn lượng, nhưng số lượng ấy không quan trọng! Nếu cứ tính là một Vô Lượng thôi thì thọ mạng của quý vị là A Tăng Kỳ lần A Tăng Kỳ, nhưng để thành Phật phải mất bao nhiêu thời gian? Ba A Tăng Kỳ. Thọ mạng của quý vị là A Tăng Kỳ lần A Tăng Kỳ, vậy thì ba A Tăng Kỳ có thấm vào đâu! Giống như người sống được một trăm tuổi, để thành tựu tu hành chứng quả, chứng đắc vô thượng Bồ Đề phải cần bao nhiêu thời gian? Ba ngày thôi! Thọ mạng một trăm năm, ba ngày thấm vào đâu! Chẳng phải là quyết định thành Phật ư?
Thành Phật đúng là vô lượng không hạn lượng, thật sự là vô lượng, chẳng phải là vô lượng có hạn lượng, mà là vô lượng không hạn lượng. Do vậy, ta có thể nói phàm ai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều có thọ mạng vô lượng không hạn lượng, chẳng phải là vô lượng có hạn lượng. Vì sao? Do họ đều có thể trong một thời gian chứng đắc vô thượng Bồ Đề, rốt ráo Phật quả, đó là cái đức bậc nhất của Tây Phương Cực Lạc thế giới! Những thế giới khác đều không có. Chỉ dựa vào một điều này thôi, nếu chúng ta thật sự thấu hiểu rõ ràng thì không thể không sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị không muốn sanh về đó là lầm lạc quá đỗi rồi! Như vậy, danh hiệu này hàm ý có phước báo, có phước, có thọ, phước vô lượng, thọ vô lượng. Như tôi vừa mới nói đó, vô lượng ở đây thật sự là vô lượng, chẳng phải là vô lượng một cách có hạn lượng.
Vị Phật thứ hai là Vô Lượng Tướng Phật, Tướng là tướng hảo, biểu thị phú quý. Người thế gian chúng ta thường nói người nào đó có phước tướng, tướng giàu, tướng cao quý. “Quý” là có địa vị cao cả trong xã hội như quốc vương, đại thần có quý tướng. Giàu là của cải dư dật. Vô Lượng Tướng Phật là vừa tôn quý lại vừa giàu có, vô lượng vô biên phước đức và của cải.
Vị Phật thứ ba là Vô Lượng Tràng Phật. Tràng tiêu biểu cho những gì cao cả, rõ ràng, cao hiển. Tràng có nghĩa là được hết thảy đại chúng tôn kính, đức cao, chúng ta thường nói là “đức cao vọng trọng”. Đức cao, trí cao, danh cao, nay ta nói là mức độ nổi danh rộng khắp; không ai không khen ngợi. Quý vị thấy đó, cả ba điều sau đây đức Phật đều hội đủ: Thọ mạng, phú quý, cao hiển (tài nghệ cao), không gì chẳng cao; những điều ấy đều nhằm biểu thị quả báo. Quả báo do đâu có? Quả nhất định phải có nhân; vì thế, ba đức Phật tiếp theo đại diện cho nhân hạnh.
Đại Quang Phật: Quang là quang minh trí huệ, Ngài đại diện cho Trí; bởi lẽ phước thọ, phú quý, cao hiển đều do trí huệ sanh.
Đại Minh Phật: Minh là chiếu sáng, tức là đại trí khởi tác dụng. Tác dụng ấy gồm Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng. Ở phần trên đã nói đến phước báo, phú quý, cao hiển; cao hiển là Tự Thọ Dụng, đồng thời cũng là tác dụng giáo hóa chúng sanh; không có đại trí, đại đức, đại năng như thế, làm sao có thể giáo hóa chúng sanh? Chính mình phải có những thành tựu thù thắng như thế thì mới có năng lực giúp cho người khác thành tựu, trí huệ khởi tác dụng là như vậy! Y báo, chánh báo trang nghiêm của Cực Lạc thế giới đều là do trí huệ của Phật A Di Đà khởi tác dụng. Phàm đại chúng từ mười phương thế giới vãng sanh Cực Lạc thế giới đều là do tịnh nghiệp của họ khởi tác dụng, do tịnh nghiệp của người vãng sanh đã tu tương ứng với nguyện hạnh của Phật A Di Đà nên chiêu cảm được [như vậy]. Trong phần khai thị của Hệ Niệm Pháp Sự này, Trung Phong thiền sư đã giảng rất rõ ràng.
Bảo Tướng Phật biểu thị sự tôn thắng. Trong kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn thường nói: “Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ được cái thân Kim Cang Na La Diên, Kim Cang Na La Diên là thân kim cang. Kim Cang lực sĩ thân thể cứng chắc, không ai sánh bằng. Thân thể Phật giống như vậy đó. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, những thế giới phương khác không thể sánh bằng, điều tối thù thắng là gì? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì thân thể, tướng hảo, quang minh, trí huệ, đức năng, phước báo của chính mình tợ hồ gần bằng với A Di Đà Phật. Mười phương thế giới chắc chắc chẳng có việc như vậy, [ở Cực Lạc] hưởng phước của Phật A Di Đà mà! Thật là chẳng thể nghĩ bàn! Bởi thế, Bảo Tướng Phật biểu thị sự tôn thắng.
Nếu quan sát kỹ sáu đức Phật thì trí huệ, thọ mạng, phước đức, tức những điều hết thảy chúng sanh mong cầu, các Ngài đều trọn đủ, lại còn rốt ráo viên mãn, không thiếu khuyết chút nào. “Vô phước chẳng thể độ sanh, thành Phật trăm kiếp tu phước”. Nếu quý vị không có phước báo, quý vị sẽ chẳng thể độ sanh. Vì sao? Dù có trí huệ, có năng lực, nhưng tướng mạo không tốt, người ta vừa nhìn bèn nghĩ: “Gã này không có phước báo!”, đánh mất tín tâm đối với quý vị. Giảng cho họ nghe họ bèn hoài nghi, chẳng thể tin nhận phụng hành. Vì thế, Bồ Tát thành Phật, phải dùng thời gian trăm kiếp để chuyên môn tu phước báo, tu tướng hảo! Trong nhà Phật thường nói là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, ngạn ngữ thường nói “tướng tùy tâm chuyển”. Phải dùng cả một thời gian dài như thế để tu điều gì? Tu cái tâm thuần thiện thuần tịnh, cái hạnh thuần thiện thuần tịnh. Tâm hạnh thuần thiện thuần tịnh, sẽ cảm được tướng hảo, quang minh. Tướng Phật đúng là viên mãn, ai thấy đều yêu mến. Tướng hảo tiếp dẫn chúng sanh, chúng sanh thích thấy, bằng lòng đi theo, bằng lòng học theo, bằng lòng nghe giảng dạy, y giáo phụng hành.
Nói thật ra, công phu tu hành của quý vị đắc lực hay không, quý vị có bao nhiêu công phu không thể lừa người khác chút xíu nào, vì sao? Vì đều thể hiện trên tướng hảo của quý vị! Ngạn ngữ Trung Quốc đã nói về việc này rất có lý như sau: “Một người trước năm bốn mươi tuổi, mạng tướng chịu ảnh hưởng của tiên thiên, tức là do nghiệp báo trong đời quá khứ, chịu ảnh hưởng như vậy. Từ bốn mươi tuổi trở đi chịu ảnh hưởng của hậu thiên; nói cách khác, chính mình phải chịu trách nhiệm”. Khởi tâm động niệm, hết thảy hành vi trong bốn mươi năm sẽ biến đổi tướng mạo trang nghiêm. Bởi thế người nào đến tuổi già, tướng mạo đoan nghiêm thì nhất định phải là người tốt, tu phước, tu cả đời. Tướng tùy tâm chuyển, mạng tùy tâm chuyển; thân thể, thể chất chúng ta cũng tùy tâm chuyển! Qua thí nghiệm kết tinh nước, tiên sinh Giang Bản Thắng đã chứng minh điều này, chứng minh những điều kinh Đại Thừa đã nói: Vũ trụ sống động! Chính ngay trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã giảng: “Các pháp được sanh ra chỉ là do tâm hiện, hết thảy nhân quả, vi trần, thế giới, do tâm mà thành Thể”. Ấy là do tâm hiện, thức biến, là bản năng của tâm, năng lực ấy bất sanh, bất diệt, không đến, không đi, không thường, không đoạn, không phải có, không phải không, vĩnh hằng. Bản năng ấy là gì vậy? Bản năng là có thể thấy, có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể biết; trong phần khai thị của Hệ Niệm Pháp Sự, Trung Phong thiền sư gọi là “tâm linh tri”.
Nói về Tâm, Ngài cũng giảng ba thứ. Thứ nhất là Nhục Đoàn Tâm, tức là trái tim trong thân thể chúng ta. Đó là trái tim thịt, chỉ là một khí quan mà thôi, không có tác dụng gì lớn lao cho lắm. Thứ hai là Duyên Lự Tâm, nghĩa là mọi người chúng ta có khả năng suy nghĩ, tưởng tượng, phân biệt thị - phi, thiện - ác, cũng như mọi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều thuộc về cái tâm này. Tâm ấy trong Phật pháp gọi là Thức. Thức là sở biến, nó có thể biến, duy thức sở biến, Duyên Lự Tâm sở biến. Cảnh giới ấy hiện tướng, hiện tướng là chân tâm, chân tâm gọi là “linh tri tâm”, linh minh giác tri. Chữ “linh” bao hàm cả ba chữ kia (tức “minh, giác, tri”); kinh Lăng Nghiêm nói bốn chữ, chữ “linh” bao gồm kiến, văn, giác. Linh là như vậy đó! Sau “linh” còn có một chữ “tri” nữa, “linh tri” là “kiến - văn - giác - tri”.
Từ thực nghiệm khoa học, phát hiện nước có thể thấy, có thể nghe, có thể hiểu được ý tưởng con người, tùy theo trạng huống ý tưởng con người mà biến hóa bất đồng, đấy chẳng phải là như kinh Phật nói “cảnh tùy tâm chuyển” hay sao? Thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói “tướng tùy tâm chuyển”, thật vậy đó! Mạng tùy tâm chuyển, Phong Thủy cũng tùy tâm chuyển. Phong thủy là hoàn cảnh chúng ta đang sống, vì thế, nhà Phong Thủy thường nói: “Phước nhân cư phước địa, phước địa phước nhân cư” (Người có phước sống nơi đất phước, đất tốt lành thì người có phước ở). Vấn đề là chính mình phải tu phước, tự mình tu phước thì bất luận sống tại nơi nào, phong thủy nơi đó sẽ tự nhiên biến đổi, hoàn toàn giống như hiện tượng nước kết tinh. Thí nghiệm khoa học chứng minh những đạo lý, những sự tướng kinh Phật đã giảng. Đối với điều này chúng ta tin sâu không nghi. Cái hay của việc học Phật là chuyển được cảnh giới. Chúng tôi thường nói: Chuyển cảnh giới thì chuyện đầu tiên là chuyển thân thể. Thân thể chúng ta vốn chẳng khỏe mạnh chuyển thành khỏe mạnh, thọ mạng vốn không dài chuyển thành trường thọ. Tình trạng thông thường là từ sáu mươi tuổi trở đi, con người dần dần suy lão, khí quan dần dần lão hóa; người học Phật có khả năng giảm chậm sự lão hóa khí quan; vốn sáu mươi tuổi bị lão hóa nhưng phải đến năm tám mươi tuổi mới lão hóa, tai nghe mắt thấy rõ ràng, mắt không lòa, tai không điếc, da dẻ không nhăn nheo; đó là công phu niệm Phật, công phu tu hành! Vì vậy, do đây mà thấy được công phu tu hành. Nếu cảnh giới của cái thân mình không chuyển được, há quý vị có chuyển được cảnh giới bên ngoài chăng? Đầu tiên là phải chuyển cảnh giới nơi cái thân mình, cái đầu tiên phải chuyển nơi thân là tướng. Nói cách khác, quý vị học Phật mười năm, hai mươi năm, xét kỹ xem quý vị có đoan nghiêm, an tường được như Phật hay chăng?
Vị Phật cuối cùng ở Tây Phương là Tịnh Quang Phật, Ngài “biểu thị pháp tu phước căn bản”. Quý vị thấy: Ở phần trên nói đến tu huệ, còn ở đây là tu phước! Tây Phương Cực Lạc thế giới tu phước, Nam phương tu huệ, Tây phương tu phước. “Phải tu ba nghiệp thanh tịnh quang minh, thành mãn đại phước”. Thành là thành tựu, mãn là viên mãn. Vì vậy, quý vị thấy phương pháp tu phước là “tịnh”, “quang”, thuần tịnh! Thân thanh tịnh, tâm thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh, đại phước báo! Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, có một câu dạy chúng ta: “Bồ Tát có một pháp có thể lìa hết thảy khổ thế gian”. Pháp ấy thù thắng. Pháp gì vậy? Chúng ta phải nghe cho kỹ, phải học cho khéo. Phật dạy: “Thường niệm thiện pháp”, tức là tâm thiện, “tư duy thiện pháp” tức suy nghĩ thiện, “quán sát thiện pháp” tức hành vi thiện. Tiếp đó lại nói: “Chẳng dung mảy may bất thiện xen tạp”. Câu này rất quan trọng! Nay chúng ta tu hành, tu hành thành tựu không rõ ràng, không có gì chuyển biến rõ rệt, là vì nguyên nhân nào? Vì quý vị tu bị xen tạp. Sự thiện quý vị tu bị xen tạp bất thiện, tâm xen tạp bất thiện, niệm xen tạp bất thiện, hành vi cũng xen tạp bất thiện. Vì thế hiệu quả không rõ ràng, không trừ nghiệp chướng được, nguyên nhân là do đây.
Phỏng theo cách đức Thế Tôn thuyết pháp, chúng tôi bảo mọi người: Tâm chúng ta “thường niệm pháp thanh tịnh, tư duy tịnh pháp, quán sát tịnh pháp”. Vì thế, trong những năm qua chúng tôi đặc biệt đề xướng thuần thiện thuần tịnh, “chẳng dung mảy may bất tịnh xen tạp, chẳng dung mảy may bất thiện xen tạp”. Đó chính là Tịnh Quang Phật! Tâm chúng ta thanh tịnh hiền lành, tư tưởng thanh tịnh hiền lành, hành vi thanh tịnh hiền lành, hoàn toàn tương ứng với Tịnh Độ, vô lượng trí huệ phước đức bèn hiện tiền. Trí huệ, phước đức hiện tiền, quý vị sẽ biết rõ ràng rành mạch.
Người thật sự học Phật chẳng sanh bệnh. Thời đầu Dân Quốc, vị giảng kinh thuyết pháp nổi tiếng nhất là lão pháp sư Đế Nhàn (Ngài giảng kinh thuyết pháp nổi danh nhất thời ấy), có một thời kỳ Ngài bị bệnh. Chuyện này đồn đến tai Ấn Quang pháp sư, Ấn Quang pháp sư liền gởi một lá thư: “Ông là pháp sư giảng kinh thuyết pháp, làm sao có thể sanh bệnh được?” Lời tổ Ấn Quang rất hữu lý, bệnh là gì? Bệnh là nghiệp bất thiện, nếu tâm địa thật sự thuần thiện thuần tịnh, làm sao sanh bệnh được? Tâm thanh tịnh quyết định chẳng nhiễm bệnh độc, tâm từ bi chắc chắn có thể hóa giải bệnh độc. Vì thế ai tâm địa thanh tịnh từ bi sẽ chẳng sanh bệnh; nói cách khác, thân quý vị thường có bệnh chứng tỏ tâm quý vị không thanh tịnh, không từ bi. Nếu tâm địa thật sự chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, mỗi tế bào nơi thân quyết định rất bình ổn, những tế bào nơi thân rất tự nhiên chẳng lộn xộn, rối loạn trật tự, thế nên thân thể khỏe mạnh.
Bệnh là gì? Bệnh là những tế bào nơi thân thể không yên ổn, loạn trật tự khiến bệnh sanh ra. Vì sao chúng không được ổn định? Vì sao chúng bị loạn trật tự? Ắt phải có nguyên nhân. Đức Phật đã nói nguyên nhân là ba độc phiền não khởi tác dụng, ba độc là tham - sân - si. Như vậy, tham- sân - si là bệnh độc bên trong chúng ta; bên trong đã có bệnh độc thì bệnh độc bên ngoài mới cảm nhiễm được, trong ngoài giao cảm! Nếu bên trong không có tham - sân - si, không có bệnh độc, dẫu bệnh độc bên ngoài tàn hại cũng chẳng thể cảm nhiễm quý vị được. Vì sao? Vì quý vị mạnh khỏe, không có điều kiện cảm nhiễm, các bác sĩ hiện thời cũng nói như thế, họ gọi là “sức khỏe tâm lý”. Tâm lý khỏe mạnh, không có tham - sân - si thì mới thật sự khỏe mạnh; không đoạn tham - sân - si thì tâm chẳng khỏe mạnh. Tịnh Quang Phật hay lắm! Để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì phương pháp tu hành này rất quan trọng, nó là pháp môn tu phước. Ở phần trên chúng ta đã thấy trong phần tu huệ, “vô lượng tinh tấn”, tức tinh tấn tu huệ. “Tịnh Quang” là tu phước. Lại xem tiếp đoạn phương Bắc, chúng tôi đọc kinh văn một lượt.
“Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: ‘Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)
Quý vị thấy đức Thế Tôn thuyết pháp hết sức có ý nghĩa; đến phương Bắc lại nói năm vị Phật, cho thấy việc nêu lên bảy vị Phật là đặc thù. Trong mọi lúc thông thường thì đều là năm vị Phật. “Phương Bắc kể đại lược năm vị Phật biểu thị sự hóa tha”. Phần trên là thành tựu trí huệ của chính mình, thành tựu phước đức của chính mình; có trí huệ, có phước đức thì mới có thể giáo hóa chúng sanh. “Phước huệ đầy đủ, lấy độ sanh làm sự nghiệp”. Trong thế gian này, chư Phật, Bồ Tát làm những việc gì? Người sống trong thế gian không thể không làm chuyện gì, cả một đời này không có chuyện gì hết, vậy là hưởng phước rồi. Hưởng phước nhưng không tu phước thì phước báo ấy sẽ bị hưởng hết, hưởng hết rồi thì không còn phước nữa. Không có phước, nhưng trong A Lại Da Thức vẫn còn có bất thiện nghiệp. Những nghiệp bất thiện ấy đem lại khổ báo cho quý vị. Hưởng phước xong, hưởng thiện phước xong, cái khổ bất thiện sẽ hiện tiền. Bởi lẽ người sống trong thế gian không thể không có việc này việc nọ, không thể không làm này làm nọ; nên chư Phật xuất hiện trong thế gian, Bồ Tát xuất hiện trong thế gian phải có sự nghiệp. Sự nghiệp của chư Phật chẳng giống với những hạnh nghiệp thông thường của thế gian, mà là gì? Ngài là đạo sư. Chư Phật Như Lai xuất hiện trong thế gian, nhất định phải xuất hiện dưới thân phận một vị thầy. Còn Bồ Tát không nhất định, Bồ Tát có thể xuất hiện làm các ngành nghề. Trong phẩm Phổ Môn, chúng ta thấy Quán Thế Âm Bồ Tát có ba mươi hai ứng thân, mọi người đều biết. Trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị thấy Phật, Bồ Tát thị hiện thành năm mươi ba vị thiện tri thức, nam, nữ, già, trẻ, các hạnh, các nghiệp. Nếu mang thân Phật thì chắc chắn là thầy, chẳng thể theo đuổi các hạnh nghiệp khác. Phật pháp là sư đạo (đạo thầy trò), mang thân phận ông thầy thì chắc chắn hằng ngày phải dạy học.
Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta thị hiện: Từ năm ba mươi tuổi Ngài biểu diễn tu hành chứng quả, chứng đắc quả Phật vô thượng Bồ Đề. Thành Phật xong, bắt đầu giáo hóa chúng sanh, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp, tám mươi tuổi viên tịch, giảng kinh thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm. Tám mươi tuổi viên tịch là vì người Tàu chúng ta tính theo tuổi ta, nếu theo cách tính tuổi của người ngoại quốc thì Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch năm bảy mươi chín tuổi. Giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm; nay gọi giảng kinh thuyết pháp là “lên lớp”, dạy học! Lên lớp dạy học suốt bốn mươi chín năm, không nghỉ ngày nào, không có ngày nào nghỉ xả hơi, không hề có! Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều dạy học, từ trước đến nay chưa từng gián đoạn; nay chúng ta gọi là “cơ hội giáo dục”. Bất luận ở chỗ nào, bất luận gặp được ai, hoặc là Phật gọi ai đó đến mà giảng, hoặc người nào đó nêu câu hỏi hướng về Phật thỉnh giáo, Phật bèn vì người ấy giải đáp.
Phật lên lớp không có phòng học cố định, thính chúng không cố định. Kinh nói “một ngàn hai trăm năm mươi lăm người”, đó là Thường Tùy Chúng. Phật đến đâu, những học trò ấy theo đến đó. Bọn họ cũng buông hết thảy thế gian xuống, chuyên môn theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập. Vì thế, kinh thường liệt kê đại chúng. Liệt kê đại chúng cũng là biểu thị pháp. Ở đây, lần này chúng tôi giới thiệu rất đơn giản, không giảng cặn kẽ như khi giảng kinh Di Đà, [đại chúng] biểu thị pháp. Một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị ấy, nói thật ra, đều là những học trò kiệt xuất, đều là những học sinh có sở trường, Phật dùng bọn họ để biểu thị pháp, hiển thị trong sanh hoạt thường nhật, lúc lên lớp dạy học, từng chuyện nhỏ nhặt, vụn vặt đều chân thật không dối, học vấn chân thật, đức hạnh chân thật.
Phạm vi giảng dạy của đức Phật hết sức rộng lớn, không như Khổng lão phu tử. Khổng lão phu tử chỉ dạy con người, chẳng dạy cho thiên địa quỷ thần, chỉ hy vọng con người làm người cho trọn vẹn, không sai lầm. Phạm vi của Phật giáo rất lớn, bao gồm cả những chiều không gian sai khác như khoa học ngày nay đã đề cập. Phạm vi hết sức rộng lớn; vì thế, đức Phật giảng y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, kinh Đại Thừa thường nói như vậy. Kinh Hoa Nghiêm chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất, giảng đến vô lượng pháp giới trùng trùng vô tận, khoa học ngày nay đang nghiên cứu theo phương hướng này; chúng tôi mong mỏi có những thành quả nghiên cứu, những thành quả ấy nhất định sẽ tương ứng với những điều được giảng trong kinh Hoa Nghiêm.
Sở dĩ đức Phật lấy độ sanh làm sự nghiệp; nay chúng ta gọi “độ sanh” là “giáo dục xã hội”. Phật theo đuổi sự giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa, nay gọi là một nghề. Thế nhưng Phật dạy học không thâu học phí, Ngài không có trường học cố định, hết thảy chúng sanh đều là đối tượng giáo hóa của Ngài, thật sự đáng gọi là “đại học”. Nam nữ già trẻ đủ các ngành nghề, trái lại, đức Phật trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, không gì không biết, không gì không thể. Hiện nay học vị tối cao là tiến sĩ, Phật là vị tiến sĩ danh xứng với thực. Tiến sĩ thuộc các trường của thế gian không hiểu biết rộng rãi, họ chỉ nghiên cứu một bộ phận, vượt khỏi bộ phận ấy họ không biết, có thể nói là “cách hàng như cách núi”. Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là quảng bác, không gì không biết, không gì không thể.
Lược nêu tên năm vị Phật, vị thứ nhất là Diệm Kiên Phật. Kiên là cái vai, Diệm là ngọn lửa, ngọn lửa biểu thị trí huệ. Con người chúng ta có hai vai, dùng Diệm Kiên để biểu thị Quyền Trí và Thật Trí. Vì thế, “sau khi phước huệ trọn đủ, liền dùng hai trí Quyền và Thật để gánh vác gia nghiệp của Như Lai, lợi ích chúng sanh”. Như Lai là Phật Quả rốt ráo, thành Phật rồi thì bổn phận sự nghiệp gọi là “gia nghiệp”. Sự nghiệp bổn phận là giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa, nền giáo dục ấy bao gồm những cái nay gọi là giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội, thảy đều bao gồm trong ấy. Đúng là đại học vấn. Làm thế nào để hỗ trợ giáo dục gia đình? Học trò tại gia rất nhiều, xuất gia ít. Đối với học trò tại gia Phật dạy họ sống ở nhà thì phải học tập, có luân lý, đạo đức như thế nào, đối xử hòa thuận với người trong nhà ra sao, tận hết bổn phận mình. Cha mẹ thương yêu, trong ngũ luân thập nghĩa đã nói: “Cha mẹ thương yêu, vợ chồng tôn trọng nhau, lớn nhỏ có trật tự, vua tôi có nghĩa, bạn bè tin tưởng nhau”. Đấy chính là giáo dục gia đình. Giáo dục nhà trường nhằm dạy quý vị học làm vị thầy tốt như thế nào, học làm người học trò tốt như thế nào. Chẳng phải kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung đã giảng rất rõ ràng ư? Phật thường nói như thế. Giáo dục xã hội không cần phải nói nữa, bất luận đến đâu, bất luận gặp ai, chẳng phân quốc gia nào, chẳng phân chủng tộc nào, chẳng phân tôn giáo nào, chẳng phân văn hóa nào, chỉ cần quý vị đến học, Phật đều vui vẻ dạy dỗ. Lợi ích hết thảy chúng sanh là hai trí Quyền và Thật. A! Bây giờ đã đến giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp phần phương Bắc lược nêu năm đức Phật. Vị Phật thứ nhất là Diệm Kiên Phật, biểu thị sự gánh vác gia nghiệp Như Lai, tức sứ mạng hoằng pháp lợi sanh. Công tác ấy được thực hiện như thế nào? Phần ý nghĩa biểu pháp của bốn vị Phật tiếp theo đó nhằm dạy chúng ta [cách thực hiện].
Tối Thắng Âm Phật, “biểu thị dùng âm thanh làm Phật sự, diễn nói kinh này, khuyên dạy niệm Phật, chính là âm thanh tối thắng”. Nói như vậy là thuần từ pháp môn Tịnh Độ mà nói. Nếu giảng theo nghĩa rộng thì “chân giáo thể phương này, thanh tịnh tại nghe tiếng”; đấy chính là như Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này, bốn mươi chín năm ngày ngày thuyết pháp dạy học. Những âm thanh đức Phật thốt ra đều là Tối Thắng Âm, âm thanh tối thắng vì giúp cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Quý vị phải nhớ kỹ, khuyên dạy một chúng sanh đoạn ác tu thiện, chẳng đọa tam đồ, đời sau vẫn tiếp tục hưởng phước báo trời người, thì âm thanh ấy là âm thanh thù thắng, rất thù thắng. Không như trong xã hội hiện thời, quý vị nghĩ xem: Trong xã hội hiện thời, mắt thấy tai nghe những âm thanh gì? Âm thanh tam đồ. Đúng là chỉ sợ quý vị chẳng đọa tam đồ!
Âm thanh thuyết pháp của Phật là âm thanh thanh tịnh. Âm thanh thù thắng khuyên người đoạn ác tu thiện, khuyên người chẳng đọa tam đồ. Âm thanh ấy tối thắng, âm thanh tối thắng là âm thanh giúp cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, đó chính là âm thanh tối thắng! Đem Tịnh tông so với Đại Thừa thì âm thanh của Tịnh tông là thù thắng nhất. Vì sao? Phá mê khai ngộ, quý vị không thấy được một đời có thể vượt thoát lục đạo luân hồi, thành Phật, thành Tổ! Chuyện ấy các pháp khác không làm được, còn Tịnh tông làm được. Tịnh tông dạy quý vị niệm Phật vãng sanh, bất thoái thành Phật. Vì thế, nó thù thắng khôn sánh. Đặc biệt là “diễn nói kinh này”, kinh này thông với kinh Vô Lượng Thọ, chẳng những thông với kinh Vô Lượng Thọ mà còn thông với kinh Hoa Nghiêm. Cổ đức nói kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà là cùng một bộ kinh, Hoa Nghiêm là Đại Bổn, Vô Lượng Thọ là Trung Bổn còn A Di Đà là Tiểu Bổn, không sai chút nào!
Kinh A Di Đà Tiểu Bổn này là lược thuyết, giới thiệu đại lược. Vô Lượng Thọ Kinh giảng rất tường tận, giới thiệu mọi phương diện của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Kinh Hoa Nghiêm giảng rộng, giảng cụ thể nhất, thuyết minh tường tận. Vì thế, ba bộ kinh này chỉ là một bộ. “Diễn nói kinh này”, nói theo nghĩa rộng, chính là diễn nói kinh điển vãng sanh Tịnh Độ, “khuyên người niệm Phật là âm thanh thù thắng nhất”. Đó chính là hoằng pháp lợi sanh, thật sự gánh vác gia nghiệp của Như Lai, đảm đương sự nghiệp chẳng thể nghĩ bàn.
Vị Phật tiếp theo là Nan Trở Phật, “biểu thị hoằng hộ chánh pháp, dũng mãnh tinh tấn, chẳng sợ ma ngoại, hết thảy chướng nạn”. Trở là phá hoại, Nan Trở là rất khó phá hoại. Hoằng hộ: hoằng pháp, hộ pháp là một thể, hoằng pháp và hộ pháp công đức như nhau; thậm chí công đức hộ pháp còn cao hơn hoằng pháp. Người hoằng pháp, có thể nói là chẳng dễ dàng, rất khó có; thế nhưng hộ pháp càng khó hơn! Nếu không có người hộ pháp mạnh mẽ, người hoằng pháp dù giỏi nhưng không ai hộ trì, sẽ không có cơ hội hoằng dương Phật pháp. Nói cách khác, dù thầy thật sự giỏi, có học vấn, có đức hạnh, lại có phương pháp giảng dạy rất tốt, nhưng không ai dùng đến, không có trường nào mời, thật là “không đất dụng võ”. Trường học chính là hộ pháp của ông thầy.
Nếu nay quý vị học thành tựu rồi, quý vị đúng là một nhân tài hoằng pháp tốt, nhưng không đạo tràng nào mời. Chủ nhân của đạo tràng, trụ trì, đương gia, chấp sự đều là nhân tài hộ pháp, bọn họ phải hộ trì quý vị, mời mọc quý vị trụ trong đạo tràng ấy giảng kinh thuyết pháp, mọi việc đều chiếu cố châu đáo, quý vị không phải lo lắng chút gì, cứ chuyên làm công việc giảng kinh thuyết pháp, hết thảy sự vụ thuộc phương diện thường trụ bọn họ đều chia nhau gánh vác. Hoằng pháp và hộ pháp phải phối hợp mật thiết thì Phật pháp mới hưng vượng. Nếu không có hộ pháp, quý vị giảng kinh thuyết pháp ở đó, người ta không thích thú gì. Vì sao không thích thú? Anh giảng được, tôi không giảng được, tín đồ thường đến nghe anh, tôn kính anh, không tôn kính tôi, thường hay ghen ghét chướng ngại. Người ta chướng ngại mình, trọn chẳng cho mình có cơ hội giảng kinh hoằng pháp, hỏng rồi! Đó là gì vậy? Kẻ ấy không có trí huệ, chẳng hiểu đạo lý này, cũng chẳng hiểu nhân quả. Người làm hiệu trưởng không cần phải giảng kinh thuyết pháp, không cần phải lên lớp dạy học như giáo viên, không cần thiết. Học trò nghe vị thầy giỏi giảng, học thành công thì công đức bậc nhất quy về ai? Hiệu trưởng! Hiệu trưởng vì chúng ta mời vị thầy giỏi như thế, thầy do chính hiệu trưởng mời về, quyền mời thầy nằm trong tay hiệu trưởng. Bởi thế, chăm sóc trường cho tốt thì học trò thành tựu nhiều, công lao không do giáo viên, mà do hiệu trưởng. Hiệu trưởng có huệ nhãn nhận biết ông thầy tốt, có năng lực mời mọc giáo sư tốt. Bởi thế, công đức hộ pháp cao hơn hoằng pháp, hoằng pháp là giáo viên, hộ pháp là hiệu trưởng. Hiệu trưởng có quyền lực mời mọc, cũng có quyền lực bãi chức: “Tôi không cần đến anh nữa!” Ông ta có quyền lực ấy. Người hoằng pháp chỉ nghe theo lệnh: “Ông mời tôi, tôi nỗ lực dạy dỗ; ông không cần tôi nữa, tôi đành ra đi thôi!”
Nhất định phải hiểu đạo lý ấy, thành tựu của đạo tràng là có được nhân tài. Đạo tràng không sản sanh được nhân tài là thất bại hoàn toàn. Sản sanh những nhân tài như thế nào? Có sanh ra được nhân tài hay không? Mấu chốt nằm ở người trụ trì, hay vị thường trụ, hoặc vị chấp sự chủ chốt. Vị chấp sự chủ chốt là những người có quyền lực trong đạo tràng ấy như trụ trì, đương gia, thủ tòa, duy-na. Đấy đều là những người có quyền lực nhất trong đạo tràng ấy; [thành tựu của đạo tràng] chính là thành tựu của họ. Do vậy đạo tràng hưng hay suy trách nhiệm đặt trên thân mấy người đó. Nhân tài hoằng pháp không chịu trách nhiệm, họ không có quyền, không làm chủ, họ phải nghe lời sai phái, nghe lệnh chỉ huy. Bởi vậy, người hoằng pháp là giáo viên, hộ pháp là người thật sự có quyền lực. Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, đối với người xuất gia, Phật yêu cầu mọi sự đều là công tác hoằng pháp, giao phó công tác hộ pháp cho quốc vương, đại thần, thỉnh những người ấy đến hộ trì. Bọn họ lập đạo tràng, lễ thỉnh pháp sư đến giảng kinh, thuyết pháp. Quý vị giảng hay, pháp duyên thù thắng thì tiếp tục lễ thỉnh hàng năm. Vì thế, pháp sư nhất định phải tu dưỡng đạo đức, học vấn, ngôn hạnh của chính mình hầu nêu gương tốt nhất cho đại chúng trong xã hội. Vì sao? Nếu pháp sư không tu tập cho tốt, năm sau người ta không thỉnh nữa. Thậm chí giảng xong một bộ kinh này, bộ kinh tiếp theo người ta không mời giảng nữa. Chẳng nghiêm túc, chẳng khéo học không được! Bởi vậy, giáo viên và chức viên (người có chức vụ trong trường) có quan hệ mật thiết, hoằng hộ chánh pháp như thế mới không bị phá hoại. Nhất là hộ pháp, trọng yếu lắm! Hộ pháp phải chánh trực, phải có huệ nhãn.
Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp, con người không phải là thánh hiền, ai không lầm lỗi, pháp sư giảng kinh chẳng phải là thánh nhân, còn là phàm phu, chắc chắn có lầm lỗi! Người ngoài nắm lấy những lỗi lầm ấy để công kích, đồn đãi, sanh sự, hủy báng, tạo đủ mọi áp lực với người hộ pháp. Nếu người hộ pháp không có trí huệ, không có nghị lực, nghe những kẻ đó bàn ra tán vào sẽ hiểu lầm pháp sư giảng kinh, khai trừ vị pháp sư giảng kinh ấy. Chuyện như vậy xưa nay rất nhiều, không phải là ít; vì thế, hoằng pháp, hộ pháp đều không phải là chuyện dễ. Thế nhưng hiện thời lại có một con đường, con đường gì vậy? Tức là mạng Internet và truyền thông vệ tinh. Tuy vậy, vẫn phải có người hộ pháp có sức lực lui tới chủ trì chánh nghĩa, mời mọc đại đức, pháp sư, trưởng giả, cư sĩ vì hết thảy chúng sanh giảng kinh thuyết pháp.
Đạo tràng không cần phải lớn lắm, bằng một cái tiệm chụp ảnh nhỏ là được rồi. Mỗi ngày ở đó dùng máy chiếu phim, nhờ khoa học kỹ thuật để phát hình ảnh, âm thanh đi khắp thế giới, chúng sanh có duyên sẽ thích thú nghe, bất luận ở chỗ nào đều có thể thâu được. Kỹ thuật thông tin đại chúng ngày càng tiến bộ, tôi thường bảo các đồng học, rất có thể mạng Internet sẽ thay thế truyền hình. Giá thành của truyền hình vệ tinh mắc, giá thành của mạng Internet rất thấp, lại rất thuận tiện. Tương lai những máy móc thâu phát rất có thể sẽ giống như điện thoại cầm tay hiện đang dùng, màn huỳnh quang nơi điện thoại cầm tay được nới rộng hơn một chút; bất luận khi nào, lữ hành cũng nhìn thấy được, đều có thể nghe được.
Trước kia, chúng tôi nói vệ tinh là đem giảng đường giảng kinh thuyết pháp đến tận nhà quý vị, quý vị ở nhà mở truyền hình lên là thấy. Nay tiến bộ hơn, chẳng những đưa đến tận nhà mà đưa đến tận tay, quý vị nói có phải là tiện lợi quá hay chăng? Trước kia đâu có như thế, trước kia không ai tưởng tượng được việc này, nay dần dần thực hiện được, giá thành không cao, hiệu quả rất lớn. Bởi thế người phát tâm hoằng pháp phải tích cực, phải nỗ lực, phải học tập cách đối diện trước màn hình máy quay phim để giảng kinh thuyết pháp tại rạp nhiếp ảnh, khiến cho Phật pháp từ nơi ấy được phục hưng. Lòng tôi mong mỏi mỗi vị pháp sư giảng kinh đều có một trạm phát hình, tương lai chúng ta có thể phát đi suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trên mạng Internet. Mỗi một cá nhân chuyên công nơi một, hai bộ kinh, không cần quá nhiều, thính chúng có thể chọn lựa. Họ thích học bộ kinh nào cũng như thích nghe quý vị giảng diễn, họ sẽ ngày ngày nghe, tiếp thọ sự giáo huấn của quý vị. Nan Trở Phật là vậy đấy!
Hoằng hộ lại sợ bị ma tà, ngoại đạo chướng nạn, từ xưa đến nay, trong nước, ngoài nước không tránh khỏi chuyện này, suốt cả đời bản thân chúng tôi phải gặp không ít lần. Đụng chuyện, chúng tôi không tranh, mau chóng thoái nhượng. Mau chóng thoái nhượng như vậy khiến chướng nạn giảm ít. Nói chung, phải nhớ kỹ, phải thường suy tưởng: “Chư Phật, Bồ Tát vĩnh viễn không đối lập bất cứ một chúng sanh nào”, phải nhớ thật kỹ điểm này. Sở dĩ Phật, Bồ Tát được gọi là Nhân Giả, tức người nhân từ, bậc nhân từ không đối địch ai. Thế nào là Nhân Giả? Không có địch nhân. Đấy là nhân từ thật sự. Nếu có kẻ đối lập, có oan gia đối đầu thì chẳng phải là người nhân từ. Người nhân từ vĩnh viễn không có oan gia đối đầu, lúc oan gia đối đầu đến tìm ta phải nhường nhịn họ, tuyệt đối không đối lập với họ, quyết định không sân khuể, quyết định không báo thù, người như vậy chính là Bồ Tát, là người giác ngộ. Người không giác ngộ mới có tâm sân khuể, mới có ý niệm báo thù. Người giác ngộ quyết định không có! Vì thế, lúc cảnh giới hiện tiền, sẽ thấy quý vị là giác ngộ hay vẫn còn mê hoặc. Trong sanh hoạt thường nhật, trong những sự việc nhỏ nhặt mình gặp phải, phải đào luyện từ những chuyện nhỏ nhặt. Đào luyện như thế nào? Nghịch cảnh, chuyện chẳng vừa lòng, chuyện không như ý, không có tâm nóng giận, không mang tâm oán hận, không tâm báo thù, phải rèn luyện công phu ấy. Khi nghịch cảnh lớn lao hiện tiền, tâm địa quý vị tự nhiên rất thản nhiên, dùng trí huệ xử trí, chẳng làm việc theo cảm tình thì quý vị mới không bị hết thảy ma chướng gây chướng nạn.
Vị Phật thứ tư, Nhật Sanh Phật. Nhật là mặt trời, biểu thị trí huệ. Bởi thế, “Nhật Sanh Phật biểu thị tướng giáo học tăng trưởng, huệ nhật tự - tha sáng rực giữa trời, chánh pháp tồn tại lâu dài, phước lợi trời - người”. Vì vậy, giảng kinh, dạy học lòng phải trống rỗng! Học tập nhất định phải hiểu phương pháp, người trên dạy dỗ chúng ta như thế nào, ta học thành như vậy rồi, ta phải biết dạy người khác như thế nào? Đời đời truyền nhau. Trước kia thầy Lý dạy chúng tôi, thường thường khuyến khích chúng tôi: Từ cổ đến nay, những người sơ học phát tâm giảng kinh rất nhiều, đến cuối cùng, thành tựu e rằng chỉ được một hai hay hai ba người thôi, vì nguyên nhân gì? Thoái chuyển, thoái tâm! Gặp phải khó khăn chẳng thể đột phá. Nguyên nhân phổ biến nhất khiến ta gặp phải khó khăn là gì? Tâm háo thắng quá mạnh, tâm mong giỏi giang quá mạnh, đấy là nguyên nhân gây thất bại bậc nhất trong việc học kinh giáo. Mười người thất bại, đại khái là chín người vì nguyên nhân này, tâm mong giỏi giang quá mạnh, hy vọng được hơn người khác.
Vì thế, thầy Lý dạy chúng tôi: Từ cổ đến nay, người thành công phải ngồi yên đứng vững, giữ lấy câu giáo huấn lời vàng lẽ ngọc của cổ nhân: “Chỉ cầu không lỗi, chẳng cầu có công”. Quý vị giữ được hai câu ấy thì rất có thể thành công. Bởi lẽ, chỉ mong lên tòa giảng không sai lầm, không cầu giảng hay, không cầu giảng có hiệu quả, thường xuyên phản tỉnh, thường sửa lỗi. Muốn giảng giỏi thì nói chung phải mười năm, hai mươi năm, trong một thời gian dài như vậy ngày ngày sửa lỗi, ngày ngày phản tỉnh, tích lũy công đức mười năm, hai mươi năm, đương nhiên sẽ giảng hay. Chẳng phải là chuyện trong một thời gian ngắn, chỉ mấy tháng là đã giảng giỏi, một, hai năm đã giảng giỏi, không có chuyện ấy đâu! Những bậc tổ sư đại đức xưa nay, thông Tông thông Giáo, không vị nào không huân tu lâu dài mà thành công. Dẫu là thiên tài, nghĩa là nghe một ngộ cả ngàn như Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông, hai mươi bốn tuổi khai ngộ, Ngũ Tổ đem y bát truyền cho, vẫn phải như thế nào? Tuổi còn trẻ quá, phải đến ẩn cư trong đám thợ săn mười lăm năm, gần như là đến bốn mươi tuổi mới lộ diện. Hai mươi bốn tuổi được truyền y bát, ẩn cư trong đám thợ săn mười lăm năm, quý vị cứ nghĩ đi, bốn mươi tuổi mới xuất hiện, mà Ngài là bậc thiên tài đó nghe! Cũng chẳng thể cứ hễ làm được là ra mặt liền, muốn ra mặt liền cũng không được. Vì thế, tâm kiên nghị, nhẫn nại là bí quyết thành công, thành tựu càng lớn thì càng phải có tâm nhẫn nại. Người không nhẫn nại, đừng nói pháp xuất thế gian, pháp thế gian cũng chẳng thể thành tựu. Vì thế, kinh Kim Cang nói rất hay, “hết thảy pháp được thành do Nhẫn”, quý vị có thể nhẫn nại! Tuân thủ quy củ của thầy, thầy dạy quý vị như thế nào thì cứ thật thà làm theo.
Tôi ở Đài Trung thân cận thầy Lý, tôi học bất cứ gì so với đồng học quả thật đều nhanh hơn, tôi có sức hiểu biết, tôi có năng lực ghi nhớ, nhưng thầy Lý vẫn hạn chế tôi: Bốn mươi tuổi trở đi mới được ra ngoài giảng kinh. Trước khi bốn mươi tuổi phải luyện tập giảng ở nhà, không cần ra ngoài. Bên ngoài có người mời cũng không đi, tôi tuân thủ quy củ ấy mười năm. Nếu tôi giống những người khác tâm mong giỏi giang quá mạnh, chẳng tuân thủ quy củ của thầy Lý, rất có thể tôi đã sớm bị đào thải rồi. Về thành tựu thế gian hay xuất thế gian thường có câu nói rất hay: “Người chất phác, người tuân thủ quy củ, những người như vậy được thành tựu”. Không thật thà, không tuân thủ quy củ, ngày ngày cứ nghĩ chuyện huê dạng, thọ mạng sẽ không lâu! Chẳng những bị người khác ghen ghét, còn bị quỷ thần ghen ghét; nói cách khác, hộ pháp thần ít, còn những ác quỷ, la-sát tìm đến gây phiền phức, chướng ngại rất nhiều, đều ở quanh bên cạnh, làm sao làm cho tốt được cơ chứ! Bởi thế, con người chẳng được có tâm ghen ghét, phải thường mong người khác hơn mình, người khác giỏi hơn mình thì mình có phước. Giảng kinh thuyết pháp, hoằng hộ chánh pháp đều là tu phước, ai sẽ hưởng phước? Đại chúng thanh tịnh hưởng phước, mỗi ngày nghe kinh niệm Phật là hưởng phước đấy! Tôi rất thích mỗi ngày được nghe kinh niệm Phật, chuyện gì cũng không hỏi đến, quý vị nói có phải là cuộc sống rất tốt chăng? Thế nhưng tôi không có phước báo ấy, không ai giảng cho tôi nghe. Nếu mỗi ngày có một người có thể giảng kinh cho tôi nghe, tôi sẽ ngày ngày cúi lạy người đó, ngày ngày cảm tạ, thật đó, không giả đâu! Tôi phải cảm tạ người ấy cúng dường pháp, cảm tạ tài cúng dường của những vị hộ pháp đại đức, lấy thành quả tu hành của chính mình để báo đáp.
Vị Phật cuối cùng là Võng Minh Phật, “biểu thị phương pháp hoằng nguyện độ sanh, dùng vô lượng pháp môn (như mắt lưới) cứu độ chúng sanh”. Hoằng hộ chánh pháp phải có hoằng nguyện như thế, phải có tâm lượng như thế, phải có trách nhiệm như thế thì Phật pháp mới hưng thạnh. Một đạo tràng giảng kinh thuyết pháp không phải là một vị pháp sư, nay chúng ta lập mười phòng học, chúng tôi hy vọng có mười vị pháp sư, chúng tôi hy vọng có mười môn, hai mươi môn công khóa. Học sinh không thể cái gì cũng học hết được, không thể được! Học sinh tối đa chỉ học hai môn. Trước kia, ở Đài Trung, thầy Lý dạy chúng tôi như thế; tối đa chỉ có thể học đồng thời hai môn, nhất định chẳng được học ba môn, thầy nói học ba môn chẳng thể thành tựu. Tốt nhất là như thế nào? Tốt nhất là học một môn sẽ mau có thành tựu. Theo một vị thầy học một bộ kinh, học cho kỹ bộ kinh ấy, tốt nghiệp xong, quý vị mới được học bộ thứ hai. Thế nào là tốt nghiệp? Nhất định phải được vị thầy chấp thuận: “Ngươi học được rồi”. Ngay chính bản thân tôi, trước kia ở Đài Trung, dẫu thầy Lý không hạn chế, nhưng chính chúng tôi tự hạn chế mình, học xong một bộ kinh, nhất định phải giảng mười lần, lên đài giảng! Thầy Lý dạy tôi chỉ giảng một lượt, lần thứ hai là học sinh giảng cho thầy nghe, thầy giúp chúng tôi sửa cho đúng. Từ đó về sau, lần thứ ba, lần thứ tư, cho đến lần thứ mười, đều là thầy ngồi ở dưới nghe, học sinh giảng trên tòa. Giảng xong mười lần, thầy gật đầu: “Được rồi!”, thì mới coi là tốt nghiệp môn công khóa ấy. Phương pháp dạy học chúng tôi dùng hiện nay là theo phương pháp ấy. Thầy hằng ngày nghe giảng, hằng ngày giúp sửa cho đúng, ngày ngày giúp quý vị giải quyết vấn đề, giúp quý vị nâng cao cảnh giới. Một bộ kinh học mười biến xong, lại xem xét đức hạnh, định lực của quý vị. Quý vị có định lực sẽ chẳng bị danh văn lợi dưỡng bên ngoài lay động thì mới có thể ra giảng kinh được. Nếu ra giảng kinh, vừa tiếp xúc danh văn, lợi dưỡng bèn khởi tham - sân - si - mạn, ngay lập tức bị đọa lạc là xong. Trong tình huống ấy, chắc chắn không được đi. Đạo tràng có thể bảo vệ quý vị, quý vị ra ngoài không ai bảo vệ, không chống chọi nổi dụ hoặc sẽ bị đọa lạc. Đọa lạc rồi quay đầu rất khó.
Võng Minh Phật là nhân tài hoằng pháp trong đạo tràng nhiều, khoa mục nhiều. Vì thế, Phật giáo giống như một trường đại học, mỗi một vị thủ tòa hòa thượng là thầy giáo, mỗi thầy giáo đều có sở trường chuyên môn, thâm nhập một môn. Quý vị muốn học một bộ kinh luận nào cứ theo học với vị đó, vị thầy ấy nhất định rất nghiêm túc dạy quý vị, thành tựu cho quý vị. Thầy trò hợp đạo, người dạy, kẻ học cùng tăng trưởng. Làm công tác hoằng pháp rồi nghỉ hưu thì làm công tác hộ pháp, cũng có nghĩa là đảm nhiệm chấp sự thường trụ, vì đại chúng phục vụ. Lúc tôi mới học Phật, tôi có ý nghĩ như sau: Trước năm bốn mươi tuổi học tập, hoằng pháp cũng thuộc trong học tập. Từ năm bốn mươi đến sáu mươi tuổi, suốt cả hai mươi năm phải làm thường trụ phục vụ, đảm nhiệm công tác. Sau sáu mươi tuổi, từ khước mọi công tác thường trụ, từ khước để làm gì? Chuyên môn giảng kinh dạy học, không phải bận tâm lo công việc. Với hoằng pháp lẫn hộ pháp, tự mình đều có kinh nghiệm khá phong phú, biết phải bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp như thế nào, biết chăm sóc nhân tài hoằng pháp ra sao, bồi dưỡng nhân tài hộ pháp, có kinh nghiệm thực tế. Nếu trong đạo tràng người hoằng pháp càng nhiều, chúng tôi cũng càng mở nhiều pháp môn, phương châm của chúng tôi là “nhất định phải tuân thủ cách thức thâm nhập một môn trường thời huân tu” của cổ đức. Một vị thầy chuyên công nơi một môn, thời gian tối thiểu phải là mười năm. Mười năm chuyên dốc công phu nơi một môn mới có thành tựu, chẳng thể học quá nhiều, quá tạp. Thông một môn, hết thảy đều thông; dẫu thông hết thảy môn rồi vẫn cứ chuyên hoằng một môn, vì sao? Nêu gương cho hậu học. Con người hiện thời không biết lợi ích của việc chuyên tu, nên nhất định phải làm gương cho họ thấy, khiến họ hiểu rõ, khiến họ hoan hỷ mà được thành tựu. Lại xem tiếp phần Hạ phương, chúng tôi cũng đọc đoạn kinh văn nói về hạ phương một lượt:
“Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: ‘Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)
Đến đây là một đoạn. Phương dưới có tên sáu vị Phật, không giống như phần trên, trong đoạn trên là năm vị Phật, ở đây sáu vị. Đương nhiên những con số đều có ý nghĩa, chắc chắn không phải là ngẫu nhiên, chắc chắn không nêu tùy tiện. Con số ấy “biểu thị đại hạnh giáo hóa, phổ độ chúng sanh”; đấy là nói về pháp Đại Thừa! Dùng sáu vị Phật để biểu pháp, tượng trưng cho sáu Ba La Mật của Đại Thừa. Bắc phương biểu thị hóa tha, khởi đầu! Giống như vị pháp sư học kinh giáo, đại khái là từ mười năm đến hai mươi năm đầu, đều thuộc vào giai đoạn này. Sau hai mươi năm dạy dỗ, giảng kinh giáo, có thể nói là lúc ấy đã mở mang trí huệ, dần dần cũng có thể khế nhập tam-muội. Người ấy có định lực, có trí huệ, có kinh nghiệm, có thể mở rộng sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, “đại hạnh giáo hóa phổ độ chúng sanh”, người ấy đã có thể ứng phó được.
Trong những đức hiệu của chư Phật, vị thứ nhất là Sư Tử Phật. Sư Tử là tỷ dụ, “ví cho Phật thuyết pháp, biểu thị pháp vương tử thay Phật hoằng pháp, như Phật không hai”. Bởi lẽ người hoằng pháp ở đây không phải là sơ học, mà là pháp sư hoằng pháp thành thục, trong nhà Phật gọi là bậc Thượng Tọa. Hoằng pháp trọn mười năm là Hạ Tọa, hai mươi năm là Trung Tọa, trọn ba mươi năm là Thượng Tọa. Theo như tập tục của chúng ta, tức tập tục trong nhà Phật mà nói, thì địa vị ấy (được biểu thị bằng sáu vị Phật ở phương Hạ) là Thượng Tọa. Thượng Tọa là người thực hiện sự nghiệp giảng kinh hoằng pháp ba mươi năm, phải nhớ như vậy, suốt ba mươi năm phải ngày ngày dạy dỗ mới xứng [danh xưng Thượng Tọa]!
Cả năm chỉ giảng một hai tuần, một tháng thì không tính, vì không phải là giáo viên. Có trường học nào thầy chỉ lên lớp một tháng mỗi năm chăng? Dạy một hai tuần thôi ư? Không có trường nào như thế cả! Giáo viên của những trường chánh quy phải dạy học hằng ngày, giáo sư đại học mỗi tuần tối thiểu phải lên lớp một lần hai tiếng hoặc ba tiếng, mỗi một tuần như thế không thể gián đoạn, trường học như thế đó! Trong Phật pháp không như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật làm gương cho chúng ta. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh mỗi ngày, suốt bốn mươi chín năm không gián đoạn. Ngày ngày giảng, năm năm giảng không gián đoạn, đủ ba mươi năm mới thật sự là Thượng Tọa. Tuyệt đối chẳng thể một ngày nóng, mười ngày lạnh mà tính đâu nhé!
Năm vị Phật ở phương Bắc tượng trưng cho ba mươi năm đầu, sáu vị Phật ở phương dưới tượng trưng cho ba mươi năm sau. “Đại hạnh giáo hóa, phổ độ chúng sanh”. Đức hạnh, trí huệ, học vấn, kinh nghiệm, kỹ xảo giáo hóa chúng sanh đều thành thục; lúc đó có thể nói là pháp duyên thù thắng, hiện sư tử hống. Sư tử hống là tượng trưng cho Phật thuyết pháp. Pháp vương tử thay Phật thuyết pháp, nên ta nói là “như Phật không hai”. Quý vị không giảng lầm kinh giáo, bất luận quý vị nói cạn hay sâu, nói dài, nói ngắn, nhất định khế cơ khế lý, trên khế hợp lý được chứng bởi chư Phật, dưới khế hợp căn cơ chúng sanh đáng độ. Đó là bản lãnh của Phật, ta cũng phải học theo. Quý vị hãy suy nghĩ: Tự hành hóa tha, năm dài tháng chầy thành thục, chẳng phải là háo cường háo thắng trong một thời gian ngắn mà hòng thành tựu, không có đạo lý ấy đâu. Bởi thế, đối với một điểm này, quý vị nhất định phải cảm kích người hộ pháp. Sở dĩ tôi cảm kích Hàn Quán Trưởng vì bà giúp tôi suốt cả ba mươi năm. Ba mươi năm giúp tôi có cơ hội ngày ngày lên đài giảng, đó chính là chân chánh hộ pháp. Do đó, chúng tôi cảm kích, chúng tôi được thành tựu như thế này. Nếu không có ba mươi năm ngày ngày giảng kinh, dễ hòng thành tựu ư? Ba mươi năm, đúng là như người ta thường nói “bà giúp tôi lên bậc Thượng Tọa rồi bèn tịch”. Chúng tôi vĩnh viễn ghi nhớ, vĩnh viễn ôm lòng báo ân, dùng cách nào để báo ân? Dùng thành tích của chính mình để báo đáp; ngoài cách ấy ra, không cách gì báo đáp được. Nay đã hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
“Danh Văn Phật”
“Danh xưng (tức danh hiệu của Ngài) vang khắp mười phương, biểu thị Ngài là con mắt của trời người, giống như Quán Âm, Phổ Hiền, các tổ sư trong nhà Phật”. Phương dưới nêu tên sáu vị Phật nhằm biểu thị nền giáo dục của đức Phật thạnh hành trong thế gian, giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, cầu sanh Tịnh Độ. Vì sao phá mê khai ngộ phải cầu sanh Tịnh Độ? Có đạo lý đấy! Có thật sự giác ngộ quý vị mới cầu sanh Tịnh Độ. Nói cách khác, bất luận quý vị tu học pháp môn nào, dẫu công phu giỏi đến mấy, đắc tam-muội, minh tâm kiến tánh, nhưng nếu không cầu sanh Tịnh Độ, quý vị sẽ không thật sự triệt ngộ. Người thật sự triệt để giác ngộ không ai không cầu sanh Tịnh Độ. Quý vị thấy bậc Địa Thượng Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, Thập Địa Bồ Tát từ đầu đến cuối không rời niệm Phật, thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ. Đầu - cuối: Đầu là bậc Sơ Địa, Cuối là Đẳng Giác, tổng cộng mười một địa vị. Trong mười một địa vị ấy, không vị nào không niệm A Di Đà Phật, không vị nào không cầu sanh Tịnh Độ. Văn Thù, Phổ Hiền nêu gương! Hai vị thượng thủ trong hội Hoa Nghiêm bày đầu, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ! Do đây biết rằng: Chân chánh giác ngộ, triệt để giác ngộ, không ai không phát tâm cầu sanh Tịnh Độ!
Danh Văn Phật đương nhiên không ngoại lệ. Ở đây, danh hiệu Phật tượng trưng cho con mắt của trời - người. Thiên - nhân tượng trưng cho ba đường lành trong lục đạo, có huệ nhãn, có khả năng phân biệt đúng - sai, tà - chánh, lợi - hại. Trong các pháp thế gian, xuất thế gian, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thù thắng bậc nhất, thù thắng không gì sánh bằng, sao không tuyển chọn pháp môn này? Quán Âm Bồ Tát là vị thượng thủ Bồ Tát của Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phổ Hiền Bồ Tát là vị thượng thủ Bồ Tát trong pháp hội của Tỳ Lô Giá Na Phật nơi Hoa Tạng thế giới, các tổ sư đại đức trong nhà Phật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ rất nhiều. Danh hiệu mấy vị Phật này đều là Phật pháp thạnh hành trong thế gian, hiển thị tình trạng hưng vượng. Vị Phật thứ ba là:
Danh Quang Phật.
“Biểu thị đại trí tùy diễn, pháp âm xa nghe, có thể khiến cho chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Trong đức hiệu của Phật có một chữ Danh nhằm bao hàm mật nghĩa! Mật nghĩa ấy chính là dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo, quyết định vãng sanh. Quang biểu thị trí huệ. Vì thế, danh hiệu này biểu thị trí huệ viên mãn, hằng thuận chúng sanh, ứng theo căn cơ mà bố thí; “Tùy” là tùy thuận chúng sanh, tùy thuận căn tánh, tùy lòng chúng sanh ưa thích, tùy thuận phương thức sanh sống hiện tại của chúng sanh mà vì họ diễn nói. Bởi thế, Phật giáo hóa chúng sanh hết sức sống động, tùy thời, tùy chỗ mà biến hóa, điều này rất giống với việc dạy học của thế gian. Ví như một đứa trẻ, tùy theo độ tuổi của nó, tuổi lớn thì trí huệ cũng tăng trưởng, kinh nghiệm cũng tăng trưởng. Thầy dạy nó nhất định phải tùy theo độ tuổi, tùy theo trí huệ, tùy theo kinh nghiệm của nó mà không ngừng điều chỉnh tài liệu giảng dạy, điều chỉnh phương pháp dạy dỗ. Tuyệt đối chẳng thể dạy nó bằng một khóa trình hễ đã soạn thành thì bất biến, không phải như vậy! Dẫu cho việc dạy học thời cổ, đúng là từ nhỏ (lúc mới sáu bảy tuổi) liền dạy nó đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, đến năm bảy tám mươi tuổi tóc râu bạc trắng vẫn đọc Tứ Thư Ngũ Kinh, tài liệu giảng dạy không thay đổi; nhưng quý vị phải hiểu: Trong phương pháp dạy học, đối với việc giải thích, nhận hiểu, vận dụng tài liệu giảng dạy, đúng là phải thay đổi theo từng độ tuổi. Kinh điển Phật giáo cũng giống như thế. Từ lúc quý vị mới học Phật dạy quý vị đọc kinh, cho đến một trăm tuổi vẫn là đọc một bản kinh đó, nhưng có thể nói là quý vị lãnh hội sai khác, mỗi năm không giống nhau, mỗi tháng khác nhau. Đem những ý nghĩa quý vị đã thể hội từ kinh sách áp dụng vào cuộc sống thực tại, áp dụng vào công việc, áp dụng trong cách xử sự, đãi người, tiếp vật, dẫn dắt chúng sanh phá mê khai ngộ trong đời này, lìa khổ được vui. Chẳng những dẫn dắt một đời lại còn dẫn dắt đời đời kiếp kiếp trong mai sau, kinh điển chẳng thể nghĩ bàn! Bởi thế, phải biết tùy cơ diễn nói!
“Pháp âm xa nghe”, phàm phu chúng ta chẳng dễ gì hiểu nổi chuyện “pháp âm xa nghe” này. Hiện tại khoa học kỹ thuật phát đạt, chúng ta có thể dùng kỹ thuật khoa học để chuyển hình ảnh, âm thanh thành sóng điện từ. Người ở phương xa thâu được sóng điện từ ấy, lại chuyển nó thành hình ảnh, âm thanh, nên sẽ thấy được, nghe được. Nay nhờ máy truyền hình, máy phát thanh, mạng Internet nên hình ảnh, âm thanh đều có thể thấy được. Pháp âm xa nghe! Nhưng thật ra, chúng ta mê mất tự tánh nên tác dụng đức năng của tự tánh chẳng hiện tiền, bởi thế các nhà khoa học dùng máy móc, dùng khí cụ để hỗ trợ chuyển biến. Chứ trên thực tế, kinh Phật dạy chúng ta, không cần phải nhờ vào bất cứ máy móc nào, tự bản thân chúng ta có năng lực. Sắc tướng, âm thanh, ý niệm, tạo tác của chúng ta trong khoảng sát-na tợ hồ đồng thời trọn khắp pháp giới. Chúng ta phải hiểu đạo lý, chân tướng sự thật này. Nếu sự thấy - nghe - hay - biết của chúng ta chẳng trọn khắp hư không pháp giới, quý vị hãy nghĩ xem, lẽ nào chúng ta lại có thể khởi tác dụng cảm ứng đạo giao với chư Phật, Bồ Tát?
Tâm tánh Phật, Bồ Tát trọn khắp hư không, pháp giới, tâm tánh của hết thảy chúng sanh cũng trọn khắp hư không pháp giới. Vì thế, nói trên mặt tâm tánh thì không hai, không khác, tự - tha bất nhị; chẳng những chúng sanh và Phật không hai, mà chúng sanh và hết thảy hữu tình, vô tình chúng sanh cũng không hai! Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta hãy chú tâm thể hội, quán sát sẽ thấy vũ trụ là một thể, hễ một thể thì quyết định chẳng thể chia cắt! Nay nói từ cái thân người của chúng ta đây thì tất cả hết thảy khí quan nơi thân người, các tế bào đều là một thể, thế nhưng cái một thể ấy lại có thể chia cắt, hiện tại có thể dùng thủ thuật ngoại khoa để chia cắt. Vũ trụ một thể là Pháp Thân, Pháp Thân chẳng thể chia cắt. Bởi vậy, nếu muốn tỷ dụ thì nói thật ra, chẳng có một vật nào có thể dùng để sánh ví cho thích hợp cả; tỷ dụ chỉ có thể mường tượng, tương tự; chắc chắn không có cách nào sánh ví cho thật phù hợp được.
Như vậy, thấy - nghe - hay - biết trọn khắp pháp giới, hư không giới, nhân vì chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên năng lực ấy bị chướng ngại, chứ năng lực ấy không hề bị hoại mất. Khi nào quý vị trừ được chướng ngại ấy, năng lực sẽ khôi phục hiện tiền. Nói “khôi phục” cũng không thích đáng! Khôi phục là phải mất đi rồi có lại được thì mới gọi là khôi phục; chứ về căn bản, năng lực ấy không hề bị mất đi, chỉ bị chướng ngại mà thôi! Dẫu bị chướng ngại, năng lực vẫn khởi tác dụng y như cũ, chẳng qua nó khởi tác dụng nhưng chúng ta không cảm nhận được. Chướng ngại là như vậy đó, chướng ngại sự cảm nhận của chính chúng ta là vì vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chưa thể buông xuống được! Nói chung, phải hiểu rõ: Quả thật pháp âm có thể xa nghe.
“Có thể khiến cho chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Đây là âm thanh thù thắng, phần trên gọi là “âm thanh tối thù thắng!” Thế nhưng, nói thật ra, mê hay ngộ là do chính mình. Người hiểu và người không hiểu khác biệt rất lớn; bởi vậy, tổ sư đại đức trong Tông Môn, Giáo Hạ nhà Phật thường trắc nghiệm học trò: “Ngươi hiểu ư?” Câu này ý nghĩa rất sâu xa, sâu rộng vô tận. “Ngươi hiểu ư?”, nếu quả thật hiểu, phàm tất cả tướng đều là Thật Tướng; tất cả âm thanh đều là Phật âm, hiểu là như vậy đó! Hiểu là giác ngộ. Nếu như mê thì cảnh giới bên ngoài, cảnh giới được tiếp xúc bởi sáu căn sẽ được gọi là “sáu trần”!
Trần là gì? Trần là bất giác, Trần là mê hoặc, Trần là ô nhiễm, đó gọi là “sáu trần”. Sau khi giác ngộ thì không gọi là sáu trần mà gọi là “sáu tánh”, mắt thấy Sắc Tánh, chứ không gọi là Sắc Trần. Như vậy, chưa hiểu thì mắt thấy Sắc Trần, tai nghe Thanh Trần; còn nếu giác ngộ thì mắt thấy Sắc Tánh, tai nghe Thanh Tánh, thấy - nghe - hay - biết đều là tánh, minh tâm kiến tánh! Căn tánh Năng Kiến (chủ thể nhận biết) của sáu căn và sáu tánh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sáu tánh), của cảnh giới Sở Kiến (bị nhận biết), Năng - Sở là một không hai. Vì thế, ông Âu Dương Cánh Vô nói Phật pháp không phải là triết học. Trong triết học, Năng và Sở là hai; trong Phật pháp, Năng và Sở là một, không hai. Ý nghĩa này rất sâu.
Tánh Thấy và Sắc Tánh là một tánh. Quý vị thường nghe nói đến Phật Tánh, Pháp Tánh, ở đây quý vị sẽ hiểu rất rõ ràng: Mắt thấy Sắc, mắt và căn tánh là Phật Tánh; còn cái sắc tướng, sắc tánh được quý vị thấy đó chính là Pháp Tánh. Nếu như mê thì căn chẳng được gọi là Căn Tánh, mà gọi là Nhãn Thức, những gì ở bên ngoài được thấy bởi mắt sẽ gọi là Sắc Trần, không gọi là Sắc Tánh. Mê một thì mê hết thảy, mê nơi chính mình nên cũng mê nơi cảnh giới bên ngoài. Mê nơi chính mình là chuyển Tánh Thấy thành Nhãn Thức, đó là mê vậy! Tánh Thấy chuyển thành Nhãn Thức thì cảnh giới bên ngoài cũng bị chuyển theo, y báo chuyển theo chánh báo; Sắc Tánh bên ngoài bị chuyển thành Sắc Trần, cảnh tùy tâm chuyển. Từ chỗ này, ta có thể hiểu hết sức rõ ràng thế nào là Phật tánh, thế nào là Pháp Tánh? Phật Tánh có thể biến, có giác và mê; Pháp Tánh thì không, Pháp Tánh chuyển theo Phật Tánh. Phật Tánh là chánh báo, Pháp Tánh là y báo; y báo hoàn toàn chuyển theo chánh báo.
Chánh báo giác ngộ thì chính là như Giao Quang đại sư đã nói trong sách Lăng Nghiêm Chánh Mạch; Sư giảng rất hay: “Bỏ Thức dùng Căn”. Bỏ Thức dùng Căn là chuyển Thức thành Trí, Pháp Tướng Tông gọi là “chuyển Thức thành Trí”. Chuyển thì có chuyển trên mặt Nhân và chuyển nơi mặt Quả. Trong tám thức thì thức thứ sáu và thức thứ bảy chuyển nơi Nhân, năm thức đầu và thức thứ tám chuyển nơi Quả. Quý vị hiểu rõ thì sẽ biết mình phải dụng công như thế nào. Năng lực mạnh nhất của thức thứ sáu tức Ý Thức là phân biệt, năng lực mạnh nhất của thức thứ bảy tức Mạt Na Thức là chấp trước. Vậy thì chúng ta phải chuyển chúng bằng cách nào? Không chấp trước hết thảy pháp thế gian hay xuất thế gian, không chấp trước là chuyển Mạt Na Thức thành Bình Đẳng Tánh Trí. Không phân biệt hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian nữa, không phân biệt sẽ chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Phải chuyển từ chỗ ấy. Còn như thức thứ tám và năm thức trước quý vị không cần phải bận tâm, hai thứ đó sẽ chuyển theo. Thức thứ tám và năm thức trước thảy đều bị chuyển cả, liên đới chuyển theo.
Người tu hành bất luận tu học một pháp môn nào, trong kinh Phật thường nói là “tác quán”. Danh từ “Chỉ Quán” chỉ chung cả tám vạn bốn ngàn pháp môn, kể cả pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật. Trong nhà Phật, danh từ ấy là nguyên tắc chỉ huy tổng quát, là tổng cương lãnh, bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ. Chẳng hạn như chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật có phải là tu Chỉ Quán hay không? Phải! Lúc niệm một câu A Di Đà Phật buông xuống vạn duyên, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, ngoại trừ Phật A Di Đà ra, ý niệm gì cũng không có, buông ý niệm xuống chính là Chỉ. Một câu Phật hiệu rõ ràng, minh bạch là Quán. Vì thế, trong kinh Đại Tập, đức Thế Tôn nói Trì Danh Niệm Phật là “thậm thâm thượng diệu thiền”, Thiền chính là Chỉ Quán. Vì sao nói niệm Phật không phải là Tu Thiền? Đúng là đang tu Thiền ấy chứ, đã thế lại còn tu Thượng Thượng Thâm Diệu Thiền, rất ít ai biết!
Chỉ là gì? Là dứt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, khiến cho chúng ngừng dứt. Trong giáo pháp Đại Thừa thường gọi Chỉ là tam-muội, tâm địa vĩnh viễn giữ chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi là Chỉ! Quán là cảnh giới bên ngoài rõ ràng, minh bạch; trong - ngoài đều rõ ràng; trong là căn tánh của sáu căn, ngoài là Pháp Tánh. Minh tâm kiến tánh! Minh tâm là năng kiến, chân tâm; Kiến tánh: Không một pháp nào chẳng do tánh biến hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm thức là pháp tánh. Vì thế, đạt đến cảnh giới này, những cảnh giới mà sáu căn đối ứng, tiếp xúc chỉ là pháp tánh mà thôi! Giống như cổ đức thường ví von: “Dùng vàng làm đồ vật, món món đều là vàng”. Vàng ròng chế làm ngàn vạn món vật, lấp lánh chóa mắt để mình đến ngắm nghía, thưởng thức. Quý vị nhìn xong, thấy chúng là gì? Chỉ là hoàng kim mà thôi! Ngoại trừ hoàng kim ra, không có gì khác hết.
Vì vậy, người thật sự minh tâm kiến tánh thấy sơn hà, đại địa, hư không, pháp giới, hết thảy chúng sanh, nếu quý vị hỏi người ấy thấy gì ư? Những gì họ thấy là một tánh; giống như những thứ lấp lánh chóa mắt ta thấy toàn là vàng ròng, khắp tất cả là vàng ròng! Ngoại trừ hoàng kim ra không còn có gì khác. Lúc kiến tánh, ngoại trừ pháp tánh ra, cái gì cũng không có! Pháp tánh là thanh tịnh, pháp tánh là bình đẳng, pháp tánh không sanh diệt, pháp tánh không đến đi: “Sanh ra từ nơi nào, diệt tận ngay nơi đó”, “Tùy tâm chúng sanh, ứng theo khả năng nhận biết của họ”. Quý vị thấy mấy câu kinh Lăng Nghiêm giảng rất rõ ràng. Chân tướng vũ trụ vạn hữu đấy! Phá mê khai ngộ rồi sẽ lìa khổ được vui, tất cả hết thảy khổ đều chẳng có; chẳng bị hết thảy khổ, đó chính là lạc!
Trong kinh Di Đà, đức Thế Tôn cho biết vì sao thế giới ấy gọi là Cực Lạc? Phật giảng rất hay, chúng sanh trong thế giới ấy không có các nỗi khổ, không phải chịu khổ, nên gọi là thế giới Cực Lạc. Thế giới này của chúng ta khổ nhiều vui ít, vui cũng là khổ, chẳng phải là chân lạc! Vì thế, đức Phật nói Vui là Hoại Khổ, không khổ không vui là Hành Khổ; nói cách khác, cái khổ bao trùm mọi trạng huống cuộc sống của chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Bọn họ chịu khổ, tam giới đều khổ. Thế giới Cực Lạc không khổ, không có Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ; vì thế gọi là Cực Lạc. Chúng ta hiểu rõ, hiểu thông suốt, hiểu rành rẽ ý nghĩa thô thiển ấy thì sẽ chết lòng trọn ý niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đã thế còn khuyên người. Bất cứ chướng nạn nào cũng không chướng ngại được quý vị. Vì sao? Thật sự hiểu rõ, hiểu minh bạch chân tướng sự thật. Danh Quang Phật là như vậy đó. Tiếp theo là vị Phật:
Đạt Ma Phật
Đạt Ma là dịch âm tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Pháp. Chúng ta nói Phật - Pháp - Tăng: Phật Đà, Đạt Ma, Tăng Già đều là dịch âm tiếng Phạn, bởi thế Đạt Ma được dịch là Pháp, “biểu thị đại pháp được truyền thừa từ chính đức Phật”. Pháp môn ấy sâu rộng vô tận, không pháp nào có thể sánh bằng. Quý vị học đại pháp ấy từ đâu? Ta học từ thầy, thầy là ai? Thầy là Thích Ca Mâu Ni Phật, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đương nhiên chúng ta được thừa hưởng từ từng đời tổ sư truyền xuống, chúng ta mới biết. Tuy là tổ sư dạy cho chúng ta, nhưng kinh chúng ta đọc được đây là do chính miệng Như Lai nói ra, tổ sư đại đức lại giới thiệu cho mình. Chúng ta mở kinh ra chính là được truyền thừa trực tiếp từ đức Phật. Huống chi Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn dạy chúng ta Tứ Y Pháp (bốn phép nương tựa). Phật không còn trong thế gian, chúng ta phải nương tựa vào đâu? Phật rất từ bi, dạy cho chúng ta Tứ Y Pháp:
1) Thứ nhất là “y pháp bất y nhân” (nương vào pháp chứ không nương theo người). Pháp là gì? Pháp là kinh điển. Y Pháp, Pháp do đức Phật nói, trực tiếp nương theo lời Phật giảng. Quý vị thấy đó, thật phi phàm! Chúng ta là truyền nhân trực tiếp của Thích Ca Như Lai. Đặc biệt là Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Tông không có tổ sư, tổ sư Tịnh Độ Tông do đâu mà có? Do người đời sau đặc biệt tôn kính những vị tu Tịnh Độ ấy, xưng tụng các Ngài là tổ sư. Bởi thế, tổ sư Tịnh Độ Tông khác với tổ sư các tông phái khác. Hết thảy tông phái khác là một thầy truyền cho một trò, vì thế có nhiều đời. Tịnh Độ Tông không có, Tịnh Độ Tông là dân tuyển, chẳng phải là một người truyền cho một người: Sơ Tổ không truyền cho Nhị Tổ, Nhị Tổ cũng chẳng truyền cho Tam Tổ. Người đời sau công nhận thành tựu của vị ấy: Đối với sự tu trì Tịnh Độ, đối với việc hoằng dương Tịnh Độ Tông, Ngài có cống hiến đặc biệt thù thắng, bèn tôn Ngài làm tổ sư. Bởi thế, cho đến nay, Tịnh Độ Tông chỉ có mười ba đời, tức là chỉ có mười ba vị. “Y pháp bất y nhân”, trực tiếp truyền thừa.
Chúng ta trực tiếp truyền thừa giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật, ba kinh một luận của Tịnh Độ Tông, sau này tổ sư đại đức thêm vào hai loại, nay là năm kinh một luận, đủ rồi, đó là trực tiếp truyền thừa! Chúng ta phải hiểu ý nghĩa này, quả thật trong Tịnh Độ Tông không có Tổ Sư truyền cho nhau từng đời, chúng ta chớ hiểu lầm. Vì sao? Mỗi một người tu Tịnh Độ đều là trực tiếp truyền thừa, thật chẳng thể nghĩ bàn! Ai nấy đều là đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật, là đích truyền! Bởi thế, pháp môn này hết thảy chư Phật khen ngợi, hết thảy Bồ Tát, thiện thần ủng hộ, không phải là không có lý! “Kham làm khuôn phép cho chúng sanh”, được truyền thừa từ chính đức Phật, kham làm khuôn phép cho chúng sanh, làm mô phạm cho hết thảy chúng sanh, “tức là Tứ Y Pháp trong nhà Phật vậy”. Chúng tôi cũng nêu Tứ Y Pháp ở đây, “y pháp bất y nhân”.
2) Thứ hai, “y nghĩa bất y ngữ” (nương theo nghĩa chứ không nương theo lời nói). Hiện nay có rất nhiều người phê bình bản hội tập, họ không hiểu câu này trong pháp Tứ Y. Nếu hiểu được câu này, vấn đề sẽ được giải quyết ngay. Cốt sao ý nghĩa minh bạch, lời lẽ nhiều thêm một câu hay bớt đi một câu, nói sâu, nói cạn, nói dài, nói ngắn cũng không ăn nhằm gì. Chỉ cần đúng ý nghĩa là được! Nêu ra pháp Tứ Y này, đức Phật biết rõ ràng minh bạch rằng trong tương lai kinh giáo lưu thông đến mười phương, ngôn ngữ, văn tự mỗi địa phương bất đồng, nhất định phải thông qua phiên dịch. Phiên dịch rồi, những bản dịch ấy có được đại chúng tin tưởng hay không thì dùng pháp Tứ Y này để luận. Bản dịch không có vấn đề: Hễ ý nghĩa đúng thì ngôn ngữ bất đồng không quan hệ gì, ý nghĩa phải đúng! “Y nghĩa bất y ngữ”.
Bản hội tập là [tập hợp những ý quan trọng được] tuyển chọn từ năm bản dịch gốc, chúng ta đem bản hội tập đối chiếu với những bản dịch gốc, không sai ý nghĩa, y nghĩa bất y ngữ, chúng ta thấy tin tưởng được, có thể sử dụng được. Nếu phản đối tức là không hiểu Tứ Y Pháp. Nói thật ra, nay có rất nhiều người nghi hoặc những bản phiên dịch không đáng tin, nhất định phải dựa vào nguyên bản Phạn văn. Theo như chúng tôi biết về kinh điển nguyên bản bằng Phạn văn thì lúc đức Phật còn tại thế, không dùng văn tự để ghi chép. Sau khi đức Phật diệt độ, A Nan nhắc lại, đại chúng ghi chép. Rốt cuộc là đáng tin tưởng hay không? Nếu thật sự tìm lấy bản rốt ráo tin tưởng được, thì không phải do người thân cận Thích Ca Mâu Ni Phật ghi chép lại là không được. Từ miệng người này truyền sang người khác, ai nấy đều hoài nghi, trở thành vấn đề nghiêm trọng. Tất cả hết thảy kinh, ngay cả nguyên bản Phạn văn cũng bị đánh dấu hỏi, không đạt được lợi ích thù thắng!
3) Thứ ba, “y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa” (nương theo kinh liễu nghĩa, không nương vào kinh không liễu nghĩa). Liễu nghĩa là gì? Bất liễu nghĩa là gì? Ở đây, tôi chỉ ra nguyên tắc cho quý vị: Liễu nghĩa, bất liễu nghĩa mỗi người mỗi khác. Khế cơ, khế lý chính là liễu nghĩa; khế lý không khế cơ là bất liễu nghĩa. Khế cơ không khế lý cũng là bất liễu nghĩa. Liễu nghĩa nếu giảng đến rốt ráo là nếu chúng ta nương vào pháp môn này, trong một đời chúng ta có thể khai ngộ, có thể chứng quả, có thể vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới, thì đối với ta, pháp môn ấy là liễu nghĩa! Rốt ráo liễu nghĩa thì phải giúp cho chúng ta trong một đời này chứng được Phật quả viên mãn rốt ráo. Đấy chính là liễu nghĩa bậc nhất trong các liễu nghĩa. Ngàn kinh vạn luận bày trước mặt ta, chính mình chọn lựa, pháp môn nào, bộ kinh nào đối với chúng ta là rốt ráo liễu nghĩa? Chính là bộ kinh nào, pháp môn nào mà chúng ta y theo đó trong một đời này sẽ chắc chắn thành tựu Phật quả viên mãn. Quý vị hãy suy nghĩ, ngoại trừ kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, muốn trong một đời sẽ chứng đắc Phật quả viên mãn rốt ráo là chuyện không thể được. Nói cách khác, kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ là liễu nghĩa rốt ráo!
Kinh Di Đà từ xưa đến nay có hai bản dịch, hiện chúng ta đang đọc tụng là bản dịch của La Thập Đại Sư . Bản dịch của Huyền Trang là dịch thẳng. Hai loại bản dịch như vậy. Nay chúng tôi đều in cả hai bản dịch, quý vị có thể tham khảo, có thể so sánh. Từ cổ đến nay, tổ sư đại đức, rất nhiều người học đều chọn lấy bản dịch của ngài La Thập, quả thật đây là bản dịch hay. Còn như kinh Vô Lượng Thọ, từ mục lục Đại Tạng Kinh, chúng tôi thấy thời cổ kinh này được phiên dịch đến mười hai lần. Từ đời Hậu Hán đến Nam Tống, trong vòng một trăm lẻ tám năm, tổng cộng mười hai lần phiên dịch, nhưng có những bản đã bị thất truyền, có bảy bản trong số ấy bị thất truyền, nay chỉ còn lưu truyền năm bản, chúng ta gọi là “năm bản dịch gốc”(ngũ chủng nguyên dịch). Đối chiếu những bản ấy thấy sự khác biệt rất lớn, vì thế dựa trên tình hình này cổ đức nhận định: Nhất định Thích Ca Mâu Ni Phật phải giảng kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần, chứ không chỉ một lần. Nếu chỉ một lần, cùng một bản gốc được nhiều người dịch thì chỉ đại đồng tiểu dị, không thể sai biệt quá lớn như thế được! Rõ ràng nhất là phần phát nguyện của A Di Đà Phật, quý vị thấy đó, trong năm bản dịch, hai bản ghi bốn mươi tám nguyện, hai bản ghi hai mươi bốn nguyện, một bản ghi ba mươi sáu nguyện, sai biệt rất lớn như thế. Nếu chỉ là một bản gốc (tức nguyên bản tiếng Phạn) thì chẳng thể có dị biệt lớn như vậy được. Vì vậy, từ ba loại sai biệt ấy, cổ đức phán đoán đương thời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ tối thiểu ba lần. Chúng ta không được đọc những bản thất truyền, nhưng nói chung kinh này phải được giảng từ ba lần trở lên! Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh chưa bao giờ giảng trùng lặp, thế nhưng kinh Vô Lượng Thọ lão nhân gia giảng tối thiểu ba lần, nên bộ kinh này rất đáng được coi trọng!
Do vậy, hội tập là chuyện cần thiết! Người hội tập sớm nhất là ông Vương Long Thư, người đời Tống. Bản hội tập của ông Vương Long Thư mang tên Đại A Di Đà Kinh, đã được lưu trong Càn Long Đại Tạng Kinh, tức là đã nhập tạng rồi. Trong tác phẩm chú giải A Di Đà Kinh là A Di Đà Kinh Sớ Sao, Liên Trì đại sư có trích dẫn kinh Vô Lượng Thọ. Quá nửa những đoạn kinh Vô Lượng Thọ được trích dẫn được lấy từ bản hội tập của ông Vương Long Thư. Do đây ta biết, tổ sư đã khẳng định [giá trị của bản hội tập]! Tổ sư chẳng trích dẫn từ bản dịch gốc mà dùng bản hội tập là có lý. Nếu nay chúng ta hoài nghi bản hội tập thì là sai lầm quá sức, chính là không hiểu được pháp Tứ Y!
4) Pháp cuối cùng trong Tứ Y Pháp là “y trí bất y thức”. Đây chính là điều chúng ta hiện đang nói: Chẳng riêng việc học Phật mà ngay cả trong xử sự đãi người tiếp vật bình thường, cũng phải dựa theo Lý Trí, chẳng được làm việc theo tình cảm. Nay ta gọi Thức là “dùng cảm tình để xử sự”. Xử sự theo cảm xúc thường mắc sai lầm, quý vị phải dựa vào Lý Trí, học Phật lại càng phải làm như thế. Ở đây, đức Phật dạy chúng ta: Phải dùng trí huệ để phán đoán, chọn lựa, chẳng thể xử sự theo cảm tình. Xử sự theo cảm tình sẽ tạo thành sai lầm. Ở đây, chúng tôi có chú thích một câu như sau: “Khuy Cơ pháp sư soạn Thông Tán Sớ để làm gương cho mạt thế”. Làm gương như thế nào? Chính là “y trí bất y thức”. Khuy Cơ đại sư là đồ đệ của Huyền Trang đại sư, ngài soạn Thông Tán Sớ để chú giải kinh A Di Đà, không dùng bản dịch của thầy mình. Nói theo lẽ thường, bản dịch của thầy mình không sai, lẽ ra ta phải dùng bản dịch của thầy mình để soạn chú giải, Ngài lại không làm vậy, mà dùng bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, chẳng dùng bản dịch của thầy mình. Vậy có phải là bất kính đối với thầy hay chăng? Không phải! Bản dịch của ngài La Thập rất hay, đã được lưu truyền rộng rãi toàn quốc, cớ gì phải dùng bản dịch của thầy mình, rất ít người đọc đến bản dịch ấy. Khi Ngài chú giải kinh này, dù là tình thầy trò, vẫn chẳng thể nhiễu loạn sự thấy nghe của người tu hành. Ngài chọn dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập, Huyền Trang đại sư thầy Ngài cũng không trách móc, không nói: “Ngươi phản thầy nghịch đạo!” Không hề có! Huyền Trang đại sư có nhã lượng như vậy, Khuy Cơ đại sư làm như vậy không sai, đó chính là “y trí bất y thức”, nương theo lý trí chứ không dùng cảm tình. Thầy trò họ nêu gương cho chúng ta. Bây giờ đã hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp vị Phật thứ năm trong đoạn thứ sáu của phần Mười Phương Phật.
Pháp Tràng Phật.
“Biểu thị vì chúng sanh làm con mắt chọn lựa pháp, dựng tràng pháp, lập tông chỉ, giáo hóa thạnh hành, phước độ chúng sanh”. Đó là ý nghĩa của danh hiệu này. Tràng là một loại cờ xí, chúng ta thường nói là “tiêu chí” (biểu hiệu). Tràng có hình tròn, hơi giống cái ống thông gió ở phi trường, hơi giống hình dạng ấy. Tại Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta thường thấy những cái tràng tại các tự viện lớn. Thời cổ, khi chùa chiền giảng kinh thuyết pháp, nay chúng ta gọi là “lên lớp”, làm thế nào để thông tri cho người khác biết mà đến nghe, đến cùng học tập? Phật pháp là đạo thầy trò, người Tàu hết sức coi trọng thầy, hết sức tôn kính. Bởi vậy “chỉ văn lai học, vị văn vãng giáo” (chỉ nghe nói đến học, chứ chưa nghe nói phải đi dạy). Học là cầu học, mình phải đến chỗ thầy để cầu học, chứ thầy không phải đến dạy cho mình. Thầy hết sức khiêm hư, trọn chẳng dám chèo kéo mình, nay ta nói “chiêu sinh”, chứ xưa kia không dám bảo là chiêu sinh. Nói “chiêu sinh” là rất cuồng vọng, anh có đức hạnh gì mà dám dạy người khác, người càng đạo đức lại càng khiêm hư. Làm cách nào đây? Bèn dùng tràng phan, dùng phương pháp ấy thông báo cho mọi người biết: Bữa nay trong đạo tràng của chúng tôi có giảng kinh, dạy học, chúng tôi treo tràng trên cột cờ. Mọi người xa gần trông thấy cột cờ của đạo tràng có treo cái tràng hình tròn, liền biết hôm nay pháp sư sẽ giảng kinh thuyết pháp, người thích nghe kinh sẽ tự đến. Vì thế không chiêu sinh, mà là thông tri, quý vị thích thì đến, không thích thì thôi. Dùng phương pháp ấy, hoàn toàn tự động, khiêm hư mà!
Trong thời đại hiện nay lại khác hẳn, trong thời đại hiện tại đã bước vào giai đoạn kỹ thuật cao, chúng ta không dùng tràng nữa, bởi với khoảng cách rất gần dùng tràng thì được, chứ với khoảng cách xa không hiệu quả. Nay chúng ta đem thời gian, băng tần giảng kinh in ra như quảng cáo để giới thiệu cùng hết thảy đại chúng, khiến cho mọi người đều biết. Nếu quý vị thích nghe kinh, thích nghe kinh gì, vào lúc nào, ở làn sóng nào thì đến lúc đó quý vị tự mở lên, hoàn toàn có cùng ý nghĩa với tràng phan.
Vì thế, giới thiệu cho người khác nghe kinh, nay có thể không cần phải gởi tặng kinh sách, băng thâu hình, băng thâu âm, đều không cần đến nữa, tốt nhất là in những tấm cạc (card), to bằng tấm danh thiếp, in những thông tin [giảng kinh] trên đó, tặng cho bạn bè thân thiết và người quen biết. Họ thích nghe thì dựa theo những thông tin đó, vào lúc nào, trên làn sóng nào, họ đều có thể thâu được, hoặc là nối vào Internet, hoặc là xem truyền hình, truyền hình vệ tinh. Vậy là tốt! Những việc ấy có cùng ý nghĩa như treo tràng phan, giới thiệu người khác nghe kinh nghe pháp. Treo phan thì quá nửa là pháp hội, thông tri nếu quý vị có thời gian thì đến cùng tu. Pháp hội cộng tu dùng phan; pháp hội giảng kinh dùng tràng, gọi là “pháp tràng”.
Dạy học, giảng kinh là “vì chúng sanh làm con mắt chọn lựa pháp”, đặc biệt là đối với kẻ sơ học, đúng là Phật pháp bảng lảng như khói trên mặt biển, pháp môn nhiều như thế, kinh điển nhiều như vậy, ta học pháp môn nào đây? Pháp môn nào thích hợp cho mình? Bởi thế, bản thân pháp sư có kinh nghiệm tu hành, kinh nghiệm giảng dạy, có thể giúp mọi người chọn lựa pháp môn, nêu ra những phương pháp tu học cho người ấy tham khảo. Đó là “làm con mắt pháp”, giúp mọi người chọn lựa pháp môn. Chuyện này cần phải có trí huệ, nhất là pháp sư truyền pháp. Truyền pháp là giảng kinh thuyết pháp, truyền đạo, trong các tôn giáo thường gọi là “nhà truyền giáo”. Người ấy nhất định phải hiểu thực trạng xã hội, con người thường suy nghĩ những gì? Nói năng những gì? Làm những gì? Phải chú tâm quan sát! Có như vậy quý vị mới dạy học, mới thuyết pháp khế cơ, những gì mình đề xuất đều nhằm đúng những nhu cầu bức thiết của người ta, có vậy người ta mới hoan hỷ, mới bằng lòng học tập. Hiện tại xã hội động loạn, nhu cầu bức thiết nhất của con người là xã hội an định, thế giới hòa bình, con người đối xử hòa thuận với nhau, hợp tác cùng nhau, đấy chính là nhu cầu bức thiết trong hiện tại. Khóa trình dạy học của chúng ta phải lấy những điều ấy làm trung tâm, trọng điểm. Với mỗi cá nhân, sự lợi - hại được - mất của người ấy quan trọng hơn bất cứ gì khác. Những chuyện lợi hại được mất, nói chung chẳng ngoài ba loại: thứ nhất là cầu giàu có, thăng quan phát tài; thứ hai là cầu trường thọ, mạnh khỏe sống lâu. Đấy là nhu cầu bức thiết. Từ hai nhu cầu này, chúng ta nêu ra khóa trình thứ ba là trí huệ, cầu trí huệ. Vì sao? Quý vị muốn thăng quan phát tài, muốn cầu sống lâu khỏe mạnh đều cần phải có trí huệ, không có trí huệ làm không được.
Theo thứ tự của nền giáo học nhà Phật, trí huệ được xếp hàng đầu, con người hiện tại xếp trí huệ xuống cuối, cái họ mong muốn đầu tiên là phát tài, kế tiếp là mạnh khỏe sống lâu, điên đảo như thế đó! Trong sự giáo học, tu hành của Phật pháp, điều đầu tiên là trí huệ, phải cầu trí huệ. Thứ hai là mạnh khỏe sống lâu, phát tài là chuyện cuối cùng, không đáng coi là quan trọng. Có trí huệ thì vấn đề nào chẳng giải quyết được. Vì thế, từ đầu đến cuối, sở cầu của Phật pháp là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu nói theo cách bây giờ là “trí huệ viên mãn rốt ráo”. Phật pháp là phương pháp trí huệ, Phật học là học vấn trí huệ, phá mê khai ngộ! Đó là Phật pháp. Chữ Phật là tiếng Phạn, có nghĩa là trí huệ, là giác ngộ; vì thế, từ mặt chữ dịch ra thì Phật pháp là phương pháp trí huệ, là phương pháp giác ngộ. Quý vị mới thật sự có năng lực, có trí huệ vì hết thảy chúng sanh chọn lựa phương pháp tối hảo khiến họ học được không khó khăn, lại còn đạt được lợi ích thù thắng.
Câu thứ hai: “Dựng pháp tràng, lập tông chỉ”. Nói như bây giờ, dựng pháp tràng là dựng đạo tràng. Đạo tràng trong hiện thời chẳng thể không tuân thủ lời Ấn Quang đại sư dạy. Lão nhân gia dạy chúng ta, từ thế kỷ hai mươi trở đi, đạo tràng theo quy mô nhỏ; thời đại đã khác với quân chủ, xã hội nông nghiệp trước kia. Vì thế, đạo tràng không thể giống như trước được. Đạo tràng hiện tại phải có quy mô nhỏ, tổ sư dạy chúng ta: Chúng thường trụ lấy hai mươi người làm giới hạn, chẳng được vượt quá hai mươi người, tự mình lo liệu cuộc sống của chính mình. Đạo tràng quy mô nhỏ không cần phải hóa duyên, người thật sự tu hành sẽ được cúng dường, cuộc sống thanh bần một chút là tốt. Vì sao? Cuộc sống thanh bần sẽ kích phát đạo tâm, khiến cho mình chẳng lưu luyến thế gian này, không tham ái, không lưu luyến, tâm cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ sẽ khẩn thiết. Đạo tràng xây cho to, giàu có, choáng lộn, nguy nga thì con người không có đạo tâm. Vì sao? Khởi tham - sân - si, tham luyến hoàn cảnh ấy, không muốn vãng sanh, tâm phan duyên bèn sanh khởi, đều là chướng đạo! Tổ sư suy nghĩ rất hợp lý. Đạo tràng nhỏ, vài người chí đồng đạo hợp cùng tu hành, tốt quá! Chẳng làm pháp hội, quyết định chẳng làm kinh sám Phật sự, thuần túy là đạo tràng niệm Phật. Tổ dạy không thâu đồ đệ, không truyền giới, không làm pháp hội, ngay cả kinh cũng không cần giảng, thật thà niệm Phật. Công khóa mỗi ngày giống như Phật thất thông thường, hai mươi người cùng tu một chỗ.
Nay chúng tôi quan sát tình hình xã hội hiện tại, nhận thấy cách nghĩ của tổ sư tuyệt đối chánh xác; nhưng trong tình hình xã hội hiện tại, phải nghe kinh! Vì sao? Không nghe kinh sẽ không hiểu lý, không hiểu lý thì niệm Phật là tu mù luyện đui! Trong thời đại xưa kia thì được, chứ trong thời đại hiện thời là không được. Chúng ta phải hiểu rõ tình trạng hiện tại để tuân thủ nguyên tắc mà tổ sư đã chỉ dạy. Hiện tại, cái đạo tràng nhỏ này của chúng ta phải nghe kinh, một ngày tối thiểu là nghe kinh hai giờ, có thể dùng thời gian còn lại để niệm Phật. Mỗi ngày nghe kinh không gián đoạn, nghe kinh không những khiến quý vị hiểu rõ lý, mà mỗi ngày nghe giáo huấn của Phật, sẽ kiên định tín nguyện của chính mình, hóa giải những phiền não, vọng tưởng, tập khí. Nghe kinh sẽ hóa giải dễ dàng, giải hạnh tương ứng. Nếu là sơ học, phiền não tập khí nặng nề, tốt nhất là mỗi ngày nghe kinh bốn tiếng đồng hồ, niệm Phật trong Niệm Phật Đường mười hai tiếng. Tu như vậy không ai chẳng thành công, thật sự thực hành mà! Đạo tràng ấy chắc chắn được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Còn như hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh thì dùng Internet, dùng truyền hình vệ tinh; vì thế, đạo tràng nhỏ này dựng thêm một gian chiếu phim là đủ. Đó là đối ngoại hoằng pháp. Đối ngoại hoằng pháp tự nhiên có người, bản thân mình không cần bận tâm, chúng ta chỉ cần đem bài giảng (tức là giảng kinh nội bộ mỗi ngày hai hay bốn tiếng đồng hồ) thâu âm, thâu hình lại, có những tín đồ rất nhiệt tâm sẽ đem truyền bá là được rồi, chẳng cần phải bận tâm chút nào. Tốt nhất là ít tiếp xúc ngoại cảnh, càng ít càng tốt, tâm chúng ta an định, đương nhiên sẽ có những cư sĩ nhiệt tâm hộ trì đạo tràng nhỏ ấy, chuyện lưu thông Phật pháp họ sẽ làm. Như vậy, thân tâm hoàn toàn định được, vậy là tốt! “Dựng pháp tràng” chính là dựng đạo tràng.
“Lập tông chỉ”, tông chỉ là cương lãnh tu hành, phương châm tu hành. Như Ấn Quang pháp sư đã dạy chúng ta chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là lập tông chỉ. Đạo tràng này của chúng ta chuyên tu Tịnh tông, chẳng xen tạp các pháp môn khác, thuần túy là tịnh nghiệp đạo tràng. Những kinh luận được học tập ở đây chỉ là năm kinh một luận, đó là khoa mục chủ tu, không cần phải mở rộng ra. Nay chúng tôi kiến lập học viện tại đây, học viện đương nhiên phải bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp. Bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp cũng dùng phương pháp ấy, giải và hạnh cùng tiến. Theo lộ trình chúng ta cũng dùng phương pháp này, thật sự làm!
Thế nhưng, trong xã hội hiện tại, mỗi cá nhân đều chăm chút cái thân mình, tự tư tự lợi, thậm chí vong ân phụ nghĩa, không tâm từ bi, không có sự lễ kính chư Phật như trong mười nguyện Phổ Hiền, không có tâm lễ kính. Nhằm báo ân thí chủ, chúng tôi cũng mở lớp Phật học ngắn hạn. Một năm bốn quý chúng tôi mở bốn lần, mỗi khóa học ngắn hạn kéo dài bảy mươi ngày, tức bảy mươi Phật thất để các đồng học chúng ta có cơ hội luyện giảng kinh, dạy học; đồng thời để cho các thí chủ đàn-việt hộ trì có thể trông thấy thành tích tu học của chúng ta. Chúng ta phải dùng thành tích báo đáp ân thí chủ, khiến cho họ cùng sống với chúng ta hai tháng, đến xem thành quả giải hạnh của chúng ta có đáng cho họ tiếp tục hộ trì hay không. Nếu sau khi xem xét, họ rất không vừa ý, từ đó về sau họ không đến hộ trì nữa, như vậy là chánh xác, là đúng. Tông chỉ phải rõ ràng.
“Giáo hóa thạnh hành”, ở đây quý vị làm tốt, chỗ khác có người phỏng theo, mong rằng đạo tràng quy mô nhỏ thật sự tu Tịnh nghiệp này các nơi đều có. Đều có những vị pháp sư tốt hoặc là trưởng giả, cư sĩ đến lãnh đạo, nhân số quả thật không cần nhiều, đấy mới là “phước độ chúng sanh”. Vị Phật cuối cùng là:
Trì Pháp Phật.
Đây là vị Phật thứ sáu, Trì Pháp, “biểu thị tự - tha y giáo tu hành thật chứng, Phật pháp từ đầu đến cuối coi trọng thực tiễn”. Trì là gìn giữ, là thọ trì. Chúng ta tiếp nhận lời giáo huấn của Như Lai, vĩnh viễn gìn giữ, y giáo phụng hành, đó là Trì Pháp. Ở đây, đức Phật làm gương cho chúng ta. Chúng ta mong mỏi hết thảy chúng sanh có duyên cùng Phật, đều có thể “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”, y giáo phụng hành, thì chính mình phải tự làm trước, tự mình không làm được lại mong người khác làm được là chuyện không thể được! Chư Phật Như Lai, tổ sư đại đức, thậm chí bậc thánh hiền quân tử thế gian, trong thời cổ đều là tự mình làm được rồi mới khuyên người khác, sau đó mới dạy dỗ người khác. Đó là trình tự nhất định, tự mình phải làm trước, tự mình đạt được lợi ích, bất luận tư tưởng, kiến giải, ngôn hạnh đều không do dự, không hoài nghi, vì sao? Tự mình làm được là đã trải qua thực chứng: Pháp môn này không sai, tôi thật sự hưởng lợi ích; khi ấy khuyên người, người ta mới tin.
Như vậy, hoằng pháp có hai giai đoạn: Trước hết, để khuyến cáo mọi người thì chính mình phải có đức hạnh, phải có tiếng tăm, rồi mới giáo hóa chúng sanh. Đến khi nào khuyên dạy trở thành chỉ dạy? Trong phần trên chúng tôi đã nói rồi, phải là Thượng Tọa mới có tư cách giáo hóa chúng sanh. Chúng tôi dùng thí dụ giảng kinh để luận về Thượng Tọa: Quý vị phải lên đài giảng kinh trọn ba mươi năm. Mười năm là Hạ Tọa, hai mươi năm là Trung Tọa, ba mươi năm là Thượng Tọa. Nói cách khác, chưa đủ ba mươi năm thì chỉ khuyên dạy. Đủ ba mươi năm thì đại khái niên kỷ của chính mình cũng không sai chạy mấy. Hai mươi tuổi ra giảng kinh, giảng đến ba mươi năm là năm mươi tuổi. Xưa kia, người ta thấy người như vậy bèn gọi là “lão pháp sư” vì đã năm mươi tuổi rồi, bởi thế lúc đó có thể chỉ dạy. Đều là chính bản thân phải làm trước. Quý vị muốn dạy người khác, mà chính mình không làm, làm sao dạy được ai?
Có lần, tôi qua Đài Loan, dẫu chỉ vỏn vẹn năm ngày, tôi được gặp gỡ nhiều đồng tu. Có vài vị đồng tu bảo tôi: “Chúng con ở nhà dạy con cái, con còn nhỏ dạy chúng đọc sách Đệ Tử Quy. Trẻ nhỏ đọc xong, hỏi cha mẹ: ‘Ba má chưa làm được như vậy!’ Ba má chúng không biết nói sao: ‘Ba má chưa làm được, sao kêu con làm?’. Giáo dục thời cổ, cha mẹ thật sự làm được, kêu con học tập, con cái ngoan ngoãn học, không nghi ngờ gì. Nay khó lắm! Vì sao? Làm thân cha mẹ, lúc nhỏ không người dạy, nay mới thấy sai, muốn dạy con cái mình, nhưng tự mình chưa làm được, tự mình không thể lấy thân mình làm gương, giáo dục gia đình thật chẳng dễ! Muốn dạy con cái phải lấy chính thân mình làm gương. Trường học cũng thế, thầy dạy học trò, thầy phải lấy chính thân mình làm gương thì mới dạy tốt được. Nếu chính mình chẳng thể làm gương, làm sao dạy học sinh cho được?
Cùng một đạo lý đó, người lãnh đạo quốc gia, xã hội, nếu chẳng thể dùng thân mình làm gương, làm sao quý vị giáo hóa toàn dân trong nước? Làm sao giáo hóa dân trong cả một thành phố? Quý vị làm thị trưởng, tức là làm vua, làm cha mẹ, làm thầy! Quý vị phải là tấm gương tốt nhất cho đô thị, cho khu vực, cho quốc gia ấy. Trước kia, quả thật là như vậy. Nếu quý vị là người lãnh đạo một nước mà vua không ra vua (vua là người lãnh đạo một nước), chẳng giống như một người lãnh đạo quốc gia, nhân dân sẽ bị khổ. Nhân dân bị khổ sẽ không cam lòng, sẽ lật đổ chánh quyền, sẽ làm cách mạng. Do vậy, trước kia, khi giảng kinh ở Tân Gia Ba, lúc ấy tôi vẫn chưa ở lâu dài tại Tân Gia Ba, mỗi năm qua đó một tháng, giảng kinh một tháng. Diễn Bồi pháp sư đối với tôi hết sức tốt, có lần ngài mời tôi dùng cơm tại đạo tràng của ngài, hỏi tôi một câu:
- Tịnh Không pháp sư! Ông tán thành quân chủ hay tán thành dân chủ? Tôi thưa:
- Tôi tán thành quân chủ.
Ngài hỏi:
- Tại sao?
Tôi nói:
- Quân chủ tốt hơn dân chủ.
Ngài nói:
- Đầu óc ông cổ hủ quá, không hợp thời!
Tôi nói:
- Tôi không bận tâm hợp thời hay không hợp thời, tôi chỉ dùng sự luận sự: Điểm tốt của quân chủ là gì? Đế vương muốn đời đời tương truyền, muốn con cháu làm hoàng đế, dẫu là tư tâm, chỉ cần đối xử tốt với nhân dân là được rồi! Vì thế, vua phải bồi dưỡng những người kế vị đất nước, thật sự dụng tâm! Mời những vị học giả đức cao trọng vọng bậc nhất trong toàn quốc, phẩm đức, học vấn, tài nghệ đều bậc nhất làm thầy dạy thái tử, vương tử. Đấy đều là những người thừa kế đất nước trong tương lai, bọn họ phải hưởng sự giáo dục tốt nhất. Bởi thế, khi họ nối ngôi chẳng đến nỗi đại loạn vì nhận sự giáo dục của thánh hiền, đọc sách hiểu lý! Nếu họ không tuân thủ giáo huấn của thánh hiền, không tuân thủ pháp tắc tổ tông đã lập, điển chế, pháp lệnh tổ tông đã lập, họ muốn phá hoại, không tuân thủ sẽ khó giữ nổi chánh quyền, sẽ bị người khác nổi lên lật đổ, thay đổi triều đại. Vì thế, kẻ làm đế vương không thể không lo lắng, dè dặt thì mới hòng giữ được ngôi.
Những hoàng đế cuối cùng, nói trắng ra, là kẻ trái nghịch lời thầy giáo huấn, trái nghịch lời cha mẹ răn dạy. Đến khi họ nắm quyền, làm xằng làm bậy, tham cầu hưởng thụ, mặc kệ nhân dân sống chết, lập tức bị người lật đổ, chúng ta có thể thấy những chuyện này từ lịch sử Trung Quốc. Còn những người lãnh đạo do dân bầu lên có phải là người được hưởng sự giáo dục tối hảo hay không, rất khó nói! Họ có phải là người có trách nhiệm, thật sự thương yêu trăm họ, quan tâm trăm họ, vì trăm họ giải trừ khổ nạn, khiến cho trăm họ được thật sự hưởng hạnh phúc mỹ mãn, rất khó xác định! Vì sao? Nhiệm kỳ hữu hạn, nói thật ra, cảm giác trách nhiệm không bằng đế vương.
Quý vị hãy khéo chú tâm, chú ý quan sát, thể hội: Dẫu chế độ quân chủ có khuyết điểm, nhưng so với chế độ dân chủ ít khuyết điểm hơn. Nói trên phương diện giáo dục, thời đại quân chủ hết sức coi trọng giáo dục. Rất nhiều chế độ hết sức tốt, ngăn ngừa những cái nhỏ nhặt, chấm dứt những cái sẽ lần lần xảy ra. Quý vị thấy trong lịch sử Trung Quốc, bậc đế vương thật sự có trách nhiệm rất nhiều, kẻ không trách nhiệm cực ít. Ai vậy? Những vua chúa cuối trào. Những vua chúa mất nước là kẻ vô trách nhiệm, bởi thế bị kẻ khác diệt trừ rất nhanh. Quý vị phải nhìn vào những vị vua mở nước, đừng nhìn vào những vua cuối trào; nhìn vào những vị vua khai quốc, nhìn vào những thời kỳ triều đại cường thịnh, sẽ thấy khác hẳn.
Tu học, giáo học Phật pháp, từ đầu đến cuối coi trọng thực tiễn; bởi thế, Phật pháp trọng thực chất chứ không trọng hình thức. Hình thức là nhằm để giáo hóa chúng sanh, đương nhiên cũng rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất lại chính là thực chất. Nếu quý vị không thật tu, chỉ tu hình thức thì hình thức chẳng thể lợi ích xã hội, chẳng thể lợi ích chúng sanh, nhất định phải chân tu! Chân tu chính là y giáo phụng hành, trong những khóa giảng chúng tôi thường khuyến khích các đồng học: Người chân tu phải buông xuống những thành kiến của chính mình, buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, phải tùy thuận những gì kinh luận giảng dạy. Kinh luận chính là giáo huấn của Phật, Bồ Tát, phải hoàn toàn thực hiện những giáo huấn trong kinh luận, biến thành hành vi sanh hoạt của chính mình trong thực tế, đó gọi là chân tu! Vừa khởi lên một ý niệm, phải nghĩ trong kinh giáo đức Phật có chấp thuận ý niệm ấy hay không. Ý niệm được Phật hứa khả chắc chắn là thiện niệm, nhất định lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội, ý niệm ấy tốt. Nếu Phật không hứa khả thì ý niệm ấy nhất định là tự tư, tự lợi, nhất định là tổn người lợi mình. Chẳng được khởi ý niệm tổn người lợi mình, vì đó là tạo nghiệp. Thật sự dốc công phu nơi khởi tâm động niệm, đó là tu từ căn bản. Ngôn ngữ, tạo tác thời thời khắc khắc đều phải nghĩ đến những gì kinh luận giáo huấn. Vì sao phải dạy quý vị thực hiện khóa sáng, khóa tối?
Về thực chất, dụng ý của khóa sáng là nhằm cảnh tỉnh chính mình, ngày hôm nay mình phải tuân thủ lời Phật, Bồ Tát giáo huấn, không được trái nghịch. Khóa tối để phản tỉnh, lúc ấy phải nghiêm túc phản tỉnh những tư tưởng, kiến giải, ngôn hạnh của chính mình trong ngày hôm nay có trái nghịch giáo huấn của Phật, Bồ Tát hay không? Hễ có trái nghịch phải gấp sám hối, phải sửa lỗi, ngày mai chẳng dám trái phạm nữa. Những tư tưởng, hành vi hoàn toàn tương ứng giáo huấn của Phật, Bồ Tát thì ngày mai phải tiếp tục giữ gìn, đừng để mất đi. Đó là thật sự thực hiện công khóa sáng tối, ấy mới là chân chánh tu hành! Khóa tụng sáng tối không phải là hình thức, đọc cho Phật, Bồ Tát nghe; Phật, Bồ Tát không cần nghe! Chính là niệm cho tự mình nghe đấy! Phải hiểu đạo lý mà Trì Pháp Phật đã dạy cho chúng ta ở đây. Lại xem tiếp thượng phương Phật, chúng tôi đọc kinh văn một lượt:
“Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật”.
(Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật)
Phương trên, đức Thế Tôn nêu tên mười vị Phật. Trong phần trên, ở phương Tây chúng ta thấy kể tên bảy vị Phật, con số Bảy biểu thị viên mãn, con số Mười cũng biểu thị sự viên mãn; kinh Hoa Nghiêm dùng số Mười để biểu pháp. Ở chỗ này, trong bút ký ghi: “Phương trên lược nêu mười danh hiệu Phật, biểu thị giác hạnh viên mãn, một đời thành Phật”. Mọi thứ đều biểu thị pháp môn này. Đoạn kinh văn này có ý nghĩa rất sâu, nhà Phật gọi là “mật nghĩa”. Mật ở đây không phải là bí mật, mà là nghĩa là sâu kín, rất sâu. Nếu những đồng học Đại Thừa phải thấu hiểu thì ý nghĩa ấy sẽ rất rõ ràng giống như kinh Hoa Nghiêm vậy! Không khác gì cả, biểu thị ý nghĩa ấy. Nếu quý vị chú tâm quan sát danh hiệu mười vị Phật, thể hội những danh hiệu ấy thì ý nghĩa của chúng lại càng rành rành.
Chúng ta hãy xem vị Phật đầu tiên, Phạm Âm Phật. Phạm nghĩa là thanh tịnh, Âm là âm thanh. Đây chính là chư Phật thị hiện giáo hóa chúng sanh trong thế giới Sa Bà này. Chúng sanh trong thế giới Sa Bà căn tai nhạy bén nhất. Văn Thù Bồ Tát vì chúng ta chọn lựa pháp viên thông, [đã nói]: “Chân giáo thể phương này, thanh tịnh tại âm thanh”. Giúp đỡ hết thảy chúng sanh bằng phương cách nào? Bằng dạy dỗ, bằng thuyết pháp. Âm thanh ấy là âm thanh thanh tịnh, từ chỗ nào mà thấy là thanh tịnh? “Xả Tứ Tướng, Tứ Kiến, không nhiễm trước”. Đấy là chân chánh phát tâm giống như chư Phật, Bồ Tát, đến trong thế giới này, thừa nguyện tái lai. Lúc chúng ta đến đây là phàm phu, mê hoặc, điên đảo, nhưng sau hai ba mươi năm học tập, un đúc, cũng có thể chuyển phàm thành thánh. Người thượng căn thì mười năm là chuyển được, chuyển phàm thành thánh, thật sự làm được! Bắt đầu từ đâu? Kinh Kim Cang dạy: Phá Tứ Tướng, phá Tứ Kiến. Tứ Tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tứ Kiến chính là điều được nửa phần sau kinh Kim Cang nói đến: Ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Vì thế, chúng tôi thường khuyên lơn đồng học: Chúng ta tu hành phải dốc công nơi đâu? Phá Tứ Tướng! Phá Tứ Tướng bằng cách nào? Buông tự tư tự lợi xuống, buông danh văn, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục, lục trần xuống, buông tham - sân - si - mạn xuống, đó chính là phương pháp thực tế để phá Tứ Tướng. Trong sanh hoạt thường nhật hằng ngày phải làm như vậy, nghiêm túc thực hiện, người căn tánh thượng đẳng thì mười năm sẽ chuyển phàm thành thánh. Vì sao? Tứ Tướng, Tứ Kiến đã phá rồi, trong Đại Thừa tối thiểu là bậc Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín của Viên Giáo; trong Tiểu Thừa phải là quả Tu Đà Hoàn, thật sự thành tựu. Đó là bậc thượng căn. Trung căn thì hai mươi năm, hạ căn ba mươi năm chuyển phàm thành thánh.
Lúc ấy, quý vị thuyết pháp đương nhiên thanh tịnh, vô ngã mà! Khởi tâm động niệm đều vì hết thảy chúng sanh, họ được lợi ích chứ không phải mình lợi ích, niệm niệm xả kỷ vì người, không nhiễm trước mảy may. Nhiễm trước là gì? Tự tư tự lợi là nhiễm trước, [nếu thấy] chúng ta có chỗ nào tốt đẹp hả? Nhiễm trước đấy! Không có ta đâu! Bởi thế, lúc chúng ta đến đây, tức lúc đến đầu thai trong thế giới này là do nghiệp lực mà đến, học Phật rồi sẽ chuyển nghiệp lực thành nguyện lực. Cái thân nghiệp lực đã chết, cái thân hiện tại là thân nguyện lực. Thân nguyện lực không khác gì chư Phật, Bồ Tát thừa nguyện tái lai. Nay sống trong thế gian này là vì hết thảy chúng sanh khổ nạn, chẳng phải vì tự mình. Nếu vì mình thì sẽ vãng sanh bất cứ lúc nào, chuyện mình đã làm xong rồi. Kinh luận thường nói “Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu” (Việc làm đã xong, không còn phải chịu lấy thân sau), “bất thọ hậu hữu” là vĩnh viễn không bị luân hồi, công việc của mình đã giải quyết ổn thỏa. Thân thể này vẫn trụ trong thế gian để làm gì? Há chẳng phải rất bất tịnh, rất kém minh bạch ư? Vì chúng sanh, vì Phật pháp, vì rộng độ chúng sanh, vì những lẽ như vậy chứ nào phải vì mình; thật sự chuyển được rồi. Hễ còn tự tư tự lợi là chưa chuyển được. Phải hiểu cho rõ ràng, minh bạch điều này. Bây giờ hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp danh hiệu của vị Phật thứ hai trong mười đức Phật ở thượng phương thế giới.
Tú Vương Phật.
“Biểu thị pháp của Đại Thừa Bồ Tát là đường tắt vô thượng đạo”. Tú là tinh tú, vua các tinh tú nghĩa là tinh tú lớn nhất trong các ngôi sao. Đấy đều là y theo pháp thế gian mà luận, mắt chúng ta hoàn toàn thấy được, theo cảm quan chúng ta thì nó lớn nhất. Lớn nhất trong những ngôi sao trên trời là mặt trăng (theo con mắt chúng ta nhìn), không ngôi sao nào lớn bằng mặt trăng cả! Trên thực tế, mặt trăng có phải là ngôi sao lớn nhất hay không? Chuyện ấy chúng tôi không bàn đến, chỉ nói theo cảm quan của chúng ta mà thôi. Chúng ta ngẩng đầu nhìn hư không, thấy mặt trăng lớn nhất. Điều đó tượng trưng cho Đại Thừa Bồ Tát đạo, Đại Thừa Bồ Tát đạo cũng thù thắng bất đồng. Đương nhiên Đại Thừa nhất định phải vượt trội Tiểu Thừa. Nếu so trong các pháp Đại Thừa thì sẽ có pháp là đường tắt, dễ dàng thành tựu. Do đó, nói pháp môn có khó, dễ. Đường tắt là đường gần. Tiểu Thừa xa xôi, quanh co, chẳng thể thành vô thượng Bồ Đề. So giữa Tiểu Thừa với Đại Thừa thì Đại Thừa là đường gần; Tiểu thừa giống các ngôi sao, Đại Thừa giống mặt trăng, quang minh đương nhiên rất nhiều, dùng ý nghĩa đó. Thế nhưng chúng ta phải hiểu: Cả mười Phật hiệu này đều tượng trưng cho Phật pháp viên mãn. Quý vị thấy đó, đức Phật đầu tiên là Phạm Âm Phật; nói cách khác, bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Hiển giáo hay Mật giáo, Tông Môn hay Giáo Hạ, âm thanh thuyết pháp đều là phạm âm. Vì sao? Tiểu Thừa Sơ Quả phá Tứ Tướng, không chấp tướng nữa; nói cách khác, vô ngã, không vì mình là sự chứng đắc của Sơ Quả. Đấy là nhập vào hàng thánh nhân, dự vào dòng Thánh, không còn là phàm phu nữa. Nói cách khác, phàm phu chẳng rời khỏi tự tư tự lợi, vẫn chưa quên Ngã! Niệm niệm đều là niệm tham chấp, không quên Ngã được! Tiểu Thừa Sơ Quả đã quên Ngã, vô ngã, là bậc thánh nhân, phàm và thánh sai biệt ở chỗ này. Nói cách khác, “hữu ngã” là phàm phu, “vô ngã” là thánh nhân, phân biệt đơn giản như vậy. Phàm thánh sai khác ở chỗ này! Lục đạo phàm phu lên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, chưa phá Tứ Tướng; bởi thế chẳng thể sánh bằng Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn. Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín của Viên Giáo mới thật sự thanh tịnh, không nhiễm trước. Đấy chính là căn bản của việc học tập Phật pháp, Phạm Âm Phật tượng trưng cho sự tự hành hóa tha, không gì không thanh tịnh, không nhiễm trước. Tú Vương Phật tượng trưng cho Đại Thừa, Đại Thừa là đường tắt vô thượng đạo, là con đường gần. Phật hiệu thứ ba là:
Hương Thượng Phật.
“Biểu thị hạnh pháp mà Lục Tổ Thiền Tông đã dạy trong chương Truyền Hương Sám Hối, là đường tắt nhất trong các đường tắt”. Vì sao dùng chữ Hương Thượng? Trong Lục Tổ Đàn Kinh có phẩm Truyền Hương Sám Hối, hương được giảng trong phẩm ấy là Ngũ Phần Pháp Thân Hương: Giới Hương, Định Hương, Huệ Hương, Giải Thoát Hương, Giải Thoát Tri Kiến Hương, năm phần Pháp Thân hương. Như vậy, Hương Thượng Phật tượng trưng cho Thiền tông. Trong Đại Thừa, Thiền Tông lại là đường tắt của Đại Thừa, cho nên là “đường tắt nhất trong các đường tắt”. Đường gần lại còn có đường gần hơn! Nói cách khác, vì chúng ta chọn lựa pháp môn, pháp môn nào tốt? Đại Thừa hay hơn Tiểu Thừa, nhưng Thiền Tông lại thù thắng nhất trong Đại Thừa. Xin xem tiếp vị Phật thứ tư:
Hương Quang Phật.
“Biểu thị pháp môn Niệm Phật của Tịnh Tông”. Vì sao nói Hương Quang đại diện cho pháp môn này? Trong kinh Lăng Nghiêm có nói Hương Quang Trang Nghiêm; vì thế khi thấy hai chữ Hương Quang, quý vị phải biết nó tượng trưng cho Tịnh Độ Tông. Chúng tôi thấy cũng có lúc các chùa miếu dùng chữ Hương Quang làm tên, như Hương Quang Tự, Hương Quang Đường, Hương Quang Thất, Hương Quang Trang Nghiêm. Chỉ cần thấy chữ Hương Quang thì nơi ấy nhất định phải tu Tịnh Độ. Đó là từ kinh Lăng Nghiêm mà có, tu Tịnh Độ [thì dùng chữ ấy vậy]. “Kinh Lăng Nghiêm nói Hương Quang Trang Nghiêm, là đường càng tắt hơn nữa trong những con đường tắt nhất”. Thiền Tông là đường tắt nhất trong các đường tắt, Tịnh Độ lại là con đường tắt hơn con đường tắt nhất. Nói cách khác, nó là con đường gần nhất trong những con đường rất gần, thẳng chóng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, dễ dàng nhất, đơn giản nhất; thành tựu lại thù thắng khôn sánh. Bởi thế, pháp môn Tịnh Độ cũng gọi là đường tắt hơn con đường tắt nhất trong các đường tắt, ý nghĩa là đây.
Quý vị thấy ở đây, danh hiệu Phật nhằm ngầm dạy chúng ta chọn lựa như thế nào. Ba danh hiệu Phật rất có ý vị, chúng ta phải chọn lựa pháp môn nào? Chọn pháp Đại Thừa, Thiền Tông hay Tịnh Tông? Thiền Tông khó hơn Tịnh Độ. Cổ đức nói pháp môn Tịnh Độ “vạn người tu vạn người về”; chẳng sót một ai. Thế nhưng tu học pháp môn này nhất định phải hiểu đạo lý, phương pháp, cảnh giới; kinh điển Tịnh tông chỉ nhằm giảng giải ba chuyện trên. Chúng ta hiểu đạo lý Tịnh Độ, biết phương pháp tu học Tịnh Độ, biết cảnh giới quả báo Tịnh Độ thù thắng khôn sánh, rõ ràng, rành rẽ, chẳng tu mù luyện đui. Lại xem tiếp vị Phật thứ năm:
Đại Diệm Kiên Phật.
Ở phần trên, chúng ta đã thấy có Diệm Kiên Phật, ở đây là Đại Diệm Kiên Phật. Vị Phật này biểu thị ý nghĩa: “Trao pháp tối thượng cho người, một đời thành Phật”. Chúng ta phải giúp đỡ người khác, chẳng được tiếc pháp, phải giới thiệu pháp môn vô thượng cho người khác, khiến họ trong một đời này sẽ thành tựu viên mãn Phật Quả. “Do vậy, tổ sư của Tịnh tông được tôn xưng là đại sư”. Danh xưng “đại sư” dùng để tôn xưng đức Phật, trong nhà Phật chỉ có chư Phật Như Lai mới được xưng là “đại sư”. Quý vị thấy Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, Quán Âm Bồ Tát ta gọi là Quán Âm đại sĩ, không gọi là đại sư, vì sao? Ngài không phải là Phật, không thể không hiểu điều này.
Chúng ta là phàm phu, là hạng xuất gia tầm thường, nếu xưng “đại sư” là hết sức quá phận. Người khác gọi mình là đại sư còn tạm chấp nhận được, chứ mình quyết định chẳng được tự xưng, không có lẽ ấy đâu! Tổ sư Tịnh tông cũng chẳng tự xưng là đại sư, mà do hậu nhân xưng tụng. Lúc các ngài còn tại thế, như Ấn Quang đại sư lúc còn sống, quý vị thấy những bộ Văn Sao được lưu thông trước kia nhằm lúc Ngài còn sống, mang tựa đề Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, không phải là đại sư mà là Pháp Sư Văn Sao. Sau khi lão nhân gia viên tịch, vãng sanh rồi, hậu nhân tôn Ngài làm vị tổ thứ mười ba của Tịnh Tông, nên mới gọi là đại sư. Lúc Ngài còn sống, không ai gọi là đại sư cả; tự Ngài cũng chẳng dám xưng là đại sư, hậu nhân xưng tụng mà thôi!
Trong lịch sử, mọi người gọi các vị tổ sư Tịnh Độ Tông là đại sư, vì sao? Là do pháp môn này. Các vị dùng pháp môn này tiếp dẫn chúng sanh, sánh với chư Phật Như Lai không hai, không khác. Chư Phật Như Lai dùng phương pháp nào để chỉ dạy chúng sanh thành Phật ngay trong một đời, thành vô thượng đạo? Chính là phương pháp này. Nay các pháp sư Tịnh tông cũng dùng phương pháp này, không khác gì phương pháp chư Phật Như Lai đã dùng, bởi thế xưng là đại sư. Tổ sư tông Hoa Nghiêm chẳng xưng là đại sư, tổ sư tông Thiên Thai cũng chẳng xưng là đại sư. Thời cổ làm thầy của hoàng đế cũng không xưng là đại sư, mà xưng là “quốc sư”. Tổ sư các tông phái thì gọi là tổ sư, không gọi là đại sư, tổ sư đời thứ mấy. Thanh Lương đại sư là do hậu nhân chúng ta tôn xưng; Ngài là tổ sư đời thứ tư của tông Hiền Thủ (Hoa Nghiêm), Tông Mật là tổ sư đời thứ năm, nên gọi là Tứ Tổ, Ngũ Tổ, không gọi là đại sư. Chỉ mình Tịnh Độ Tông xưng là đại sư. Từ chỗ này chúng ta hiểu rõ: Pháp môn Tịnh Độ thù thắng, không khác gì chư Phật đích thân dạy dỗ, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Đó là Đại Diệm Kiên Phật. Xin xem tiếp vị Phật thứ sáu:
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật.
Danh hiệu vị Phật này tượng trưng cho kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Tựa đề của kinh Hoa Nghiêm nếu dịch thẳng từ tiếng Phạn là Đại Phương Quảng Phật Đà Tạp Hoa Trang Nghiêm Kinh, dịch từng chữ là như vậy. Người Tàu thích đơn giản, bỏ bớt chữ Đà trong Phật Đà, bỏ bớt chữ Tạp trong Tạp Hoa, tỉnh lược chữ Trang trong Trang Nghiêm; vì thế dịch Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đức Phật này “biểu thị một đời viên mãn, chỉ có kinh Hoa Nghiêm giảng tường tận, nhất là nó chứng thực pháp môn Niệm Phật là chỗ quy hướng rốt ráo, phải suy nghĩ sâu xa, lấy Thiện Tài làm thầy là được”. Đây là lấy một bộ kinh lớn để làm chứng, một đời viên mãn thành Phật thì Thiện Tài đồng tử là đại diện, có thể nói Ngài nổi tiếng nhất trong nhà Phật. Thiện Tài đồng tử không sanh lần thứ hai, một đời thành tựu, một đời viên mãn, “nhất là kinh Hoa Nghiêm chứng thực pháp môn Niệm Phật là chỗ quy hướng rốt ráo”, dùng kinh Hoa Nghiêm để chứng minh. Kinh Hoa Nghiêm dạy một đời chứng đắc viên mãn rốt ráo ra sao? Bằng pháp môn Niệm Phật, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Trong hội Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử sau khi đắc Căn Bản Trí – quý vị phải hiểu rõ: đắc Căn Bản Trí, nhà Thiền gọi là “đại triệt đại ngộ”, minh tâm kiến tánh là đắc Căn Bản Trí. Sau khi đắc Căn Bản Trí, vị thầy dạy đồng tử ra ngoài tham học. Tham học nhằm ý gì? Tham học để thành tựu Hậu Đắc Trí, nhằm thành tựu viên mãn Hậu Đắc Trí. Năm mươi ba lần tham học là vì vậy đó!
Vị thiện tri thức tham phỏng đầu tiên rất quan trọng, pháp thế gian hay xuất thế gian đều theo ý nghĩa này, tức là “tiên nhập vi chủ” (pháp nào theo học đầu tiên pháp ấy là chánh), vị thầy đầu tiên hết sức quan trọng! Theo bản Bát Thập Hoa Nghiêm, vị thầy đầu tiên là tỳ-kheo Đức Vân, bản Tứ Thập Hoa Nghiêm gọi là tỳ-kheo Cát Tường Vân. Cát Tường Vân và Đức Vân là một người, Cát Tường chính là Đức, [kinh được] hai người phiên dịch nên dịch khác nhau, nguyên bản là một. Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu pháp môn nào? Ngài tu cái pháp nay ta gọi là Ban Châu Tam Muội. Ban Châu Tam Muội là chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngài tu pháp môn ấy, Thiện Tài đồng tử đến tham học với Ngài, hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài bèn vì Thiện Tài giảng hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật. Hai mươi mốt không phải là con số, chúng ta phải hiểu hai mươi mốt theo ý nghĩa biểu thị pháp trong Mật Tông, hai mươi mốt tượng trưng cho viên mãn. Hoa Nghiêm là căn bản của toàn bộ Phật pháp, nhà Phật gọi là “căn bản pháp luân”. Nói theo thuật ngữ của người hiện thời thì gọi là “Phật học khái luận”. Hết thảy những pháp Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm chẳng ra ngoài kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ, bởi thế nó được gọi là “pháp luân viên mãn”. Cát Tường Vân thị hiện pháp môn Niệm Phật này chẳng thể nghĩ bàn! Thiện Tài học được. Chúng ta hãy chú tâm quan sát kỹ, thầy của Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Văn Thù, Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đều tu pháp môn Niệm Phật, kinh Hoa Nghiêm đã chứng thực rõ ràng như vậy. Vị thiện tri thức cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát, tức vị thiện tri thức thứ năm mươi ba (Cát Tường Vân là thứ nhất, Phổ Hiền Bồ Tát là vị thiện tri thức cuối cùng). Phổ Hiền Bồ Tát dạy Thiện Tài đồng tử “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”. Mở đầu dạy pháp môn niệm Phật, tối hậu “dẫn về Cực Lạc”, chúng ta hoàn toàn hiểu rõ: Thiện Tài đồng tử tu pháp môn nào? Pháp môn Niệm Phật. Từ đầu đến cuối đều tu pháp môn Niệm Phật. Quý vị thấy trong khi tham phỏng, có thể nói pháp môn nào Ngài cũng tiếp xúc, cũng thông đạt, nhưng tự mình vẫn tu pháp môn Niệm Phật, quyết định chẳng bị ảnh hưởng, quyết định chẳng thay đổi. Năm mươi ba lần tham học bao hàm ý nghĩa ấy. Nếu không hiểu điều này thì năm mươi ba lần tham học coi như trắng tay.
Cứ mỗi lần tham phỏng một vị thiện tri thức thì ở cuối mỗi đoạn kinh văn ấy, Thanh Lương Đại Sư nhận định: “Luyến đức lễ từ” (luyến mộ đức hạnh, lễ kính tạ từ). Nên hiểu bốn chữ ấy như thế nào? “Luyến đức” là cảm tạ thiện tri thức dạy dỗ, thiện tri thức vì con giảng dạy, con đều hiểu rõ ràng mọi điều. “Lễ từ” có nghĩa là gì? Lễ là cung cung kính kính, Từ là không học pháp môn ấy, vẫn chỉ học pháp Niệm Phật của chính mình. Con rất cảm kích, Ngài dạy con, con đều hiểu rõ, thấu hiểu nên trí huệ mở mang; “lễ từ” là như như bất động, tự mình thường trụ trong Niệm Phật tam-muội thì mới một đời thành tựu được! Một đời thành tựu phải nhờ vào “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”. Điều này chứng thực pháp môn Niệm Phật là rốt ráo chỉ quy. Vị tổ sư thứ nhất của Tịnh Độ Tông là ai? Phổ Hiền Bồ Tát là vị tổ sư thứ nhất. Hội Hoa Nghiêm “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”, quý vị nói Ngài không phải là vị tổ sư thứ nhất thì còn ai nữa? Thế nhưng chúng tôi đọc cuốn Tịnh Tu Tiệp Yếu của lão cư sĩ Hạ Liên Cư thấy Ngài viết như thế này: “Tịnh Tông Sơ Tổ nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát”; câu này quả thật lay tỉnh tôi. Không sai, trong hội Lăng Nghiêm, chúng ta thấy Đại Thế Chí Bồ Tát là người chuyên tu Tịnh Độ sớm nhất. Như vậy, Đại Thế Chí Bồ Tát là Tịnh tông Sơ Tổ, là pháp giới tổ sư; trọn khắp pháp giới hư không giới, Đại Thế Chí Bồ Tát là người tu Tịnh Độ đầu tiên, là Sơ Tổ của trọn khắp pháp giới. Phổ Hiền Bồ Tát là Sơ Tổ trong thế giới Sa Bà. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, kinh giảng đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, trong hội thứ nhất, Phổ Hiền Bồ Tát “dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”. Vì vậy, ngài là Sơ Tổ của thế giới Sa Bà.
Sơ Tổ Tịnh Tông Trung Quốc là Huệ Viễn đại sư. Vào thời đại Đông Tấn, ngài dựng liên xã tại Lô Sơn, tức “Đông Lâm Niệm Phật Đường”, tập hợp những người chí đồng đạo hợp gồm một trăm hai mươi ba người chuyên tu Tịnh nghiệp. Do chuyên tu tịnh nghiệp tại Lô Sơn, Ngài trở thành người khởi phát Tịnh tông đầu tiên tại Trung Quốc, nên ta gọi Ngài là Sơ Tổ. Vì vậy khi nói đến Sơ Tổ, chúng ta phải hỏi vị Tổ Sư nào? Sơ Tổ của thế giới Sa Bà hay Sơ Tổ cả pháp giới hay là Sơ Tổ của Trung Quốc? Trước kia, chúng tôi ở Mỹ, cũng đến các nơi thành lập Tịnh Tông Học Hội. Trước kia, ở Mỹ Quốc và Gia Nã Đại có hơn hai mươi Tịnh Tông Học Hội, nay tôi không biết còn được bao nhiêu. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trêu: “Tịnh Không pháp sư! Ông là Sơ Tổ của Tịnh Tông Mỹ Quốc”. Như vậy, Sơ Tổ tùy thuộc địa phương nào, khu vực nào, ai là người đầu tiên đề xướng niệm Phật. Cuối cùng là “phải nên suy nghĩ sâu xa”. Chúng ta phải nghĩ cho chín, pháp môn rất nhiều, tám vạn bốn ngàn vô lượng pháp môn, chúng ta tuyển chọn như thế nào? Học theo Thiện Tài, “Lấy Thiện Tài làm thầy là được”. Thiện Tài chọn pháp môn Niệm Phật, trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Ngài thành công, ngài thật sự vãng sanh. Vị Phật thứ bảy là:
Sa La Thọ Vương Phật.
“Biểu thị viên chứng kiên cố rốt ráo, làm đại pháp vương, Mật - Tịnh bất nhị”. Sa La Thọ Vương Phật tượng trưng cho Mật Tông, Mật Pháp gọi là “rốt ráo kiên cố”. Bởi thế, vị Phật này biểu thị sự chứng đắc Mật pháp kiên cố rốt ráo, là đại pháp vương! Hiển thị Mật và Tịnh bất nhị. Ấy là vì Đại Thừa Phật pháp ở Trung Quốc được chia thành tám tông phái, Tiểu Thừa gồm hai tông phái, nên Phật giáo Trung Quốc có tất cả mười tông phái. Trong mười tông phái này, bất luận tu học pháp môn nào, kết cuộc chỉ là ba môn, tức ba môn Giác, Chánh, Tịnh. Như Tánh Tông, Thiền Tông thuộc về Giác Môn: đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Mọi tông của Giáo Hạ thuộc về Chánh Môn: chánh tri chánh kiến. Tịnh Tông và Mật Tông thuộc vào Tịnh Môn: tâm tịnh thì cõi nước tịnh. Do vậy, Mật và Tịnh thuộc cùng một loại, dẫu cùng một loại nhưng Mật khó, Tịnh dễ, rất dễ dàng phân biệt khó - dễ.
Tịnh Độ Tông giảng thân tâm thanh tịnh, xa lìa ô nhiễm, giữ gìn thanh tịnh, vậy là còn dễ! Thanh tịnh trong Mật Tông còn thù thắng hơn nữa, vì sao? Chẳng lìa nhiễm ô, ở trong nhiễm nhưng bất nhiễm, cao lắm! Đương nhiên là khó! Vì thế, Mật Tông chẳng dễ gì thành tựu, nhưng đều là tu tâm thanh tịnh. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là bậc kim cang a-xà-lê trong Mật Tông, chúng ta thường gọi là Thượng Sư. Lão nhân gia tối hậu niệm Phật vãng sanh, chẳng dùng đến Mật pháp. Trong thời gian tối hậu, mỗi ngày Ngài niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu cầu sanh Tịnh Độ. Cụ Hoàng bảo tôi (lúc tôi sang Bắc Kinh thăm cụ, cụ bảo tôi), hơn bốn mươi năm sau ngày Trung Quốc được “giải phóng” (lúc ấy vẫn chưa đến năm mươi năm, mới hơn bốn mươi năm), Trung Quốc có mười ba ức nhân khẩu, người học Mật Tông trong hơn bốn mươi năm ấy cố nhiên là nhiều, có bao nhiêu người thành tựu? Cụ bảo tôi chỉ có sáu người! Rồi lại bảo tôi: “Từ rày về sau, học Mật Tông chẳng thể thành tựu, chỉ có cách tu Tịnh Độ”. Trong ô nhiễm không bị ô nhiễm, công phu ấy cao lắm! Có mấy ai có thể thành tựu?
Mật Tông tu học chẳng lìa ngũ dục, lục trần, ngày ngày ở trong ngũ dục, lục trần, chẳng tiêm nhiễm mảy may, phải có bản lãnh ấy, phải có công phu ấy. Không như Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Tông tách lìa ngũ dục, lục trần, tu tâm thanh tịnh. Bởi thế, luận về đẳng cấp, Mật Tông là thanh tịnh thượng thừa, thượng thượng thừa. Chúng ta tu Tịnh Độ Tông tâm địa thanh tịnh là trung hạ, trung hạ thừa, chẳng bằng Mật Tông. Vì thế, chúng ta phải tôn kính Mật pháp, tự biết mình không có năng lực tu học, nên cứ tu pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi gặp Phật A Di Đà, phương pháp tu hành, cảnh giới của chúng ta sẽ được nâng cao, như vậy là chánh xác, không sai một chút nào. Vì sao Tịnh - Mật bất nhị? Vì đều là tu tâm thanh tịnh.
Ba vị Phật kế đó tương ứng với ba vị ở phương Đông. Trong sáu phương Phật, trước hết chúng ta thấy tại phương Đông có các vị Phật tượng trưng cho pháp, biểu thị ba thân: “A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật”; trong đây chúng ta thấy đều dùng chữ Tu Di: Tu Di Tướng, Đại Tu Di, Tu Di Quang là vì sao? Đấy chính là điều người học Phật chúng ta mong cầu. Phải chứng đắc Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân; ấy là Phật Quả rốt ráo. Đến phương trên, chúng ta trông thấy:
“Bảo Hoa Đức Phật”.
“Biểu thị Báo Thân viên mãn”. Báo thân viên mãn là thân trí huệ viên mãn, tự tánh vốn sẵn đủ trí huệ hiện tiền.
“Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật”.
“Biểu thị ngàn trăm ức hóa thân, ngũ nhãn viên minh, ứng khắp các căn cơ”. Đây là Ứng Hóa Thân, ngàn trăm ức Hóa Thân! Trong chín pháp giới, chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng. Cảm ứng đạo giao quyết định chẳng sai chạy, có cảm bèn lập tức có ứng, quyết định chẳng thể nói là không ứng. Ở phần trên đã nói qua về cảm ứng đạo giao rồi, Cảm có bốn loại lớn, Ứng cũng có bốn loại lớn: Hiển Cảm Hiển Ứng, Hiển Cảm Minh Ứng, Minh Cảm Hiển Ứng, Minh Cảm Minh Ứng, những hiện tượng cảm ứng đạo giao chẳng ngoài bốn loại lớn này. Phật, Bồ Tát, A La Hán đều có năng lực, nhưng Như Lai cảm ứng vô điều kiện, trọn khắp chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, ứng hiện khắp cả!
Bồ Tát và A La Hán có lúc phải có duyên phận, nhà Phật thường nói “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Bồ Tát và chúng sanh có duyên phận bèn ứng, nếu không duyên phận với chúng sanh ấy sẽ chẳng ứng. Vì sao? Lúc Ngài đến, chúng sanh không vui thích, Ngài rất muốn giúp mình, nhưng mình không ưa Ngài, chẳng tiếp nhận Ngài, Ngài không đến. Phật khác hẳn, Phật là vô điều kiện, nhưng sự ứng hiện của Phật như vừa mới nói, có hiển ứng và minh ứng (ứng hiện ngầm). Minh là thầm che chở, ban ơn, mình chẳng nhận biết; Hiển là rất rõ ràng, quý vị cảm nhận được. Cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn! Như vậy, vị Phật này tượng trưng cho Ứng Hóa Thân. Vị Phật sau cùng:
“Như Tu Di Sơn Phật”.
Tu Di xuất hiện, “biểu thị Pháp Thân thanh tịnh, làm Lý Thể cho hết thảy pháp”. Như Tu Di Sơn Phật; ba thân ấy là một, “viên chứng một thể ba thân”, ba thân là một nhưng ba, ba nhưng một, từ trí huệ mà nói thì là Báo Thân, từ Lý Thể mà nói thì là Pháp Thân, từ tác dụng mà nói thì là Ứng Hóa Thân; chứng đắc viên mãn một thể ba thân. Quý vị thấy ba vị Phật này tương ứng với phương Đông, thấu triệt từ đầu đến cuối. Chúng ta lại xem tiếp đoạn kế đó:
“Trên đây đã lược nêu danh hiệu các vị Phật, hàm ý rất sâu, ngầm dạy người niệm Phật yếu chỉ lịch trình tu tập từ sơ phát tâm đến viên mãn Bồ Đề, như năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, không thể không biết”. Phật là trí huệ viên mãn rốt ráo, phương pháp dạy học cao minh đến cùng tột, trong kinh Phật thường nói là “phương tiện thiện xảo”, bốn chữ này chúng ta chẳng dễ lãnh hội nổi. Quý vị chú tâm quan sát mới hòng hiểu được Ngài hiển thị phương tiện thiện xảo như thế nào.
Quý vị thấy đó, đức Phật nêu những danh hiệu ấy, những danh hiệu ấy đều nhằm dạy chúng ta nên tu học như thế nào. Phương Đông là căn bản tu học, dạy cho mình pháp căn bản, phương Nam là tu huệ, phương Tây là tu phước. Phương Bắc là phải phước huệ đều đã có cơ sở rồi mới bắt đầu giáo hóa chúng sanh, phương Bắc là bắt đầu giáo hóa. Dạy học khiến tăng trưởng, quý vị muốn nâng cao cảnh giới của chính mình, muốn chứng đắc quả vị cao hơn mà quý vị không dùng phương pháp dạy học sẽ rất khó khăn. Bồ Tát không vị nào không dạy học, không phục vụ hết thảy chúng sanh; vì hết thảy chúng sanh phục vụ là tu phước, dạy học là tu huệ, phước huệ song tu. Do vậy, thành Phật là Nhị Túc Tôn. Có huệ không phước thì chẳng thể độ chúng sanh; có phước không huệ cũng chẳng thể độ chúng sanh. Phương Bắc là bắt đầu, rồi đến phương Hạ, phương Thượng. Sáu vị Phật ở phương dưới tượng trưng cho lục độ pháp môn của Đại Thừa Bồ Tát. Cuối cùng, phương trên là rốt ráo viên mãn. Quý vị thấy trình tự này, theo thứ tự thuận, mỗi một giai đoạn học một pháp môn nào, dùng danh hiệu Phật, Bồ Tát để biểu thị pháp ấy; vì thế, những ý nghĩa này rất sâu. “Ngầm dạy người niệm Phật”, chúng ta phải hiểu được mật nghĩa này. Thật đấy, Phật giảng kinh thuyết pháp ý tại ngôn ngoại, chúng ta phải lãnh hội, phải thấu hiểu được. Đấy chính là những điều tổ sư đại đức trước kia thường giảng, quý vị hiểu chăng? Quý vị nghe có hiểu chăng? Quý vị có thấu hiểu ý nghĩa này chăng? Có vậy, quý vị mới biết phải nên tu học như thế nào. Pháp thế gian, xuất thế gian, tôi thường nói chỉ có người có trí huệ mới hòng nắm chắc cơ hội, mới thành công. Pháp thế gian như vậy mà Phật pháp cũng như vậy. Cơ hội trước mặt mà quý vị bỏ lỡ, bỏ lỡ lần này không biết đời nào kiếp nào mới có thể gặp được. Phàm ai thành công thì không có gì khác cả, phải nhận biết cơ hội, nắm ngay lấy cơ hội sẽ thành công. Giống như người kinh doanh trong thế gian thường nói đến “cơ hội kinh doanh” hay “cơ duyên thương nghiệp”, tức là cơ hội kiếm tiền, phải nhận thấy rất chuẩn xác, phải nắm ngay lấy, đầu tư vào đó, thật sự kiếm lợi. Cơ hội trước mắt mà để lỡ, không nắm lấy; Phật pháp cũng như vậy, phải nhận biết cơ duyên tu phước, tu huệ.
Bậc đại thánh đại hiền thế gian hay xuất thế gian không có gì khác cả, các Ngài không có tư tâm, vì hết thảy chúng sanh phục vụ, nhà Phật gọi là “độ sanh”. Độ sanh nghĩa là gì? Độ sanh nay gọi là phục vụ, phục vụ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, có thể xả kỷ vì người, ấy là đại từ đại bi. Đấy gọi là tâm đại Bồ Đề. Người không chịu xả kỷ vì người, thủy chung không thể thành tựu. Quý vị nói mình niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng sanh có khổ nạn hy vọng mình giúp đỡ mà một chút cũng không chịu làm, trong tâm nghĩ như thế nào? Đợi đến khi tôi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi, tôi học thành sẽ trở lại giúp người, rõ ràng là hiện tại đủ sức giúp người, lại không chịu giúp, đợi về Tây Phương Cực Lạc thế giới học thành rồi mới giúp thì sẽ chẳng thể sanh về thế giới Cực Lạc được đâu!
Thế nào mới là “đến Cực Lạc thế giới học thành rồi mới quay về”? Nay thấy chúng sanh khổ sở, nhưng chính mình thật sự không có năng lực giúp đỡ, mình cần phải sang Tây Phương Cực Lạc thế giới học lấy bản lãnh, vậy là đúng! Còn nếu nay mình có năng lực, mình không chịu làm, chính là trái nghịch bổn nguyện Phật A Di Đà. Có một phần năng lực thì giúp đỡ một phần, có hai phần năng lực bèn giúp hai phần, công đức viên mãn. Cửa ải khó khăn nhất của hết thảy chúng sanh học Phật là gì? Tiến thì ít, lui thì nhiều. Đừng nói bọn người sơ phát tâm chúng ta gặp phải cảnh duyên bất thuận liền lập tức ngã lòng, Tiểu Thừa cũng ngã lòng. Tứ Quả A La Hán ứng hóa trong thế gian này, thấy chúng sanh khó độ đều ngã lòng, huống chi lũ phàm phu sát đất chúng ta, phiền não tập khí chưa đoạn được phần nào, rất dễ thoái đọa, vừa lui sụt bèn đọa lạc. Đó là điều khẳng định.
Sách Liễu Phàm Tứ Huấn nói về tình hình khi ấy rất hay, lúc ấy nếu gặp được vị thiện tri thức chân chánh cảnh tỉnh mình, nâng đỡ mình, giúp đỡ mình, kinh Kim Cang gọi chuyện đó là “khéo hộ niệm các Bồ Tát”, Như Lai giáo huấn: Các đại Bồ Tát thường phải chiếu cố các tiểu Bồ Tát. Tiểu Bồ Tát rất dễ thoái chuyển, rất dễ đọa lạc, lúc họ gặp phải thoái duyên phải gấp giúp đỡ họ. Chẳng dễ dàng gì, chúng ta cứ nghĩ xem: Trong một đời ta có thể gặp được vị thiện tri thức thật sự hay không? Gặp được thiện tri thức thật sự là phước báo lớn lắm mới có thể giữ cho mình không bị thoái chuyển. Chướng duyên đâu đâu cũng có, chướng duyên do đâu mà có? Vô lượng kiếp tạo tác nghiệp chướng, nay chúng đều khởi hiện trên con đường Bồ Đề, không thể không biết điều này. A! Nay đã hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Chúng ta xem tiếp tiểu đoạn thứ chín:
“Phật độ sanh, chúng sanh nhận sự giáo hóa (thọ hóa), khó - dễ, cạn - sâu trong khoảng ấy nói chung là do duyên. Duyên tồn tại, ân đức sâu rộng, đủ mọi thứ dạy dỗ, khơi gợi khiến cho [người được hóa độ] hoan hỷ tin nhập, khiến cho xúc động túc chủng, khiến cho ma chướng khó ngăn trở, khiến cho thể tánh khai phát. Chư Phật vốn từ Pháp Thân thùy tích, kết chắc duyên chủng. Dù là thế pháp hay xuất thế pháp thảy đều chẳng thể nghĩ bàn”. Ý nghĩa đoạn này rất sâu, đó chính là lời đại sư Ngẫu Ích đã viết trong sách Yếu Giải, đặc biệt là người phát tâm theo đuổi công cuộc hoằng pháp và người làm nhiệm vụ hộ pháp không thể không hiểu đạo lý này. Nếu không hiểu được đạo lý này, trên con đường tự hành hóa tha không thể tránh khỏi ngã lòng, đó là hiện tượng tất nhiên. Phật độ chúng sanh, độ là giáo hóa, chỉ dạy chúng sanh. Chúng sanh tiếp nhận sự giáo hóa của Phật. Chữ “hóa” ý nghĩa rất sâu, chúng tôi thường nói là “tiếp nhận giáo huấn”, nói “tiếp nhận giáo huấn” chỉ là nói một bên, không viên mãn. Dạy rồi thì sao? Dạy rồi, quý vị có học được hay chăng? Quý vị không chịu học, thì sự giáo huấn ấy không thành tựu, không có thành tích.
“Hóa” là có thành tích, có biến đổi khí chất, thật sự có thành tựu, thành tích. Cổ nhân nói đọc sách hòng biến đổi khí chất, phải có chuyển biến, chuyển biến là biến hóa, chuyển ác thành thiện! Thật sự chuyển được, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, đấy đều là thành tích dạy học được hiển lộ cụ thể. Có thể chuyển phàm thành thánh, hóa phàm thành thánh chính là thành tích tốt nhất, là thành tích viên mãn. Có thể chuyển mê thành ngộ là thành tích bậc nhì. Có thể dạy cho chúng sanh chuyển ác thành thiện là thành tích bậc ba. Giống như cổ nhân Trung Quốc dùng cách đánh số Giáp, Ất, Bính… thì chuyển phàm thành thánh là hạng Giáp, chuyển mê thành ngộ là hạng Ất, chuyển ác thành thiện là hạng Bính. Trong chữ Hóa có những ý nghĩa như thế đó, chúng sanh tiếp nhận sự giáo hóa, chắc chắn biến hóa! Mức độ thấp nhất là chuyển ác thành thiện, thật sự khởi biến hóa. “Trong ấy, khó - dễ, cạn - sâu nói chung là do duyên”. Duyên: Chẳng riêng gì Phật pháp nói đến duyên, mà pháp thế gian cũng nói đến duyên, rất nhiều người không biết ý nghĩa này, học trò theo học với thầy phải có duyên. Duyên từ đâu có? Học trò tôn trọng thầy, yêu thích thầy, thầy cũng yêu mến trò, thầy trò ấy duyên rất sâu. Duyên sâu như thế nào? Học trò nghe lời, thầy khéo dạy, nhân vì trò tôn trọng thầy, thật sự tôn trọng, tôn trọng như thế nào? Y giáo phụng hành. Thầy dạy rồi mà trò không làm được, tự cảm thấy mình phụ lòng thầy. Đấy là sức tác động của duyên. Thầy cũng như vậy, học trò thật sự chịu học, thầy không dạy cho giỏi, thầy cảm thấy sai trái đối với học trò.
Trước kia, tôi cầu học ở Đài Trung, thầy Lý thường dạy tôi, toàn là những lời cổ nhân đã nói: Học trò đối với thầy có mười phần thành kính, theo học với thầy; nếu thầy chỉ dạy chín phần, còn thiếu một phần là có lỗi với học trò. Nếu học trò chỉ tôn kính thầy năm phần, thầy chẳng thể dạy đến sáu phần, vì sao? Dạy sáu phần là nhiều hơn một phần, trò chẳng hấp thụ được. Nó chẳng thể tiếp nhận, đúng là lãng phí khí lực. Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư có nói rất hay: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Do vậy, thầy dạy học quyết định phải có học trò mười phần thành kính, những gì thầy giảng đều phơi bày trọn vẹn, không giữ lại một điểm nào. Nếu tâm thành kính chưa đủ thì quý vị được mấy phần thành kính sẽ được lãnh hội mấy phần. Nếu không có tâm thành kính, một phần thành kính cũng không có, cũng không sao hết. Vì sao? Quý vị thuộc loại dự thính, cũng tính là có duyên, không sai! Bởi lẽ, bình thường quý vị thỉnh giáo vị thầy, thầy không dạy mình, nay trong giảng đường có học trò mười phần thành kính, thầy bèn giảng những pháp tinh túy, mình có thể nghe ké bên cạnh. Nghe được bao nhiêu thầy không chịu trách nhiệm.
Do vậy, đức Phật thuyết pháp (đây là những chuyện chúng ta thường thấy trong kinh điển, nhưng không biết, đến khi tổ sư chú giải mới chỉ ra), bậc đương cơ khi ấy là người mười phần thành kính, đức Phật đối với người ấy nói pháp đó, những kẻ khác là bàng thính. Như đức Thế Tôn giảng kinh Hoa Nghiêm, đương cơ của kinh Hoa Nghiêm là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, tức Pháp Thân Bồ Tát; Quyền Giáo Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác là bàng thính, Phật chẳng giảng cho những người ấy. Thế nhưng gặp được duyên cũng coi như không uổng, gieo được chủng tử vào A Lại Da Thức. Do vậy, “nói chung là do duyên”.
“Duyên tồn tại, ân đức sâu rộng”, một đời tôi gặp được ba vị thầy, đúng là ân đức sâu rộng. Ta làm kẻ học trò tôn trọng, kính yêu thầy, thầy chăm chút trò không điều nhỏ nhặt nào không quan tâm, chúng ta cảm kích ân thầy. Dùng gì để tỏ lòng cảm kích? Y giáo phụng hành, ta thường nói là đem công đức tự mình tu học, công đức hoằng pháp lợi sanh, công đức hộ pháp hồi hướng về thầy, báo ân thầy. Khi xưa thầy dạy ta chẳng uổng công, chúng ta tiếp nối Phật huệ mạng, giống như chạy tiếp sức, thầy giao cây gậy cho ta, ta nhất định phải hoàn thành. Rồi ta lại giao cho người khác tiếp sức. Người tiếp sức là ai? Là người đối với Phật, đối với Pháp, đối với thầy có tâm thành kính, không thành kính không giao cây gậy ấy. Pháp thế gian hay xuất thế gian đều là một lòng thành, một lòng kính, “không thành không ra gì”, dẫu thế nào cũng không đáng bàn đến nữa! Vì vậy, phải có thành kính, có ân đức. “Đủ mọi thứ dạy dỗ, khơi gợi” (chủng chủng giáo khải), Giáo là giáo hối; Khải là khải phát. “Có thể khiến cho vui thích tin nhập”, học trò chân thành, cung kính, tôn sư trọng đạo, nghe lời thầy dạy hoan hỷ, tin tưởng, không ngờ vực, sẽ có thể khế nhập. “Nhập” có nghĩa là giải ngộ, chứng ngộ, hiểu được, hành được, chứng được, đó là “nhập”. Đó là học trò dễ dạy. Ta thường nói là đứa học trò “có ngộ tánh”, vừa nói liền hiểu, hiểu rõ ràng. Kẻ căn tánh kém cỏi hơn, khó lắm! Có giảng cho nó, nó cũng không hiểu, cứ vẫn tùy thuận tập khí phiền não, không quay đầu lại, hạng người như vậy nhiều lắm! Thật sự nghe rồi tin tưởng, hiểu biết, lại y giáo phụng hành, thật sự ra, trong ngàn vạn người chưa được một kẻ!
Trên thực tế, trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói nhưng chưa bao giờ đề cập đến chuyện này, chúng tôi thường nói “hiếu học”, quan trọng nhất là chữ “hiếu”, hiếu là ưa thích! Cứ hiếu học sẽ nhất định gặp được vị thiện tri thức thật sự, vì sao? Cảm ứng, hiếu học là năng cảm, sẽ cảm động được chư Phật, cảm động thiện tri thức. “Hiếu” chắc chắn sẽ y giáo phụng hành, quý vị chịu học, tin được, hiểu được, nhưng làm chưa được thì chưa phải là hiếu học, chưa đạt được một phần nhỏ của chữ Hiếu, chưa đạt tiêu chuẩn. Thật sự “hiếu” thì nhất định y giáo phụng hành, nhất định làm được.
Duyên quan trọng lắm! Cùng một đạo lý ấy, mười phương pháp giới chư Phật rất nhiều, vì sao chúng ta lại riêng niệm Phật A Di Đà? Vì sao không niệm đức Phật khác? A Di Đà Phật có duyên với ta, ta yêu mến Ngài, Ngài cũng yêu thích ta, có duyên đấy! Phật chẳng độ kẻ vô duyên. Sao biết là có duyên? Vừa tiếp xúc kinh điển Tịnh Độ bèn hoan hỷ, đó là có duyên. Vừa nghe liền hiểu, hiểu rồi lại thật sự chịu làm, y giáo phụng hành, từ những điều đó mà thấy. Thay bằng bộ kinh khác cũng có thể tin tưởng, cũng rất hoan hỷ, có lúc rất nhiều chỗ mình không hiểu, phải đi hỏi người khác, nghe người khác giảng tợ hồ người ta cũng không hiểu rõ ràng, không có cách nào y giáo phụng hành; hoặc hiểu nhưng hành không dễ, khó lắm. Pháp môn này dễ dàng, thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng lại thành công viên mãn, bởi thế có duyên!
Trong hàng Bồ Tát cũng có rất nhiều Bồ Tát, lại riêng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát là vì nguyên nhân nào? Quán Thế Âm Bồ Tát có duyên với người thế giới Sa Bà. Bởi thế ngạn ngữ Trung Quốc thường nói: “Gia gia Quán Thế Âm, hộ hộ Di Đà Phật” (Người người Quán Thế Âm, nhà nhà Di Đà Phật). Di Đà, Quán Âm tợ hồ đặc biệt hữu duyên với người Tàu, duyên phận lại rất sâu, đạo lý là vậy. Mười phương chư Phật cũng đều biết, đại khái Di Đà, Quán Âm chẳng những có duyên với chúng ta ở nơi đây mà mười phương chúng sanh đều có duyên phận rất sâu xa với hai Ngài. Do vậy, chư Phật Như Lai tuyên dương, chư Phật Như Lai khuyên ta phát tâm học theo Di Đà, Quán Âm. Quả thật, mấy câu tiếp theo đó đã giải thích rõ hiệu quả của cái duyên sâu xa.
“Khiến cho xúc động túc chủng”, túc chủng là chủng tử thiện căn trong đời quá khứ, thiện tri thức, thầy dạy dỗ khiến cho những chủng tử thiện căn trong A Lại Da Thức bị động chạm; nói cách khác, sự học tập của mình được tiếp nối sự học tập trong quá khứ, duyên ấy tốt lắm! Tiếp nối sự học tập trong quá khứ, sự học tập ấy vốn bị gián đoạn; vì sao bị đoạn? Mê khi cách ấm, chúng ta là thân nghiệp báo, lúc đầu thai quên mất chủng tử thiện căn đời đời trước; dẫu có, nhưng không khởi hiện, không khởi tác dụng. Thiện tri thức chỉ dạy không ngừng, hoát nhiên khai ngộ, ngộ có nguyên nhân là trong đời quá khứ đã từng tu học rồi. Thầy là Tăng Thượng Duyên.
“Khiến cho ma chướng khó ngăn trở”, thật đấy! Trên đường Bồ Đề, quý vị muốn tu hành, muốn hóa độ chúng sanh, đều bị ma chướng ngăn trở. Nếu có thiện tri thức chỉ dạy, ma cảnh ấy sẽ hóa giải. Hóa giải như thế nào? Vì quý vị có trí huệ, nhớ kỹ lời dạy của thiện tri thức, không hoài nghi, không mê hoặc. Ma chướng có thuận cảnh, có nghịch cảnh, nếu quý vị có trí huệ, có huệ nhãn sẽ thấy được. Thuận cảnh là gì? Mọi chuyện đều rất như ý, khiến mình khởi tham ái. Phải biết tham ái là phiền não, là một trong ba độc. Trong tình cảnh ấy, quý vị khởi tham ái không phải là chuyện tốt, ma chướng hiện tiền. Quý vị có trí huệ thì ma chướng không chướng ngại mình, quý vị có thể đối phó hết sức giỏi. Biết ơn, báo ơn, cảm ơn, đội đức sẽ chẳng sanh phiền não. Phiền não là tham ái, chẳng sanh tâm tham, không ngu si. Nếu ma chướng là nghịch cảnh thì nghịch cảnh sẽ như thế nào? Khiến mình nóng giận, sanh ghen ghét, ý niệm bất thiện sanh khởi. Quý vị phải nhận biết rõ ràng. Nếu quý vị có trí huệ, sẽ chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh, chẳng những nó không thể chướng ngại quý vị mà có lúc còn nâng cao mình nữa. Bởi thế, cổ đức dạy cho chúng ta một câu thành thật: “Trên đường Bồ Đề không Phật cũng không ma”. Đúng như vậy đó! Phật và ma từ đâu có? Một niệm giác thì tình và vô tình đều là cảnh giới Phật; một niệm mê thì tình và vô tình đều là cảnh giới ma. Thưa thật cùng quý vị, quả thật không có Phật lẫn ma, ma và Phật chỉ do tự tánh biến hiện. Đấy chẳng phải là điều kinh Phật thường nói ư? Hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng. Tâm tưởng mình giác chứ không mê thì hết thảy pháp đều là Phật pháp. Tâm tưởng ta mê hoặc, điên đảo, mê chứ không giác thì hết thảy pháp đều là ma chướng. Bởi thế, Phật và ma chỉ là cảnh giới do ý niệm của chính ta biến hiện.
Trong thời gian gần đây, ai nấy đều thấy những thí nghiệm kết tinh nước của tiến sĩ Giang Bản Thắng, từ những tỷ dụ ấy, quý vị phải hiểu, chúng ta dùng thiện tâm, một niệm thiện, tâm yêu thương, tâm cảm tạ thì nước sẽ kết tinh đẹp đẽ dường ấy. Nếu chúng ta dùng ác niệm, tâm thái rất bất hảo đối với nước thì nước sẽ kết tinh hết sức khó coi. Nước không tốt cũng không xấu, xấu hay tốt là do tâm ta, do ý niệm của chúng ta, chuyển biến theo tâm niệm của chính ta. Vì thế, Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: “Cảnh duyên không tốt, xấu”. Cảnh là hoàn cảnh vật chất. Duyên là hoàn cảnh nhân sự. Cũng có thể nói là hoàn cảnh vật chất lẫn hoàn cảnh nhân sự không có Phật mà cũng không có ma. Phật tượng trưng cho cái tốt, ma đại diện cho cái xấu, không tốt xấu. “Xấu hay tốt do tâm”, do chính cái tâm mình, ý niệm của mình! Giống như nước, nước không tốt xấu. Chúng ta dùng thiện niệm đối với nó, nó sẽ biến thành rất tốt. Chúng ta dùng ác tâm đối đãi nó, nó biến thành xấu xa. Bản thân nước quả thật không tốt xấu. Quý vị phải hiểu đạo lý này: Tổ sư dạy chúng ta hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh nhân sự là bình đẳng, thật sự thanh tịnh, bình đẳng, chỉ do tâm hiện. Chúng ta thấy tốt hay xấu là do thức của chính mình biến hiện. Thức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Hoàn cảnh bên ngoài biến hiện tùy thuộc tâm niệm.
Trong Hệ Niệm Pháp Sự, Trung Phong thiền sư đã giảng: “Tịnh Độ là phương này, phương này là Tịnh Độ”. Tây Phương Cực Lạc thế giới và thế giới Sa Bà của chúng ta không hai không khác! Không khác gì nhau! Vì sao trên mặt Sự lại sai biệt quá lớn như thế? Tâm con người không giống nhau. Tâm người thế giới Cực Lạc là tâm thiện, nên sơn hà đại địa, hữu tình, vô tình đều biến thành tốt lành phi thường. Người trên địa cầu này tâm bất thiện, tự tư tự lợi, tham - sân - si - mạn. Vì thế, hữu tình, vô tình, sơn hà đại địa đều biến thành đời ác ngũ trược. Nếu có thể lìa khỏi cái tâm niệm của người sống nơi đây thì Cực Lạc và Sa Bà bình đẳng, một tí ti sai khác cũng không có. Sai biệt bất đồng là do tâm hạnh của cư dân khác nhau. Chúng ta muốn biến quả địa cầu này thành thế giới Cực Lạc thì trên lý luận chẳng khó gì, chỉ cần cư dân sống trên địa cầu này có thể đoạn ác tu thiện, đều phá mê khai ngộ thì tình và vô tình, sơn hà đại địa thảy đều biến thành thế giới Cực Lạc, vô lượng các báu trang nghiêm. Lý như thế, Sự cũng như thế. Do vậy, chân thiện tri thức có thể giúp đỡ mình, đúng là “khiến cho ma chướng khó ngăn trở”.
Những vị thầy của tôi, ba vị thầy của tôi đều vãng sanh cả rồi. Thầy Lý mất sau cùng, cũng đã cách đây hai mươi năm rồi. Trong hai mươi năm ấy tôi đã trải qua không ít ma chướng, nhưng đều có thể vượt qua thuận lợi. Đó là vì nguyên nhân nào? Vì chúng tôi nhớ kỹ những lời thầy dạy trước kia; lúc gặp phải chướng nạn, chúng tôi biết hóa giải như thế nào, chẳng bị ngăn trở, quấy nhiễu ra sao, làm sao nâng cao cảnh giới của chính mình, làm sao nâng cao kế tục việc tự hành hoằng pháp chẳng đến nỗi gián đoạn giữa chừng, toàn là do thầy dạy dỗ. Nếu thầy không chỉ dạy chúng tôi, quả thật chúng tôi không có năng lực đối phó ma chướng. Vì sao? Chắc chắn sẽ cùng ma chướng kình chống, nhất định sẽ nóng giận, mắc sai lầm. Oan gia nên cởi không nên buộc, kẻo kết oán cùng người. Nay chúng ta đã hiểu phương pháp, gặp phải oán đối, từ nội tâm có thể hóa giải oán kết, từ đó đôi bên cùng được lợi ích, chẳng kết oán hận.
“Khiến cho thể tánh khai phát”, câu này nói về mọi người chúng ta, giúp cho ta được khai ngộ, nhà Thiền gọi “thể tánh khai phát” là “minh tâm kiến tánh”. Khai là khai ngộ, Phát là thấy rõ, Tịnh tông gọi là “nhất tâm bất loạn”; thể tánh khai phát chính là Lý nhất tâm bất loạn. Nhà Thiền gọi Lý nhất tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh, Giáo Hạ gọi là cảnh giới đại khai viên giải. Chỉ là ba pháp môn bất đồng, phương pháp tu học bất đồng, nói ra danh từ thuật ngữ khác biệt, kỳ thật chỉ một cảnh giới. Bản thể của vũ trụ vạn hữu, trong Phật pháp gọi là Phật tánh, pháp tánh; nơi hữu tình gọi là Phật tánh, nơi vô tình gọi là pháp tánh. Phật tánh và pháp tánh gọi chung là thể tánh, quý vị hiểu rõ, khai phát vậy.
Chuyện này rất khó hiểu, cũng rất khó giảng rõ. Trong những buổi giảng, chúng tôi thường cảnh tỉnh: Nếu quý vị hiểu rõ sẽ giúp ích rất lớn cho việc tu học, lợi ích lớn nhất chính là câu nói ở phần trên: “Khiến cho ma chướng khó ngăn trở”. Quý vị thật sự hiểu được đạo lý này sẽ thuận buồm xuôi gió trên đường Bồ Đề, tinh tấn không lười, không chướng ngại. Phật tánh: Phật tánh là gì? Bản năng của sáu căn là Phật tánh, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm, ý biết, bản năng đấy. Bản năng là Phật tánh. Pháp tánh là gì? Sáu căn tiếp xúc với những đối tượng bên ngoài là pháp tánh. Chúng ta dùng tánh Thấy để thấy sắc tướng bên ngoài, thì cái sắc tướng bên ngoài ấy là pháp tánh.
Tổ sư đại đức thường nói cái niệm thứ nhất chính là chánh niệm! Niệm thứ nhất không khác không hai với niệm của chư Phật Như Lai. Vì thế, quý vị là Phật, Như Như Phật; thế nhưng vấn đề nằm đâu? Cái niệm thứ hai là phiền toái rồi, bị đọa lạc, chẳng thể duy trì cái niệm thứ nhất. Do cái niệm thứ nhất không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước, chúng vẫn chưa khởi lên. Cái niệm thứ hai là khởi tâm động niệm, vừa khởi tâm động niệm bèn rớt vào ý thức, trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có nơi bản tánh bị biến thành ý thức, biến thành tám thức, hỏng rồi, đọa lạc phàm phu rồi. Hễ đọa lạc bèn tự nhiên khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng là A Lại Da Thức. Phân biệt là thức thứ sáu: Ý Thức. Chấp trước là Mạt Na, phải biết như thế. Trong Tự Tánh không có những thứ ấy. Tự Tánh, Chân Tâm, trong Chân Tâm không có những thứ đó. Những thứ đó là nhiễm ô, không gọi là giác. Có những thứ ấy quý vị sẽ chẳng giác, nhà Phật gọi đó là phàm phu. Quý vị không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì Phật pháp gọi là thánh nhân, gọi là Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát và phàm phu sai biệt ở chỗ này.
Phật, Bồ Tát vĩnh viễn giữ được cái niệm thứ nhất, tuyệt đối chẳng rớt vào niệm thứ hai, bởi thế gọi là “nhất tâm bất loạn”. Chúng ta có nhất tâm, nhưng cái nhất tâm ấy hết sức nhanh chóng, lập tức rớt vào hai, ba, bốn, lập tức đọa lạc. Đọa lạc rồi thì mắt ta thấy bèn thành nhãn thức thấy sắc trần, không gọi là sắc tánh; nhĩ thức nghe thanh trần. Đó là cảnh giới phàm phu. Tâm hạnh như vậy sẽ luân hồi lục đạo, biến Nhất Chân pháp giới thành lục đạo luân hồi. Phải hiểu đạo lý này, phải hiểu rõ sự thật chân tướng. Thật sự hiểu được, thật sự hiểu rõ thì lục đạo, chín pháp giới nào có chướng ngại? Vì sao không chướng ngại? Vì nó hư huyễn, không thật. Kinh Kim Cang nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, lục đạo, mười pháp giới là mộng, huyễn, bọt, bóng; trong ấy chỉ cần quý vị giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm thì quý vị vẫn trụ trong Nhất Chân pháp giới. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này, phàm phu chúng ta luân hồi lục đạo, trụ trong đời ác ngũ trược, còn các Ngài trụ trong Nhất Chân pháp giới, không tiêm nhiễm mảy may. Các Ngài hòa quang đồng trần với chúng ta, cùng ăn uống vui chơi hệt như ta, cùng chuyện vãn giống như ta, nhưng hai cảnh giới bất đồng, một đằng giác, một đằng mê. Người giác trụ trong Nhất Chân pháp giới, kẻ mê trụ trong đời ác ngũ trược do chính mình biến hiện, khác hẳn nhau! Sai khác là đây! Thân cận bạn lành thì Phật là bạn lành bậc nhất, chúng ta phải thân cận A Di Đà Phật. A Di Đà Phật ở nơi đâu? Kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật chính là A Di Đà Phật. Nếu chúng ta đọc không hiểu, không nhận biết, ắt phải có người giới thiệu, người giới thiệu là ai? Tổ sư, đại đức chú giải chính là người giới thiệu. Quý vị thấy kinh A Di Đà có ba người giới thiệu tốt nhất: Liên Trì đại sư, Ngẫu Ích đại sư, U Khê đại sư, ba vị giới thiệu rất hay! Đó là Sớ Sao của Liên Trì đại sư, Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, Viên Trung Sao của U Khê đại sư. Nay đang nhằm lúc chúng ta học kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm có hai người giới thiệu: Thanh Lương đại sư và trưởng giả Lý Thông Huyền. Chúng ta dựa theo chú giải của hai vị này để học tập. Như vậy, không có những vị thật sự hữu tu hữu học, những vị khế nhập cảnh giới ấy dẫn dắt chúng ta, ta sẽ khó lòng lãnh hội được những ý nghĩa rất sâu trong kinh điển, rất khó khế nhập. Đối với chúng ta, những chú giải ấy quan trọng lắm.
Xưa kia, tiên sinh Phương Đông Mỹ coi bộ Sớ Sao của ngài Thanh Lương, bộ Hợp Luận của Lý trưởng giả (tức ngài Táo Bá Lý Thông Huyền) là quốc bảo của văn hóa Trung Quốc, tôn trọng không gì sánh bằng. Vì thế, cụ có thể khế nhập. Chưa có vị xuất gia hay tại gia đại đức cư sĩ giảng giải cho cụ cả! Chưa từng tiếp xúc các đại đức nhà Phật, cụ hoàn toàn tự đọc kinh ở nhà. Làm sao cụ có thể đọc hiểu? Không có chi khác, thành kính thôi! Phương pháp cụ đã dùng sau này thầy Lý đem dạy chúng tôi: “Chí thành cảm thông!” Phương tiên sinh quả thật chí thành cảm thông, không ai giảng giải, cũng không ai bàn bạc, không ai cùng học tập, không hề, chỉ mỗi một mình. Chúng tôi thấy cụ thành tựu, thấy cụ dạy trong trường. Lúc ấy, không có máy thâu hình, chỉ có máy thâu âm. Từ băng thâu âm, học trò ghi lại lời lão nhân gia giảng giải chỉnh đốn thành văn tự, nay chỗ nào cũng lưu thông, chẳng thể nghĩ bàn. Phần sau nói:
“Chư Phật vốn từ Pháp Thân thùy tích”, câu này rất quan trọng. Pháp Thân là gì? Pháp Thân là lý thể. Ở phần trên nói đến thể tánh, thể tánh chính là Pháp Thân. Chư Phật, Như Lai do đâu có? Chúng sanh có cảm, Pháp Thân có ứng. Pháp thân ứng như thế nào? Pháp Thân hiện tướng ứng hóa. Pháp Thân vốn không tướng, nhưng có thể hiện tướng, hiện tướng chính là thân Ứng Hóa của chư Phật; giống như ba ngàn năm trước Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại Ấn Độ là thân Ứng Hóa, chúng sanh có cảm, Pháp Thân bèn ứng. Pháp Thân là một, chỗ nào có cảm, bèn ứng chỗ đó. Ứng hóa thân vô lượng vô biên, ngàn trăm ức hóa thân. Trăm ngàn ức vẫn là tính được số, chứ trên thực tế, không thể tính được số. Trăm ngàn ức chỉ là hình dung, chỉ mang ý nghĩa biểu thị vô lượng vô biên, chỗ nào chúng sanh có cảm bèn lập tức ứng. Nên dùng thân nào để độ chúng sanh bèn hiện thân đó. Vì thế ở đây bảo là: “Chư Phật vốn từ Pháp Thân thùy tích”, câu này bao gồm cả các Bồ Tát, các Bồ Tát cũng giống như vậy. Chẳng những bao gồm Bồ Tát mà còn gồm cả Thanh Văn, bao gồm Duyên Giác, bao gồm già trẻ, trai gái các nghề trong thế gian. Chẳng phải ai nấy đã từng đọc phẩm Phổ Môn rồi ư? Nên dùng thân nào để độ bèn hiện thân ấy, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta thấy ba mươi hai ứng thân trong phẩm Phổ Môn chỉ là nêu thí dụ, chia những thân phận ứng hiện thành ba mươi hai loại, trong mỗi một loại lại có vô lượng vô biên thân, thảy đều là “Pháp Thân thùy tích”.
“Kết chắc duyên chủng”(cố kết duyên chủng). Cố là kiên cố, vì sao? “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế”. Đấy chính là điều kinh luận nhà Phật thường nói. Như vậy, chúng ta và hết thảy chư Phật đều có duyên, cũng đều có duyên với hết thảy Bồ Tát, đối với hết thảy chúng sanh cũng đều có duyên giống như vậy. Hiện thời gọi “duyên” là “quan hệ”; nay không gọi là duyên mà gọi là quan hệ. Chúng ta có quan hệ với Phật, có quan hệ với Bồ Tát, có quan hệ với Thanh Văn, Duyên Giác, quan hệ hết sức mật thiết cùng hết thảy chúng sanh, há có thể nói là không quan hệ được ư? “Dù là thế pháp hay xuất thế pháp”, thế gian là chín pháp giới chúng sanh; xuất thế là tứ thánh, “thảy đều chẳng thể nghĩ bàn”. Đúng là chẳng thể nghĩ bàn, không giả. Không chúng sanh nào không hữu duyên với ta, chẳng những hữu tình chúng sanh cùng ta hữu duyên mà vô tình chúng sanh cũng đều chẳng ngoại lệ.
Kinh Hoa Nghiêm nói “tình và vô tình, đều viên chủng trí”. Hữu tình lẫn vô tình đều chẳng ngoại lệ; nhưng sao lại nói kẻ này với ta hữu duyên, kẻ kia vô duyên với ta? Đều là hữu duyên cả, nhưng trong duyên lại có thân và sơ. Ví như người cùng một nhà, cha con một nhà thân thiết nhất, chúng ta thường nói là thân thiết bậc nhất, duyên mật thiết nhất. Thứ hai là huynh đệ, anh em, chị em, anh chị em cùng một bọc là thân thiết bậc nhì, đến đời thứ ba là con cháu ruột và cháu họ là mối thân thiết bậc ba. Như vậy có thân sơ khác nhau. Hết thảy đều có quan hệ, nhưng thân sơ khác nhau. Có thể dùng thế pháp để so sánh với Phật pháp, Phật pháp cũng giống như vậy. Ta và hết thảy chư Phật Như Lai đều hữu duyên là chuyện thật, không giả đâu! Nhưng trong đời đời kiếp kiếp quá khứ, đã thường lai vãng cùng một vị Phật nào đó, thường xuyên thân cận là có duyên với vị ấy, khác hẳn cái duyên với những vị Phật khác. Duyên do là như vậy. Trong vòng bầu bạn, chúng ta thường qua lại với những ai thì tình cảm đối với những người ấy khác với những người khác. Có như vậy, quý vị mới thật sự hiểu vì sao nhà Phật thường nói “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”, mới thật sự hiểu được đạo lý này. Nói thật ra, ai mà không có duyên? Đều có duyên hết. Phật không độ kẻ vô duyên là vì duyên ấy quá ít, quá mỏng. Duyên sâu, duyên dầy thì gặp mặt bèn sanh lòng vui thích, chúng ta gọi là “rất hợp duyên”. Đó là vì trong đời đời kiếp kiếp quá khứ thường chung đụng, hoặc thường làm người một nhà, hoặc thường làm bạn bè tốt, thường là đồng tham đạo hữu, duyên ấy rất sâu, rất dễ dung hòa. Hai bên có thể tạo dựng mối quan hệ tin tưởng, tôn trọng, tin cậy, nương tựa lẫn nhau, duyên sâu là như vậy đó! Phải hiểu đạo lý này, chứ không phải là thật sự không có duyên. Sơn hà đại địa, thực vật, khoáng vật thảy đều có duyên.
Nếu quý vị bảo là không duyên thì nước kia vì sao quý vị dùng cái tâm yêu thương đối với nó, nó liền kết tinh rất đẹp như đóa hoa, vì sao nó lại có thể kết tinh như thế? Từ đây quý vị mới vỡ lẽ: Hữu duyên! Dùng ý niệm bất hảo đối với nó, nó hiện ra xấu xí. Đó là duyên. Nếu bảo là không có duyên làm sao giảng cho thông? Duyên ấy chính là gì? Thể tánh. Một thể tánh, nơi vô tình chúng sanh, nước là vô tình thì thể tánh ấy được gọi là pháp tánh, nơi hữu tình gọi là Phật tánh. Phật tánh và pháp tánh gọi gộp lại là “thể tánh”. Do vậy, pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng thể nghĩ bàn. Nay đã hết giờ rồi!